★ AudioNga ★ Nơi chia sẻ đam mê về audio ★

Discussion in 'VNAV Shop - Showrooms' started by AudioNga, 11/1/17.

  1. AudioNga

    AudioNga Shop

    Joined:
    13/6/11
    Messages:
    222
    Likes Received:
    228
    Location:
    Phương Mai, Hà Nội
    Nơi giao lưu chia sẻ kiến thức về audio và tạp nham khác

    Kính chào các bác,

    Thỉnh thoảng, khi có thời gian, em sẽ post một bài để chia sẻ những gì mà em nghĩ là có thể giúp ích cho anh em. Thông tin trong mỗi bài về cơ bản là tương đối hoàn chỉnh nhưng thỉnh thoảng có thể sẽ được chỉnh sửa để hoàn thiện thêm. Nội dung bài viết là kiến thức và cảm nhận của cá nhân em nên có thể không chuẩn xác và khách quan 100%. Nếu bác nào thấy có điểm chưa chuẩn hoặc cần bổ xung thì pm cho em để em cân nhắc việc gá thêm vào. Khi đó, đoạn các bác viết sẽ được ghi rõ tác giả để tri ân người viết về tình và ko vi phạm bản quyền về lý :)

    Trân trọng.
     
    Last edited: 8/6/25 at 14:32
    Tags:
    niubai68 likes this.
  2. AudioNga

    AudioNga Shop

    Joined:
    13/6/11
    Messages:
    222
    Likes Received:
    228
    Location:
    Phương Mai, Hà Nội
    [1]

    Đôi điều chia sẻ về dụng cụ cơ khí tại thị trường Nhật Bản
    Bài viết này có thể giúp ích đôi chút cho bác nào quan tâm

    Tuy nghiên cứu và làm việc trong ngành Điện tử nhưng một (trong những) đam mê lớn khác của em là cơ khí. Đã mê thì thường xuyên phải được phê nên đi đâu, ở đâu em cũng lọ mọ ngóc ngách. Và tất nhiên là sống ở thiên đường công nghệ như Nhật thì chuyện em bị phát cuồng vì kim loại là điều khó tránh. Sau một thời gian ngập ngụa trong sắt thép, Việt Hùng Đào em cũng đỡ mê nguội để share một số kinh nghiệm cũng như nhận định (mang tính cá nhân) cho bạn bè ai quan tâm thì tham khảo. :D

    Đầu tiên là em tìm cách lí giải tại sao dụng cụ của Nhật (thường) tốt - Với đồ cơ khí, lí do đầu tiên phải nói đến là vật liệu. Công nghệ vật liệu ở đất nước này quá tuyệt. Vì tuyệt nên cứ mua phôi thép về làm bừa phứa cũng đã ra được một thứ chất lượng kha khá. Nhưng cũng không có doanh nghiệp nào ở đây làm bừa cả. Tất cả đều đi theo khoa học và được khoa học dẫn đường chỉ lối. Mọi thứ đều được nghiên cứu, thử nghiệm, đánh giá, rồi cải tiến, và hoàn thiện dần qua các đời sản phẩm. Thế nên xuất hiện tổ hợp lí do thứ hai là máy móc, công nghệ chế tạo, và bí quyết... "công ty truyền". Ngoài máy móc xịn, được bảo dưỡng chuẩn và thay thế đúng hạn, mỗi hãng đều có quy trình nhiệt luyện, tôi, ram, xử lý bề mặt, trộn phụ gia, hay abc riêng đã được nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm qua nhiều chục năm, thậm chí là hàng thế kỷ. Những bí quyết này làm cho sản phẩm của họ đã tốt lại càng tốt nữa, đảm bảo không phải ai có phôi thép cũng chế được thành phẩm có chất lượng tương tự. Thế nên có hãng tự tin in trên vỏ các dòng chữ đầy kiêu hãnh như Kobe steel, Nachi steel, etc. như là một con tem cho chất lượng. Lí do thứ ba là lí do con người. Ai đã tiếp xúc với người Nhật sẽ hiểu tại sao đồ của họ tốt. Chính xác, cẩn thận, tỉ mẩn từ con ốc là điều kiện cần để sinh ra cả một nền công nghiệp cơ khí đỉnh cao. Chất lượng sản phẩm do người Nhật kiểm soát thì rất ổn định. Họ ko hay úi xùi và tặc lưỡi như phần đông dân số TG. Về cơ bản: hỏng là vứt, kém là làm lại, pát là pass mà fêu là fail, ko tiếc, ko tận dụng. Và thêm một lí do nữa không kém phần quan trọng là Nhật ít bị Tàu hóa hơn so với trung bình cộng của TG. Có thể thấy đồ Tàu ở đây cũng tràn nhưng không ngập, không át được đồ trong nước. Bản thân người Nhật có độ tự tôn dân tộc khá cao + phần lớn anti-Tàu nên hàng Tàu khó (chứ không phải không thể) len vào những nơi mà người ta nghĩ là cần phải chuẩn. Nhìn cách người Nhật nhìn và nói về hàng Tàu thì đoán rằng với họ, đó chỉ là hàng phục vụ cuộc sống hàng ngày dạng zớ zẩn thôi. Cái gì cần xịn thì phải là đồ trong nước, ở đó đồ Tàu ít có cửa. Đó cũng là may mắn cho những người ghét Made in China và thích Made in Japan vì tìm chữ Japan không hề khó. Càng đồ chuẩn thì tìm càng dễ. Vì sản phẩm đầu ra luôn có thị trường khá ổn định nên chỉ có công ty chết vì ko cạnh tranh được chứ ko có chuyện tất cả bị chết vì hết khách. Rõ ràng, đây là điều kiện cần để duy trì những thứ gọi là công ty truyền như trên.

    Tiếp theo là một số nhận định về máy công cụ cầm tay như khoan, mài, sọc, cưa cắt - Hãng sản xuất thì nhiều nhưng nổi bật là các tên tuổi: Hitachi, Makita, Ryobi, Bosch. Dòng sản phẩm của các hãng này cũng sêm sêm nhau ngoại trừ Bosch (của Đức) hơi thiên về đồ phá phách. Hitachi và Makita có vẻ nhỉnh hơn Ryobi về đẳng cấp một chút. Nhất là các máy vỏ kim loại đúc của hai hãng này thì khỏi bàn về chất lượng. Cầm máy lên cảm nhận rõ độ chắc, lì và đặc biệt là ít rung khi chạy. Đổi lại là cầm hơi mỏi tay và phần lớn là ko có khả năng chỉnh tốc. Ấn mạnh hay nhẹ đều thấy máy quay tí thò lò như nhau, thường là quá nhanh khi cần... chầm chậm :D. Các máy vỏ nhựa có vẻ rệu rã hơn chút nhưng cũng vẫn rất tốt và thường có khả năng "bóp nhẹ khi muốn... từ từ". Riêng Ryobi thì máy khá nhẹ và có vẻ hàng mã nhất (?) nhưng chưa dùng nhiều nên em chưa dám chắc. Đồ của Bosch thì nổi tiếng thế giới rồi nhưng một điều quan trọng khi thẩm định là ai sản xuất. Made in China, PRC (nguy hiểm hóa chữ China) rất nhiều và nên tránh mặc dù nhìn thường là rất đẹp. Khi mua đồ cũ, máy Made in Thụy Sĩ và Đức thường xấu hơn, giá cao hơn, khó tìm hơn nhưng dùng thì khác hẳn. Một đặc điểm chung của các máy công cụ ở Nhật là toàn 100V. Sau lịch sử ba năm lọ mọ, hi vọng mua được cá thể chạy 220V dùng nội địa vẫn chỉ hoàn toàn là mơ ước của em.

    Tiếp nữa là dụng cụ cơ khí thông dụng như kìm, cờ lê, mỏ lết, tua-vít, chìa lục giác, etc. - Hãng sản xuất còn nhiều hơn như: Tone, KTC, Wise, Vessel, Engineer, SK11, TOP, Snap-on, Koken, Sanki, Lobster,… Trong số này, được đánh giá cao nhất có thể là Snap-on, Tone, và KTC. Snap-on là hãng của Mỹ nhưng ở Nhật dùng khá nhiều nên cũng rất phổ biến. Tone là hãng khá lâu của Nhật mặc dù tên thì không Nhật lắm. Dụng cụ của các hãng này dù cũ hay mới đều được bán với giá cao ngất. Một chiếc kìm có thể có giá đến hàng triệu hay một bộ chìa lục giác có thể đến trên vài triệu VNĐ. Có những tủ kéo với đầy đủ các dụng cụ cơ bản được bán theo set với giá đến cả trăm triệu. Một đại thụ khác là KTC (Kyoto Tool Company). Đây cũng là một hãng rất lâu đời của Nhật được lấy tên (và đặt trụ sở) theo cố đô Kyoto của Nhật. Hãng này rất thông dụng và sản phẩm cũng cao cấp sêm sêm Tone nhưng giá bán thì thấp hơn tí chút. Cả ba hãng trên có thể nói là những hãng sản xuất tool phong phú và cao cấp nhất ở thị trường này. Về chất lượng dụng cụ, nói hơi quá một chút, mua một lần dùng mãi mãi. Do đó, người bán đồ cũ không thiếu và người cần mua đồ cũ cũng rất nhiều. Một số đồ có thể lấm lem, rỉ sét (như lôi từ chuồng lợn về) nhưng giá vẫn vài trăm đến vài nghìn yên (1000 JPY ~ 200.000 VNĐ). Nếu vô tình gặp ai/nơi nào bán bất cứ đồ gì của Snap-on, Tone, hay KTC mà giá dưới 100.000 VNĐ thì ta có thể mua không cần phải nghĩ. Một sự lựa chọn dễ thở hơn là sản phẩm của SK11, TOP; riêng cờ lê mỏ lết còn hay gặp thêm đồ của Sanki và Lobster. Các hãng này cũng sản xuất những dụng cụ cơ khí tương tự nhưng hướng tới thị trường tương đối đại trà. Không những giá rẻ hơn mà nhìn bề ngoài, sản phẩm của SK11 và TOP còn khá bắt mắt. Tuy nhiên, cái gì cũng có lí do của nó cả. Ngoài các hãng trên, Vessel, Engineer, Anex … là các hãng sản xuất hướng cũng tới thị trường bình dân hơn và có vẻ ít phong phú về mặt hàng. Các hãng này cũng hướng tới các dụng cụ nhẹ cân và nhẹ đô hơn để dùng trong các lĩnh vực điện, gia đình. Nói là nhẹ đô nhưng giá vẫn không rẻ, một chiếc tua-vít vẫn dao động từ 100.000 – 500.000 VNĐ. Đồ của các hãng này phù hợp với những ai làm việc trong các lĩnh vực điện, điện tử lâu dài. Việc dùng dụng cụ tốt và phù hợp là điều kiện cần để sửa mà không phá khi làm việc với máy móc. Đối với một số dụng cụ, ta cần lưu ý khi mua vì có hai hệ khác nhau là hệ inchmetric. Hệ thông dụng ở nước ta là metric (đơn vị đo là mm, cm) trong khi hệ ít dùng hơn là inch (đơn vị đo là 1/4, 3/8, 1/2, … inch) có thể gặp đâu đó trong các máy nhập về. Sai hệ có thể dẫn đến bỏ xó dụng cụ vì ... lồng mãi không có cái nào vừa. :D

    Tiếp nữa nữa là bàn về dụng cụ đo như thước kẹp, panme, thước thẳng, thước góc, dưỡng, etc. - Hãng sản xuất cũng phong phú, nhưng nổi tiếng là Mitutoyo, Tajima, Niigata Seiki, Shinwa. Mitutoyo rất nổi tiếng về thước kẹp, panme, thước đo độ sâu, độ tròn, gauge. Trong khi đó, các hãng còn lại xác định khó chiến với Mitutoyo ở những khoản này nên chú trọng những thứ có vẻ đơn giản hơn. Sản phẩm của Mitutoyo chất lượng rất cao và giá cũng rất… cứng. Một chiếc thước kẹp có thể đến vài triệu trong khi một chiếc panme có thể đến cả chục triệu VNĐ. Sản phẩm của Tajima, Niigata Seiki, và Shinwa (logo hình con chim cánh cụt) có giá mềm hơn một chút và tương đối thông dụng. Tuy nhiên, đơn vị tính của các đồ này vẫn là trăm yên và nghìn yên. Có thể với nhiều người, những giá này là rất cao và hơi vô lý nhưng thật ra là hợp lý. Chế tạo dụng cụ đo đạc chính xác không chỉ yêu cầu hệ thống máy móc tốt mà còn đòi hỏi việc sử dụng các vật liệu nền đắt tiền (bền, độ cứng cao, dãn nở nhiệt nhỏ, etc.). Một lưu ý đối với dụng cụ của Shinwa là Made in China rất nhiều nhưng việc tìm Japan cũng không khó.

    Nói một chút về dụng cụ cắt gọt như mũi khoan, mũi taro, phay - Các hãng tên tuổi có thể kể đến là: Nachi, Kobe, Riken, Kobelco, etc. Các hãng này đều là những hãng rất nổi tiếng, đặc biệt là Nachi. Loại thép phổ biến được sử dụng của các hãng này khi chế tạo các dụng cụ phổ thông là thép gió SKH9 (SKH55 theo chuẩn của JIS). Về cơ bản, cứ Made in Japan, một trong 4 hãng trên, thép gió (HSS – High Speed Steel) là chất lượng được đảm bảo. Nếu ai tò mò có thể đọc tiêu chuẩn sản xuất mũi khoan JIS B 4301 mà các hãng này phải theo để thấy được lí do tại sao nó đắt và tại sao nó không có khả năng vừa quay vừa rang lạc như mũi khoan của Tàu. Giá mũi khoan tăng theo đường kính nhưng về cơ bản là ~100.000 VNĐ cho một mũi 1 mm (giá niêm yết của hãng). Mua đồ NOS (đồ lưu kho lâu nhưng chưa qua sử dụng) có giá rẻ hơn nhưng vẫn cao hơn giá của 1 chục mũi khoan tương tự niêm yết tại chợ Trời của ta. Nói là lưu kho nhưng mở túi ra vẫn đẹp như mới vì được bảo quản rất tốt. Đây là loại ta nên dùng, thậm chí là rất nên dùng vì hàng mới sản xuất chưa chắc đã có quốc tịch Nhật (thay vào đó là Singapore).

    Viết một chút về dụng cụ cơ khí lại ngẫm về điều kiện làm việc ở nước mình - Lấy ví dụ về một chiếc chìa lục giác thông dụng: giá 6k, mua về có 6 cạnh, dùng 6 lần thì có thêm 6 cạnh nữa, dùng 60 lần thì gần tròn và vặn liên tục một lúc thì tròn hẳn. Tuy nhiên, điều nguy hiểm không phải ở việc tốn tiền mua dụng cụ mà là việc dùng dụng cụ 12 cạnh này để vặn các con ốc 6 cạnh khác. Khi tháo một cái máy gì đó, dụng cụ hỏng gây hỏng ốc, ốc hỏng tiếp tục phá dụng cụ. Không tháo được ốc thì mài bỏ, cạy, đập. Khi lắp lại thì buộc dây, dán keo. Lần hỏng tiếp theo lại phá keo, khoan, đập... được hai lần là đi đời cái máy. Một vòng luẩn quẩn phá lẫn nhau, tốn tiền và hỏng tất cả. Cũng đúng thôi, dụng cụ và ốc có cùng độ cứng, vặn mạnh thì cả hai bị thương tật như nhau là đương nhiên rồi, chỉ khổ cái thân máy thôi.

    Xét cho cùng - Người Nhật hay phương Tây chấp nhận tốn kém để chế tạo dụng cụ rất đắt tiền nhưng đảm bảo không lãng phí. Vì vậy, là một công dân sống và làm việc trong ngành công nghệ, nếu chúng ta xác định sẽ đụng tay đụng chân vào một việc nào đó nhiều hơn mười chục lần thì phải cân nhắc nghiêm túc về một bộ công cụ tốt. Đó là điều kiện cần để công việc trở nên trôi chảy và an toàn. Với internet, việc mua dụng cụ tốt không khó, cái khó là từ bỏ (hoặc giảm bớt) suy nghĩ phải ngon, bổ, và RẺ.

    Tạm kết là vậy!

    Trước khi kết thúc bài viết, em xin bật mí thêm một thông tin trong lề nhưng hơi lan man là về cái... lô-gô. Trên nhiều dụng cụ của Nhật, ta hay gặp một lô-gô tròn tròn giống nhau. Hình tròn này là hình tròn hở, bên trong có mấy nét như chữ S hay móc câu dính với nhau. Lô-gô này đôi khi làm ta lầm tưởng là cái gì đặc biệt hay sản phẩm của cùng 1 hãng. Thực chất đây là lô-gô của JIS - Japanese Industrial Standards, tổ chức quy định các chuẩn trong sản xuất công nghiệp của Nhật. Sản phẩm có lô-gô này chỉ đơn giản là đã đảm bảo tiêu chuẩn tương ứng thôi.

    Chỉ... thôi nhưng là khó đấy ;)
     
    Last edited: 8/6/25 at 14:19
    D0iT, a lũ and tai cây like this.
  3. AudioNga

    AudioNga Shop

    Joined:
    13/6/11
    Messages:
    222
    Likes Received:
    228
    Location:
    Phương Mai, Hà Nội
    [2]

    Đôi điều chia sẻ về vấn đề linh kiện bảo vệ quá áp
    Bài viết này có thể giúp ích đôi chút cho bác nào quan tâm

    Như chúng ta đã biết, các thiết bị điện tử của Nhật Bản và phương Tây có độ ổn định và độ bền rất cao so với sản phẩm do nửa còn lại của thế giới sản xuất. Có rất nhiều lí do để giải thích cho việc này, một trong số đó là khối mạch bảo vệ được chú trọng đúng mức. Khái niệm bảo vệ có thể bao gồm bảo vệ quá áp, quá dòng, quá nhiệt, quá tải, v.v. rất đa dạng. Trong phạm vi bài viết này, Việt Hùng Đào em chỉ đi sâu vào vấn đề bảo vệ quá áp vốn là vấn đề thường gặp và ảnh hưởng đến sự sống còn của thiết bị. Cụ thể, em xin giới thiệu qua về vấn đề bảo vệ quá áp, nói qua về một số linh kiện bảo vệ chuyên dụng, và so sánh bọn chúng với nhau để đưa ra các khuyến nghị lựa chọn. Việc hiểu rõ tác dụng và đặc điểm của các linh kiện này có thể giúp các bác (phần nào) trong việc chủ động đưa vào các ứng dụng trong tương lai.

    Bài viết sẽ bao gồm các nội dung chính là:
    • Tại sao lại cần bảo vệ quá áp
    • Những vị trí cần cân nhắc việc bảo vệ quá áp
    • Một số phương pháp bảo vệ quá áp
    • Một số linh kiện bảo vệ quá áp chuyên dụng (nội dung chính)
    • Tổng kết và gợi ý cách sử dụng
    Sau đây, chúng ta lần lượt làm rõ từng vấn đề.

    Tại sao lại cần bảo vệ quá áp - Đối với thiết bị và linh kiện điện tử, việc hoạt động quá điện áp danh định có thể để lại các hậu quả rất lớn. Nếu may mắn, thiết bị chỉ giảm tuổi thọ nhưng vẫn đảm bảo hoạt động đúng chức năng cho đến lúc chết. Kém may mắn hơn, thiết bị sẽ chết ngay tức khắc, buộc ta phải thay thế. Nhưng tình huống nguy hiểm nhất là thiết bị không chết nhưng bị què (thay đổi thông số hoặc cấu trúc) và hoạt động sai đi một tí trong suốt quãng đời còn lại mà ta không biết. Điều này có thể dẫn đến tác tai hại khôn lường. Ta ko thể tưởng tượng sẽ ra sao nếu máy y tế chạy sai đúng không các bác :x.

    Nguồn gốc của quá áp không chỉ đơn giản là do cắm sai ổ (VD: máy chạy 100 V bị cắm nhầm vào 220 V). Còn nhiều nguyên nhân giời ơi hơn thế như xung nhọn do bản thân mạch gây ra, nhiễu điện từ do bên ngoài tác động vào, điện áp cảm ứng trên các đường dây, sự tích phóng năng lượng tĩnh điện. Đặc điểm của những nguồn này là có điện áp từ cao (vài trăm vôn) đến siêu cao (hàng chục nghìn vôn) nhưng lại có thời gian tác động cực nhỏ (cỡ phần nghìn, phần triệu, đến phần tỷ giây). Nói cách khác, năng lượng của chúng có thể ko lớn (do đó đôi khi ta ko nhận ra) nhưng được giải phóng một cách ồ ạt trong một thời gian rất ngắn và đánh què hay giết chết bất kỳ thứ gì mà dòng thác điện ấy chảy qua. Những yếu tố này tương đối vô hình với con người nhưng lại là đao phủ của mạch điện. Do đó, nếu muốn các thiết bị hoạt động tin cậy, lâu bền, và có khả năng sinh tồn cao trong các pha giời ơi như thế, bảo vệ quá áp là một vấn đề cân đem ra cân nhắc nghiêm túc.

    Những vị trí (VT) cần cân nhắc việc bảo vệ quá áp - VT đầu tiên phải kể đến là nguồn điện vào (VT-1). Cái này là cần thiết nhất và ai cũng hiểu nên em không giới thiệu thêm. VT thứ hai là các cổng kết nối giữa thiết bị với thế giới bên ngoài (VT-2). Một ví dụ điển hình là cổng cắm mạng LAN (mạng internet có dây). Cổng này thường xuyên có xung cao áp xông vào nếu cáp dài và hoạt động trong môi trường nhiễu mạnh hoặc đơn giản hơn là chạy song song với các đường dây điện lưới. Một ví dụ gần với audio hơn là mạch vào của các cổng balanced vốn có thể được kết nối tới dây rất dài. VT thứ ba là trong bản thân thiết bị (VT-3), những vị trí có sự đóng/cắt dòng cho tải cảm (cuộn dây, biến áp, động cơ, rơ le, v.v.). Tùy các yếu tố như tốc độ -, tần suất -, cường độ - đóng cắt mà áp sinh ra lớn cỡ nào. Nhưng nếu không được bảo vệ thì chắc chắn là các bộ điều khiển bán dẫn ở đây sẽ chết nhanh chóng.

    Một số phương pháp bảo vệ quá áp - Tùy vào mức độ bảo vệ và giá thành sản phẩm mà nhà sản xuất cân nhắc các phương pháp. Một số phương án (PA) thường được áp dụng là:
    • Sử dụng cầu chì hay áp tô mát (PA-1): Trong PA này, cầu chì hay áp tô mát được mắc nối tiếp với tải cần bảo vệ. Khi có quá áp trên tải, dòng điện sẽ tăng tương ứng. Dòng điện tăng đủ lớn sẽ làm đứt dây chì trong cầu chì hoặc tạo ra lực hút đủ lớn trong nam châm điện để nhảy áp tô mát. PA này dùng được cho VT-1 nhưng chịu thua ở VT-2 và VT-3. Một hạn chế lớn khác của PA này là tốc độ đáp ứng ko cao và không chống được các tình huống... hơi quá áp. Do đó, thiết bị nào nhạy cảm có thể chết trước khi được bảo vệ.
    • Sử dụng mạch bảo vệ bằng rơ-le (PA-2): Trong PA này, rơ-le cũng được mắc nối tiếp với tải cần bảo vệ. PA này xịn hơn phương án trên 1 chút vì có mạch đo đạc và định lượng chính xác mức độ quá áp. Tuy nhiên, hai hạn chế về tốc độ và khả năng ứng dụng vẫn chưa được khắc phục so với PA-1.
    • Sử dụng linh kiện bảo vệ quá áp chuyên dụng (PA-3): Khác với PA-1 và PA-2, trong PA-3 này, linh kiện bảo vệ được mắc song song với tải cần bảo vệ. Linh kiện thông dụng có thể là varistor, gas discharge tube (GDT) hay gas tube arresters (GTA), transient voltage suppressors diode, và zener diode. PA này cho phép bảo vệ thiết bị với tốc độ... nhanh như điện. Vì thế, nó có thể chống được các xung cao áp cực nhọt với năng lượng cực lớn giải phóng trong thời gian cực ngắn :lol:. Tuỳ từng loại mà được ứng dụng ở các vị trí khác nhau cho các mục đích bảo vệ khác nhau. Em sẽ phân tích sâu hơn ở phần sau.
    • Đông tây y kết hợp (PA-4): Kết hợp hai trong ba hoặc cả ba PA trên để cho kết quả bảo vệ tốt nhất và thu tiền nhiều nhất trên mỗi đầu máy (nhưng cũng bán được ít máy nhất) :D
    • Phương pháp khác (PA-5): Tại một số vị trí đặc biệt, ta có thể cần phương pháp bảo vệ riêng như: dùng BA cách ly cao tần ở mạch vào cổng mạng LAN (BA này vừa cách ly vừa phối hợp trở kháng), dùng các bộ khuếch đại cách ly và nguồn cách ly khi có thể có sự sai lệch lớn về mức điện thế giữa các thiết bị (VD: trong oscilloscope loại cách ly), v.v.
    Về cơ bản, phương pháp bảo vệ thì có nhiều nhưng cá nhân em chia ra làm ba loại: loại mất bò mới lo làm chuồng (quá rồi mới bảo vệ), loại nghi mất bò cho ngay vào chuồng (quá cái bảo vệ ngay), và loại luôn nhốt bò trong chuồng (cách ly nguy cơ ngay từ đầu). Nếu bác nào hiểu ý của em thì cũng sẽ hiểu ngay mỗi con bò bên trên nằm trong chuồng nào.

    Một số linh kiện bảo vệ quá áp chuyên dụng - Như em đã phân tích phía trên, linh kiện bảo vệ quá áp chuyên dụng được mắc song song với tải cần bảo vệ. Nguyên lý chung của bọn chúng là: khi hoạt động trong điều kiện thường sẽ hở mạch (có điện trở rất lớn); khi điện áp vượt quá một ngưỡng cho trước thì ngắn mạch (có điện trở giảm nhỏ đột ngột) >>> dòng điện rất lớn chảy qua linh kiện bảo vệ >>> điện áp trên tải không những tăng mà có thể giảm đi >>> tải được bảo vệ. Mỗi linh kiện có một ngưỡng cố định ngay từ khi sản xuất. Do đó, khi thay đổi mức điện áp cần bảo vệ, ta buộc phải mua linh kiện mới, có giá trị tương ứng. Sau đây, ta sẽ xem xét từng loại linh kiện:
    • Varistor: Varistor còn được gọi là voltage-dependent resistor (VDR) tức là "điện trở có giá trị thay đổi theo điện áp". Varistor có cấu trúc bao gồm một khối vật liệu đặc biệt nằm giữa 2 bản cực kim loại. Khối vật liệu này có điện trở không cố định mà thay đổi theo hiệu điện áp trên 2 bản cực. Tại điện áp thấp, điện trở này khá lớn nên dòng điện chảy qua khối vật liệu là không đáng kể. Khi điện áp tăng lên, điện trở của khối này giảm dần và càng giảm mạnh khi điện áp có xu hướng tăng hơn nữa. Kết quả là sự quá áp tại đầu vào chỉ gây nên sự tăng dòng điện chảy qua varistor còn điện áp trên varistor (cũng là điện áp trên tải) bị ghim lại. Nếu mức ghim được chọn dưới ngưỡng gây hỏng tải, tải sẽ được bảo vệ. Ưu điểm của việc sử dụng varistor là tốc độ đáp ứng rất cao nên bảo vệ nhanh như điện. Varistor là linh kiện không phân cực nên có thể bảo vệ cho cả tải AC lẫn mạch điện DC. Điện áp bảo vệ của varistor cũng rất phong phú từ vài chục vôn đến hàng nghìn vôn.

      Vấn đề chính đối với varistor là tuổi thọ. Vì hoạt động theo kiểu ngắn mạch (= I lớn) các điện áp lớn (= U lớn), một khi đã "ra tay", varistor thường phải giải phóng một công suất cực lớn (P = U x I) và khối vật liệu trong varistor sẽ bị hỏng dần từng phần. Tốc độ "dần từng phần" phụ thuộc vào mức quá áp và thời gian. Giống như một thanh kiếm, varistor có thể cắt ngọt một xung cao áp đơn lẻ mà ko bị mẻ. Nhưng nếu rất nhiều xung xuất hiện liên tiếp, thậm chí là dính liền với nhau như một khối thì varistor sẽ vẫn cắt nhưng bị hư hại tương đối. Và tất nhiên khi gặp một khối đủ lớn, varistor sẽ... gãy kiếm. Do đó, một khi đã sử dụng varistor, các nhà sản xuất thường nối thêm 1 chiếc cầu chì để bảo vệ cho tải và chính... varistor. Varistor sẽ cắt ngay lập tức quá áp trên tải và duy trì bảo vệ cho đến khi cầu chì đứt (vốn chậm chạp). Vậy là tải sẽ an toàn trong mọi tình huống ngoại trừ... sét. Nếu sét đánh trực tiếp, nhiều khả năng là cả cầu chì, varistor, và tải đều toi tức khắc, không ông nào kịp bảo vệ ông nào.

      Vậy khi chọn varistor ta cần chú ý điều gì? Câu trả lời là: 1) ta nên chọn loại có điện áp bảo vệ đủ lớn. Việc này đảm bảo varistor chỉ cắt các xung điện áp quá cao (gây hại cho tải) còn các xung thấp hơn (ít hại) thì... thôi kệ. Tức là chỉ chém khi thực sự cần, đảm bảo tuổi thọ cho lưỡi kiếm; 2) ta nên chọn varistor càng lớn (về kích thước) càng tốt. Varistor càng to thường là thanh kiếm to nên tuổi thọ sẽ dài. Tất nhiên công nghệ chế tạo cũng là một vấn đề nhưng đã liên quan đến công suất lớn thì nên to. Nếu chỉ mua được varistor nhỏ thì ta có thể mắc song song nhiều varistor cũng tốt. Mức điện áp bảo vệ ko thay đổi nhưng độ an toàn và tuổi thọ mạch bảo vệ sẽ được tăng cường.
    • Gas discharge tube (GDT) hay gas tube arresters (GTA): Đây là các linh kiện có khả nối tắt rất tốt các xung cao áp cực mạnh. GDT hay GTA (từ nay chỉ gọi chung là GDT) có cấu trúc gồm 2 bản cực (có trường hợp là 3) nằm trong 1 ống rỗng chứa đầy một loại khí đặc biệt. Ở trạng thái bình thường, các khí này ko hề dẫn điện và các bản cực nằm chơ vơ ở khá xa nhau nên ko liên quan gì đến nhau (trở kháng giữa chúng cực lớn, dung kháng ký sinh cực nhỏ). Khi xuất hiện một hiệu điện áp đủ lớn giữa 2 điện cực, chất khí bên trong GDT bị ion hóa mạnh và trở nên dẫn điện tốt. Lúc này, hai bản cực của GDT như được nối tắt với nhau và ngắn mạch xung cao áp đang tồn tại, bảo vệ an toàn cho tải.

      GDT vừa có điểm giống lại vừa có điểm khác varistor. Điểm giống thứ nhất là cả hai đều hoạt động được trong cả mạch AC và DC. Điểm giống thứ 2 là chúng đều phải lo lắng về tuổi thọ của chính mình sau mỗi lần gánh hạn cho tải. Hạn càng nặng (xung có điện áp cao và kéo dài) thì tuổi thọ càng ngắn. Điểm khác là: 1) GDT có tốc độ đáp ứng chậm hơn varistor do cần một khoảng thời gian nhất định để ion hóa chất khí giữa các bản cực; 2) Một khi đã dẫn dòng, GDT dẫn khá mạnh nên có thể ngắn mạch được các xung cao áp có công suất rất lớn; 3) varistor ngừng dẫn khi điện áp giảm xuống dưới ngưỡng nhưng GDT thì khác, nó vẫn tiếp tục dẫn ngay cả khi xung cao áp đã mất đi. Dòng điện qua GDT chỉ ngừng chảy khi điện áp giảm còn rất nhỏ, đến mức các chất khí bên trong trở về trạng thái ban đầu. Điều này là khá nguy hiểm vì nếu không sử dụng đúng cách, GDT sẽ ngắn mạch chính nguồn cung cấp cho nó sau khi bị kích hoạt (bởi 1 xung cao áp nào đó). Hậu quả của việc này chắc chắn là rất thảm khốc cho GDT. Để khắc phục hiện tượng này, thông thường ta cần một mạch điện đặc biệt để cắt dòng cho GDT sau khi bị kích hoạt. Giải pháp đơn giản và dễ hiểu nhất có lẽ là 1 chiêc cầu chì hay 1 circuit breaker.

      GDT chậm hơn và có vẻ "nguy hiểm" hơn varistor nhưng GDT lại có một thông số tuyệt vời mà varistor ko có được. Đó là tại điều kiện bình thường, các bản cực của GDT dường như ko có bất kỳ mối liên hệ gì với nhau; trở kháng giữa chúng cực lớn và điện dung ký sinh cực nhỏ. Tính chất này cho phép ta mắc GDT vào các đường tín hiệu có tần số rất cao khi cần bảo vệ chúng. Ngược lại, nếu sử dụng varistor, linh kiện này sẽ hoạt động như một chiếc tụ điện, mở một con đường xuống GND và nối tắt tất cả các tín hiệu có ích.
    • Transient voltage suppressors (TVS) diode: (còn tiếp)...
     
    Last edited: 8/6/25 at 14:30
    tai cây and nagini262 like this.
  4. AudioNga

    AudioNga Shop

    Joined:
    13/6/11
    Messages:
    222
    Likes Received:
    228
    Location:
    Phương Mai, Hà Nội
    [3]

    Đôi điều chia sẻ về kinh nghiệm hàn mạch
    Bài viết này có thể giúp ích đôi chút cho bác nào quan tâm

    Ai đã từng cầm đến mỏ hàn cũng sẽ đồng ý với em rằng việc chấm được một mối hàn đẹp và chắc chắn là chuyện không hề đơn giản. Thiếc tốt và mỏ hàn tốt thôi là chưa đủ, yếu tố cực kỳ quan trọng còn lại chính là kỹ thuật hàn. Vì vậy, trong bài viết này, Việt Hùng Đào em xin được chia sẻ một số kinh nghiệm của bản thân về món chọc ngoáy này. Hi vọng nó sẽ giúp ích cho các bác ít nhiều.

    Đầu tiên, em xin được múa một cái rìu nhỏ, hi vọng các bác thợ không cảm thấy ngứa mắt :D. Ảnh dưới đây chính là sản phẩm tự tay em hàn bằng mỏ hàn nung thông thường (với đầu loại nhỏ). Lâu rồi, khoảng 5 năm trước, nên em không nhớ đã dùng thiếc gì, nhưng cũng chỉ là loại tốt có bán ngoài thị trường thôi. Chip DSP này có kích thước chỉ 25 x 25 mm với 176 chân, mỗi chân cách nhau 0.5 mm. Em show ảnh này ra với hai mục đích: 1) để các bác yên tâm rằng mình không phải nghe một đứa dốt chém gió; 2) để mọi người thấy uy lực của cái mỏ hàn tầm thường mà chúng ta đang sở hữu. Tất nhiên, với mỏ to hơn thì hàn chip bé như vậy sẽ khó hơn và có thể không được đẹp. Nhưng vẫn là việc trong tầm tay của chúng ta. Bác nào không tin có thể đặt cược và em sẽ thực hiện trước sự chứng kiến của các bác.
    [​IMG]
    Sau đây, em xin trình bày một vài gạch đầu dòng cơ bản nhất về việc hàn. Logic trình bày không thật hợp lý lắm nhưng các bác đọc tạm. Khi nào có thời gian em sẽ chỉnh sửa và bổ sung cho hoàn chỉnh sau.
    1. Vật cần hàn
      • Vật cần hàn có thể làm từ vàng, bạc, đồng nhưng không thể là nhôm.
      • Lớp ô-xít kim loại gây khó khăn đáng kể cho việc hàn. Do đó, ta cần làm sạch lớp ô-xít này trước khi hàn. Cách làm sạch đơn giản nhất là cạo nhẹ bề mặt vật cho lớp kim loại sáng bóng bên trong lộ ra. Cạo càng cẩn thận và sạch thì việc hàn càng dễ dàng và chất lượng mối hàn càng cao. Đôi khi để có một mối hàn tốt, thời gian làm sạch bề mặt lâu hơn rất nhiều so với thời gian hàn. Vật dụng dùng để cạo nên là một con dao cùn nhưng lưỡi phẳng chứ không bị lăm nhăm như răng cưa.
      • Vật cần hàn càng to thì cần càng nhiều nhiệt. Khi đó mỏ hàn cần phải có cái mỏ lớn (để tích nhiệt tốt), hoặc công suất lớn (để cấp nhiệt tốt), hoặc cả hai đều lớn (vừa tích tốt vừa bơm liên tục, không cho nhiệt giảm).
      • Mỏ hàn công suất nhỏ vẫn có thể hàn được vật to nếu ta: 1) tối đa hóa lượng nhiệt mà vật nhận từ mỏ hàn, và 2) tối thiểu hóa lượng nhiệt mà vật tỏa ra môi trường. Để có (1) thì diện tích tiếp xúc vật-mỏ phải lớn nhất + dùng thêm nhựa thông để dẫn nhiệt. Để có (2), ta có thể bọc tạm vật cần hàn bằng giấy hay cái gì đó tương tự. Tuyệt đối không kẹp bằng kìm sắt hay vừa hàn vừa bật quạt. Thậm chí, nếu việc hàn vật lớn là bắt buộc trong điều kiện quá hạn chế thì ta phải tiến hành trong ngày nắng nóng, dùng 2 mỏ cùng lúc (nếu có), hoặc nhờ sự trợ giúp của bật lửa gas.
    2. Thiếc
      • Để hàn tốt thì thiếc phải chảy loãng tốt và vật cần hàn phải thấm ướt được bằng thiếc. Thiếc nóng chảy có thể thấm ướt tốt vàng, bạc, đồng,…; khó thấm ướt sắt, ô-xít kim loại; và không thể thấm ướt nhôm (giống như nước và đầu vịt).
      • Thiếc chảy kém sẽ vón cục và rời rạc, thiếc chảy vừa sẽ dễ hàn, loãng quá sẽ co lại thành hình giọt nước và có thể trở nên khó kiểm soát. Thiếc càng nóng, tính chảy loãng càng cao. Do đó, mỏ hàn nguội quá thì không hàn được mà nóng quá cũng rất khó hàn.
      • Thiếc tốt không có nghĩa là phải bóng. Độ bóng của thiếc do nhiều yếu tố quyết định như thành phần hợp kim, chất phụ gia đi kèm, flux. Một số loại thiếc vốn rất tốt (VD: thiếc bạc) nhưng mối hàn nhìn lại có vẻ… giống kém, đục như sữa. Tuy nhiên, nếu để ý kĩ, ta sẽ thấy thiếc có độ ngấu rất cao và màu đục của mối hàn có tí ngà ngà của bạc.
      • Phần lớn thiếc trên thị trường là hợp kim như: thiếc – chì (rẻ), thiếc – đồng – lăng nhăng (lead-free, đắt hơn), và thiếc – bạc – đồng – lăng nhăng (rất đắt). Thiếc có chì rẻ, dễ dùng, nhưng hơi độc. Thiếc không chì an toàn hơn cho sức khỏe và môi trường nhưng cần thêm nhiều chất phụ gia để… hàn được như thiếc có chì. Do đó thiếc lead-free thường đắt hơn một chút. Thiếc có đồng thường màu hơi ngà vàng, còn thiếc có bạc sẽ hơi đục đục. Về khả năng đẫn điện, đương nhiên thiếc pha bạc là tốt nhất.
    3. Mỏ hàn
      • Mỏ hàn nào cũng có thể hàn tốt những vật nhỏ như tụ, trở, transistor.
      • Mỏ hàn nung bình thường và mỏ hàn đoản mạch (mỏ hàn xung) có thể có dòng rò ở đầu mỏ hàn. Dòng này tuy nhỏ nhưng có thể gây hại cho các linh kiện nhạy cảm.
      • Mỏ hàn nung lõi gốm cách điện rất tốt, gần như không rò điện, không gây hại.
      • Mỏ hàn chỉnh nhiệt có thể gia giảm được công suất tùy theo độ lớn của vật cần hàn nên tiết kiệm điện (?) và đỡ bị quá nhiệt. Việc quá nhiệt có thể gây hại cho linh kiện và cho chính đầu mỏ hàn. Đầu mỏ hàn quá nóng có thể bị ôxi hóa thành đầu vịt và không thấm ướt được thiếc.
      • Kích thước đầu mỏ hàn cũng khá quan trọng. Đầu mỏ hàn nhỏ sẽ khó hàn vật to (thiếu nhiệt) ngay cả khi mỏ hàn có công suất lớn. Ngược lại, đầu mỏ hàn to sẽ khó hàn vật nhỏ do bị chạm vào các vật lân cận. Do đó, loại mỏ hàn thay được đầu tuy đắt nhưng sẽ là cần thiết cho các bác hàn cả cọc loa lẫn dán IC.
    4. Nhựa thông
      • Nhựa thông không chỉ đóng vai trò là chất dẫn nhiệt trung gian mà còn là chất làm tăng tính chảy loãng của thiếc, và tăng khả năng thấm ướt của thiếc vào vật cần hàn.
      • Nhựa thông vừa trợ giúp việc làm sạch lớp ô-xít đã có trên vật cần hàn, vừa cách ly vật cần hàn đang rất nóng (dễ bị ôxi hóa) với không khí (chứa ôxi) để ngăn ngừa sự tạo thành lớp ô-xít mới.
      • Việc hàn sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều nếu có thêm nhựa thông. Nhưng nhựa thông cháy lại tạo ra muội đen, gây mất thẩm mỹ. Ta có thể rửa sạch nhựa thông bằng các dung môi cỡ như a-xê-tôn (nước lau sơn móng tay).
    5. Người hàn
      • Người hàn cần nắm rõ quy luật chảy của thiếc, có khả năng ước lượng thời gian cần thiết để thiếc chảy ra và cứng lại (với mỗi vật cần hàn và loại mỏ hàn nhất định) chỉ sau một vài lần chấm thử. Kỹ năng này cần rèn luyện chứ không dễ dàng có được.
      • Người hàn tốt cần một đôi tay tĩnh và nhạy cảm. Tuy không cầm trực tiếp vào mối hàn nhưng họ có thể cảm nhận được thời điểm thiếc bắt đầu mềm ra, độ loãng của thiếc khi chảy tối đa, và độ lì của các phần thiếc chưa chịu chảy do bị tỏa mất nhiệt.
      • Khi đã ước lượng được thời gian và bàn tay có độ nhạy cảm nhất định, việc còn lại của người hàn là kiên trì chờ đến lúc thiếc chảy hẳn. Trong quá trình chờ, ta không nên di chuyển đầu mỏ hàn liên tục. Thay vào đó, ta tìm một vị trí mà vật-mỏ có thể tiếp xúc nhiệt tối đa để dồn nhiệt cho thiếc chảy. Một khi thiếc ở vị trí này đã chảy, những chỗ khác sẽ chảy theo vì mỏ đã xâm nhập sâu hơn vào đám thiếc.
      • Ta chỉ di chuyển mỏ hàn nếu cảm thấy đã quá thời gian cần thiết mà mối hàn vẫn cứ trơ trơ. Sau khi di chuyển sang vị trí khác, ta lại phải kiên trì chờ. Trong khi chờ, ta có thể chà mạnh đầu mỏ hàn vào vật (hoặc vào mối hàn có sẵn) để cào bỏ lớp ô-xít. Tuy nhiên, động tác này chỉ nên giới hạn trong phạm vi từ 1 đến 2 mm để nhiệt không bị phân tán.
    6. Quy trình hàn
      • Quan sát ban đầu: xác định vật liệu nền, đánh giá độ lớn mối hàn, nhận diện lớp sơn phủ (nếu có), và ước lượng mức độ ôxi hóa.
      • Xử lý bề mặt: cạo sạch bề mặt cần hàn (nếu cần) để loại bỏ phần lớn các lớp sơn phủ hay ô-xít. Đây là khâu cực kỳ quan trọng trong quá trình hàn nhưng lại thường bị bỏ qua hoặc làm một cách đại khái. Mối hàn tốt không thể thiếu khâu làm sạch bề mặt, nhất là đối với các linh kiện, dây dẫn, hay mạch điện đã nằm lâu ngày trong điều kiện khí hậu VN. Đối với dây nhiều lõi đã bị ôxi hóa nặng, việc cạo sạch có thể khá mất thời gian vì ta cần cạo nhiều hướng, chia nhỏ lõi ra và cạo sạch từng nhóm một. Sau khi cạo sạch, nếu ta chưa hàn ngay thì việc cạo lại là cần thiết trước khi hàn thật.
      • Phủ thiếc: sau khi xử lý bề mặt, ta cần phủ một lớp thiếc (dày hay mỏng đều OK) cho cả hai đối tượng sẽ hàn với nhau. Việc phủ thiếc cần thực hiện nghiêm túc và toàn diện cho đến khi thiếc ngấu (thấm) đều. Đây là khâu cần nhựa thông nhất.
      • Tiến hành hàn: khâu này sẽ không khó nếu các khâu trước được làm tốt. Về cơ bản, mỗi người có một cách hàn riêng và rất khó diễn đạt bằng lời. Kinh nghiệm của em là:
        • Vật nào to hơn ta chấm mỏ hàn vào trước và chờ đến khi thiếc bắt đầu chảy thì ấn vật nhỏ hơn vào. Nếu làm ngược lại sẽ xảy ra hiện tượng quá nhiệt thằng nhỏ trong suốt quá trình gia nhiệt cho ông to.
        • Ta nên để thiếc chảy loãng toàn diện rồi mới rút đầu mỏ hàn ra. Ngừng hàn quá sớm, khi nhiệt chưa tỏa đều, sẽ làm mối hàn bị lôm nhôm (thiếc chưa kịp chảy hết), hoặc bị sần sùi vẹo vọ do ứng suất dư bề mặt (nguội với tốc độ khác nhau). Việc này dễ bị các bác dễ tính tặc lưỡi bỏ qua nhưng lại tiềm ẩn các nguy cơ nứt, vỡ mối hàn sau này.
        • Khi rút mỏ hàn, ta nên rút nhanh và dứt khoát. Chữ nhanh này chỉ quan trọng trong vài cm đầu tiên, giống như động tác vảy cổ tay trong đánh cầu lông. Việc rút nhanh như vảy cổ tay sẽ lợi dụng được sức ì của thiếc đang nóng chảy để bắt nó ở lại mối hàn. Ngược lại, việc rút chậm chắc chắn sẽ làm thiếc theo đuôi và kết quả là xấu thấy rõ.
      • Đánh giá mối hàn: một mối hàn đẹp và chất lượng là mối hàn có thiếc thấm hết các bề mặt của vật và điền đầy các khe trống. Thiếc có thể không bóng nhưng cần phải có bề mặt tròn. Bề mặt tròn nên ở dạng lõm để đạt độ thẩm mỹ cao và đảm bảo tính ngấu thiếc như hình dưới đây. Bề mặt tròn dạng lồi có thể là cần thiết khi mối hàn cần phải khỏe. Tuy nhiên, bề mặt lồi này cũng có thể là biểu hiện của việc thiếc chưa thấm ướt được bề mặt vật, giống như giọt nước trên lá khoai.
    7. Tổng kết
      • Để có một mối hàn tốt, ta cần rất nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan. Trong nhiều trường hợp, chủ có tính chất quyết định nhiều hơn so với khách.
      • Ngoài các thực thể có sẵn như vật cần hàn, loại thiếc đang có, loại mỏ hàn đang sử dụng; yếu tố kỹ thuật hàn là thứ ta có thể quyết định được, thông qua quá trình rèn luyện.
      • Trong kỹ thuật hàn, hai khâu tối quan trọng nhưng lại thường bị bỏ qua là: làm sạch bề mặtphủ thiếc phần hàn.
      • Rõ ràng việc hàn xì là một công việc không hề đơn giản như chúng ta tưởng đúng không các bác. :eek:
    [​IMG]
    Còn rất nhiều điều em muốn nói nhưng thời gian có hạn. Bác nào cần thêm thông tin có thể gọi điện, em sẽ tư vấn trực tiếp. Hi vọng bài viết của em có thể rút ngắn đôi chút con đường khổ luyện thành tài của các bác. Hehe​
     
    Last edited: 8/6/25 at 14:30
    BJerry, tai cây, Steelman and 6 others like this.
  5. AudioNga

    AudioNga Shop

    Joined:
    13/6/11
    Messages:
    222
    Likes Received:
    228
    Location:
    Phương Mai, Hà Nội
    [4]

    Một vài thủ thuật đóng gói hành lý đi máy bay
    Bài viết này có thể giúp ích đôi chút cho bác nào quan tâm

    Theo quan sát của em, hầu hết mọi người khi đóng gói hành lý máy bay thường làm việc theo thói quen mà không có chiến lược hay sự chuẩn bị trước. Việc này không chỉ gây lãng phí đáng kể về khối lượng và thể tích mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các món đồ nằm bên trong. Vì vậy, trong bài viết này, Hùng Đào Việt em xin chia sẻ một vài kinh nghiệm nho nhỏ và nghiệp dư với hi vọng sẽ giúp ích cho ai đó ít nhiều. Các transporter chuyên nghiệp nếu có vô tình đọc phải thì đừng cười em nhé :)

    Bài viết của em gồm 4 đoạn chính:
    • Đoạn 1: Đánh giá lượng hàng, chọn loại vỏ, và gia cố vỏ
    • Đoạn 2: Chọn đồ, chọn vị trí xếp, và tiến hành xếp
    • Đoạn 3: Đóng nắp và hoàn thiện
    • Đoạn 4: Loạt ảnh ví dụ
    Đầu tiên: Đánh giá lượng hàng, chọn loại vỏ, và gia cố vỏ
    Đây là khâu chuẩn bị tương đối quan trọng. Nếu hàng ít và nhẹ, dùng valy là một giải pháp tốt. Nhưng nếu hàng vừa nhiều vừa nặng, em luôn sử dụng thùng carton. Lí do: (1) giảm trọng lượng bì, từ cái valy 5-7 kg (thường là vậy) xuống chỉ còn cỡ 1.5 kg; (2) tùy biến kích thước thoải mái vì có thể ghép vài cái hộp carton nhỏ thành cái thùng to, vài cái ngắn thành cái dài. Tất nhiên, thùng carton có nhược điểm lớn là không tự di chuyển được nên các bác phải tính trước phương án di chuyển (xe đẩy, taxi, etc.) Khi chọn thùng carton, nếu có thùng 2 lớp thì tốt vì loại này rất khỏe. Thùng này thường là vỏ của các mặt hàng to và nặng. Các bác đừng lo nếu vô tình ôm phải cái thùng quá to. Thùng to vẫn dùng tốt vì ta có thể xẻ mép để hạ bớt độ cao, cắt rời rồi tái ghép để giảm kích thước nếu cần.

    Sau khi có vỏ, công việc tiếp theo là gia cố. Đối với thùng carton, em luôn gia cố bằng dây nilon bên trong (để chịu lực) rồi dán băng dính bên ngoài (bảo vệ dây nilon + chịu lực). Lí do: dây nilon vốn rất dai nhưng lại cực yếu khi bị tước nhỏ. Bên ngoài thùng, dây nilon được quấn xung quanh trước rồi đan ngang và dọc sau để tạo thành mạng chịu lực. Khoảng cách các dây tùy theo nội dung hàng và độ cứng của vỏ nhưng khoảng 10-20 cm. Dây được đan vào nhau và dán cố định 5/6 mặt, chỉ để lại 1 mặt duy nhất là mặt trên để nhồi hàng vào. Cách làm này đảm bảo thùng căng và ít bị... chửa :)

    Thứ hai: Chọn đồ, chọn vị trí xếp, và tiến hành xếp

    Sau khi có thùng đã gia cố, ta đặt thùng lên cân rồi xếp tất cả các thứ cần ship vào để ước lượng cân nặng và thể tích cho thùng hành lý đó. Nếu nặng quá, to quá thì cần san bớt ra và ngược lại. Trong một thùng, nên bố trí 1 vài đồ to đi với nhiều đồ nhỏ để chèn vào các khe hở. Về cơ bản, trước khi tiến hành viêc xếp đồ cẩn thận, ta nên chốt được: đồ nào ở thùng nào, thùng đó sẽ nặng bao nhiêu.

    Sau khi chọn và chốt, ta tiến hành xếp cẩn thận theo các tiêu chí sau:
    • Đồ to xếp vào trước, đồ nhỏ chèn vào khe sau.
    • Đồ rẻ và khó hỏng xếp ở các lớp ngoài, đồ đắt tiền xếp ở gần tâm thùng.
    • Đồ ở gần 8 góc thùng phải là những đồ chịu được chấn động hay biến dạng.
    • Đồ cứng nên đi cùng với đồ mềm để giảm chấn.
    • Đồ nặng ở dưới, nhẹ ở trên. Đồ vừa nhỏ vừa nặng (VD: cuộn thiếc, biến áp) phải được cách ly hoàn toàn với đồ dễ hỏng bằng các vách ngăn (bằng bìa carton) để tránh va chạm kiểu đấm bốc.
    • Các đồ quá nhạy cảm đôi khi ta phải kết hợp hoặc mua thêm hàng chuyển cùng. Ví dụ: mua thớt mỏng để ốp 2 bên các món hàng dễ cong vênh.
    • Các mặt hàng sắc nhọn phải được bọc kỹ. Phần sắc nhọn phải được hướng về món hàng có thể chịu đòn nếu có tai nạn xảy ra. Tuyệt đối không hướng ra ngoài gây nguy hiểm cho người hoặc hướng vào các mặt hàng mềm yếu.
    Về cơ bản, sau khi xếp, một thùng hàng tốt sẽ có các đặc điểm:
    • Trọng lượng phân bố đều theo mặt phẳng ngang; theo phương dọc thì phần nặng nên tập trung ở đáy.
    • Bên trong kín đặc, không có khe hở (nếu có thì nhét kín bằng giấy báo vụn hoặc xốp).
    • Bên trong tất cả các góc, mép là các món hàng chịu được biến dạng (quần áo, dây điện).
    Cuối cùng: Đóng nắp và hoàn thiện
    Sau khi xếp hết đồ vào, ta cân lại toàn bộ để điều chỉnh khối lượng nếu cần. Về cơ bản, thùng sẽ có khối lượng đúng như dự kiến. Tuy nhiên, nếu có sai lệch và buộc phải điều chỉnh, ta có thể thay đổi một vài món đồ ở mặt trên để tăng giảm khối lượng. Để đơn giản, ta có thể giữ nguyên thùng trên cân để theo dõi khối lượng tổng hoặc chỉ cân khối lượng số hàng đang bị nhấc ra đặt vào.

    Sau khi chốt hàng và khối lượng, ta dán kín nắp thùng, đan nốt và siết chặt dây nilon, dán băng dính, rồi dán/ghi thêm các thông tin nếu cần. Một chi tiết quan trọng là quai xách các bác có thể làm ngay từ đầu hoặc sau khi đóng gói hoàn chỉnh. Quai xách rất quan trọng vì:
    • Giúp bản thân chúng ta và nhân viên sân bay dễ thao tác với thùng hàng.
    • Hạn chế bị quăng ném do nặng, bực mình.
    • Hạn chế việc bị đặt để ở các hướng bất lợi cho hàng hóa.
    Tất nhiên, trên đây chỉ là ý kiến của riêng em và bản thân em cũng áp dụng tùy theo từng trường hợp. Ví dụ mời các bác xem mục dưới đây.

    Thêm thắt - Ví dụ một cách đóng hàng khi cần thùng lớn, chứa nhiều kiểu hàng có mức độ quan trọng khác nhau:

    Nhồi đầy các thùng nhỏ rồi ghép lại ...

    [​IMG]
    ... thành một khối. Sau đó dán thông tin ...

    [​IMG]
    ... rồi chờ đến khi hạ cánh :)

    [​IMG]
     
    Last edited: 8/6/25 at 14:30
    D0iT and nagini262 like this.
  6. AudioNga

    AudioNga Shop

    Joined:
    13/6/11
    Messages:
    222
    Likes Received:
    228
    Location:
    Phương Mai, Hà Nội
    [5]

    Nhiễu, lọc điện, biến áp cách ly, và tản mạn khác - Một vài hiểu biết hạn hẹp
    Bài viết này có thể giúp ích đôi chút cho bác nào quan tâm

    Như tiêu đề bên trên, trong bài viết này, em sẽ trình bày một số hiểu biết cơ bản về nhiễu trong nguồn điện lưới và phân tích hiệu quả của hai phương pháp lọc chặn nhiễu mà giới audiophile thường sử dụng. Để cho bài viết sáng sủa và logic, các nội dung sau đây sẽ lần lượt được triển khai:
    1. Khái niệm và phân loại nhiễu
    2. Cơ chế hình thành và phương pháp lọc chặn
    3. Hiệu quả của lọc điện
    4. Hiệu quả của biến áp cách ly (BACL)
    5. Thứ mà cả lọc điện và BACL đều không làm được
    6. Kết luận chung
    Trước khi đi vào từng nội dung, Việt Hùng Đào em xin được nhấn mạnh 3 điều sau:
    • Bài viết chỉ bàn về phương diện kỹ thuật, không liên quan đến đôi tai và gu nghe nhạc của từng cá nhân.
    • Nguồn điện sạch chưa phải là điều kiện đủ cho chất âm hay nhưng là điều kiện cần cho sự hoạt động ổn định và tin cậy của hệ thống audio.
    • Đây chỉ là các ý kiến cá nhân dựa trên hiểu biết hạn hẹp của em nên hoàn toàn có thể có sai sót, mong nhận được góp ý thêm từ các bác.
    1. Khái niệm và phân loại nhiễu

    Nhiễu là gì? Định nghĩa một cách đơn giản nhất: nhiễu là tất cả những biến động không mong muốn, gây sai lệch cho tín hiệu có ích. Nhiễu là thứ làm vấy bẩn tín hiệu sạch; do đó, nhiễu cần được loại bỏ.

    Đối với nguồn điện lưới, nhiễu thường tạo ra các gai cao áp, gây méo dạng hình sin, và làm trồi sụt về biên độ. Nguồn gốc của các biến động này đến từ rất nhiều nguồn và từ mọi hướng. Nhiễu có thể được sinh ra từ các thiết bị nhân tạo như: nguồn xung trong các adaptor, chổi than động cơ, bugi xe máy, máy hàn hồ quang, anten truyền hình, trạm phát di động, v.v. hoặc từ các nguồn tự nhiên như: sấm sét, bão mặt trời, tia vũ trụ, v.v. Nhiễu có thể đến từ bên ngoài nhưng cũng có thể được tạo ra từ bên trong thiết bị, do bản thân các khối mạch gây ảnh hưởng lẫn nhau. Phân tích về những điều này rất dài dòng và không trọng tâm nên ta chỉ dừng ở đây.

    Ta đi sâu vào hai nội dung quan trọng hơn là phân loại thành phần nhiễu và con đường lây lan. Để làm rõ hai nội dung này, ta xét một hệ thống điện cơ bản gồm: trạm điện A và nhà dân B; hai dây điện L (live- nóng) và N (neutral - lạnh, trung tính); mặt đất chung GND (ground). Tại trạm điện, N được nối đất (0 V). Do có sụt áp trong quá trình truyền và nhiễu tác động, N tại B có điện thế khác 0 và không cố định. Với hệ thống này, nhiễu được chia ra làm 2 thành phần như sau:
    • Nhiễu mode chung (common-mode): nhiễu trên hai dây tải điện cùng so với đất chung. Nôm na là thành phần nhiễu giống nhau, cùng xuất hiện trên N và L.
    • Nhiễu vi sai (differential-mode): nhiễu trên dây L so với dây N. Nôm na là thành phần nhiễu chỉ có trên dây L.
    Tại nhà của chúng ta, tại từng thiết bị, hai thành phần nhiễu trên xuất hiện do bị lây lan qua 4 con đường chính:
    • Đ1: Truyền dẫn trực tiếp (VD: qua dây nguồn)
    • Đ2: Cảm ứng từ (VD: từ cuộn sơ sang cuộn thứ BACL)
    • Đ3: Xuyên qua tụ (VD: hai dây điện chạy song song)
    • Đ4: Lan bằng sóng vô tuyến (VD: nhiễu RFI đều từ xa bay đến)
    Như vậy là để lọc chặn nhiễu triệt để, ta phải:
    • Lọc cả hai thành phần nhiễu
    • Chặn hoặc cản trở tất cả các con đường lây lan
    Phương cách như thế nào sẽ được trình bày ở nội dung tiếp theo.​

    2. Cơ chế hình thành và phương pháp lọc chặn

    Nhiễu mode chung thường "được" tạo ra do bắt nhiễu từ bên ngoài. Trong mạng điện trên, nếu xét cả thành phần tụ ký sinh, ta có một mạch kín chạy từ A qua NL đến B rồi qua đất trở về A. Mạch này đôi khi nhìn rất hở nhưng là một vòng kín vô hình đối với tín hiệu tần số cao. Mạch kín này tạo thành một vòng thu nhiễu điện từ khổng lồ. Do đó, nhiễu mode chung thường có biên độ khá lớn và có phổ tần số rất rộng.

    Nhiễu vi sai thường được hình thành do các biến đổi trong mạng lưới điện. Khi đóng cắt một tải công suất lớn, điện áp giữa N và L có sự trồi sụt rất đáng kể. Mạng điện càng rộng, sự trồi sụt càng đa dạng và thường xuyên, bao gồm cả hiệu ứng xếp chồng. Ở trường hợp khác, khi một adaptor máy tính được cắm vào mạng điện, các xung nhọn sinh ra từ bộ nguồn flyback này (là một điện áp vi sai giữa N và L) sẽ lan ra ngoài mạng điện nếu chưa được lọc kỹ. Hiện tượng khó tưởng tượng hơn nhưng vẫn xảy ra thường xuyên: bão từ mặt trời tạo nên các dòng điện cảm ứng trên toàn mạng điện. Đương nhiên các dòng điện này là không mong muốn và được coi là nhiễu.

    Từ các phân tích trên, một số phương án loại nhiễu có thể là:
    • Với nhiễu mode chung:
      • PA1: Chặt đứt vòng mạch kín để tạo thành mạch hở
      • PA2: Ngắn mạch (nối tắt) các xung nhiễu từ L và N xuống đất
    • Với nhiễu vi sai:
      • PA3: Bù các biến thiên chậm bằng ổn áp
      • PA4: Ngắn mạch (nối tắt) các xung biến thiên nhanh (nhiễu tần số cao) giữa L và N
    Trong thực tế, khử sạch nhiễu là điều không dễ thực hiện. Do cơ chế hình thành và lan truyền, nhiễu thường trộn lẫn với tín hiệu có ích. Khi chặn đứng nhiễu sẽ chặn cả tín hiệu; khi cho tín hiệu qua sẽ có nhiễu rò rỉ cùng đi qua. Nói cách khác, việc thiết kế một thiết bị chặn 100% nhiễu nhưng lại cho 100% tín hiệu truyền qua là điều bất khả thi. Thay vào đó, người ta tìm cách làm suy giảm nhiễu bằng cách tạo ra các "rào cản có chọn lọc". Hàng rào này cản nhiễu thật mạnh nhưng lại tương đối nhẹ nhàng đối với tín hiệu.

    Rõ ràng là, từ đây trở đi, khi nói chặn nhiễu, lọc nhiễu, khử nhiễu, ta hiểu rằng đó là công việc làm cho nhiễu suy yếu đi chứ không phải là loại thẳng cổ nhiễu ra khỏi tín hiệu. Không có khái niệm sạch nhiễu, chỉ có khái niệm nhiễu bị làm yếu đi bao nhiêu lần. Đó chính là một trong những thông số quan trọng nhất của bộ lọc: độ suy hao dải chắn, tính bằng lần hoặc dB. Đây là thông số quan trọng hơn rất nhiều so với khả năng chịu dòng (tính bằng A). Chi tiết sẽ được mô tả tại mục tiếp theo.​

    3. Hiệu quả của lọc điện

    Đầu tiên phải nói rằng: lọc điện chỉ chặn được nhiễu lây lan qua đường Đ1. Nói một cách chính xác hơn, lọc điện không thể chặn nhiễu mà chỉ có thể làm suy yếu nhiễu truyền dẫn. Nếu liệt kê các thông số cơ bản của bộ lọc theo thứ tự giảm dần của mức độ quan trọng, ta có:
    1. Sức suy giảm nhiễu (insertion loss): cần càng lớn càng tốt. Hệ số này đặc trưng cho tỷ lệ công suất nhiễu (hoặc biên độ nhiễu) trước và sau khi đi qua bộ lọc. Độ giảm này có thể đến cỡ hàng nghìn, hàng triệu nên khi biểu diễn dưới dạng con số thường cồng kềnh, không dễ hình dung và so sánh. Thay vào đó, người ta thường tính theo decibel (dB). Khi quy đổi: cứ 3 dB ứng với công suất tăng/giảm 2 lần, 6 dB là 4 lần, 10 dB là 10 lần, 20 dB là 100 lần, 60 dB là 1 triệu lần, và... 100 dB thì là 10 tỷ lần. Rõ ràng, con số 50 dB và 100 dB nghe có vẻ hơn kém nhau chỉ 2 lần nhưng thực tế thì là 100,000 (một trăm nghìn) lần. Hệ số này lớn hay nhỏ tùy thuộc theo cấu trúc bộ lọc và giá trị các linh kiện trong mạch lọc. Hệ số này cũng thay đổi theo từng dải tần chứ không cố định. Do đó, muốn sử dụng bộ lọc một cách hiệu quả, ta phải chọn bộ lọc theo hệ số suy hao ứng với dải tần số cần "triệt". Nói ngắn gọn là quan tâm đến đặc tuyến của bộ lọc.
    2. Độ suy hao tín hiệu có ích: cần càng nhỏ càng tốt. Với lọc nguồn, tín hiệu chính là dòng điện 220 V, 50 Hz. Rõ ràng, đây là thứ cần phải truyền dẫn qua tốt nhất có thể. Thông số này thường không được công bố rõ ràng. Thay vào đó, người ta thường nói đến dòng tải cực đại của bộ lọc, tính bằng ampere (A). Nôm na là bộ lọc nào có A lớn thì ít suy hao và ngược lại.
    3. Tần số dòng điện: cần đúng (cũng có thể lớn hơn) tần số mạng điện đang sử dụng. Rõ ràng đối với bộ lọc dành cho điện 50 Hz, điện 400 Hz được coi là nhiễu; ngược lại điện 50 Hz là thứ không được welcome lắm ở bộ lọc 400 Hz (mặc dù có thể vẫn sử dụng được).
    4. Các giá trị điện áp làm việc: cần đáp ứng được điện áp dân dụng là đủ. Đây là thông số quan trọng với nhà sản xuất do liên quan đến chi phí chế tạo. Tuy nhiên, với người mua đồ 2nd-hand thì về cơ bản... cứ thấy 250 V là OK rồi.
    Rõ ràng là: thông số thứ hai không phải là thứ tinh túy nhất của bộ lọc nhưng lại thường được quan tâm một cách thái quá khi mua bán. Bộ lọc cứ có A lớn là đắt tiền mặc dù bé tí tẹo và lọc hời hợt. Trong khi đó, bộ lọc triệt nhiễu hùng hục thì thường lại bị hắt hủi do có A nhỏ hơn. Với cùng một kích thước và công nghệ, thường A nhỏ hơn sẽ lọc tốt hơn và ngược lại. Đó là sự đánh đổi mà chúng ta cần phải chấp nhận và thỏa hiệp.

    Bàn sâu hơn một chút, nếu các bác tò mò có thể ngâm cứu thêm cấu trúc mạch điện của cục lọc nhiễu. Trong mạch này, thường có các cuộn dây quấn ngược chiều chung lõi để suy hao bớt nhiễu mode chung (theo PA1). Có thêm vài tụ đấu từ N và L xuống đất cũng để diệt bớt thành phần nhiễu này (theo PA2). Cuối cùng là thêm một vài tụ đấu từ N sang L để ngắn mạch phần nào nhiễu vi sai (theo PA4). Tùy bộ lọc mà cấu trúc có thể khác nhau và độ phức tạp có thể thay đổi. Chính vì vậy, thông số insertion loss của bộ lọc phải được phân thành hai loại riêng biệt là mode chung (asymmetrical, line - ground) và vi sai (symmetrical, line - line). Rõ ràng là từ nay các bác có thể đánh giá một bộ lọc dựa trên cấu trúc. Nếu chỉ có cuộn dây thì nó có tác dụng gì và không có khả năng gì.
    4. Hiệu quả của biến áp cách ly

    Đầu tiên phải nói rằng: BACL ngoài tác dụng cách ly (chống giật) thì còn có tác dụng giảm ảnh hưởng của nhiễu. Khả năng chặn nhiễu của BACL đến từ 2 thứ: sự độc lập của hai cuộn dây và giới hạn truyền của lõi sắt. Giải thích vấn đề này có thể tương đối rắc rối và trừu tượng nhưng ta cứ đi lần lượt như sau:
    1. Sự độc lập của hai cuộn dây: giúp chặt đứt khá triệt để đường truyền dẫn trực tiếp Đ1. Điều này là rất rõ ràng vì hai cuộn sơ và thứ quấn hoàn toàn độc lập và cách điện với nhau. Sự độc lập này không những chặt vòng kín đã cưu mang nhiễu mode chung mà còn chặt luôn cả mạch kín chết người: biến áp của trạm BA > dây nóng > nhà dân > người sử dụng > qua người > xuống đất > qua đất > dây tiếp đất trạm BA > cuộn biến áp. Đặc điểm này lý giải khả năng chống giật của BACL nhưng làm phát sinh ngay một câu hỏi: nói điện bị chặn ở BACL thì cái thứ đi ra ở cuộn thứ cấp gọi là gì? Xin trả lời rằng đó vẫn là điện. Ở đây ta cần phân biệt 2 thứ: thứ bị chặn lại là điện so với đất (mode chung, gây giật nhưng không làm quạt quay hay đèn sáng), thứ mà vẫn qua được là điện so dây L với dây N (vi sai, 220 V). Tức là BACL đã chặt đứt vòng mạch mode chung (tạm gọi là chặt thứ có hại) nhưng vẫn truyền tải điện áp vi sai (220 V để nuôi thiết bị) qua con đường Đ2. Tất nhiên, đường Đ2 cũng đưa một phần nhiễu vi sai truyền qua nhưng ta sẽ bàn đến vấn đề này ở phần 2. Thay vào đó, có một điều đáng nói hơn, đó là đường truyền Đ3. Đường Đ3 được hình thành do các cuộn dây quấn sát nhau và nằm sát với lõi, vỏ BA. Cấu trúc này vô tình tạo ra các tụ điện ký sinh sơ-thứ, sơ-vỏ, thứ-vỏ. Ba tụ này hợp sức lại sẽ khép kín một phần con đường Đ1 đã đứt; và, tất nhiên, nhiễu tần số cao sẽ truyền qua. Giải quyết vấn đề này không quá khó đối với các nhà sản xuất. Họ nối đất khung lõi thép và tạo ra rồi nối đất màn chắn giữa cuộn sơ cấp và thứ cấp. Bằng cách đó, tất cả các tụ điện giờ đây đều "cắm đầu" xuống đất, tiễn toàn bộ nhiễu xuống âm phủ bằng PA4.
    2. Khả năng truyền tải của lõi sắt: là có hạn, giúp giảm ảnh hưởng của nhiễu vi sai truyền qua đường Đ2. Có hạn ở đây hiểu theo cả 2 nghĩa: về tần số và biên độ. Trong BACL, lõi sắt là phương tiện chuyên trở năng lượng từ cuộn sơ cấp sang cuộn thứ cấp. Rõ ràng nếu lõi sắt không làm việc được với tần số nào thì tần số đó sẽ bị chặn lại; và nếu lõi sắt (với kích thước giới hạn) bị bão hòa thì năng lượng chuyên trở đạt cực đại, gần như không thể tăng thêm nữa. Các BACL mà ta đang dùng đều chế tạo bằng vật liệu sắt từ. Vật liệu này truyền tải tốt 50-60 Hz nhưng khá tệ với dải tần cao; do đó, gián tiếp lọc bớt nhiễu cao tần. Ở khía cạnh còn lại, sự bão hòa từ có thể giúp giảm bớt thiệt lại tại đầu ra khi đầu vào tăng vọt đột ngột. Tất nhiên đặc điểm này không dễ lợi dụng để đạt được mục đích "lọc" như chúng ta kỳ vọng, nhưng ít nhất là nó không cho các xung nhiễu có biên độ lớn vô cực phi vào dàn máy của anh em. Xét ở điểm này, các bác thử đoán xem dùng biến áp công suất nhỏ có lợi gì không. Hehe
    Vậy sau phần này, ta có thể tự trả lời được một số những câu hỏi như: Tại sao BACL lại thường có màn chắn nhiễu sơ-thứ? Màn chắn này không nối đất thì sao và có nối đất thì sao? Tại sao giữa cuộn sơ-thứ của BACL lại thường được đệm để tăng khoảng cách? V.v. và v.v.
    5. Thứ mà cả lọc điện và BACL đều không làm được

    Đó chính là chặn nhiễu lây qua đường Đ4. Tất nhiên là vậy vì cả hai công cụ trên chỉ có tác dụng chặn đường lây hữu tuyến (có thể hữu hình hay vô hình). Nhiễu điện từ (EMI và RFI) lan truyền như ma, bao phủ toàn bộ không gian quanh ta. Nếu không có phương án ngăn chặn, nó nhiễm cho tất cả: dây dẫn trước lọc và sau lọc, dây dẫn trước BACL và sau BACL, dây chạy trong thiết bị, linh kiện trên bo mạch, thậm chí là mạch sâu bên trong IC.

    Nhưng chúng ta cũng không nên quá lo lắng. Nhiễu lây qua đường Đ4 chỉ gây ảnh hưởng đáng kể đối với đường tín hiệu chứ ít ảnh hưởng đến dây cấp nguồn trong phạm vi gia đình. Với dây tín hiệu và mạch điện, "phương án ngăn chặn" chính là che chắn tốt bằng lớp giáp hoặc vỏ kim loại nối đất. Che chắn và nối đất nghiêm túc có thể loại bỏ gần như hoàn toàn con đường Đ4 này. Bác nào muốn tìm hiểu kỹ hơn có thể đọc về lồng Faraday và các vấn đề liên quan. Sâu hơn nữa thì ít tài liệu tiếng Việt nhưng ta có thể tìm tài liệu tiếng Anh với tác từ khóa "shielding" và "grounding".
    6. Kết luận chung

    Bài viết này đã trình bày một cách vắn tắt (dù vẫn còn khá dài dòng) một số vấn đề về nhiễu và hiệu quả của hai phương pháp lọc nhiễu mà giới audiophile thường sử dụng. Để chốt lại và cũng mở ra, em xin mạnh dạn phát biểu một số luận điểm sau về lọc điện và BACL (vẫn dựa trên quan điểm cá nhân):
    1. Khi chọn lọc điện, có hai câu hỏi quan trọng nhất cần trả lời là: Lọc cái gì (nói cách khác là nhiễu dải tần nào)? Lọc bao nhiêu thì đủ (nói cách khác là cần suy hao nhiễu bao nhiêu lần)? Chứ không phải là cục lọc mấy ampere.
    2. Khi chọn lọc điện, nếu chỉ vì sướng, chúng ta cứ mua cục nào chúng ta thích hoặc thiên hạ thích. Còn nếu quan tâm đến hiệu quả giảm nhiễu, chúng ta cần xem xét nghiêm túc đặc tuyến trong datasheet của bộ lọc. Khả năng chịu dòng (tính bằng A) không cần quá lớn, chỉ cần dư một chút.
    3. Nếu không trả lời được câu 1 và không hiểu đặc tuyến ở câu 2, phương pháp chọn lọc điện tù không mù là: ưu tiên xác to nhưng dòng nhỏ (hoặc vừa). Với những cục có dòng lớn thì xác cần phải siêu lớn.
    4. Lọc điện có cấu trúc mạch phức tạp thường tiềm ẩn khả năng lọc tốt trong một dải tần rộng. Các lọc điện có quá ít linh kiện (dù nhìn có thể hầm hố) thường được thiết kế để sơ lọc hoặc lọc một dải tần hẹp cụ thể nào đó trong công nghiệp. Các bộ lọc này có thể ít tác dụng hoặc thậm chí không có tác dụng gì đối với bộ dàn audio (giống như lọc bụi bằng lưới B40).
    5. Có thể ghép nối tiếp nhiều cục để tăng hiệu quả lọc (cần cân nhắc hao hụt điện).
    6. Cục lọc tổng chặn được nhiễu từ mạng điện vào nhà nhưng không chặn được nhiễu giữa các thiết bị gây chéo cho nhau. Sau lọc tổng, nhiễu vẫn tiếp tục hình thành do truyền dẫn vô tuyến. Vì vậy, cách lọc hiệu quả là sử dụng nhiều bộ lọc con thay vì một bộ lọc to. Lọc gắn càng gần thiết bị được lọc càng tốt.
    7. BACL có khả năng chặn nhiễu, dù có hay không màn chắn sơ-thứ và có hay không nối đất. Tuy nhiên, trong trường hợp có màn chắn sơ-thứ và được nối đất đúng cách, khả năng chặn nhiễu của BACL được tăng cường đáng kể.
    8. Điện sạch thì không cần lọc. Điện sạch lắp thêm lọc thì chỉ làm giảm chất lượng điện (không bàn chất âm). Điện bẩn có thể vẫn không cần lọc nếu bản thân nguồn trong thiết bị được thiết kế tốt.
    9. Bộ lọc gây thay đổi nguồn điện nên có thể dẫn đến thay đổi chất âm. Thay đổi này có thể là tốt lên hoặc tệ đi tùy thuộc vào bộ dàn và vào tai mỗi người. Xin lạm bàn điều này để nhỡ đâu lại giúp anh em đỡ cãi nhau. Xin dừng bàn phím :)
     
    Last edited: 8/6/25 at 14:30
  7. AudioNga

    AudioNga Shop

    Joined:
    13/6/11
    Messages:
    222
    Likes Received:
    228
    Location:
    Phương Mai, Hà Nội
    Còn nữa .............................................
     
    cuquanaudio and giangvunam like this.

Share This Page

Loading...