Em thấy các bác bàn về phim cũng nhiều nhưng chưa thấy nói về phim này nhỉ ? Em mở luôn topic này để giới thiệu bộ phim này đến với các bác. Các bác say mê điện ảnh mà chưa xem phim này là cả 1 sự thiệt thòi. Thôi, văn em kém, em copy and paste 1 bài bình luận về bộ phim này về đây cho các bác coi. Đọc xong đảm bảo các bác chạy ra hàng mua đĩa :lol: Mời các bạn xem một bài viết giới thiệu về bộ phim "Xuân, Hạ, Thu, Đông...rồi lại Xuân" (tựa đề tiếng Anh là Springs, Summer, Fall, Winter...and Springs): Mở -Phim màu Hàn Quốc (Sony Pictures Classics), dài 103 phút; -Xếp loại R (có cảnh khỏa thân, làm tình…); -Nói tiếng Hàn Quốc với phụ đề Anh ngữ; -Đạo diễn : Kim Ki Duk. -Kỹ thuật và quay phim (Cinematographer/ Cameraman): Baek Dong Hyeon. Phim được dàn dựng và quay tại Hồ Pusan là một hồ nhân tạo có trên 200 năm, phía Bắc tỉnh Kyungsang. -Thành phần tài tử và diễn viên: Sư ông (Oh Young Soo). Chú tiểu trải qua bốn chặng đường thế hệ: tiểu (Kim Jong Ho) – thiếu niên (Sae Jae Kyung) – thanh niên (Kim Young Min) – Sư trung niên (đạo diễn Kim Ki Duk). Cô gái đẹp ở lứa tuổi chín muồi của dậy thì, mang bệnh trầm uất (Ha Yeo Jin). Kim Ki Duk là một đạo diễn tự học, nhưng đã chứng tỏ tài năng qua 7 cuốn phim đủ loại. Năm 2000 với phim “Hòn Đảo” (The Isle) đã tạo sự chú ý của giới thưởng ngoạn điện ảnh quốc tế tại đại hội phim quốc tế ở Venise. Phim “Địa chỉ vô danh” (Address unknown) 2001 là một phim chính trị về cuộc chiến Hàn quốc năm 1950, đã làm cho ông trở thành một đạo diễn lừng danh ở nước ông. Và năm nay 2004, phim “Xuân, Hạ, Thu, Đông.. rồi Xuân” – là một bài thơ tuyệt tác, một bản kinh Bát Nhã Ba-la-mật. Đi Vào Nội Dung Phim: --Xuân Một ngôi chùa nhỏ nổi lên giữa mặt hồ rộng, cách chừng 100 thước có cổng chùa vẻ hai vị Hộ pháp đứng hai bên cánh cửa. Chung quanh rừng cây thâm u. Mùa Xuân về cây cối xanh tươi, mặt hồ lăn tăn gợn sóng. Bầu trời trong, nắng nhẹ. Đêm xuống, những ngọn đèn cầy trong chùa thắp sáng, nhìn từ xa như một viên kim cương khổng lồ giữa đêm rừng u tịch. Có hai thầy trò, sáng tối cùng nhau kinh kệ. Có hôm cả hai cùng chèo thuyền nan lên rừng hái dược thảo đem về làm thuốc chữa bệnh cho chúng sinh. Trong những giây phút nhìn Sư chèo thuyền, lòng chú tiểu tràn ngập yêu thương… Ngoài việc học Sư tụng kinh, gõ mõ, tiểu còn học Sư về cách chèo thuyền, biết nhận dạng những cọng lá dược thảo nào là tốt nên giữ, lá xấu bỏ đi. ......................... --Nhân chi sơ tánh bản thiện ? Ở lứa tuổi lên bảy, lên tám, tiểu thể hiện bản năng của một đứa bé thích vui đùa, ngỗ nghịch. Do vậy, tiểu có thể làm việc “ác” vô tư lự như bắt cá rồi dùng sợi dây cột cục đá nhỏ quấn vào mình cá, xong thả xuống dòng suối bắt cá lội. Bắt con ếch, làm tương tự rồi thả xuống nước bắt ếch bơi. Bắt rắn quấn vào đầu sợi dây cột đá, bắt rắn bò. Nhìn những con vật khốn khổ này cố bơi, cố chống chọi với dòng nước, cố trườn mình tới, tiểu cười thỏa thích. Sư Ông bắt gặp, đứng nhìn trộm vài phút rồi lắc đầu bỏ đi. Tối đến, tiểu ngủ say. Sư Ông dùng dây cột quanh mình chú tiểu với một phiến đá to cỡ bằng cái đầu chú. Sáng ra, tiểu thức giấc đứng dậy bước ra sân trong sự khó khăn, xiêu vẹo rồi ngã nhào xuống sàn. Thấy vậy, Sư Ông hỏi chú tiểu : “Con khổ sở vì cục đá quấn vào thân lắm phải không?” “Dạ Bạch thầy, có” Chú tiểu đáp. “Vậy con đã làm tương tự cho rắn, cá, và ếch phải không?” “Bạch thầy, phải ạ” “Con thử đứng dậy rồi bước đi xem sao!” Với phiến đá còn đè nặng trên lưng, tiểu đứng dậy loạng quạng vài bước rồi ngã nhào lần nữa. “Con không thể đi được Sư Ông à” Chú tiểu nhăn nhó nói. “Như thế những con vật mà con hành hạ, làm sao chúng chịu thấu hỡ con?” Sư Ông nói. “Bạch thầy, con đã làm việc sai trái” “Vậy thì con phải đi tìm những con vật kia để tháo dây cho chúng, xong rồi ta sẽ tháo dây cho con. Nhưng nếu có con vật nào bị chết, con sẽ mang nặng cục đá vào TÂM con suốt đời” Sư Ông truyền lệnh. Chú tiểu vâng lời, với phiến đá cột sau lưng vất vả trở lại chỗ ngày hôm qua đã đùa nghịch. Tìm thấy cá, cá đã chết. Tìm thấy ếch, may thay nhờ bản năng thích ứng môi trường sống của nó, ếch còn sống. Ếch được tháo gỡ dây, phóng mình vượt theo dòng suối. Nhưng con rắn không đủ sức trườn mình lên phía trước, rắn bị dập dầu vào các mũi đá nhọn, máu me lênh láng, nằm chết. Thấy rắn chết, chú tiểu nức nỡ khóc trong cảm xúc của một đứa bé. Vậy là, trong bản năng của đứa bé -ngoài mặt ác vô tư lự, tiểu còn mang tính thiện. Thiện/ Ác là hai mặt đã đeo đẳng trong con người, từ lúc ý thức chưa được phát triển. --Hạ Rồi bao mùa Xuân đi qua, mùa Hạ đến. Chú tiểu đã trở thành một thiếu niên. Ở vào lứa tuổi 17 dậy thì, một hôm vào rừng hái thảo dược, tình cờ tiểu chứng kiến hai con rắn trong hốc đá đang quấn quít làm tình. Một phát hiện mới của tiểu ở cõi trần gian này: có đực thì có cái, có dương thì có âm. Âm Dương giao hòa. .......................... --Nhân duyên trùng ngộ ! Một sáng mùa Hạ, chú tiểu chào đón người mẹ dẫn theo con gái đến chùa nhờ Sư chữa trị cho chứng bệnh “trầm uất” (“spriritual ill” –là thứ bệnh thời đại : ‘depression/ anxiety v.v…’). Đưa tay đỡ cô gái xuống thuyền, chú chợt bàng hoàng với lần đầu tiếp cận bất ngờ giữa âm dương, một sóng điện cảm len vào da thịt. Giữa chốn cô liêu tĩnh mịch ấy, âm và dương thu hút nhau như một quy luật tự nhiên của trời đất. Chiếc cầu thời gian nối hai miền cảm xúc; chú tiểu và cô gái chia xẻ những cảm nhận mới về nụ cười và sự âu yếm lạ. Như một buổi, cô gái ngồi tư lự nhìn xuống mặt hồ dưới cơn mưa phơ phất, chú tiểu mang nón tre đứng che đầu cho tóc cô khỏi ướt. Rồi có hôm vô tình, chú mở cửa phòng ngỡ ngàng nhìn cô gái đang thay áo với chiếc lưng trần. Chú sững sờ trong vài giây, khẽ đóng vội cánh cửa lại. Một buổi khác, cô gái đến quỳ lễ Phật nơi chánh điện. Lễ xong, cô buồn ngủ, ngã xuống chiếu ngủ vô tư như nàng Bạch Tuyết nằm ngủ quên giữa rừng xanh. Chú tiểu bất ngờ hiện đến. Sợ cô gái nhiễm lạnh, chú lấy chăn đắp lên người nàng. Bất giác, chú cúi xuống nhìn ngắm khuôn mặt khả ái, dịu hiền của cô. Lòng chú rạo rực, sai khiến hai bàn tay thò vào cái vú nhô nhô mời gọi. Cô gái chợt thức giấc, tát cho chú một cái nên thân. Chú hoảng lên, hồn xiêu phách tán, chạy vội lên phía trước chánh điện, chấp tay khấn vái ăn năn. Cô gái như động lòng với sự hoảng sợ của chú, để nhẹ bàn tay lên vai chú như thầm tha thứ. Ngày lại ngày, tình cảm giữa chú tiểu và cô gái nảy sinh tự nhiên như chiếc nụ đến lúc nở hoa, như cái bào thai tới ngày phải đập bầu. Có dịp, chú mời cô gái cùng chèo thuyền trên hồ, lội xuống suối tung tăng bắt cá. Nước ướt đẫm thịt da mơn trớn… Và, giữa trời đất bao la, da thịt dính chặt vào nhau đến bốc hơi. Như hai con vịt kêu cạp cạp trên mặt hồ bên gốc cây Phong, như hai con rắn quấn quyện vào nhau bên hốc đá. Có lẽ đây là một trong vài cảnh làm cuốn phim được xếp vào loại R (cấm trẻ em dưới tuổi vị thành niên). Nhưng, cảnh làm tình được quây từ xa, đạo diễn không khai thác kỹ thuật “cận ảnh” (gross plan) làm tình như phim Tây phương. Đó là một bài thơ về cảnh làm tình, một án triết văn về “hiện tượng luận của da thịt”. Thế rồi, bệnh tình của cô gái dường như thuyên giảm. Một sáng trời trong xanh, Sư Ông ngồi trước hiên chùa bốc từng hạt đậu cho con gà trống ăn. Bên cạnh, chú tiểu đùa nghịch bắt con châu chấu để trên vai cô gái, làm cô la hoảng. Hai trẻ đuổi bắt nhau quanh hòn non bộ. Nhìn đôi bạn trẻ đùa giỡn với nhau, Sư Ông nở nụ cười độ lượng. Và, lạ lắm. Với thảo dược của Sư, với âm dương hòa khí, cô gái đã hoàn toàn bình phục. Sức sống của đôi trẻ chợt bùng lên. Tình ơi réo gọi, phút giây không rời. Đạo diễn lại cho đôi trẻ làm tình thêm lần nữa, trên chiếc thuyền nan. Lần này Sư Ông bắt gặp đôi trẻ với chiếc áo choàng hờ lên người, ôm nhau ngủ say sau cuộc mây mưa. Bằng một trừng phạt “đáng yêu”, Sư Ông “tinh nghịch” kéo dây cho thuyền vào sát rồi rút lỗ mối cho nước tràn vào thuyền để đánh thức đôi trẻ. Nước tràn vào thuyền thấm lưng ướt lạnh, chú tiểu và cô gái thức giấc, hoảng lên… Chú vào chánh điện tìm Sư tạ lỗi. “Con đã làm sai, xin Ông tha cho con.” Quỳ xuống cạnh Sư, chú tiểu ngập ngừng van xin thầy tha thứ. Sư đang điềm nhiên tọa thiền niệm chú, cất tiếng : “Đó chỉ là chuyện bình thường trong nhiên giới” Rồi quay qua cô gái, Sư hỏi: “Con đã hết bệnh ?” Cô gái trả lời bằng cái cúi đầu, im lặng trong e thẹn. “Thế là bệnh con đã trúng thuốc. Con có thể rời khỏi nơi đây được rồi đó.” Sư Ông lại răn dạy thêm chú tiểu: “Ái dục đánh thức khát vọng chiếm hữu, và đồng thời nó cũng khởi vọng đưa tới việc ác”. Hôm sau, cô gái vâng lời Sư, đành từ biệt chùa, Sư Ông, chú tiểu với những giây phút nồng nàn say đắm bên nhau. Âm và dương từ đây cách biệt. Nhưng, chú tiểu ở lại trong quay quắt. Quỳ lạy trước tượng Phật, nhưng tâm chú cứ vướng vất đến người yêu, chú tiểu nức nỡ khóc như cái khóc ngày chú thấy con rắn nằm chết vì sự tinh nghịch của chú. Nhớ thương thôi thúc chú trốn thầy, bỏ chùa, gói tượng Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni Buddha) đeo lên vai, cất bước lên đường. Đang ngủ Sư thức giấc, biết việc đệ tử đang làm, nhưng thản nhiên không cản ngăn. --Thu Mấy mùa Hạ trôi qua, mùa Thu đến. Lá cây Phong đỏ ối trên mặt hồ gợn sóng. Đệ tử và cũng là người bạn của Sư bây giờ là con mèo trắng, đi về có nhau. Một hôm với chú mèo trắng từ rừng về, bụng đói Sư lấy cơm vắt được gói gọn gàng trong tờ nhật trình cũ ra ăn. Vừa ăn, Sư vừa liếc mắt đọc một bản tin án mạng vừa xảy ra. Một người đàn ông 30 tuổi giết vợ phụ tình rồi trốn thóat. Sư Ông bâng khuâng, ngẫng mặt nhìn trời đăm chiêu. Có mối liên hệ nào chăng giữa người đệ tử của Sư với vụ án mạng này? Thế rồi vào một ngày trời Thu, một thanh niên xuất hiện trước cổng chùa. Sư Ông chèo thuyền nan ra đón vào, mới nhận ra là người đệ tử năm xưa của mình. Giờ đây chàng là một đấng mày râu trong lứa tuổi ba mươi chững chạc. Sư hỏi thăm sự tình của đệ tử trong thời gian qua có gì vui không, không dè động tới niềm khổ đau, uất hận vẫn còn đầy tràn trong tim anh ta. “Xin thầy hãy để cho con yên, con đang đau khổ lắm thầy biết không ? Tội lỗi của con là chỉ vì yêu. Con không muốn gì cả trên đời này, ngoài nàng. Nhưng nàng đã bỏ con đi theo người đàn ông khác, làm sao con chịu nỗi chứ !” Đệ tử ta thán. “Vậy là con không biết gì về nam giới trong cõi ta bà này sao ? Đôi khi, ta phải biết từ bỏ một điều gì đó. Những gì con yêu thương ham muốn, kẻ khác cũng có lòng tương tự.” Sư ôn tồn nói. Nhưng nỗi uất hận cứ dính chặt vào người thanh niên, tuôn tràn ra lời nói. Tình còn đâu nữa mà thù đấy thôi ! Trong phút giây nào đó, lòng cậu chợt dịu lại, mở tấm vải lấy tượng Phật ngày xưa, đặt tượng vào vị trí cũ. Vậy mà cơn hận vẫn như hỏa diệm sơn phụt lửa. Màu đỏ vấy máu người yêu hằn trên con dao găm vẫn chưa phai. Hận rồi thù, thù lại hận. Giết người yêu rồi nhưng nỗi hận vẫn chưa nguôi, bởi tình dâng cao trong tim, không chịu cạn. Đêm về, đôi mắt cậu ráo hoảnh. Sáng dậy, cậu vật vã điên cuồng với suối sông. Cậu muốn tự hủy đời mình. Sư Ông biết được, dùng roi quất cho cậu một trận nên thân. Cậu lại khóc, dằn vặt, khổ đau. Trong phút giây xuất kỳ bất ý, cậu dùng con dao giết vợ, tự cắt tóc mình. Lòng nguyện nương tựa Phật. Ngoài sân, Sư lấy bột con sò pha mực Tàu rồi cầm đuôi con mèo trắng chấm mực, viết lên sân gỗ bài kinh Bát Nhã Ba-la-mật. Viết xong, Sư bảo đệ tử: “Con có thể giết người dễ dàng, nhưng tự giết con rất khó. Con hãy nghe ta lấy dao khắc từng chữ cho hết bài kinh này và hãy xả cơn giận theo từng chữ khắc xong.” Cậu vâng lời Sư. Cậu khắc được một phần năm bài kinh, là lúc hai cảnh sát hình sự lù lù xuất hiện trước chùa. Họ đi lùng bắt phạm nhân. “Bỏ con dao xuống không chúng tôi bắn.” Chĩa mũi súng vào cậu, cả hai ông cảnh sát cùng la lên. Phạm nhân và cảnh sát gầm gừ nhau. Bên dao găm lăm le, bên hai mũi súng chực chờ nhã đạn. “Con đang làm gì vậy? Hãy ngồi xuống tiếp tục khắc bài kinh đi.” Sư đưa mắt về phía đệ tử, lớn tiếng. Trong vài giây cậu trấn tỉnh, nghe lời Sư quỳ gối xuống sàn khắc tiếp. Quay qua hai người cảnh sát, Sư giải thích: “Đây là bài kinh Bát Nhã Ba-la-mật, giúp tái lập sự an bình trong tâm kẻ khổ đau.” “Thế chừng nào mới xong ?” Cảnh sát hỏi. “Sáng hôm sau là xong.” Sư đáp. Có lẽ nào hai ông cảnh sát cũng biết đến sự tinh diệu của bài kinh Bát Nhã? Họ nhìn nhau rồi đồng lòng để cho phạm nhân được khắc tiếp. Phạm nhân khắc đến tối khuya, đổ mồ hôi trán. Một ông cảnh sát thấy thế động tâm, ngồi bên cạnh cầm hộ đèn cầy soi cho phạm nhân được nhìn rõ. Cậu ta càng khắc càng say mê. Mệt nhoài, cậu nằm lăn ra ngủ. Ông cảnh sát ngủ thiếp một hồi, giật mình thức giấc nhìn phạm nhân ngủ thiếp dưới trời sương lạnh lại động lòng, cởi chiếc áo ấm của mình khóac lên người phạm nhân. Tình người thắm thiết quá, không còn tâm phân biệt thường nhân/ phạm nhân, tốt/ xấu, không còn biên giới giữa bờ Thiện/ Ác nữa. Sáng ra, thấy đệ tử đã khắc xong bài kinh, Sư lại lấy bột con sò pha mực làm năm màu khác nhau. Hai ông cảnh sát lại tích cực tham gia giúp Sư sơn màu lên chữ, biến thành bài kinh ngũ sắc. Phạm nhân thức giấc, thời khắc lên đường đã điểm. Cậu chắp tay bái tạ thầy rồi cùng hai người cảnh sát lên đường thụ lý. Sư đứng nhìn bâng khuâng, dõi theo trong sương mờ cho đến lúc ba người khuất bóng. Cảnh cửa chùa từ từ khép lại, khuất sau những chùm lá cây Phong vàng đỏ ối. Những mùa Thu kế trôi qua… Sức khỏe của Sư Ông cũng bắt đầu tàn tạ. Sư cảm nhận ngày ra đi của mình đã tới nơi. Sư chuẩn bị cho mình một lễ tự thủy-hỏa-táng trên sông. Chất củi theo vòng tròn làm thành đụn cao giữa thuyền. Sư tháo lỗ mối cho nước từ từ tràn vào. Sư viết chữ “Không” trên ba miếng giấy, xong bịt kín mắt, tai, mũi miệng. Sư bước lên ngồi trên đụn củi, tự châm lửa đốt bùng cháy lên. Thuyền chìm dần xuống hồ, Sư trở về với cái KHÔNG. --Đông Mùa Đông đến, tuyết rơi phủ trắng ngôi chùa, rừng cây. Nước hồ đóng băng. Trời đất một màu trắng xóa. Một ông trung niên xuất hiện, cất từng bước chân, mắt dõi về ngôi chùa nhỏ. Chú tiểu của thuở xa xưa, phạm nhân của hơn mười năm trước trở về. Trông thấy chiếc thuyền nan ngày xưa phủ ngập tuyết, ông chấp tay vái lạy; xong dùng búa đập vỡ băng, khoét một lỗ tròn ngay chỗ Sư Ông ngồi hỏa táng, ông tìm thấy mấy viên ngọc Xá-lợi. Mở cửa đi vào chánh điện, ông thấy y tràng, đôi dày của Sư Ông xếp gọn gàng trên nền nhà, một con rắn quấn tròn nằm yên trên đó. Trong phân đoạn, rắn xuất hiện nhiều lần, có khi nằm trên bàn thờ Phật. Rắn (naga) trong huyền thoại của Ấn Độ giáo là một linh vật, biểu hiện sức mạnh và sự che chở. Ngày xưa lúc Đức Phật ngồi thiền định cũng có chín con rắn hổ mang làm thành chiếc dù bảo vệ cho Đức Phật. Tìm lại cuốn sách võ đã úa màu với ngày tháng, ông ra đứng giữa trời tuyết luyện tập võ công. Image Giữa lúc băng tuyết đang chuẩn bị tan dần, một thiếu phụ quấn khăn kín đầu và mặt, bế trên tay đứa con nhỏ đến chùa. Bà đến lễ Phật, rồi khóc nức nỡ trước khi để đứa con lại cho chùa. Bà lặng lẽ ra đi… Con ai đem bỏ chùa này, Nam Mô Di Phật con thầy, thầy nuôi. Như muốn trả lại nghiệp quả ngày xưa với con rắn, ông cột một tảng đá nặng vào thân, vác tượng Phật Quán Thế Âm (Avaloketeshvara) cố vượt lên đỉnh đồi trong sự khó nhọc, xong tọa vị Phật ngồi trên cao nhìn xuống thế gian, xuống ngôi chùa nhỏ lênh đênh giữa mặt hồ… …rồi Xuân lại đến, hoa đào màu hồng tía nở rộ. Cảnh đẹp như một bài thơ. Giờ đây ông đã nghiễm nhiên trở thành một Sư Ông mới. Đứa con bỏ rơi cho chùa lớn lên làm chú tiểu. Bốn mùa xuân hạ thu đông tiếp diễn như một chu kỳ của vạn vật. Sư Ông và chú tiểu lại gánh vác một duyên nghiệp mới… Kết Thú thật trong lúc xem cho đến lúc hết cuốn phim, tôi đi từ những xúc động này đến kinh ngạc khác. Trong một thời gian dài hầu như không theo dõi những tiến bộ kỹ thuật và nghệ thuật của điện ảnh Á châu nói chung, tôi không ngờ Hàn Quốc đã có đạo diễn thực hiện được một tuyệt tác như thế này. Đúng ra, tôi có biết Trung Hoa (Hồng Kông, Đài Loan, lục địa) đã có những bước tiến rất xa về điện ảnh; riêng Hàn quốc tôi vẫn còn mang một mối hoài nghi. Nhờ qua cuốn phim, tìm hiểu thêm mới biết Kim Ki-Duk đã là một đạo diễn lừng danh trong gần thập niên qua. Thuở nhỏ, ông Kim được huấn luyện trong môi trường giáo dục Ki-tô giáo, ông đã cảm nhận ra đó là một nền giáo dục nhồi sọ, tẩy não tuổi trẻ bằng hy vọng và hứa hẹn vào sự cứu rỗi viễn mơ. Nhưng với ý lực, ông đã thoát ra được tinh thần Ki-tô giáo. “Springs, Summer…” là một cuốn phim đạt cả hai bình diện: nghệ thuật và xiển dương Phật pháp. Về nghệ thuật, đây là bài thơ tuyệt vời kèm trong kỹ thuật “cận ảnh” (‘gross plan’), để diễn ý thay lời. Tài tử diễn xuất nhiều hơn đối thoại. Về “pháp” - như nội dung trong năm phân đoạn đã ghi lại ở trên, không đơn giản là đạo diễn chỉ muốn nói về sự cám dỗ, sa lầy của con người về “ái dục”. Dù trong một cuộc phỏng vấn của ai đó, Kim Ki-Duk đã trả lời khiêm tốn rằng, “Tôi chỉ muốn mô tả sự hỷ nộ ái ố trong cuộc sống của chúng ta qua bốn mùa, và qua cuộc đời của một nhà sư trong ngôi chùa ở Hồ Pusan vây bọc bởi thiên nhiên” , cuốn phim còn chất chứa sự mênh mông và huyền diệu theo với bài kinh Bát Nhã Ba-la-mật (Prajanaparamita Sutra). Nhưng hiểu Pháp thế nào qua một cuốn phim là sự tùy thuộc vào trí huệ, duyên ngộ Pháp của mỗi cá thể.
Bài Review về " Xuân, Hạ, Thu, Đông " rất hay, phim em đã xem hồi năm trước, cảm thấy rất tuyệt và lạ, nhưng có nhiều " ý tưởng " mang tính Phật Học chưa thể hiểu được, lấy cảnh gợi ý, lấy ý gợi tình đang xen nhau theo nhịp điệu phim tuy đơn giản nhưng cái ý của con người thì phức tạp vô cùng. Nay đọc bài này thì phần nào cũng hiều cái Tứ của bộ phim, Thành thật cảm ơn Bác ... Bộ phim với góc độ máy và cảnh thiên nhiên đẹp như tranh, là một yếu tố cho những ai say mê nhiếp ảnh và hội họa không thể bỏ qua.
Phim này mình cũng đã xem rồi, nhưng đọc bài bình mới sáng ra nhiều ý mà mình không hiểu nổi trong thuyết nhà Phật. Ngạc nhiên vô cùng, bao trùm không khí Thần học phương Đông trong film lại do một ngừơi xuất thân từ Kito giáo tạo nên. Một lần nữa cám ơn người post bài.
Vâng, cám ơn các bác! Em xem phim này đến hai ba lần và tuyên truyền nó cũng không ít hơn chục người bạn! Em rất thích cái chất "Thiền ở trong phim, từ những chi tiết nhỏ nhất: Cái cổng vào chùa thì có nhưng tường bao quanh chùa thì không hề có; phòng ngủ của sư ông và cậu bé cũng có cửa ra vào nhưng không hề có tường ngăn... Và cũng đúng là chỉ đến khi đọc bài Review trên em mới biết Sư ông dán chữ "Không" lên mắt và mồm (em mù chữ Hán mà) lại càng thấy chất Thiền của phim: "Sắc sắc không không".... Thực sự bộ phim này làm em ngạc nhiên với điện ảnh Hàn Quốc (từ trước đến nay vẫn bị em coi thường vì mấy bộ phim truyền hình). P/S: Em xin lỗi các bác vì quên ghi nguồn của bài Review trên: http://www.quangduc.com.
Xem phim này mình thấy một góc nhìn khác : - Nhân tri sơ tính bản ác ! - Phật pháp giúp giải thoát mà không cải thiện được hiện tại . - Thể hiện và chứng minh thuyết luân hồi của Phật giáo một cách xuất sắc ! - Không khí chung trong phim tù đọng, không lối thoát .
Cái bức tường vô hình trong phòng có ý nghĩa biểu tượng, như là sự kiềm chế đạo đức. Khi chàng trai không giữ vững được tinh thần, đi qua cánh cửa ấy chính là tự vượt qua giới hạn và kiếm chế đến với cô gái, tai họa theo đó xảy ra. Phim này là phim nổi tiếng nhất của Kim Ki Duk, ông này còn nhiều phim nữa cũng rất hay, mang tính Thiền còn có 3-Iron, ngoài ra còn có Address Unknown, Samaritan Girl, Bad Guy, The Isle
Fim này em có nói đến trong topic về list các phim. Nhận xét của em: Hình ảnh cực đẹp Triết lý sâu sắc nhưng hơi cũ (đạo phật với khái niệm thời gian luân hồi, thuyết nhân quả --ví dụ như khi cậu bé giết chết con ếch, rắn..) Diễn viên thì hot, cảnh quay cũng thế. Nhiều cảnh quay đáng học tập như các bác đã nói ở trên, hình tượng ngôi chùa giữa hồ nước, biển băng, cánh cửa ngăn cách và khôgn ngăn cách Em đánh giá: 7 1/2 out of 10
Nghe lời bình thì phim này quá hay. Thật may là giờ mình đã biết. Phải tìm xem ngay phim này thôi. Cám ơn bác chủ thread đã post nhé !
Đọc nội dung và lời bình của bác chủ topic hay quá! Quả thật triết lý nhà Phật luôn luôn gợi lại trong sâu thẳm con người tính hướng thiện vô bờ. Quy luật của tạo hóa thật công bằng “con người sinh ra từ cát bụi cũng sẽ trở về với cát bụi”, bởi vậy mà con người dù đã là con nhà Phật hay một người bình thường vẫn không thoát khỏi kiếp sống trần tục của con người…. Phải nói đây là một bộ phim rất hay, nội dung cốt truyệt thật sâu sắc, triết lý cao siêu của nhà Phật, rất thực…. Hình ảnh sử dụng trong phim được xây dựng rất đẹp, giàu ý tưởng sáng tạo…hình ảnh mặt hồ phẳng lặng tĩnh mịch như bức tranh thủy mạc….
Phim xem hay, thấy hơi xót xa, có cảm giác buồn buồn, cô đơn. Thấy phận người như đốm lửa đang luôn mãi tìm kiếm một tín hiệu của con người trong cõi hoang mạc bao la. Trước thì chẳng thấy ai Sau cũng chẳng bóng người Đứng giữa khoảng đất trời Lệ tuôn rơi lã chã. Vẫn giữ dĩa phim kỷ niệm này của Mod Trần Mẫn tặng ngày xưa. Chờ xong nhà mới, chiếu lên màn ảnh rộng, xem mình cô đơn và buồn đến cỡ nào!
Dạ vâng anh, ai cũng cô đơn, và trốn tránh sự cô đơn hay nỗi niềm dưới một việc làm gì đó. Trong phim, cũng phảng phất điều này. Con người luôn mãi tìm kiếm một điều gì, dường như không có thật.
Cuối cùng chỉ xoay quanh các cụm từ DUYÊN-NGHIỆP , NHÂN-QUẢ mà thôi !!! Chuyện chú tiểu và cô gái cũng không nằm ra ngoài DUYÊN-NGHIỆP , NHÂN-QUẢ, đáng lẽ chú tiểu (vì người đã xuất gia) có thể cắt đứt nghịch duyên tiền kiếp với cô gái, nhưng vì nợ nần nhau quá nặng, nên nghiệp kéo đến, tạo cảnh gặp nhau giữa sông nước, đúng lúc dòng máu nóng (hóc môn) đang sục sôi trong huyết quản hai người, sau nữa là chú tiểu không đủ trí tuệ để hiểu rằng đây là thử thách trên đường tu, vì vậy DUYÊN-NGHIỆP trước kia một lần nữa trở thành NHÂN tạo nên hàng loạt QUẢ trong tương lai.
...thực tại đơn giản biết bao... làm ta thất vọng.. Trước thì chẳng thấy người Sau cũng chẳng tỏ ta Giờ trong lòng thực tại Hoa nở ngát mấy mùa....
Thú thật là lần đầu đọc đúng 3 dòng giới thiệu phim là em "phắn" ngay vì em sợ nhất là chưa xem phim mà đã biết tường tận nội dung,nhưng dù sao phim này làm cũng tương đối lâu rồi (2003) nên có thể "thông cảm" được . Thế nhưng đêm nay sau khi xem xong,thì cảm thấy phải lên đây chia sẻ với bác 1 lời cảm ơn chân thành,vì nhờ bác mà em biết tới 1 bộ phim rất hay và sâu sắc. Phim làm rất thanh đạm,hình ảnh và âm nhạc,lời thoại rất tiết chế và đẹp 1 cách vô cùng giản dị,tình tiết được chọn lọc kỹ càng. @bác Tai : Em chưa biết Phim nào có triết lí đạo Phật sâu sắc và mới hơn phim này,bác giới thiệu giúp em được không? :wink: @chị BV : Liệu cái cảm giác man mác cô đơn của chị nó có bao trùm hầu hết các phim buồn buồn mà chị đã xem không chị ? Vì em thấy ở phim này,sự cô đơn không phải yếu tố được đào sâu,dẫu rằng hình ảnh và âm nhạc của phim có vẻ rất "cô đơn". @các bác : Em thấy có mấy chi tiết để bình loạn (khuyến nghị với các bác đã xem nhá) thêm 1 chút cho phim này cũng rất hay,các bác thử cho ý kiến nhé 1.Hình ảnh của các viên đá đầu phim và cuối phim có những ý nghĩa gì? 2.Tại sao cụ sư lại mang 1 con mèo về nuôi chứ không phải là con khác? Vì em théc méc là con mèo đấy nó sẽ sống bằng gì? 3.Ngoài triết lí nhân-quả,duyên-nghiệp ra,trong phim còn triết lí nào đáng để phân tích nữa không các bác ? (Từ ngày topic Tâm linh...bị lock,chưa thấy topic ngẫm nghĩ nào xôm xôm để anh em vào chém gió :lol: ) P.s: Em xem xong mà cứ nghĩ,các bác làm điện ảnh nhà mình đôi khi cũng hay tự bao biện,rằng chúng ta còn nghèo,còn thế lọ thế chai nên chưa làm được phim hay. Em nghĩ không phải thế. Nhưng thôi,chủ đề này trên báo nước ta "cưỡi" nhau mãi rồi,em chẳng nói nữa.
@bác Tai : Em chưa biết Phim nào có triết lí đạo Phật sâu sắc và mới hơn phim này,bác giới thiệu giúp em được không? :wink: Để bác Rô trả lời giúp... Xin giới thiệu với bác Méo bộ phim "The Life of an Accidental Architect" :mrgreen: Cuộc sống chính là bộ phim có triết lý đạo Phật sâu sắc hơn bộ phim Spring... này :mrgreen:
:lol: The Life of mankind bản thân nó đã là Accident của tạo hóa rồi,bác lại thêm cái đuôi Architect vào là khiến nhiều bác sẽ thấy ưu tư lắm đấy! Bác lâu lắm rồi mới lại mò vào đây nhỉ? Cho tí cảm nhận đi bác ? :lol:
Re: Hoàn toàn đồng cảm với bác về bộ phim Xuân, hạ, thu đông rồi.. xuân. Thật sự ngạc nhiên với chất Thiền trong từng khuôn hình của phim.
Re: Re: Có điều em chưa hiểu, nếu bộ phim có nội dung đề cập đến thiền hay Phật pháp, có nhất thiết phải đưa câu chuyện tình yêu và hơi thở của sếch vào không...? Nếu không thì sao...
Re: Re: Có chứ bác, rất nên là đằng khác, trong kinh Phật có câu: "Phật pháp bất ly thế gian giác", tức là giáo lý nhà Phật không rời tất cả các diễn biến trong đời sống thế gian, giáo lý nhà Phật dạy để thoát khổ, dùng trí tuệ để tránh những cám dỗ ngoài đời và nhờ đó tránh được các vụ nhức đầu (khổ - theo cách gọi của nhà Phật), vì sao gọi là dùng trí tuệ để tránh (thoát) cám dỗ và khổ, đó là khi ta hiểu rõ bản chất của duyên nghiệp, nhân - quả (vay - trả). Ví dụ: Bác có gia đình, vợ con đầm ấm, tuy nhiên tình cờ ở công ty bác gặp một em mà 2 người thích nhau ngay từ lần gặp đầu tiên và đôi bên không cưỡng lại được :lol: , những tình cảm kiểu như vậy là có dấu ấn rất đậm nét của duyên và nghiệp, dẫn đến việc suốt ngày chat chit nhắn tin....Bác đứng trước lựa chọn, hoặc bỏ ngay gia đình vợ con để đi theo tiếng gọi trái tim, hoặc tiếp tục sống nhưng suốt ngày chat chit sms để cho đến đâu hay đến đấy, hoặc từ chối tình cảm có thể gây rắc rỗi cho bác và rất nhiều người để tập trung cho gia đình vợ con... Tùy hoàn cảnh cụ thể mà người trong cuộc cần suy xét để tìm ra lời giải thích hợp nhất, ít gây đau khổ cho mọi người nhất. Khi Thiền định thì con người thường sáng suốt hơn, trong trường hợp của phim thì chú tiểu (nay đã là một thanh niên) cần hiểu rõ rằng chú đã là người xuất gia, chỉ một phút mê lầm với cô bé kia là công phu tu tập đổ xuống sông xuống bể hết, vì khi mê hay ham hay thèm là đã mất Định, Định không có thì Huệ cũng không có nốt vì vậy nên mới làm bậy, sau nữa là XXX trong chùa là báng bổ nghiêm trọng đến Phật pháp, mà trong dân gian thường nói sư báng bổ Pháp thì sẽ bị các chư Hộ pháp đuổi thẳng cổ ra khỏi chùa. @muoimeo-2005: Theo em, với bề ngoài là thuyết Nhân-Quả, Duyên-Nghiệp, sâu xa trong phim đề cập đến tư tưởng Bát Nhã "Sắc tức thị không, không tức thị sắc" và "Chân Không - Diệu Hữu". Xem phim, ta thấy sư ông bình lặng sống hàng chục năm, cuộc sống không lấy gì làm đầy đủ, nhưng vẫn sống, vẫn bình thản tu hành, hàng ngày bơi thuyền ra vào, kiên nhẫn, tĩnh lặng, duyên đến thì nhận người, hết duyên thì đuổi học trò...nhưng qua đó là sự thiền định hết sức sâu xa, nói theo kinh là "hành thâm Bát Nhã Ba la mật".
Re: Re: Nếu không,tất cả chỉ là sách vở.Cũng như chỉ xem phim này mà ngộ ra cái gì,cũng là sách vở :wink: Em nghĩ bác Audion nói cũng đầy đủ cả,duy chỉ có mấy cái từ màu đỏ ở trên thì em còn muốn bình loạn thêm 1 chút. - Trong phim,chàng thanh niên khi đã mê cô gái,ở thời điểm đó,anh không thể "cần phải hiểu" rằng điều đó sẽ là nghiệp gây quả rất lớn,bởi anh đang nằm trong cái mê đó rồi.Từ "cần phải hiểu" này chỉ là bác Audion nói với chàng trai mà thôi,và em dàm chắc,sư ông cũng dạy dỗ bằng lời cả rồi. Với 1 bậc đắc đạo chân tu như sư ông,thì chắc chắn ông cũng hiểu,mầm mống "gây họa" đó cũng chính là cái duyên để đưa chàng trai đến với sự đắc đạo sau này.Nhưng tại sao ông biết mà ông không cản ? Bởi vì ông hiểu,đó chưa phải là thời điểm để ông can thiệp,và ông hiểu rằng chàng phải còn phải trải qua tất cả : từ những giây phút đam mê nhục dục cho tới những phẫn nộ tột cùng,trải qua những tội ác man rợ cho tới những những dằn vặt tột độ,để rồi từ đó mới ngộ ra con đường đi tới chân tu thực sự là gì và như thế nào. Đó không chỉ là con đường dùng lí trí để vượt qua thử thách,mà còn là con đường phải trải nghiệm qua tất cả mọi cảm xúc sâu kín và chân thực nhất của 1 con người. - Sư ông không hề đuổi học trò bác ạ. Chắc bác xem chưa để ý kỹ chăng? - Bác nói tới tư tưởng Bát nhã "Sắc tức thị không,không tức thị sắc" và "Chân không-Diệu Hữu".Thú thật với em,tìm hiểu về Phật giáo còn ở trình độ ABC,em không rõ lắm.Bác có thể phân tích thêm qua những chi tiết hay tình tiết trong phim để em học hỏi thêm đựoc không bác?