Chủ đề: Nhạc vàng và loa đánh nhạc vàng!

Discussion in 'Loa' started by thanrua888, 17/4/13.

  1. thanrua888

    thanrua888 Advanced Member

    Joined:
    18/9/12
    Messages:
    115
    Likes Received:
    1
    Chào cả nhà,
    Em đọc trên diễn đàn nhà mình thấy rất nhiều chủ đề về loa đánh nhạc vàng, nhiều người cho rằng loa này loa kia đánh hay. Nhưng có điều em không hiểu là: Nhạc vàng có những điểm gì đặc biệt mà tốn công các bác đến vậy?
    Mong mọi người giải thích dùm em nhé!
     
    Tags:
  2. loadeu

    loadeu Advanced Member

    Joined:
    8/7/07
    Messages:
    5.844
    Likes Received:
    45
    Location:
    Xã đoàn Gầm cầu
    Nhạc vàng-chỉ sau kim cương, nên quý bác ạ.
    Nhạc vàng nghe nó lại vàng vọt-nên loa phải lả lướt mới được.
    Nhưng thói đời, được lả lướt rồi lại đòi thêm không gian, chi tiết-cho nên cứ mãi đi tìm.
    Ngoặc đơn (em chém bừa thôi, chả đúng lắm)
    Tóm lại là: nếu không nghe âm nhạc mà nghe thiết bị, thì "tìm mãi thương yêu" thôi bác ạ, cuối cùng sẽ là "nỗi buồn sa mạc" bởi những thiết bị đúng yêu cầu thì hiếm như "hoa nở về đêm".
     
    Wilson Fans, bskhanh, H.Q.H and 6 others like this.
  3. tranhuu

    tranhuu Advanced Member

    Joined:
    31/7/12
    Messages:
    718
    Likes Received:
    10
    nhạc vàng là nhạc nghe hoài ko chán.(thiệt vàng ko sợ lửa) :lol: :lol: :lol:
     
  4. kicking bird

    kicking bird Advanced Member

    Joined:
    4/12/12
    Messages:
    118
    Likes Received:
    34
    nhạc vàng như lá vàng rơi,già úa phải rụng thôi.khi người thất tình sáng tác nhạc vàng(là cảm nhận riêng tôi),hát nhạc vàng,nghe nhạc vàng thấy hay hơn vì khi đó người ta nghĩ chỉ có ai oán chẳng còn gì phía trước cả.tóm lại loa nào chả đánh được,phần lớn phụ thuộc vào cảm xúc ngươi nghe lúc đó.
     
  5. constructionhp

    constructionhp Advanced Member

    Joined:
    25/9/08
    Messages:
    810
    Likes Received:
    3
    Em chưa đồng ý với bác lắm. Loa gì đánh chả được, câu này vừa đúng mà cũng vừa sai. Nó sai vì nếu như vậy thì mấy ông shop chắc đóng cửa hết vì có ai nâng cấp nữa đâu. Nó đúng vì loa nào cũng kêu, trừ loa bục và hỏng.
    Còn nhạc vàng thì nhẹ nhàng, tình cảm, thư giãn, nghe lâu ko mệt nên nhiều người thích thôi.
     
  6. kicking bird

    kicking bird Advanced Member

    Joined:
    4/12/12
    Messages:
    118
    Likes Received:
    34
    nhìn vào số bài viết chắc bác giằu kinh nghiệm hơn tôi nhưng cũng xin tranh luận đôi chút.
    -ai đầu tiên nghe nhạc mà chẳng nghe nhạc vàng,thư này có khắp mọi nơi từ bán hàng rong,sân khấu, trong nhà.đén lúc hình thành phong cách mấy ai gọi nhạc này là thưởng thức.vì vậy tôi mới nói phụ thuộc hoàn toàn vào cảm xúc người nghe lúc đó.
    -bác nâng cấp bộ dàn máy để đáp ứng nghe nhạc cao hơn có độ động,am thanh có lớp...chứ ai nâng câp để nghe nhạc vàng đâu bác.tôi thường thấy khi nâng cấp tiến tới để nghe giao hưởng,bác hiểu ý tôi chứ.
    -vậy theo tôi bác chủ cứ sắm loa hợp với tầm tiền của mình là được,nghe,học hỏi tích lũy và thấy nhu cầu mình thay đổi lúc đó mới cần tính kỹ.
    -cuối cùng chúc các bác vui.
    thân!
     
    Wilson Fans and Do Hoa like this.
  7. Hungthuocbac

    Hungthuocbac Advanced Member

    Joined:
    5/7/12
    Messages:
    3.911
    Likes Received:
    7
    Location:
    Thanh Hóa
    Em có đôi lời là nhạc vàng nếu trước 75 thì không đòi hỏi loa hay thiết bị nhiều lắm!Còn sau 75 thì lại khác đấy các bác ạ :D
     
  8. phongvan2000

    phongvan2000 Advanced Member

    Joined:
    23/10/09
    Messages:
    347
    Likes Received:
    277
    em bôi đậm 2 dòng của bác để trả lời bác thế này : sao không thưởng thức , cái thứ nhạc bác nghe từ mấy người bán băng phiến với đá lửa đó không phải là " âm nhạc của dòng nhạc của miền Nam Việt NAM trước 1975 " cái bác đang nghe không phải là âm nhạc , nó là thứ âm thanh nói chung

    đầu tiên mình xin hỏi bác và nhiều bác ở đây tranh luận cho vui

    NHẠC VÀNG LÀ GÌ ? cái từ " Vàng" xuất phát từ đâu ? , mình phải hiểu cái gốc gác sâu xa rồi mới bàn luận là nghe nó như nào , ở cái gì được chứ

    còn nghe nhạc vàng có độ động , có âm hình lớp ..lang không? có phong cách không? có đáng để thưởng thức không ?

    Xin thưa với bác là có ,có hết ,nhưng cái có hết đó nó thể hiện ở đâu >Xin thưa rằng nó thể hiện ở đây này ( mấy cái này là tư liệu trên mạng em copy vào thôi , đâu hình như cũng có bác ở trên vnav này thì phải )

    [​IMG]
    [​IMG]

    đây mới là cái " cảnh giới cao nhất " trong âm nhạc của dòng nhạc của miền Nam Việt NAM trước 1975 , còn sau 1975 nó lại là 1 câu chuyện hoàn toàn khác
    câu chuyện này thì em sẽ trình bầy theo ý kiến riêng của em sau
     
  9. Hungthuocbac

    Hungthuocbac Advanced Member

    Joined:
    5/7/12
    Messages:
    3.911
    Likes Received:
    7
    Location:
    Thanh Hóa
    Đúng vậy.Với nhạc vàng trước 75 nếu nguồn băng tốt thì băng cối là nghe phê nhất :D
    Trước đây em cũng có bộ này :lol:
    [​IMG]
     
  10. Hungthuocbac

    Hungthuocbac Advanced Member

    Joined:
    5/7/12
    Messages:
    3.911
    Likes Received:
    7
    Location:
    Thanh Hóa
    [​IMG]
    Phòng này em nhìn quen quen :D Quá hoành tráng bác ạ!
     
  11. constructionhp

    constructionhp Advanced Member

    Joined:
    25/9/08
    Messages:
    810
    Likes Received:
    3
    Phần mầu đỏ này không đúng bác nhé. Em lập nick trước bác nhưng chưa chắc đã chơi âm thanh lâu bằng bác. Bằng chứng là em biết nhiều bác trên này là lão làng nhưng cũng mới có nick và số lượng bài viết rất ít. Còn em hiện giờ nhiều bài post hơn bác vì dạo này rảnh chém gió nhiều thôi, còn kinh nghiệm ai hơn ai thì chưa biết bác nhé :mrgreen:

    Phần mầu xanh: Em đầu tiên không thích nhạc vàng nhé, em thích pop, rock và nói chung là nhạc có tiết tấu nhanh, sôi động, nghe nhạc là phải thấy có tiếng bass. Nhưng, lại nhưng, vâng chữ "nhưng" này cũng là lý do tại sao anh em hay nâng cấp đấy bác ah. Tham gia diễn đàn lâu, em được đi giao lưu học hỏi các bậc tiền bối nên thấy hình như gu âm nhạc của mình lại thay đổi. Giờ em vẫn thích nghe nhạc mà có bass nhưng nó phải vừa phải, trung âm phải ngọt ngào mềm mại, nghe lâu không mệt. Giờ em lại thích nhạc vàng, vocal, nói chung là thể loại nhạc nhẹ nhàng nhưng vẫn chưa thích lắm phần nhạc vàng trước 75 và giao hưởng (nghe giao hưởng chẳng hiểu nó đang chơi về cái gì, nghe thì biết lang lớp, âm thanh nhưng không hiểu và cũng chưa thích)
     
  12. thanrua888

    thanrua888 Advanced Member

    Joined:
    18/9/12
    Messages:
    115
    Likes Received:
    1
    Thanks các bác nhiều! Em đã lĩnh hội được khá nhiều kiến thức!
    Em thấy quan điểm về nhạc vàng của bác hungthuocbac khá hay. Em xin mở rộng thêm như sau, các bác xem có được không nhé:
    1, Thời kỳ trước giải phóng:
    Giai điệu tiết tấu nhẹ nhàng, trọng tâm vào bộ gõ và guitar điện khá nhiều. Ví dụ như nghe đĩa Khánh Ly
    2, Thời kỳ nhạc điện tử
    Đa phần các sáng tác dựa theo phong cách pop nhẹ nhàng với các nhạc cụ điện tử. Ví dụ nghe Chế Linh, Trường Vũ, Hương Lan
     
  13. jacaranda

    jacaranda New Member

    Joined:
    6/8/12
    Messages:
    2
    Likes Received:
    0
    Cái này em thấy bác nói chuẩn này, nghe nhạc thấy hay hay không phụ thuộc vào cảm xúc khá nhiều. Chứ cứ ngồi tập trung đến căng thẳng nghe bass này, tép nó có thừa thiếu gì không... thì lấy đâu cảm xúc mà nghe nhạc.

    Đôi khi nghe nhạc hay nhất, cảm xúc nhất lại là lúc nghe bằng... điện thoại :)
     
  14. Sao bien

    Sao bien Advanced Member

    Joined:
    30/5/09
    Messages:
    995
    Likes Received:
    53
    Location:
    Hải Phòng
    Góp vui với các bác một chút ...
    Em nhớ có một bác nói câu rất vui là chẳng có cái loa nào kêu hay bằng mồm thằng bán loa ...
    Thiết bị tốt cũng chưa hẳn đã làm người ta thích nghe nhạc khi ko có sở thích hoặc tâm trạng ko thoải mái ...
    Muốn có thiết bị hay cũng phải dòm vào túi xem mình có bao nhiêu tiền ... Phải cân đong đo đếm đầu tư cho hợp lý chứ các bác nhỉ ...
    Nếu em ko thích nhạc vàng đuơng nhiên em ko nghe và ko chấp nhận đc thưởng thức ...
    Hai từ nhạc vàng đã đủ nói lên thông điệp truyền tải đến người nghe rồi, rõ ràng âm nhạc chính thống ko thể xếp nhạc vàng vào bộ môn học hoặc các bài thi lấy điểm ... Các đầu băng cối loa cổ cũng ko phải sản xuất phục vụ cho nhạc vàng .
    Cái sướng là đc nghe theo sở thích, có tiền thì đầu tư nâng cấp thì vẫn sướng cái lỗ tai hơn các bác nhể :D
     
    Wilson Fans likes this.
  15. kicking bird

    kicking bird Advanced Member

    Joined:
    4/12/12
    Messages:
    118
    Likes Received:
    34
    thưa các bác thú thật tôi cũng đào tạo về âm nhạc hay chịu sự đào tạo của âm nhạc vì vậy đánh giá cũng như việc thương thức có lẽ phiến diện...
    qua đây tôi thấy các bác rất am hiểu xin thêm một vài chỉ giáo:
    -tiêu chí nào để đánh giá bài nhạc vàng hay,ý nghĩa,có giá tri nghệ thuật cũng như tính giáo dục,tính chiến đấu?...(theo sự hiểu biết eo hẹp của tôi thì có mỗi giá trị giải trí mà cho những người tâm trạng u buồn thất vọng mà thôi.)
    -đã có cuộc thi nào về dòng nhạc này chưa?và để kiểm tra trình độ của người thể hiện,người chơi nhạc(vi dụ như contest 2012,2013 chẳng hạn)
    -đã hãng sản xuất loa nào,sx loa,đồ audio nhằm mục đích thể hiện cho thể lọai nhạc vàng?(vi dụ như loa đang sử dụng trong cuộc thi contest)
    - đã có ca sĩ nào chọn bài hát là nhạc vàng (kể cả trước,său 1975) để tham gia các cuộc thi chính thống chưa?
    mong các bác giải đáp!
    TKS!
     
    Wilson Fans and TrueHD like this.
  16. Sao bien

    Sao bien Advanced Member

    Joined:
    30/5/09
    Messages:
    995
    Likes Received:
    53
    Location:
    Hải Phòng
    Cái từ nhạc vàng này cũng mỗi người hiểu một cách khác nhau nhé bác
    Nhạc vàng kiểu như lỡ mai anh chết và em khóc đi em thì đúng như bác nói chứ nhạc vàng như nhạc Trịnh và Văn Cao thì cũng đc coi là nhạc Vàng tiền chiến thì lại ở cung bậc khác rồi bác ơi. Tựu chung mỗi người có một quan điểm nên ae ta cứ chém để kiến thức được mở rộng thêm.
    Mời các bác ....
     
  17. syen

    syen Advanced Member

    Joined:
    12/2/08
    Messages:
    6.770
    Likes Received:
    114
    Location:
    Bang KenKen
    Chưa! Vì nếu đi thi sẽ bị chém :lol: :lol:
     
  18. syen

    syen Advanced Member

    Joined:
    12/2/08
    Messages:
    6.770
    Likes Received:
    114
    Location:
    Bang KenKen
    Em xin quote l bài của 1 bác
    viewtopic.php?f=26&t=80417
     
    son hydraulic likes this.
  19. thanrua888

    thanrua888 Advanced Member

    Joined:
    18/9/12
    Messages:
    115
    Likes Received:
    1
    Theo em, suy cho cùng ''nhạc vàng'' cũng chỉ là cái tên gọi mà thôi. Vấn đề các sáng tác mà chúng ta gọi là '' nhạc vàng'' cũng phải chịu ảnh hưởng bởi các phong cách pop, rock, jazz, rock & roll, folk, country....mà thôi phải không các bác!
     
  20. Sao bien

    Sao bien Advanced Member

    Joined:
    30/5/09
    Messages:
    995
    Likes Received:
    53
    Location:
    Hải Phòng
    Nếu đơn thuần chỉ là nghe nhạc, còn nâng tầm chuyên nghiệp thì nhạc phải có âm luật rõ ràng. Ví dụ khi chúng ta xem cuộc thi hát tại sao mỗi người lại đánh giá các ca sĩ khác nhau, tuy nhiên giám khảo chuyên môn lại đánh giá khác chúng ta ... ???
     
  21. manthien

    manthien Advanced Member

    Joined:
    22/9/12
    Messages:
    675
    Likes Received:
    1
    Location:
    Q9
    Một phần trong đó người ta gọi là biến tấu, như nghe cụ Đàm hát nhạc vàng đóa bác.
    Mời các bác tiếp...
     
  22. emong09

    emong09 Advanced Member

    Joined:
    1/8/11
    Messages:
    144
    Likes Received:
    3
    em thấy nếu có điều kiện thì chơi dòng loa cổ và khủng thì nghe sẽ hấp dẫn hơn riêng em lúc đầu em thích nghe các ca sĩ trẻ ,mới bây giờ hát ;sau em nghe băng cối và nhạc pre 75 thì càng nghe càng ngấm mà vợ em thì nó cứ chê ỏng chê eo nhạc gì mà buồn lại còn chả có bass,treb gì cả,mỗi người 1 sở thích nghe khác nhau,độ tuổi nghe khác nhau ngày còn đôi muơi em thích rock,rap,r&b giờ chủ yếu em nghe nhạc vàng ,giao hưởng em chỉ thích 1 số bản thôi còn lại k nghe được,túm lại cái sự nghe nếu có điều kiện thì cầu kì một tí,còn k thì làm 1 bộ cỏ nghe vẫn khoái,
     
    Bien xanh likes this.
  23. phongvan2000

    phongvan2000 Advanced Member

    Joined:
    23/10/09
    Messages:
    347
    Likes Received:
    277
    Có bác gì copy bài từ nguồn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia , đó mới chỉ đúng 1 phần thôi , nhưng chưa đủ
    sau đây em xin copy 1 bài viết của 1 người nước ngoài đã nghiên cứu Nhạc VÀNG từ rất nhiều năm , bài viết này em cũng đọc rất lâu , từ cách đây 9 năm rồi , và rất thấy bổ ích
    nhân tiện đây copy cho các bác đọc để tham khảo và thêm 1 phần kiến thức trên VNAV của chúng ta

    đây là toàn bộ nội dung chính xác , em không có thêm ..thắt..mắm..muối -quan điểm gì vào bài viết này đâu nhé

    NGUỒN GỐC dòng nhạc BORELO-hay còn gọi là NHẠC VÀNG

    Nhạc vàng "hoá vàng"
    By: Jason Gibbs | Translated by: Nguyễn Trương Quý
    Mình sưu tầm được bài này trên Jason Gibbs và cảm thấy rằng đây là một bài có tính chất thuyết phục cao và phương pháp trưng bày tài liệu xây dựng một cách quy củ về nhạc vàng. Cho nên mình mạn phép tác giả phát hành lại. Bản dịch tiếng Việt dưới đây là của anh Nguyễn Trương Quý

    Hai sự kiện được in lịch “đỏ” trong lịch sử Việt Nam năm 1954 – chiến thắng quân Pháp ở Điện Biên Phủ mồng 7 tháng 5 và giải phóng thủ đô Hà Nội mồng 10 tháng 10. Với sự kiện giải phóng ấy, hai quan điểm xung đột nhau – một bên là những nhà cách mạng theo chủ nghĩa Mác sống giản dị khổ hạnh trong các vùng căn cứ du kích (maquis) và một bên là đô thành nhộn nhạo ồn ã có liên hệ với văn hoá đại chúng Tây phương. Một số người Hà Nội cảm thấy không thoải mái, và lại còn lo sợ sự trở về của những đồng hương và một số người đã chọn cách khởi đầu cuộc đời mới ở phía nam vĩ tuyến 17. Cùng lúc đó, sự trở về của những người cách mạng đã sẵn sự báo động vì sự sa đoạ (theo ý những người này) của văn hoá và lối sống thành thị. Âm nhạc Tây phương phi cộng sản cũng như âm nhạc thịnh hành ở đó trở thành một đối tượng quan tâm lo ngại trong chính sách văn hoá của những người cộng sản. Nhạc vàng - cái tên đặt cho loại nhạc không chính thống này - bị “gác” và cấm cho đến cuối những năm 1980 khi chính phủ bắt đầu chương trình “Đổi mới”, cho phép phục hồi lại chúng.

    [​IMG]
    [​IMG]
    Tem thư kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và Giải phóng Thủ đô Hà Nội

    Thuật ngữ có từ tiếng Trung hoangse yinyue – nghĩa là “âm nhạc mầu vàng” - một thuật ngữ mà những trí thức cánh tả Trung Hoa dùng để gọi những tình khúc Thượng Hải thời những năm 1930. Họ là những người đầu tiên chống lại chúng. Sau chiến thắng năm 1949, những người cộng sản Trung Hoa đã tiến hành trừ khử loại nhạc này như một tàn dư của tư sản Tây phương (Hansson 2001, Jones 2001). Những người Việt Minh kháng chiến tiếp nhận sự cố vấn trọng yếu từ người Trung Quốc và lãnh đạo của họ cũng đồng thuận với nhiều quan điểm về văn hoá của Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu âm nhạc Việt Nam nhắc đến sự tiếp cận đầu tiên với khái niệm Trung Hoa “nhạc vàng” vào khoảng năm 1952 hoặc 1953 (Tô Vũ 2002 [1976], 306).

    Những năm ngay sau khi trở về Hà Nội của những người cộng sản là những năm tháng đầy xáo trộn trong phe cộng sản trên thế giới nói chung. Cái chết của Stalin năm 1953 khởi sự thời kỳ “Băng tan” (the Thaw) ở Liên Xô, một thời kỳ có những tự do trong sáng tạo lớn hơn. Năm 1956 những nhóm trí thức của ĐCS Trung Quốc và Việt Nam cũng đã tìm kiếm một tự do sáng tạo nhiều hơn. Ở Trung Quốc cuộc vận động này được biết đến với khẩu hiệu “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Tại Việt Nam, nó có tên Nhân văn Giai phẩm – ghép của tên hai tạp chí chỉ tồn tại một thời gian ngắn. Sau khoảng một năm, chính quyền đóng cửa những nhà xuất bản này cũng như các lối ra khác của việc xuất bản độc lập. Một số người tham gia mất chỗ đứng trong các cơ quan hành chính văn hoá, một số khác bị đưa về các vùng nông thôn để cải tạo, giáo dục lại, và một số ít bị đi tù (Hoàng Văn Chí n.d. [1959]: 17-54). Câu chuyện của nhạc vàng ở Việt Nam mở đầu trong hoàn cảnh những sự kiện đó.

    Những tài liệu sớm nhất nhắc đến “nhạc vàng” tôi tìm thấy trong các xuất bản phẩm Việt Nam là bản dịch của một bài báo Trung Quốc có nhan đề “Cuộc đấu tranh chống "âm nhạc màu vàng" ở Trung-Quốc” ra ngày 25 tháng Sáu, 1958 trên [tạp chí] Văn Học. Nhạc vàng được mô tả như sau: “... là thứ âm nhạc lãng mạn bi quan, hoặc khêu gợi tình dục và những khát vọng thấp kém của xác thịt. Nó dùng khúc điệu lê thê rũ rượi hay lẳng lơ đĩ thoã, kết hợp với luận điệu giật gân và lời ca dâm đãng, thêm vào đó là một sự trình bày hỗn loạn nhả nhớt; nó là thứ âm nhạc xấu xa hèn kém nhất trong nghệ thuật âm nhạc” (Nguyễn Lân Tuất 1958, 5).

    Bài viết này cùng trang báo với bài "Chủ đề tình yêu trong sáng tác âm nhạc gần đây" của nhạc sĩ Việt Nam Lê Lôi. Tác giả buộc tội một số bài hát viết về cảm xúc liên quan đến sự kiện chia cắt đất nước mấy năm trước đó, những bài hát diễn tả nỗi lòng và khát vọng hướng về bạn bè đồng chí ở miền Nam (xem Gibbs 2004). Tác giả dành mối quan tâm nhiều nhất cho bài “Mưa xuân” của Tử Phác, một nhạc sĩ trí thức dính đến vụ Nhân văn Giai phẩm. [1] Ví dụ 1 ghi lại lời một đoạn trong ca khúc này:

    Ví dụ 1 – Trích lời ca khúc “Mưa xuân” của Tử Phác, khoảng 1955-1957
    Đêm dài nghe tiếng giọt mưa rơi
    Như giọt nước mắt người yêu tôi nhớ tôi...
    Đêm dài thánh thót giọt mưa rơi
    Rơi từ đất Bắc về phương Nam xa xôi...
    Gió băng ngàn đưa nước mắt, xót xa tâm tình của đôi ta...

    (“Mưa xuân” - Tử Phác)

    Lê Lôi gắn cho lời ca là có "tư tưởng xét lại”, là quay lại thời gian trước, khi “ánh sáng Cách mạng chưa rọi tới”. Lời ca dùng ca từ kiểu những bài hát lãng mạn Hà Nội thời kỳ đầu, ví dụ viện dẫn gió mưa để diễn tả lòng mong nhớ và nỗi buồn. Ông chê trách những thứ này và những lời ca gần đây là “thiếu quyết tâm” và “ủy mị”, quy kết việc bằng một thứ điệp khúc nhắc lại trong bài báo tiếp theo về nhạc vàng: "Và khi muốn làm tin tưởng vào lòng chung thủy của người yêu và sự thống nhất của Tổ quốc thì không phải ngồi đấy mà khóc lóc rũ rượi” (Lê Lôi 1958).

    “Những đồi hoa sim” là tiêu biểu của dòng nhạc bolero trữ tình, một đặc sản văn hóa của miền Nam ngày trước.




    Vài tháng sau, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Sáng tác Việt Nam, trong bài viết có tên "Bài trừ "âm nhạc màu vàng"” nhận xét rằng có những bước tiến dài các nhạc sĩ đã làm được trong sự phát triển của âm nhạc xã hội chủ nghĩa mới. Tuy nhiên với việc “tung ra các loại sách báo có hại” nhóm Nhân văn Giai phẩm đã khuyến khích sự trở lại của nhạc vàng, [2] thứ ông mô tả như một mớ lai căng giữa các trào lưu cuả chủ nghĩa phong kiến, chủ nghĩa thực dân, và chủ nghĩa tư bản đế quốc. Ông cho rằng phim ảnh và băng đĩa Pháp, Nhật và Mỹ trước cách mạng đã “cổ động cho phong trào lãng mạn, ru ngủ thanh niên, hòng làm tê liệt tinh thần yêu nước của các tầng lớp thanh niên”. Nay những băng đĩa lãng mạn đó được chơi lại trong các buổi giải lao chiếu bóng, những bài hát “đồi trụy” chơi trong những buổi khiêu vũ, và kinh khủng nhất là “trong các buổi mừng đám cưới, có người hát những bài Mỹ theo lối biểu diễn khêu gợi của nhạc Mỹ” (Đỗ Nhuận 1958).

    Một trong những bài hát ông đưa ra là "Cô hàng cà phê" của Canh Thân. Bài này viết đầu những năm 1950 khi nhạc sĩ là một thành viên của kháng chiến, với hình ảnh một chợ nhỏ bên đường trong khu Việt Minh kiểm soát. Ví dụ 2 dẫn những lời ca diễn tả ấn tượng mạnh mẽ của cô hàng cà phê gây cho nhân vật kể chuyện:

    Ví dụ 2 - "Cô hàng cà phê" - Canh Thân.
    Hôm nao dưới bóng ánh trăng mờ,
    Tôi mơ ngắm cánh tay ngà
    Nhẹ nâng ly trà ướp sen ngạt ngào,
    Trông cô rón rén ra vào,
    Đôi môi thắm cánh hoa đào,
    Lòng tôi dạt dào muốn xiêu.

    Đỗ Nhuận nhận xét rằng những suy nghĩ và cảm xúc như thế là một thứ thuốc tẩy rửa mạnh làm trôi hết tinh thần đấu tranh cách mạng.

    Từ vị trí đầy uy quyền trong Hội Nhạc sĩ sáng tác được chính phủ giao cho, Đỗ Nhuận tiếp tục là người phát ngôn chỉnh đốn định nghĩa về nhạc vàng và ủng hộ việc loại bỏ nó. Trong một buổi nói chuyện với tổ chức thanh niên Hải Phòng năm 1969 ông đã phân loại nhạc vàng theo những chủ đề sau (Đỗ Nhuận 2003 [1969], 352).

    1. Những bài hát “mơ mộng hão huyền” - “buồn nản tiêu cực” [3]
    2. Những bài hát “bi quan, yếm thế”. [4]
    3. Những bài hát “dâm ô” và “trụy lạc”. [5]
    4. Những bài hát “phản động chính trị”. [6]
    5. Những bài hát “hai mặt” - những bài được viết cho kháng chiến, nhưng lại đặt lời mới khi người sáng tác chúng bỏ kháng chiến. [7]

    Ông đặc biệt tỏ ra coi thường âm nhạc của Phạm Duy. Phạm Duy, nhạc sĩ nổi tiếng và dấn thân nhất của miền Nam, đã từng là một trong số những nhạc sĩ đầy hứa hẹn nhất của kháng chiến, nhưng ông có tinh thần tự do sáng tạo quá nhiều để có thể ở lại được với cách mạng. Tác phẩm của ông tìm cảm hứng từ nhiều nguồn, song đặc biệt từ dân ca Việt Nam và các ca sĩ phòng trà của Paris. [8] Ông đặc biệt bị nghi ngờ trong con mắt của người cộng sản trong sự liên hệ với đặc vụ Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) Edward Lansdale (Currey 1988, 313-4). Trong các bài viết năm 1958 và 1969 Đỗ Nhuận nói các sinh viên miền Bắc "đang rải tuyên truyền" qua sự phổ biến bài hát “dâm ô” cuả Phạm Duy – “Tìm nhau” (Đỗ Nhuận 2003 [1969], 354; Đỗ Nhuận 1972, 40).
    [​IMG]
    Ví dụ 3 - "Tìm nhau" của Phạm Duy, 1956. [9]
    Tìm nhau trong hoa nở
    Tìm nhau trong cơn gió
    Tìm nhau trong đêm khô hay mưa lũ
    Tìm nhau khi nắng đổ
    Tìm nhau khi trăng tỏ
    Tìm nhau như chim mộng tìm người mơ.


    Đối với người miền Bắc, một trong những khía cạnh xảo quyệt nhất cuả nhạc vàng miền Nam là sự hỗ trợ mà họ quả quyết là từ cơ quan tâm lý chiến của Mỹ. Minh hoạ 2 là hai hình bìa của hai bài hát Đỗ Nhuận nhận định là "bài hát của lính ngụy, diễn tà những mối tình trai gái trác táng, thấp hèn” (1972, 39).

    [​IMG]
    [​IMG]
    Minh hoạ 2
    Bìa ca khúc "Chúng mình 3 đứa" (Song Ngọc & Hoài Linh, 1966) và "Chúng mình đẹp đôi" (Tuấn Khanh, 1966)
    [​IMG]
    Bài đầu diễn tả sự gần gũi của “ba đứa chúng mình” - những lính chiến từ ba quân chủng: hải quân, lục quân và không quân và cái nhìn thân ái giữa họ khi cùng chia sẻ nhiệm vụ bảo vệ miền Nam. Bài sau đưa ra viễn cảnh của một anh lính miền Nam đang mong đợi cô gái của mình. Các nhân vật trong hai minh hoạ đều có cái nhìn nội tâm mềm mại. Những hình ảnh này đối lập hoàn toàn với tiêu chuẩn hiện thực XHCN miền Bắc – thường nhìn với chủ nghĩa lạc quan của người xem hoặc tinh thần phấn khởi , có thể lấy VD đơn cử:
    Quả thật, trong hoàn cảnh ấy, phải “kiên gan” lắm Trần Hoàn mới có được những ca từ sắt son, kiên định như thế. Ngày nào nghe tiếng chim, ca líu lo trên cành hoa đào, em nhủ thầm, rằng bóng dáng người tình về, về đến bến đò đầu làng là giờ anh về… em ơi… Lời người ra đi là bài hát Trần Hoàn làm để riêng tặng người vợ mới cưới của mình nhưng đã trở thành bài hát chung của nhiều thế hệ thanh niên giã từ người yêu lên đường chiến đấu.
    [​IMG]


    Tôi không có thông tin chứng minh cho sự khẳng định nào là hai bài hát này hay những tác giả của chúng có được sự chỉ đạo từ một chương trình tâm lý chiến nào của Mỹ, nhưng cả hai ca khúc phản chiếu một xã hội chiến tranh lan rộng và những tình cảm sinh ra từ chiến tranh cộng hưởng với xã hội, và với cách đó chúng đứng trong thị trường âm nhạc. Điều gì khiến những bài hát này bị tấn công nhiều nhất khi chúng không vẽ ra chân dung những người lính miền Nam như là những tay sai dã man của Mỹ?

    Theo hiểu biết của những nhà nghiên cứu Việt Nam, việc dịch khái niệm “nhạc vàng” từ Trung Quốc sang Việt Nam là còn phải bàn lại. Trong tiếng Việt, từ vàng vừa có nghĩa mầu vàng vừa nghĩa là kim loại vàng và nói chung có một trường nghĩa tích cực. Trong trường hợp Trung Quốc, [mầu] vàng trong ý xấu dường như được nhập khẩu từ phương Tây từ ý niệm gần gũi của “báo chí vàng” tức báo lá cải (Hansson 2001). [10] Cùng với nhạc vàng, cộng sản Trung Quốc cũng định nghĩa cả sách vàng, phim vàng, v.v…, tất cả được cho là có nội dung khiêu dâm. Đỗ Nhuận, khi nhận ra từ vàng trong cách dùng thông thường quen thuộc của tiếng Việt lại mang nghĩa rất tích cực, đã phải nhấn mạnh sự quan trọng của việc hiểu nghĩa từ Tây phương - để diễn tả sự ốm yếu vàng vọt và bệnh hoạn (2003 [1969], 349-350).

    Trong thực tế khái niệm của nhạc vàng dường như bị đồng nhất với âm nhạc phản động. Nhưng những nhà lý luận nhận thấy cái nhãn nhạc phản động có lẽ không đủ rõ ràng - một thông điệp công khai trong một bài hát thực tế có thể không có gì phản động. Nó lại có thể hoạt động như một bệnh truyền nhiễm lan vào người nghe một cách lén lút êm ái với một quan điểm phá hoại, tiêu cực, hoặc kể cả với một cái nhìn riêng tư và khoan thứ trong cuộc sống. Đỗ Nhuận chẩn đoán, với độ chính xác mà tôi nghĩ, gốc rễ của căn bệnh trong suy nghĩ tiểu tư sản, và ông sợ rằng những người tiểu tư sản sẽ xâm thực căn bệnh tinh thần của mình đến những nòng cốt của Đảng và giai cấp lao động (2003, 356). Giống như một con vi khuẩn, loại nhạc này có thể chiếm giữ từng cá nhân vốn có sức khỏe tinh thần một cách vô hình. Phạm vi của nhạc vàng là riêng tư, vị kỷ - “nhạc kích thích lòng người trong chốc lát, đưa người nghe vào một thế giới huyền ảo, lãng quên, thoát ly hoặc chống lại cuộc sống lành mạnh” (Đỗ Nhuận 1958, 5). Đối với người cộng sản, cá nhân phải đồng dạng với tập thể, cá nhân phải nghĩ đến tập thể, điều tốt đẹp dành cho tập thể, và nghĩ rằng những gì chính quyền đề ra là những điều đúng đắn đáng tin tưởng.

    Hiệu ứng lợi hại của âm nhạc nhờ vào khả năng gây ấn tượng đã được thừa nhận mấy nghìn năm nay - Plato và Khổng Tử đều thấy trong quy luật của âm nhạc khả năng đảm bảo một xã hội có kỷ cương trật tự. Ở Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 19 và 20 nhiều lãnh đạo văn hoá lo ngại điều kiện đô thị hiện đại dẫn đến sự bất lực và băng hoại tinh thần (Lears 1988, 68-70). Những nhà cải cách Mỹ vào đầu thế kỷ 20 đã tìm cách chấm dứt các sàn nhảy và lái những thính giả trẻ ra xa khỏi văn hoá đại chúng và hướng đến thứ âm nhạc tao nhã và có trình độ học thuật cao hơn (Vaillant 2003, 119). [11] Nhiều đoàn thể đã nổi giận trước thứ âm nhạc giới trẻ ưa thích, nhưng chính quyền Việt Nam có phương cách để thực thi theo sự tin tưởng của họ và tiến hành kiểm duyệt ở phạm vi rộng hơn. Xa hơn việc kiểm duyệt, họ còn xét xử và giam giữ những người thách thức uy quyền của họ. Một sự việc kiểu như thế được một tờ báo Hà Nội đưa tin: một trưởng ban nhạc bị tuyên án 15 năm tù vì chỉ huy một ban nhạc đám cưới chơi thứ nhạc “dụ dỗ trai gái sống sa đoạ”. Bài báo còn buộc tội nhóm ông ta vì đã “tiêm thuốc độc của sự bất mãn vào trong đó, hẳn là trò tâm lý chiến của “lối sống tự do kiểu Mỹ”..." [12]

    Sau năm 1975, với sự sụp đổ của Sài Gòn, trước sự ra đi của người Mỹ và sự tan rã của Việt Nam Cộng hoà, những quan toà văn hoá Việt Nam đối diện với tình huống khó xử mới. Họ tiếp quản một địa bàn có đến hàng triệu tờ, đĩa và băng - gần hết là nhạc vàng – đã được mua bán trao đổi phân phối. Chính quyền Hà Nội đã phải làm để tịch thu và tiêu huỷ tất cả những tàn dư này của “chủ nghĩa thực dân mới Hoa Kỳ”. Một cột báo đã nêu lên sự khó khăn:

    Từng bị tiêm nhiễm một thứ văn hoá, không dễ dàng để một người từ bỏ nó chỉ một sớm một chiều. Mặc dù không có khả năng nghe một bài hát cũ nữa, một người có thể nhớ nó, hát hoặc nhảy với nó trong một thời gian dài trong tương lai. Một bài hát cũ chỉ có thể chắc chắn đã chết khi nó không thể còn được nhớ đến, nhảy múa hay hát hò gì nữa. [13]

    Tuy nhiên, ngoài vấn đề làm hồi tỉnh những ai đã nuốt phải thuốc độc của chủ nghĩa thực dân mới, họ phải đối phó với sự lan truyền của những người lính Quân đội miền Bắc khi họ mang theo loại nhạc này khi trở về nhà hay làng quê họ. [14] Một nhà nghiên cứu giải thích rằng sự quảng bá của loại nhạc này đối với người miền Bắc thành ra một vấn đề cấp thiết hơn là cố ngăn dừng chúng lại ở miền Nam bởi vì người Bắc nghe nhạc ấy như một món mới lạ và chưa được “miễn dịch” chống lại trước đó (Tô Vũ 2002 [1976], 312). Sau khi Quân đội miền Bắc tiếp quản miền Nam, dường như nhạc miền Nam lại đổ bộ ra Bắc.
    [​IMG]

    Minh hoạ 3
    Những đứa con của một người lao động khóc lóc xuống tinh thần vì những băng nhạc anh ta cho chúng nghe bừa bãi. Tranh của Trần Tân, tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (Tháng Sáu 1977), trang 38

    Minh hoạ 4 là một người thanh niên bị nhạc vàng làm cho tiêu mòn sức sống. Để ý rằng những chàng trai nghiêm chỉnh, cười nói bên ngoài đang chế giễu sự ngốc dại của anh ta - họ đại diện cho hình ảnh được ủng hộ của những người Việt Nam khinh rẻ loại nhạc này.

    [​IMG]

    Minh hoạ 4
    Tranh của Thanh Lan, tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (1977), 76

    Những nhà âm nhạc học Việt Nam phải phân tích hiện tượng bằng cách giải thích nhạc đã vang lên thế nào, thì họ mới có thể hiểu rõ hơn sức hấp dẫn của nó. Họ cũng phải phân biệt giữa loại nhạc gọi là “nhạc nhẹ” được chấp nhận với nhạc vàng không được cho phép. Những lời phê bình dai dẳng chống lại tình ca khiến nhiều người Việt Nam lúng túng. Một người viết kể lại sự lúng túng mà ông ta nghe được; thì mọi người nói: “Đây là nhạc nhẹ, tình ca, nghe cũng được thôi, hòa bình rồi mà!” (Tô Vũ 2002, 305). Người Việt Nam đã từng đi học hay công tác ở Liên Xô có thể không hiểu tại sao các đồng chí Xô-viết có thể nghe những bài ca lãng mạn diễn tả một phạm vi rộng rãi những cảm xúc cá nhân, trong khi những tình cảm ấy bị cấm đoán ở quê nhà. [15]

    Với chiến thắng của họ, và với trận đánh luôn rõ đường đi nước bước của lịch sử từng thúc đẩy họ ra phía trước, tình hình trở nên khó khăn hơn nhiều để giải thích được sự phổ biến tiếp tục của các sản phẩm văn hoá phản-cách mạng như nhạc vàng. Năm 1986, một trong số những nhà phê bình âm nhạc đầu ngành của Việt Nam viết rằng nhạc vàng đáng phải ở trong cảnh suy tàn vì tiến trình lịch sử không cưỡng lại được là hướng đến một nơi hoàn hảo của CNXH, nhưng vẫn tìm thấy những bóng ma luẩn khuất trong những bài hát cộng sản được hát kiểu bi luỵ, hoặc trong các tác phẩm của những nhạc sĩ sáng tác ca khúc muốn gợi lại thời tiền chiến. Phân tích của ông ta khá là sâu sắc trong giải thích về vai trò quyền lực của thị trường của chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa tư bản với loại nhạc này, rất rõ để chúng ta nhận ra ông đang viết về âm nhạc gần với chúng ta, lớp tư sản của thế giới thứ nhất (tức các nước công nghiệp phương Tây).

    “Rõ ràng là có những bản nhạc vàng được thưởng thức, được rung động thật sự... Nó chỉ là một dấu hiệu, một tín hiệu để gợi lên một biểu tượng về một đoạn đời, một quãng đời... Nó sống bằng cách kích thích sự liên tưởng trong đầu người nghe. Người nghe chỉ "mượn" bản nhạc để nhớ lại, để hồi tưởng, để sống lại trong cái không gian và thời gian "êm ấm", "nhung lụa" nào đó.” (Dương Viết Á 1996 [1986], 314)

    Khi Việt Nam tiếp xúc với thời kỳ đầu của perestroika, tức là cải tổ hay đổi mới, những thứ của thời quá khứ và hồi ức lần đầu tiên được thể hiện. Đây là một nhận thức tốt đẹp trong sự thưởng thức của công chúng khi một số bài tình khúc từ 40 năm trước của Văn Cao, một tác giả cách mạng hàng đầu và một thành viên của nhóm Nhân văn Giai phẩm, được biểu diễn trước công chúng năm 1983. [16] Trong sự hưởng ứng của việc kêu gọi đổi mới, một nhạc sĩ trẻ đã đề ra việc hồi sinh loại nhạc gọi là nhạc tiền chiến và đồng thời bỏ từ nhạc vàng đi (Nguyễn Trọng Tạo, 1988, 78). [17]

    Việc cũ phục sinh thành mới được đặt tại trọng tâm ý nghĩa hiện nay của nhạc vàng. Trong khi sau 1975 nhạc này được nghe qua những băng đĩa sản xuất ở Sài Gòn cũ, thì vào những năm cuối 1990 những bài hát trước năm 1975 đã rỉ rách trong đời sống Việt Nam qua những băng nhạc, được hát ở hải ngoại trong những buổi trình diễn mới. Lần đầu đến Việt Nam năm 1993 tôi đã rất kinh ngạc là thứ nhạc phổ biến ở Việt Nam cộng sản lại giống với nhạc mà người Mỹ gốc Việt vẫn nghe, dĩ nhiên là chúng không được phát thanh, và trong mọi trường hợp là bất hợp pháp. Tuy là sản phẩm buôn lậu, những băng cassette và video vẫn được trao đổi tự do, và nhạc này có ở trong gần như mọi nhà tôi đến. Mặc dù nhạc vàng vẫn phải mang tội danh phản động, ít người nghe bình thường để ý đến điều đó.

    Gần đây hơn, tôi đã đọc trên các trang tin internet cho thấy mức độ nhất trí ít ỏi về việc định nghĩa nhạc vàng là như thế nào. Một số người định tính nó là nhạc của Việt kiều. Nhắc đến sự liên quan của nó với chế độ cũ, một số muốn gọi đó là nhạc miền Nam, hoặc thậm chí là những bài hát của lính miền Nam. Nhiều bài trong số tiêu biểu nhất đúng là về chiến tranh và phân ly. Đây là những người muốn tách riêng nhạc tiền chiến, hay những bài của những nhạc sĩ như Phạm Duy, là những bài có phẩm chất nghệ thuật được coi trọng, và giới hạn nhạc vàng ở những bài hát buồn sầu truyền thống được hát theo điệu bolero - loại nhạc bình dân của các tầng lớp hạ lưu trong xã hội Việt Nam. [18]

    Cái tên nhạc vàng được dùng trước năm 1975 ở Sài Gòn, nhưng lại có nghĩa tích cực là vàng kim loại quý. [19] Giữa 1975 và 1985, mặc dù chính quyền phê bình, kiểm duyệt và tịch thu, loại nhạc này vẫn tồn tại. Sau này sự phổ biến của chúng tăng lên thông qua những băng đĩa mới của ca khúc cũ được làm ở hải ngoại, và mặc dù bị cấm biểu diễn trên sân khấu và sóng phát thanh, nó trở thành thứ âm nhạc lấn át ở Việt Nam một thời gian. Sau năm 1995 công nghiệp âm nhạc nội địa phát triển những bài hát mới và các ca sĩ xuất hiện hấp dẫn giới trẻ đã đẩy thứ nhạc vẫn gọi là nhạc vàng sang một bên, mặc dù nó vẫn có ở khắp các hang cùng ngõ hẻm, trong taxi, bến tàu xe hay ở nhà quê.

    Nhạc vàng dường như bất tuân tính biện chứng của những người cộng sản và thịnh vượng một thời kỳ kể cả sau khi đã bị diệt trừ mạnh mẽ. Nhưng sau khi họ nới lỏng quan điểm về ca khúc tình yêu và như là tiền đề cho thị trường âm nhạc, những ca sĩ mới và bài hát mới đã đến để thay thế cho nhạc vàng. Thuật ngữ nhạc vàng đã mất sự thích dụng của mình hay là trở nên vô hại đối với chính quyền, nhưng họ vẫn còn trông chừng loại nhạc nào có sự phóng đãng và bạc nhược của nó. Nhưng họ thấy nhạc đó trong thứ ngày nay được giới trẻ Việt Nam hát, là những người khao khát trở thành Backstreet Boys hay Britney Spears. [20]

    Nhạc vàng là âm nhạc đại chúng – âm nhạc của sự trỗi dậy những tâm trạng băn khoăn bất an của tuổi trẻ. Nhà phê bình nhạc rock quá cố Lester Bangs cho rằng “lý do toàn bộ nhạc pop được sáng tạo là để tạo ra lối thoát cho những xúc cảm bệnh hoạn nhưng là một cách ru ngủ lầm lẫn” (1980, 70). Điều đó không xa lắm với tầm nhìn của những người cộng sản, ngoại trừ quan sát của Bangs được viết với sự hiểu rõ giá trị của những cảm xúc này, với năng lượng và sự phong phú của chúng, cũng như trong sự cảm thông đối với những người cảm thấy như vậy. Nó cũng gồm cả những người tiểu tư sản chúng ta, cả ở phương Tây lẫn Việt Nam. Những người có quyền lực nhận thấy những tình cảm cá nhân không bình lặng này có những rắc rối là vì chúng đặt ra một thử thách cho mục đích của họ.
     

    Attached Files:

    kenzoman and CHUTICH like this.
  24. phongvan2000

    phongvan2000 Advanced Member

    Joined:
    23/10/09
    Messages:
    347
    Likes Received:
    277
    Tài liệu tham khảo

    * Bangs, Lester.
    1980. Blondie. New York: Delilah Communications, Ltd.
    * Currey, Cecil B.
    1988. Edward Lansdale: The unquiet American. Boston: Houghton Mifflin.
    * Cửu Long Giang.
    1977. "Thực chất của cái gọi là nghệ thuật âm nhạc Sài Gòn cũ," Văn hóa Nghệ thuật (June), 37-9.
    * Đặng Anh Đào. n.d. "Người ở số nhà 108." Đặc trưng.
    * Denney, Stephen.
    1982. "The official policy of repression in the Socialist Republic of Vietnam," Indochina Newsletter (January) [viewed 2/13/05].
    * Đỗ Nhuận.
    1958. "Bài trừ âm nhạc màu vàng", Văn học 16 (October 25), 5.
    * 1972. "Tính chất phản động của nhạc vàng", Văn hóa Nghệ thuật 18 (1972), 40.
    * 2003 [1969]. "Nhạc vàng", Âm thanh cuộc đời. Hà Nội: Nhà xuất bản Âm nhạc; 349-358.
    * Dương Viết Á.
    1996 [1986]. "Nhạc vàng-từ cái nôi đến nghĩa địa," Âm nhạc: Tác gỉa & tác phẩm. Trần Cương, ed. Hà Nội: Nhà xuất bản Âm nhạc. Bản gốc đăng trong Âm nhạc 6 (1986), 26-28.
    * Gibbs, Jason.
    1998. Nhac Tien Chien: The Origins of Vietnamese Popular Song," Destination Vietnam online (June/July 1998) .Originally delivered at the 1996 meetings of the Society for Ethnomusicology, Northern California Chapter, Davis, California.
    * 2002. "Hành trình Phạm Duy qua dòng lịch sử," translated by Ngọc, Văn 69 (September), 61-69. Online at: van : 69
    * 2004. "Love and Longing at the Border: Songs on Both Sides of the 17th parallel," an unpublished paper delivered at the Popular Culture Society meetings, San Antonio, Texas, March, 2004. (“Tình yêu và khát vọng nơi ranh giới: Những ca khúc ở hai bờ vĩ tuyến 17”, Nguyễn Trương Quý dịch, talawas, 30.4.2005).
    * Hansson, Anders.
    2001. "Yellow Music in China in the Early 1980s" an unpublished paper given at the CHINOPERL conference in Venice, Italy, September 20, 2001.
    * Hoàng Văn Chí.
    n.d. [1959]. Trăm hoa nở trên đất Bắc. N.l.: Mặt trận bảo vệ tự do văn hóa.
    * Jones, Andrew F.
    2001. Yellow Music: Media Culture and Colonial Modernity in the Jazz Age. Durham, NC: Duke University Press, 2001.
    * Lears, Jackson.
    1981. No Place of Grace: Antimodernism and the Transformation of American Culture 1880-1920. New York: Pantheon Books.
    * Lê Lôi.
    1958. "Vấn đề tình yêu trong sáng tác âm nhạc gần đây", Văn học 4 (June 25), 5.
    * MacFadyen, David.
    2001. Red Stars: Personality and the Soviet Popular Song 1955-1991. (Montreal: McGill University Press.
    * Miên Hà.
    2001. "Vì sao chỉ có nhạc 'não tình'," Sài Gòn giải phóng (December 9). Viewed online:
    http://www.sggp.org.vn/sggp/xemtin.html ... &sobao=539 [viewed 12/20/2001].
    * Nguyễn Lân Tuất.
    1958. "Cuộc đấu tranh chống "âm nhạc màu vàng" ở Trung Quốc," Văn học 4 (June 25), 5; 11.
    * Nguyễn Trọng Tạo.
    1988. "Vấn đề thẩm định văn học nghệ thuật và ý niệm "nhạc vàng"," Sông Hương 31 (May-June), 76-78.
    * Phạm Duy.
    1991. Hồi ký: Thời phân chia quốc cộng. [Midway City, CA]: Pham Duy Cuong Productions.
    * Phan Ngọc.
    1977. "Một hiện tượng thưởng thức âm nhạc đáng phê phán", Văn hóa Nghệ thuật (September), 76.
    * Song Ngọc & Hoài Linh.
    1966. "Chúng mình 3 đứa." Sài Gòn: Nhạc 20. (cover illustration by Wyviem 23266).
    * T. H.
    2003. "Kỹ nghệ "tung hứng" - Nỗi buồn của truyền thông," Tin Tức Việt Nam website
    (July 20). [Viewed 11/3/04].
    * Thanh Lan.
    1977. "Chết cho tình yêu", Văn hóa Nghệ thuật (1977), 76.
    * Tô Vũ.
    2002. "Nhạc vàng là gì", Âm nhạc Việt Nam: Truyền thống & hiện đại. Hà Nội: Viện Âm nhạc; 305-312. Bản gốc đăng trên Văn hóa Nghệ thuật 5 (1976).
    * Trần Dần.
    2001 Ghi 1954-1960. Paris: TD Memoire.
    * Trần Tân.
    1977. "Em ơi đời tàn", Văn hóa Nghệ thuật (June), 38.
    * Tuấn Khanh.
    1966. "Chúng mình đẹp đôi." Sài Gòn: The composer. (cover illustration by Kha Trường Châu).
    * Vaillant, Derek.
    2003. Sounds of Reform: Progressivism & Music in Chicago, 1873-1935. Chapel Hill: University of North Carolina Press.

    [1]Trong nhật ký ngày 7 tháng Bảy, 1958, Trần Dần kể Tử Phác đang bị “thanh trừng” (có thể là do Hội Nhạc sĩ Sáng tác Việt Nam) (Trần Dần 2001, 289). Tháng Tám năm đó ông bị đưa đi cải tạo bằng công việc nông nghiệp (21; 303).
    [2]Lời phê bình này tương ứng với tình hình ở Trung Quốc nơi phong trào “Trăm hoa” đã mang lại những ấn phẩm và tuyên truyền khôi phục nhạc vàng (Anders Hansson, trao đổi cá nhân, 12 tháng Ba, 2005).
    [3]Ví dụ gồm “Thu qua” (Hoàng Trọng), “Ngày về” (Hoàng Giác), “Áng mây chiều” (Dương Thiệu Tước).
    [4]Ông còn chế ra những lời sau đây để làm ví dụ: “Than ôi! Đời người chẳng qua chỉ là định mệnh. Éo le, cay nghiệt vây bọc lấy con người trong những bước đau thương”. Ông cũng đề cập tên hai bài hát mà theo tôi biết không có hay không còn trong thực tế: “Thất bại vì tình”, “Bên mồ khóc bạn”.
    [5]“Tình kỹ nữ” của Phạm Duy là một ví dụ.
    [6]Ông trích dẫn hai bài của Lê Thương là “Hòa bình 48” và “Liên Hiệp Quốc” đã dùng cách châm biếm cay độc để nói về chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang.
    [7]Những ví dụ của ông là “Nhạc tuổi xanh” của Phạm Duy và “Đôi chim giang hồ” của Ngọc Bích
    [8]Tôi đã viết trong một đoạn dài về Phạm Duy trong tiểu luận "Pham Duy's travels through history" tại hội nghị về nhạc sĩ sáng tác ở Westminster, California (Little Saigon) 23 tháng Năm, 2002. Tiểu luận được được dịch và in ra tiếng Việt “Hành trình Phạm Duy qua dòng lịch sử” (xem Gibbs 2002).
    [9]Về xuất xứ bài hát này, xem Phạm Duy 1991, 112.
    [10]Người Trung Quốc cũng đề cập đến hiện tượng châu Âu liên quan về công đoàn lao động vàng, nghĩa là một công đoàn được hình thành do giới chủ (Nguyễn Lân Tuất 1958, 5).
    [11]Người ta có thể nhắc đến những bài phê bình gần đây hơn của trường Second Frankfurt School.
    [12]"Phan Thắng Toàn và đồng bọn đã bị bắt" - một đầu đề trên báo Hà Nội Mới (12 tháng Một, 1971) được dịch và in lại trong “Báo cáo chính thức từ nguồn báo chí cộng sản” (Principal Reports from Communist Press Sources, February 1, 1971), tìm thấy trong Virtual Vietnam Archive [Citation: Hanoi Musicians Jailed, 01 February 1971, Box 22, Box 03, Douglas Pike Collection: Unit 06 - Democratic Republic of Vietnam, The Vietnam Archive Archive, Texas Tech University]. Xem thêm "NVN Conductor, 7 Others Jailed," Saigon Post (March 24, 1974), 1-2. Việc này cũng có thể là “vụ nhạc vàng” mà Đỗ Nhuận đề cập trong phát biểu vào năm 1969 (2003 [1969], 350).
    [13]Một cột báo trên tờ Tin Sáng, 16 tháng Chạp, 1978, dịch lại từ bản của Denney (1982).
    [14]Denney (1982) trích dẫn bài báo của Quân Đội Nhân Dân 15 tháng Chạp, 1975 và 14 tháng Tám, 1977 trong đó bức xúc về việc bộ đội mang các băng đĩa về miền Bắc.
    [15]Tô Vũ (2002, 310) cho biết khó khăn trong sự phân biệt giữa nhạc nhẹ và nhạc vàng, và đó là một dạng giống như estrada - nhạc diễn đàn (là một thứ âm nhạc của Liên Xô và Đông Âu) phải thăm dò cẩn thận vì nó có cả hai loại bài. Về một nghiên cứu sâu về nhạc phổ thông thời hậu-Stalin ở Liên Xô, xem MacFadyen 2001.
    [16]Một bài viết gần đây kể rằng một nhạc sĩ là cán bộ nòng cốt những năm 1960 hay 1970 đã gọi những bài đó là nhạc vàng và khẳng định thí nghiệm được tiến hành với sự kiểm chứng là nhạc này có thể làm cho lợn bỏ ăn và lăn ra ốm. Xem Đặng Anh Đào n.d.
    [17]Về thảo luận đầy đủ hơn về nhạc tiền chiến, xem Gibbs 1998.
    [18]Một cuộc tranh luận online có thể tìm trên Trai Tim Vietnam Online (ttvnol.com) website, xem "Nhạc vàng hơi bị hay đấy (Một phút thật lòng)" - TTVNOL [đọc 20 tháng Chạp, 2004]. Cũng xem thêm website Yeu Nhac VangOnline Banks | Online Banks | online banking | car loans | bank jobs.
    [19]Tôi thấy không rõ cho lắm nếu mà đây là một cách lấy về dùng riêng và tái định nghĩa lại từ của miền Bắc. Tô Vũ đánh giá thấp cách dùng này (2002 [1976], 305.
    [20]Tên gọi mới của loại nhạc này là nhạc não tình. Xem Miên Hà (2001), T.H. (2003).


    Nguồn: “Yellow Music Turning Golden”, tham luận tại Hội thảo ngày 24.3.2005 của Popular Popular Culture Society, San Diego, California.
     
  25. phongvan2000

    phongvan2000 Advanced Member

    Joined:
    23/10/09
    Messages:
    347
    Likes Received:
    277
    NHỮNG NGÀY THÁNG 4
    NHỚ SÀI GÒN XƯA
    CA NHẠC SÀI GÒN
    TRƯỚC 30/4/1975

    Bài viết này trước đây tôi đã post trên trang web “Take2Tango” (trang web do Thế Phương chủ trương, đã đột tử ở California vào cuối năm 2010, nên nay trang web này đã ngưng hoạt động trên diễn đàn) và trang Blog “Văn Nghệ người Sài Gòn” vào tháng 5 và 6 năm 2009, sau đó nhiều trang web, blog ở hải ngoại lấy trích đăng (nhưng không ghi lại tên tác giả). Nhân đây tôi xin post lại nguyên văn bài viết :

    Lời người viết :
    [​IMG]
    Lâu rồi các bạn bè thân hữu mỗi khi gặp tôi cứ hỏi “Liệu ông có viết lại các mẫu chuyện về Ca Sĩ Sài Gòn trước năm 75 được không ?”. Bởi dù gì ngày trước ở Sài Gòn tôi viết chuyên mục về điện ảnh tân nhạc cho nhiều báo và tạp chí, mà nhật báo Trắng Đen với số bán chạy nhất thời đó là chủ chốt; đồng thời cũng là một trong các sáng lập viên “Nhóm thân hữu ký giả Điện ảnh Tân nhạc Việt Nam” (như Huy Vân TTK báo Tiền Tuyến, tức Binh Cà Gật trong tạp chí Chiến Sĩ Cộng Hòa, Nguyễn Toàn, Tương Giang, Phạm Hồng Vân, Phi Sơn….) thuộc “thiên lý nhãn”…. trăm tai ngàn mắt thời đó.

    Viết về giới ca nhạc sĩ Sài Gòn thời trước 1975, là viết những chuyện đằng sau hậu trường, những chuyện dính dáng vào đời tư nhưng không đến nỗi phải bồi thường “một đồng danh dự”; có thể có những vụ việc đã từng được đăng hoặc chưa được đăng trên báo, viết về người còn ở lại và người đã xa quê hương, quả thật hết sức phức tạp !

    Lý do “sự thật hay mích lòng”, nhưng đã hơn 30 năm xin cứ coi đây là kỷ niệm, thật hư thế nào chính người trong cuộc sẽ hiểu !…. Nhưng vì một lẽ giản đơn “không muốn vạch áo cho gười xem lưng” đó thôi !?

    Cuối cùng, những phần hồi ký này chỉ trích đăng từng phần, nếu có dịp xin sẽ viết tiếp… và viết ra để những người về sau tham khảo và biết về các Nhạc Sĩ & Ca Sĩ trước 1975, đang ở VN, Hải ngoại đã thành danh như thế nào. (NV)
    CA SĨ SAIGON – XUẤT HIỆN TỪ ĐÂU ?
    [​IMG]
    Nói đến ca sĩ từ đâu đến hay nôm na từ đâu mà thành danh. Tôi chợt nhớ đến Chế Linh đầu tiên, nhớ ngay cái ngày một thanh niên gốc Chàm khúm núm đến gặp Tùng Lâm ở hậu trường rạp Olympic, một sân khấu đại nhạc hội do quái kiệt Tùng Lâm tổ chức song song với Duy Ngọc ở bên rạp Hưng Đạo vào mỗi sáng chủ nhật.

    Tôi nhớ buổi sáng chủ nhật hôm đó khi anh chàng da ngâm đen tóc quăn, ăn mặc nguyên bộ đồ jean. Đến Tùng Lâm cũng không hiểu tại sao anh ta, một người lạ mặt vào được tận bên trong hậu trường. Còn đang ngạc nhiên thì anh chàng người Chàm đã tới gặp ngay Tùng Lâm xin cho được hát vào những lúc ca sĩ còn chạy show chưa kịp đến.
    [​IMG]
    Tùng Lâm quyết liệt từ chối, dù lúc đó phải đóng màn chờ ca sĩ cũng không dám cho anh chàng người Chàm này lên hát, một phần do anh ta là người dân tộc thiểu số và cũng chưa từng nghe anh ta hát bao giờ.

    Nhưng kế tiếp những tuần sau, anh chàng người Chàm lì lợm vẫn đều đặn xuất hiện xin Tùng Lâm cho được hát, và rồi Tùng Lâm cũng đành chào thua sự lì lợm quá mức này, đành chấp nhận cho anh ta hát một bài để thử, với lời dặn chỉ hát một bài và không có tiền “cát sê”

    Tôi chứng kiến các buổi anh chàng người Chàm đến và cả buổi đầu tiên được Tùng Lâm cho lên hát một nhạc phẩm của Duy Khánh, với tên được giới thiệu là Chế Linh. (nghệ danh này sau mới rõ nó có hai nghĩa, nghĩa thứ thứ nhất là họ Chế để khẳng định là”con cháu” của Chế Mân, Chế Bồng Nga. Nghĩa thứ hai có nghĩa là “lính chê” bởi người thiểu số được miễn hoãn quân dịch).

    Không rõ Chế Linh có được học hát hay có thiên bẫm hát theo đĩa hay băng nhạc mà nhiều nam nữ mầm non ca sĩ thường hát nhái đến thuộc lòng, đến khi bài hát chấm dứt thì hàng loạt tiếng vỗ tay nổi lên tán thưởng kèm theo những tiếng gào “bis, bis” nổi lên ầm ỉ nơi hàng ghế khán giả.

    Nhưng nhìn những người ái mộ vỗ tay gào thét kia lại chính là đồng hương của Chế Linh, do chính Chế Linh bỏ tiền ra mua vé cho họ vào xem và chờ đợi cái ngày hôm đó, để chỉ làm một động tác vỗ tay hoan hô và gào lên những tiếng bis, bis.

    Do không được ai lăng xê, không được ai kèm cặp, Chế Linh thường hát nhái theo giọng ca Duy Khánh và cả những bài hát tủ của Duy Khánh từng thành đạt. Và nhờ những đồng hương hàng tuần đến vỗ tay, sau này Chế Linh được Tùng Lâm nhận làm “đệ tử” trong lò đào tạo ca sĩ của mình (?).

    Từ lúc đó Chế Linh mới được uốn nắn rèn giũa lại chính giọng ca của mình.

    Khi nói đến những lò “đào tạo ca sĩ” thường là những nơi có môi trường “lăng xê”, như nhạc sĩ Nguyễn Đức có hai chương trình trên Đài truyền hình số 9 là Ban Thiếu nhi Sao Băng và chương trình Nguyễn Đức, cùng hai chương trình trên Đài phát thanh là Ban Việt Nhi, ban ABC. Còn quái kiệt Tùng Lâm có Đại nhạc Hội, và chương trình Tạp Lục trên truyền hình. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông với đoàn văn nghệ Hoa Tình Thương của TC/CTCT mà Song Ngọc đứng đầu tàu.
    [​IMG]
    Đây là những lò nhạc giới thiệu nhiều ca sĩ nhất trong thời gian đó. Như lò Nguyễn Đức có một lô ca sĩ họ Phương gồm Phương Hồng Loan, Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc (Cẩm Hồng) hay trước đó là Hoàng Oanh có cả nghệ sĩ hài như Thanh Hoài, Trần Tỷ.

    Lò Tùng Tâm giới thiệu Trang Thanh Lan, Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến rồi Chế Linh, Giang Tử. Lớp nhạc Bảo Thu có Thanh Mai, Thanh Tâm sau này Kim Loan; Hoàng Thi Thơ có Sơn Ca, Bùi Thiện, Họa Mi v.v…

    Trở lại với Chế Linh, tuy quái kiệt Tùng Lâm có môi trường “lăng xê” nhưng về chuyên môn dạy thanh âm cho ca sĩ lại “mù tịt”; qua đó đã liên kết với nhạc sĩ Bảo Thu và Duy Khánh đào tạo hay lăng xê Chế Linh trở thành một danh ca như từng đào tạo lăng xê ra những Trang Thanh Lan, Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến… Vì từ lò Bảo Thu (còn là ảo thuật gia Nguyễn Khuyến) cùng Duy Khánh (khi đó ở chung cư Trần Hưng Đạo) đã cho “ra lò” nhiều ca nhạc sĩ như Quốc Dũng, Thanh Mai, Thanh Tâm, Kim Loan…
    [​IMG]
    Việc liên kết giữa Tùng Lâm – Bảo Thu – Duy Khánh làm cho nhiều lò đào tạo ca sĩ bấy giờ lên cơn sốt, bởi ở đây có đủ môi trường để các tài năng trẻ thi thố tài năng, Tùng Lâm có sân khấu đại nhạc hội, Bảo Thu có chương trình truyền hình; dạy thanh âm và cung cách biểu diễn. Chế Linh nhờ vào “lò” Tùng Lâm mà thành danh cho đến ngày nay.

    Tuy nhiên ngoài những lò “đào tạo ca sĩ” nói trên cũng có những ca sĩ thành danh từ những phòng trà khiêu vũ trường, trong phong trào văn nghệ học đường, đại hội nhạc trẻ, những đoàn văn nghệ do chính quyền thành lập. Như Vi Vân, Julie Quang, Carol Kim, Đức Huy, Ngọc Bích, Thúy Hà Tú (Khánh Hà – Anh Tú), Thanh Tuyền, hài có Khả Năng, Thanh Việt, Phi Thoàn, Xuân Phát…

    Elvis Phương nổi danh từ l1972 thời gian vào lúc do Thanh Thúy đang khai thác phòng trà Queen Bee cùng với ông Tuất (sau thời kỳ Khánh Ly), nhưng Elvis Phương đã tạo cho mình một chỗ đứng lúc còn là học sinh cùng với ban nhạc trẻ học đường. Sau đó Elvis Phương đi hát cho nhiều phòng trà nhưng do không ai dìu dắt lăng xê đến nơi đến chốn nên vẫn chỉ là cái bóng của những đàn anh àn chị.

    Khi Thanh Thúy khai thác Queen Bee, có nhạc sĩ Ngọc Chánh làm trưởng ban nhạc Shotguns cùng Cao Phi Long, Hoàng Liêm, Đan Hà; và hội nhập vào làng sản xuât băng nhạc 1972. Elvis Phương mới được biết đến từ đó (1969). Tuy vậy Ngọc Chánh không cho mình đã tạo ra tên tuổi Elvis Phương, anh chỉ có công “lăng xê” còn giọng hát của Elvis Phương là do thiên phú hay từ môi trường văn nghệ học đường mà thành công.

    Các lò đào tạo ca sĩ ngoài những môi trường để dễ dàng “lăng xê” gà nhà, nhưng muốn lăng xê một ca sĩ còn phải qua nhiều cửa ải khác, như tìm một nhạc phẩm thích hợp với giọng ca để ca sĩ chọn làm bài hát tủ như người ta thường ví đo ni đóng giày.

    Bài hát tủ như khi nghe Phương Dung hát chỉ có bài Nổi Buồn Gác Trọ là nổi bật, nghe Túy Hồng biết đang hát nhạc của Lam Phương (cũng là chồng của Túy Hồng), nghe Thanh Thúy lúc nào cũng có bản Ngăn Cách của Y Vân, Thanh Lan với các ca khúc Bài không tên cuối cùng của Vũ Thành An hay Tình khúc… của Từ Công Phụng, Lệ Thu với Nữa hồn thương đau của Phạm Đình Chương, Thái Thanh thì chỉ có Dòng Sông Xanh nhạc Việt hóa của Phạm Duy, Khánh Ly ngoài những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, thường tìm cho mình con đường mới là hát nhạc tiền chiến của Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Văn Cao. Phương Hồng Quế với Phố Đêm, Những chuyện tình không suy tư của Tâm Anh v.v…

    Sau khi ca sĩ có những bài hát tủ, các lò còn phải nhờ báo chí viết bài ca tụng tán dương, bỏ tiền cho các tạp chí lên ảnh bìa hay nhờ báo chí cho đứng tên một mục thường xuyên nào đó như phụ trách trang nhi đồng, giải đáp tâm tình, trả lời thư tín, nhưng các ông bầu đào tạo thường trao đổi ca sĩ cho nhau giữa các show truyền hình truyền thanh, vì ít tốn kém và hiệu quả, tạo đến tai nghe mắt nhìn cho khán thính giả một cách thực tế, được chú ý hơn.

    Một Phương Hồng Quế có thời gian chiếm lĩnh trọn vẹn trên truyền hình, từ show này đến show khác, được phong tặng ”Tivi Chi Bảo“, giữ trang Vườn Hồng, Họa Mi trên báo Tin Điển, Chuông Mai, Trắng Đen, Đồng Nai, Hòa Bình cùng Phương Hồng Hạnh.
    [​IMG]
    Nhưng ai có biết Nguyễn Đức đã bỏ ra bao nhiêu tiền để Phương Hồng Quế, Phương Hồng Hạnh dược như thế ? Chị em Thanh Thúy, Thanh Mỹ giữ mục Trả lời thư tín trên báo Tiếng Dân, sau này cô em út là Thanh Châu trên báo Trắng Đen v.v..

    Tất cả chỉ là cái tên trên báo, vì đã có người làm giúp viết giúp và lãnh tiền giúp, đó là những ngón nghề lăng xê ca sĩ từ các lò ”đào tạo ca sĩ“.

    Đa số các lò nhạc chỉ thích lăng xê ”nữ ca sĩ ” hơn nam vì có nhiều lý do, nhưng lý do dễ hiểu nhất đa số… các ông thầy đều có máu dê.

    Có một giai thoại, người ta đồn một nhạc sĩ gốc mật vụ đệ tử Trần Kim Tuyến thời Ngô Đình Diệm, rất thích các nữ nghệ sĩ, muốn cô nào từ ca sĩ đến kịch sĩ là nhờ bọn đàn em mời về cơ quan hứa hẹn dành cho họ nhiều ưu đãi trong nghề nghiệp với điều kiện cho ông ta được ”thưởng thức“, sau đó giữ bí mật chuyện giữa ông ta với nàng.

    Chuyện bí mật đó là gì ? Trước đó tức trước khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, có lần ông nhạc sĩ mật vụ còn cao hứng đòi lấy một nữ kịch sĩ làm vợ, khiến cô nàng sợ quá vọt trốn ra nước ngoài sống mấy năm mới dám về Sài Gòn hoạt động kịch nghệ trở lại (cũng nhờ ra nước ngoài mà sau này được trọng vọng thành người thân cộng ).

    Không phải người nữ nghệ sĩ này không khoái ông sĩ quan mật vụ, mà không khoái khi nghe ông bầu show là quái kiệt Trần Văn Trạch của “Đại nhạc hội một cây” nói đến tính bất lực của ông ta. Vậy mà sau này có những con thiêu thân “ca sĩ mầm non” đang bán phở hủ tíu, chấp nhận cho ông ta được “thưởng thức” để có môi trường trở thành nữ danh ca ..

    TOÀN CẢNH TÂN NHẠC MIỀN NAM

    Bước vào những năm 63 – 70 của thập kỷ trước, phong trào Kich Động Nhac và Nhạc trẻ bắt đầu xâm nhập mạnh, các ca khúc lãng mạn hay lá cải gần như chìm lắng nhường cho nhạc ngoại quốc được Việt hóa, lý do bộ thông tin & tâm lý chiến bấy giờ ra lệnh các nhạc phẩm VN phải có lời mang tính ca tụng người lính hay tính chiến đấu.

    Những nhạc phẩm sặc mùi chiến tranh tâm lý chiến như , Người ở lại Charlie, Đám cưới nhà binh, Hoa biển, Anh không chết đâu em, Câu chuyện chiếc cầu đã gãy, Kỷ vật cho em, Mùa thu chết v.v.. ra đời.


    [​IMG]
    Loại kích động nhạc, nhạc VN tâm lý chiến có Trần Trịnh viết cho Mai Lệ Huyền lúc đó đang còn sống chung (sau Mai Lệ Huyền lấy một đạo diễn trên Đài truyền hình số 9 rồi mới vượt biên), hát cặp với Hùng Cường thuộc loại ăn khách.

    Nhật Trường – Trần Thiện Thanh viết cho chính anh cùng với Thanh Lan. Còn Khánh Ly, Lệ Thu chỉ nỉ non hát những bài của Phạm Duy như Mùa Thu Chết, Kỷ vật cho Em, Giọt mưa trên lá… Các nhạc sĩ khác không có nhạc phẩm mới chỉ cho ca sĩ nhai đi nhai lại các bài hát cũ.

    Vì vậy nhạc Pop Rock – Việt hóa ăn khách do không nằm trong lệnh của bộ thông tin & tâm lý chiến. Những ca khúc trữ tình như Hởi người tình La-ra nhạc phim Dr.Zivago, Roméo Juliette, Giàn thiên lý đã xa, Khi xưa ta bé, Lịch sử một chuyện tình… được ra đời. Trước đó xuất hiện cùng những ca sĩ ban nhạc Black Caps, Les Vampires, Rockin Stars, The 46, Fanatiques, Spotlights, và phong trào Viet Hóa như Phượng Hoàng, Mây Trắng (Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Trung Hành, Elvis Phương), CBC (Bích Liên), Crazy Dog (Những đứa con của cặp nghệ sĩ Việt Hùng – Ngọc Nuôi với Ngọc Bích đầu đàn)

    Ba Con Mèo (có Vi Vân, Julie và Mỹ Hòa), Tú Hà Thúy ( Anh Tú, Khánh Hà, Thuy’ Anh) và những ”thủ lãnh” phong trào lúc đó là Nhac Trẻ: Trường Kỳ, Tùng Giang, Đức Huy, Kỳ Phát, Nam Lộc.

    Nên phải nói rằng nền ca nhạc ở Sài Gòn từ những năm 60 đến 75 mới thực sự có nhiều điều để nói, vì trước đó thời TT Ngô Đình Diệm cấm mở khiêu vũ trường, nên sinh hoạt tân nhạc còn trong phạm vi thu hẹp chỉ có Đài phát thanh, Phòng trà và Đại Nhạc Hội. Trong thời gian này có Ban Thăng Long với Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Thanh, Thái Hằng, nhạc hài hước có Trần Văn Trạch, song ca Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết hay Thúy Nga với tiếng đàn phong cầm (sau thành vợ Hoàng Thi Thơ ), Duy Trác, Bạch Yến, Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung, Ánh Tuyết, Cao Thái…

    Do thiếu hụt ca sĩ, các tay tổ chức Đai Nhạc Hội thường đưa vào các tiết mục múa của Lưu Bình, Lưu Hồng, Trịnh Toàn, kịch nói chưa phát hiện ra Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, La Thoại Tân, Vân Hùng… chỉ có những nghệ sĩ gần đứng tuổi như Phùng Há, Bảy Nam, Năm Châu, Ba Vân, Bảy Nhiêu, Hoàng Mai, Anh Lân, Kim Lan, Kim Cúc, Túy Hoa, Xuân Dung hay cua-rơ Phượng Hoàng Lê Thành Cát (một kịch sĩ nghiệp dư) chiếm lĩnh sân khấu cùng kịch sĩ đất Bắc như Lê Văn, Vũ Huân, Vũ Huyến…

    Thời gian 1965 – 1975 giới thưởng thức tân nhạc bắt đầu chia khán giả cho từng loại ca sĩ :

    - SVHS thì thích những giọng hát của Thanh Lan, Khánh Ly, Lệ Thu, Xuân Sơn, Anh Khoa, Jo Marcel, Sĩ Phú, Paolo Tuan, Elvis Phương bởi khi hát có chọn lọc nhạc phẩm mang tính nghệ thuật cao cấp.
    [​IMG]
    - Đại đa số quần chúng lại thích nghe Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung, Thanh Tuyền, Túy Hồng, Nhật Trường, Thái Châu hát những nhạc phẩm bậc trung nẳm giữa nghệ thuật và thị hiếu.

    Còn lại các ca sĩ như Chế Linh, Duy Khánh, Hùng Cường, Mai Lệ Huyền, Phương Hồng Quế, Sơn Ca, Giang Tử, Trang Thanh Lan, Thanh Hùng, Trang Mỹ Dung, Thiên Trang hát các bài được soạn theo kiểu tiểu thuyết lá cải như Chuyện tình Lan và Điệp, Nhẫn cỏ cho em, Đồi thông hai mộ, Rước tình về với quê hương … được giới bình dân ưa thích. (gọi là “nhạc sến”)



    Cho nên giới sản xuất băng nhạc bấy giờ rất kén ca sĩ hát cho nhãn băng nhạc, nếu nhãn băng nhạc nào có những Lệ Thu, Khánh Ly, Elvis Phương, Thanh Lan v.v… thì sẽ không có những Chế Linh, Giao Linh, Trang Mỹ Dung, Giang Tử, Duy Khánh v.v…

    Khán thính giả đã phân chia hạng bậc ca sĩ nhạc phẩm để thưởng thức. Ông bầu Ngọc Chánh liền cho ra nhiều nhãn hiệu băng mong chiếm trọn thị trường, vì làm băng nhạc phải nhạy bén với lớp người thưởng ngoạn do đã phân chia ra từng lớp :

    - Shotguns dành cho lớp người có trình độ thưởng thức cao.

    - Nhãn băng Thanh Thúy dành cho mọi tầng lớp khán thính giả.

    - Nhãn băng Hồn Nước có Chế Linh, Duy Khánh, Trang Mỹ Dung, Phương Hồng Quế v.v…
    - Phục vụ thành phần cao niên hoài cổ có băng nhạc Tơ Vàng của Văn Phụng Châu Hà, quy tụ những ca sĩ di cư từ đất Bắc như Duy Trác, Châu Hà, Kim Tước, Thái Thanh, Sĩ Phú qua những nhạc phẩm tiền chiến của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Từ Linh, Dương Thiệu Tước, Nghiêm Phú Phi, Phạm Duy, Phạm Đình Chương… vừa có nhạc tiền chiến vừa có nhạc hiện đại của những nhạc sĩ tên tuổi.

    - Tầng lớp SVHS có nhãn bang hiệu Shotguns, Khánh Ly, Jo Marcel để nghe nhạc phẩm Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Y Vân, Phạm Thế Mỹ, Nguyễn Ánh 9.

    - Giới bình dân có rất nhiều nhãn hiệu băng như Hoàng Thi Thơ, Họa Mi, Hồn Nước, Chế Linh, Âm Thanh, Trường Sơn, Nguồn Sống qua nhạc phẩm Châu Kỳ, Mạnh Phát, Anh Việt Thu, Đỗ Lễ, Trầm Tử Thiêng, Vinh Sử, Tú Nhi, Hàn Châu, Song Ngọc, Duy Khánh, Thanh Sơn, Y Vũ, Trần Trịnh, Tâm Anh, Đynh Trầm Ca…

    - Nhạc trẻ có nhóm Trường Kỳ, Tùng Giang, Kỳ Phát đều có nhãn băng nhạc riêng, riêng kiosque của chị em Thúy Nga (không phải vợ Hoàng Thi Thơ) lúc đó chỉ chuyên sang nhạc đĩa nhac Ngoai Quốc nước ngoài mang nhãn Selection hay Anna / Hon Hoang .

    Thế giới ca nhạc Saigon đã phân chia thứ bậc theo sự thưởng ngoạn, ca sĩ cũng được phân chia ngôi thứ rõ ràng, đó là đặc tính của tân nhạc miền Nam ngày trước… tháng 04 /1975.
    CẶP TRỊNH CÔNG SƠN
    & KHÁNH LY
    [​IMG]
    Từ ngày tôi viết báo và làm báo đến ngày Sài Gòn “đứt phim” nhiều lần tôi viết về Trịnh Công Sơn, dù đến bây giờ giữa tôi và họ Trịnh chưa một lần tiếp xúc, có lẽ vì Trịnh Công Sơn quá cao ngạo thường nghĩ mình là cái “rún” của nền âm nhạc Việt Nam từ trước và sau 1975, đồng thời họ Trịnh còn phân biệt địa phương chỉ thích giao tiếp với người gốc Huế hay gốc Bắc di cư 1954 sau này 1975, còn người làm báo miền Nam (ngày xưa có hai phe báo Nam báo Bắc, có cả 2 nghiệp đoàn ký giả Nam Bắc khác nhau), họ Trịnh tỏ ra không mặn mà để giao tế hay tiếp xúc.

    Tôi nhớ vào khoảng năm 1964-65 phong trào Sinh Viên Học Sinh xuống đường đang bộc phát mạnh từng ngày. Ngày nào SVHS cũng xuống đường đòi xé Hiến chương Vũng Tàu của tướng Nguyễn Khánh, rồi một Quách Thị Trang nữ sinh trường Bồ Đề (Cầu Muối) ngã xuống do lạc đạn tại bồn binh chợ Bến Thành trong một đêm đầy biến động với lựu đạn cay và cả tiếng súng thị oai của cảnh sát bót Lê Văn Ken, và từ đó nổi lên phong trào hát du ca, toàn ca khúc phản chiến.

    Cũng từ đó quán cà phê Văn được hình thành trên một bãi đất gò rộng lớn, bãi đất này từ thời Pháp từng được dùng làm khám lớn còn gọi bót Catinar bên hông pháp đình Sài Gòn. Bãi đất được chính quyền Nguyễn Khánh mà mị ve vuốt cấp cho SVHS làm trụ sở Tổng Hội Sinh Viên do Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho đang lãnh đạo phong trào SVHS xuống đường, để đổi lấy sự yên tĩnh cho thủ đô.

    Quán cà phê Văn nằm sau trường Đại Học Văn Khoa, lúc đó do nhóm sinh viên đang theo học tại đây dựng lên và đặt thành tên gọi, được đông đảo anh chị em SVHS ủng hộ hàng đêm cả ngàn người đứng ngồi trên bãi cỏ, mở đầu nghe phong trào hát du ca của cặp Trịnh Công Sơn – Khánh Ly qua những Ca khúc Da Vàng.
    [​IMG]
    Trịnh Công Sơn và Khánh Ly mới từ Đà Lạt vào Sài Gòn. Phong cách biểu diễn của Khánh Ly lúc đó rất bụi, chân đất, miệng phì phà điếu thuốc Salem và hát những bài do Trịnh Công Sơn sáng tác và đệm đàn. Bấy giờ người ta đã đặt cho Khánh Ly cái tên “ca sĩ cần sa”, “tiếng hát ma túy” v.v… vì giới SVHS thời đó, nhất là giới nữ chưa thấy một ai dám cầm điếu thuốc hút phì phèo nơi công cộng như thế, xem như một cuộc cách mạng trong giới trẻ.
    [​IMG]
    Trước thời gian này họ Trịnh tuy đã có nhiều sáng tác nhưng chưa được ai biết đến như bài Ướt mi, Lời Buồn Thánh, Xin mặt trời ngủ yên (liên hoàn khúc) chưa hội nhập được vào giới ca sĩ phòng trà. Nên biết rằng, ca sĩ thời đó thường hát các nhạc phẩm của những nhạc sĩ đã thành danh như Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Dương Thiệu Tước, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Mạnh Phát, Châu Kỳ, Văn Phụng, Lê Dinh, Anh Bằng, Y Vân, Lan Đài… những nhạc phẩm mang tính đại chúng, còn nhạc và tên tuổi của họ Trịnh hãy còn quá xa lạ với mọi người; các ca sĩ không dám hát sợ rằng khán thính giả sẽ tẩy chay khi hát những nhạc phẩm của người không tên tuổi.

    Lúc đó Khánh Ly cũng như Trịnh Công Sơn đều chưa có chỗ đứng trong sinh hoạt tân nhạc, khán thính giả chỉ biết đến những ca sĩ như Thái Thanh, Hà Thanh, Mai Hương, Châu Hà, Duy Trác, Ngọc Cẩm, Nguyễn Hữu Thiết, Hoài Trung, Hoài Bắc hoặc trẻ trung như Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung v.v…

    Khi được giới SVHS chào đón trên bãi đất Văn, bấy giờ Trịnh Công Sơn – Khánh Ly mới được mọi người để ý, bởi lời nhạc và cung cách biểu diễn của cả hai đang cách tân truyền thống cũ; nhưng tiếp đó cặp Vũ Thành An – Thanh Lan rồi Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên tuy đi sau nhưng lại nổi đình nổi đám cũng từ phong trào hát du ca này. Các nhạc sĩ sau soạn nhạc cũng dành cho giới trẻ cho tầng lớp người mới có kiến thức. Lời nhạc không rên siết bởi tiếng bom đạn mà rất du dương tình tứ đến lãng mạn gieo đến tâm hồn người nghe ngọn gió mới.
    [​IMG]
    Sau đó quán cà phê Văn đâm ra “hắt hủi” cặp Trịnh Công Sơn – Khánh Ly, vì tính theo tần suất ái mộ, giới SVHS bắt đầu thích nghe “Những bài không tên”, “Bây giờ tháng mấy”, “Áo lụa Hà Đông” hơn “Gia tài của mẹ”, “Ca khúc da vàng” v.v…

    Các nhạc sĩ trẻ Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên đã khai phá nguồn gió mới cho quán Văn, ngược với dòng nhạc và phong cách sáng tác nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn chống chiến tranh. Lúc này giới trẻ SVHS cảm thấy dòng nhạc của các nhạc sĩ trên có lời ca rất lãng mạn trữ tình luôn qua tiếng hát của Thanh Lan. Chính vì vậy Thanh Lan có nhiều lợi thế hơn Khánh Ly vì được giới SVHS ủng hộ đông đảo hơn, một phần do Thanh Lan là sinh viên Văn Khoa và cà phê Văn như sân nhà. Sau đó còn có cặp ca nhạc sĩ Lê Uyên và Phương v…v…
    [​IMG]
    Trịnh Công Sơn – Khánh Ly bắt buộc phải chuyển thể theo trào lưu, không hát nhạc phản chiến, cả hai muốn lấy lại tư thế “người của mọi người” nên chuyển đề tài qua tình ca như dòng nhạc của Vũ Thành An, Từ Công Phụng hay Ngô Thụy Miên; và Diễm Xưa lại được Khánh Ly thể hiện xem như ca khúc lãng mạn của Trịnh Công Sơn nhằm đối kháng với “Những bài không tên”, “Bây giờ tháng mấy”, “Áo lụa Hà Đông”, sau Diễm Xưa tiếp tục với Lời Buồn Thánh, Mưa hồng, Biển nhớ, Tình xa, Một ngày như mọi ngày…

    Nói như vậy cho thấy Trịnh Công Sơn đi trước về sau qua những bản nhạc tình.

    Cuối cùng tôi gặp Trịnh Công Sơn vào trưa ngày 30/4/75 tại Đài phát thanh Sài Gòn. Trưa hôm ấy có lẽ Trịnh Công Sơn muốn đến kêu gọi giới văn nghệ sĩ (vì vẫn coi mình là cái “rún” của nền âm nhạc miền Nam ?) bình tĩnh và ủng hộ chính quyền quân quản, còn tôi đến để lấy tin làm báo, vì tờ báo tôi được uỷ quyền còn ra đến số báo đề ngày 2/5/75. Và đúng như bài của Trịnh Cung viết về Trịnh Công Sơn, trưa đó họ Trịnh chẳng nói được lời nào sau micro, còn Tôn Thất Lập có nói gì với họ Trịnh không thì tôi “bó tay” do lúc này ở phòng thu người chật như nêm, ai cũng muốn chen vào muốn “có tiếng nói” làm “ông kẹ ba mươi tháng tư” kể cả tên mặt rô ở chợ Cầu Muối cũng có mặt muốn kêu gọi bạn hàng chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Muối hợp tác với ban quân quản.

    Sau ngày 30/4 ai cũng thấy rõ chiến tuyến của họ Trịnh và Khánh Ly. Quả thật Trịnh Công Sơn phản chiến vì thân cộng, còn Khánh Ly lại thuộc thành phần chống cộng. Có người hỏi tại sao Khánh Ly lại ra đi không cùng họ Trịnh ở lại để hưởng phước lộc trong xã hội chủ nghĩa, khi cả hai từng có công trạng gián tiếp xúi giục mọi người phản chiến, thanh niên trốn quân dịch; vì cả hai như cặp bài trùng ?

    Khi hỏi cũng đã có câu trả lời, vì khi phong trào du ca không còn tồn tại, chỉ còn nhóm “Hát cho đồng bào tôi nghe” của Nguyễn Đức Quang, Miên Đức Thắng, Tôn Thất Lập “hát chui” ở đâu đó. Còn Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã tách ra thành hai, bởi cả hai đâu phải đôi “thanh mai trúc mã”, một người bị chứng bất lực còn một người đang tràn trề sinh lực của lứa tuổi thèm yêu.

    Trước đó Khánh Ly đã ấy một đại úy biệt kích to con lực lưỡng làm chồng, còn là một bảo kê cho phòng trà khiêu vũ trường của vợ trên đường Nguyễn Huệ (Queen Bee) sau chuyển qua đường Tự Do (Khánh Ly). Do vậy Khánh Ly phải xa họ Trịnh để đến đất nước của Nữ thần tự do, còn nếu ở lại với lý lịch lấy chồng sĩ quan ngụy quân sẽ bị trù dập “ngóc đầu lên không nổi”.

    Tuy vậy khi qua Mỹ, Khánh Ly không còn nhớ đến người chồng biệt kích còn đang học tập cải tạo ở quê hương, liền lấy ngay một ký giả từ Sài Gòn cũng vừa di tản để cả hai tiếp tục hô hào chống cộng.
    [​IMG]
    Còn Trịnh Công Sơn, khoảng thời gian mười năm sau ngày Sài Gòn “đứt phim”, họ Trịnh lại bắt đầu nổi tiếng (?), còn tại sao nổi tiếng khi Trịnh Công Sơn chỉ có những bản nhạc “nhạt như nước ốc” sáng tác cổ động cho phong trào thanh niên xung phong hay học đường theo huấn thị của ông Sáu Dân, việc này mọi người đã biết tôi không nói thêm nữa.

    Sự trở lại với nền âm nhạc sau nhiều năm vắng bóng để Xuân Hồng, Trần Long Ẩn… làm mưa làm gió, nên mọi người còn nhớ Trịnh Công Sơn và báo chí lại đưa tên tuổi họ Trịnh lên chín tầng mây. Và mặc dù bị chứng bất lực nhưng cũng có vài con thiêu thân chịu sa ngã để được “dựa hơi”, mong “hơi hám” của họ Trịnh sẽ cho mình chút hư danh, như cô ca sĩ HN vừa loé lên đã tắt lịm, bởi nhạc cũ họ Trịnh thì chưa được hát còn nhạc mới lại nhạt nhẻo chỉ dành cho thiếu nhi hay hát vào mỗi lúc hô “khẩu hiệu”mà thôi.

    Biết rằng nhạc không còn hồn, không còn sôi nổi cuốn hút người nghe như thời trước 1975, Trịnh Công Sơn mở quán cà phê trên đường Phạm Ngọc Thạch tức đường Duy Tân cũ, rồi bắt đầu vẽ hươu vẽ nai rồi nhờ mấy tên ký giả cà phê “lăng-xê” nét vẽ không thua gì những Phạm Cung, Trịnh Cung… có người đòi mua cả vài ngàn đô ?!. Vậy là hết cuộc đời âm nhạc để rồi chết vì nghiện rượu, mà tác phẩm để lại được mọi người còn nhớ đến toàn nhạc phẩm của những ngày trước 30/4.

    Nguyễn Việt
    [​IMG]
     

    Attached Files:

    kenzoman and hungham like this.

Share This Page

Loading...