Keith Jarrett Ngẫu Hứng Bất TậnTrong hơn 40 năm qua, Keith Jarrett đã được công nhận là một trong những nhạc sĩ sáng tạo nhất của thời đại – mọi người đều thừa nhận và ca ngợi ông như là một thiên tài vượt trội của thể loại nhạc ngẫu hứng; một bậc thầy của đàn piano nhạc jazz; một keyboard cổ điển có chiều sâu; và như là một nhà soạn nhạc, người đã viết hàng trăm bản nhạc cho các nhóm nhạc jazz khác nhau của mình, ngoài ra, ông còn cống hiến cho các dàn nhạc, và là một nghệ sĩ solo, biểu diễn ở các sân khấu lớn. Ông sinh ngày 8 tháng 5 năm 1945 tại Allentown, Pennsylvania. Keith Jarett bắt đầu chơi piano năm lên 3 và học nhạc cổ điển trong suốt những năm thiếu niên; là cậu bé biểu diễn trong chương trình hòa nhạc tại học viện Âm Nhạc ở Philadelphia và Madison Square Garden. Ông chính thức học sáng tác năm 15 tuổi, trước khi chuyển về Boston để học tại trường Cao Đẳng Âm Nhạc Berklee trong một thời gian ngắn. Và, trong khi vẫn là một cậu thiếu niên, ông được thu xếp đến Paris để học nghiên cứu sang tác với Nadia Boulanger, nhưng ông hủy bỏ chuyến đi vào giờ chót để đi New York chơi nhạc Jazz. Sau một thời gian tạm thời chơi ở Village Vanguard và các tụ điểm Jazz ở New York, ông có chuyến lưu diễn đầu tiên với ban nhạc Jazz Messenger Art Blakey. Từ năm 1966 đến 1968, Jarrett là pianist chơi cho tứ tấu Charles Lloyd, và tứ tấu này nhanh chóng trở nên nổi tiếng nhất trong bối cảnh nhạc Jazz những năm 60, với những bản thu âm best-selling và những tour lưu diễn trên toàn thế giới. Sau đó ông thành lập tam tấu với Charlie Haden, Paul Motian. Tam tấu này mở rộng thành tứ tấu năm 1972 với sự gia nhập của tay tenor saxophone Dewey Redman. Trong 2 năm 1970-1971, Jarrett trở thành thành viên nổi bật của ban nhạc Miles Davis, là ban nhạc chơi hỗn hợp các khí cụ điện tử, trong đó ông chơi piano điện và organ. Vì piano là nhạc cụ đệm cho các nhạc cụ khác trong dàn nhạc, chính vì thế, Jarrett đã tận hiến cuộc đời để mở ra một hướng đi tiên phong, ông đã tự mình chơi thể loại độc tấu piano acoustic. Năm 1971, Keith Jarrett bắt đầu cộng tác thu âm với nhà sản xuất Manfred Eicher của Đức và hãng ECM Records (Editions of Contemporary Music). Sự hợp tác thành công này đã tạo ra hơn 60 bản thu âm cho đến nay, đó là một điều chưa từng xảy ra với khả năng của các hãng, vì các bản thu âm thật đa dạng và chất lượng. Có thể nói các bản thu âm độc tấu piano là một bước ngoặc thiết lập nên nền tảng của lịch sử âm nhạc đối với Jarrett/ECM, giúp xác định lại vai trò của piano trong âm nhạc đương đại. Sự ngẫu hứng của piano trong các tác phẩm Facing You, Solo Concerts, The Köln Concert, Staircase, Sun Bear Concerts, Moth and The Flame, Concerts, Paris Concert, Dark Intervals, Vienna Concert, và La Scala là sự kết hợp một chuỗi âm thanh mênh mông của tiếng nói âm nhạc và ngôn ngữ, trong đó là sự tổng hợp các thể loại: nhạc cổ điển, Jazz, cổ truyền dân tộc, phúc âm, folk, blues và những âm thanh tinh khiết, nó cho thấy một quá trình sáng tạo dựa trên một trạng thái ý thức sâu sắc của nhận thức và lắng nghe, trong một khoảng lặng, tạo ra âm nhạc từ một cá nhân sâu sắc nhưng vẫn khái quát. Thể loại độc tấu piano chưa từng có tiền lệ này đã đưa Köln Concert trở thành bản thu âm best-selling trong lịch sử. Tháng 5 năm 2005, ECM đã phát hành Radiance, là bộ 2 CD mới của thể loại piano ngẫu hứng, được thu âm live tại Nhật vào tháng 11 năm 2002. Vào ngày 26 tháng 9, 2005 Keith Jarrett đã chơi solo một chương trình hòa nhạc tại Carnegie Hall, New York, đó là những buổi diễn đầu tiên ở Mỹ trong vòng 10 năm trở lại đây. Năm bản nhạc đặc trưng đã được ông chơi lại, bao gồm 2 tác phẩm nổi tiếng My Song và Paint My Heart Red, được ECM thu lại và phát hành vào tháng 9, 2006. Trong năm 1999, ECM phát hành các bản thu âm solo piano The Melody At Night, With You thể loại cổ điển, đã trở thành các bản thu âm nhạc cụ best-selling của một nghệ sỹ Jazz trong vòng 1 thập kỷ trước đó, giành được nhiều giải thưởng “Best of the Year” ở châu Âu, Nhật Bản và Mỹ. Bộ ba tam tấu chơi Jazz với nhau trong 2 thập kỷ, Keith Jarrett, Gary Peacock(bass), Jack DeJohnette(trống) đã tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ 20 cùng nhau trong năm 2003. Lần đầu tiên tam tấu chơi nhạc cùng nhau vào năm 1977, khi đó Jarrett và DeJohnette chơi trong bản thu âm đầu tiên của Peacock với hãng ECM Records, là bản thu Tales of Another (Jarrett và DeJohnette cũng đã chơi nhạc cùng nhau vào những năm cuối thập kỷ 60, cùng với Charles Lloyd và Miles Davis). Năm 1983, Jarrett mời Peacock và DeJohnette cùng sáng tác trong thể loại “standards”, đó là sự kết hợp giữa sân khấu Broadway giàu hình thể của Mỹ và những giai điệu Jazz từ thập niên 30, 40, và 50. Thời gian đó, có thể xem là thời hoàng kim của “standards”, vì những nhạc công hàng đầu đều tập trung vào đó. Thay vì đi theo những ý tưởng sơ khai đấy, Jarrett lại nghĩ khác, ông cho rằng: Âm nhạc không phải chỉ xuất phát từ ý tưởng, mà là những gì nhạc công gởi gắm trong ý tưởng đó. Bản thu âm gốc năm 1983 tại New York của tam tấu đã được ECM phát hành ra 3 album: Standards Vol.1, Vol.2 và Changes. Mười ba bản thu âm live concert tam tấu biểu diễn ở những thành phố khác nhau trên toàn thế giới đã được ECM thu lại và phát hành, đó là: Standards Live (Paris 1985), Still Live (Munich 1986), Changeless (US Tour 1987), Tribute (Cologne 1989), Standards in Norway (Oslo 1989), The Cure (New York/Town Hall 1990), Live at The Blue Note (New York 1994), Tokyo '96 (Tokyo, 1996), Whisper Not (Paris 1999), và 2 album tam tấu chơi thể loại ngẫu hứng tự do tại các buổi hòa nhạc: Inside Out (London, 2000), Always Let Me Go (Tokyo, 2001). Năm 2003, để kỷ niệm 20 năm cộng tác, ECM phát hành album Up For It, là bản thu âm trực tiếp vào năm 2002 của tam tấu biểu diễn tại Liên hoan nhạc Jazz de D'Antibes / Juan-les-Pins (Pháp). Album mới nhất của tam tấu là Out-of-Towners, cũng là bản thu âm trực tiếp tại buổi hòa nhạc tại Munich's State Opera House vào tháng 7, 2001. Album này cũng được đề cử giải Grammy năm 2004 và gần đây cũng được trao giải thưởng Deutsche Schallplattenpreis của Đức. Năm 1995 ECM phát hành box set 6CD đặc biệt, thu âm live lại toàn bộ chương trình của tam tấu chơi tại câu lạc bộ jazz Blue Note vào tháng 6, 1994: Keith Jarrett At The Blue Note: The Complete Recordings. Trong box set này bao gồm tất cả gần 40 tác phẩm tiêu biểu của Jarrett “standards”, “original”, cộng them các tác phẩm tam tấu chơi ngẫu hứng. Và box set này đã được Downbeat Critics Poll bầu chọn là “Album of the Year” năm 1996. Năm 1991, sau cái chết của Miles Davis 3 tuần, tam tấu trở lại phòng thu sau 8 năm để thu âm Bye Bye Blackbird như để gởi một lời tri ân sâu sắc đến Davis, một cây đại thụ của làng nhạc Jazz, người đã chơi cùng tam tấu trong những năm đầu tiên. ECM cũng đã phát hành một album khác của tứ tấu Jarrett, At The Deer Head Inn, là bản thu âm trực tiếp trong lúc Jarrett biểu diễn cùng hai người bạn thân Paul Motian và Gary Peacock tại lữ quán The Deer Head, một lữ quán cổ kính ở Pocono Mountains, Eastern Pennsylvania. Lữ quán có 140 năm tuổi và có 60 năm lịch sử nhạc Jazz hiện diện. Nơi này Jarrett bắt đầu sự nghiệp biểu diễn Jazz chuyên nghiệp năm 16 tuổi. ECM cũng phát hành album Belonging thể hiện sự tôn vinh của Jarrett đối với tứ tấu người Scandinavi của những năm cuối thập niên 70, tiêu biểu là Jan Garbarek (saxophone), Palle Danielsson (bass) and Jon Christensen (trống). Rất nhiều bản thu âm của tứ tấu này bao gồm Belonging, My Song, Nude Ants, và Personal Mountains là bestseller, nó gây ảnh hưởng đến toàn bộ giới chơi nhạc trẻ của châu Âu và châu Mỹ. Hơn 10 bản thu âm nhạc Jazz khác của Jarrett thời kỳ đầu với tứ tấu gồm ông và Charlie Haden, Paul Motian, Dewey Redman cho các hãng thu âm Columbia, Impulse Records và ECM như là: The Mourning of a Star, Birth, El Juicio, Expectations, Fort Yawuh, Treasure Island, Death and the Flower, Back Hand, Mysteries, Shades, The Survivor's Suite, Eyes of the Heart đã giành được nhiều giải thưởng “Best of the Year” của các tạp chí âm nhạc thế giới. Hãng Impulse/GRP Records cũng đã phát hành 2 bộ multi-CD: The Keith Jarrett: Impulse Years 1973-1974 (5-CD set) và Mysteries: The Impulse Years 1975-76 (4-CD set) bao gồm toàn bộ các bản thu âm của ông với tứ tấu người Mỹ Haden, Redman và Motian. Hai tư liệu trong bản thu âm này là việc ghi lại thời kỳ chơi hay nhất của các nhóm acoustic jazz, thể loại tiêu biểu trong 8 LP gốc Impulse, cộng thêm là xen kẽ hơn 2 giờ thu âm mà trước đó chưa phát hành trong bản thu âm Impulse gốc. Hãng Rhino/Atlantic Records thì phát hành box set 2CD, Foundations, hồi tưởng lại những năm đầu trong lịch sử thu âm của Jarrett từ năm 1966 đến 1974. Trong đó là những track chọn lọc từ những buổi thu âm đầu tiên với Atlantic, lúc đó Jarrett chơi với tam/tứ tấu American. Cộng với những bản thu âm đầu của Jarrett khi còn đệm piano với Art Blakey và Charles Lloyd, và những bản thu âm chơi với Pepper/Bob Moses (trước đó chưa phát hành), và với Gary Burton, Airto. Đối với Jarrett, một trong những album quan trọng nhất là Spirits, một tác phẩm mang dấu ấn cá nhân sâu sắc và nguyên sơ trong sự đồng cảm với âm nhạc. Trong album này ông một mình chơi tất cả các nhạc cụ: Tiêu, Sáo gỗ Pakistan, Tabla-một loại trống vỗ tay nhỏ của Ấn Độ, bộ gõ, guitar, saxophone, piano, và thánh ca. Hướng người nghe bằng trực giác hơn là bằng kỹ thuật. Còn thể loai âm nhạc liên tưởng và ám ảnh bao gồm nhạc cổ truyền và âm nhạc thời Trung cổ thì được Jarrett tự thu âm đơn giản tại nhà năm 1985 mà không cần bất kỳ kỹ sư âm thanh nào. Ông chỉ dùng 2 đầu thu cassette và 2 micro cho mỗi nhạc cụ. Album Spirits là sự hợp nhất của Hymns/Spheres (organ), Book of Aways (clavichord) và Vienna Concert (piano) được Jarrett tuyển chọn từ các bản thu âm chủ yếu nhất. Mỗi một bản thu âm được chọn là một dẫn chứng cho đại diện tinh túy của thể loại ngẫu hứng. Một bản thu âm khác của Jarrett do ECM phát hành là Sacred Hymns, đó là một bản thu âm lại tác phẩm âm nhạc piano thiêng liêng của nhà triết học huyền bí GI Gurdjieff ,chuyển biên lại bởi Thomas DeHartmann, biểu diễn tác phẩm Fratres của Arvo Pärt với nghệ sỹ violon Gidon Kremer (đoạn này em dịch không nổi-sẽ hiệu đính sau) Có rất nhiều bản thu âm của Jarrett với dàn nhạc giao hưởng thính phòng như In The Light, Arbour Zena và Luminessence (chủ đạo saxophonist Jan Garbarek), Celestial Hawk (với Christopher Keene và Syracuse Symphony); và Bridge of Light , trong đó Jarrett chơi vị trí chính trong dàn nhạc thính phòng; tác phẩm Elegy cho violon và dàn nhạc dây, Adagio cho kèn Oboe và bộ dây. Tác phẩm Bridge of Light cho Viola và dàn nhạc thính phòng được The Fairfield Orchestra thể hiện, chỉ huy dàn nhạc Thomas Crawford, violon solo Michelle Makarski, viola Patricia McCarty, và oboe Marcia Butler. Tác phẩm Jarrett Sonata viết cho violon và piano, trong đó Jarrett chơi piano và Makarski chơi violon. Bảng tổng phổ và phân đoạn của 4 tác phẩm giao hưởng trên hiện nay đang lưu giữ ở Schott Music International. Các tác phẩm âm nhạc cổ điển JS Bach soạn cho bộ phím do Keith Jarrett chơi do ECM phát hành như: Well-Tempered Clavier Book I (piano) and Book II (harpsichord), Goldberg Variations (harpsichord), French Suites (harpsichord), và bản Sonatas cho Viola: Da Gamba and Cembalo với Kim Kashkashian (viola) và Jarrett (harpsichord); cộng thêm là tác phẩm Shostakovich 24 Preludes and Fugues, Op.87; và bản thu được chọn lọc từ Handel Keyboard Suites. 87. Và cũng có 2 Vol. ECM do Jarrett chơi chọn lọc từ các bản Mozart Piano Concertos với dàn nhạc Stuttgart Kammerorchester, chỉ huy dàn nhạc Dennis Russell Davies. Hãng BMG/RCA Records cũng phát hành 2 CD với Jarrett (harpsichord) cùng chơi với Michala Petri, một nghệ sỹ chơi recoder(tiêu) Đan Mạch, biểu diễn bản Sonatas Handel viết cho recoder và harpsichord; và bản Sonata JS Bach Sonatas viết cho flute và harpsichord. Những bản thu âm khác của Jarrett về piano đương đại ở hãng New World Records, là bản concerto Lou Harrison Piano (soạn riêng cho Jarrett); và tổ khúc Harrison cho violon và dàn nhạc giao hưởng (Lucy Stoltzman, violin); và ở hãng MusicMasters Records là tác phẩm Alan Hovaness do Lousadvak viết cho piano và dàn nhạc giao hưởng do American Composers Orchestra trình diễn và Dennis Russell Davies chỉ huy dàn nhạc; bản concerto Etruscan của nhà soạn nhạc người Úc Peggy Glanville-Hicks, chơi với dàn nhạc Brooklyn Philharmonic, chỉ huy Mr. Davies. Keith Jarrett đã biểu diễn nhiều thể loại nhạc như Baroque-một phong cách nghệ thuật phổ biến từ thế kỷ 16, nhạc cổ điển, và nhạc đương đại của bộ phím ở nhiều trung tâm, viện âm nhạc quốc tế bao gồm những tác phẩm của Barber, Bartók, Peggy Glanville-Hicks, Lou Harrison, Alan Hovhaness, Colin McPhee, Mozart and Stravinsky, ông biểu diễn cùng các dàn nhạc giao hưởng thính phòng Boston, San Francisco, Philadelphia, Detroit, Atlanta, Brooklyn, Rochester, cũng như là với American Composers Orchestra, Beethovenhalle Orchestra Bonn, Handel and Haydn Society (Boston), dàn nhạc giao hưởng St. Paul và English Chamber, với các chỉ huy John Adams, Vladimir Ashkenazy, Dennis Russell Davies, John Eliot Gardiner, Christopher Hogwood, Christopher Keene, Jeffrey Tate và Hugh Wolff. Ông cũng chơi lại các tác phẩm của JS Bach, Bartók, Beethoven, Handel, Hindemith, Mozart, Purcell, Scarlatti, và Shostakovich ở nhiều nơi như Lincoln Center, The Kennedy Center, Beethovenhaus (Bonn), Franz Liszt Academy of Music (Budapest), và ở San Francisco, Boston, Minneapolis, Toronto, và Stockholm. Nhiều tác phẩm của Jarrett đã được trình diễn ở những trung tâm âm nhạc lớn. Tác phẩm Celestial Hawk viết cho dàn nhạc giao hưởng, bộ gõ và piano được trình diễn năm 1980 với Christopher Keene và Syracuse Symphony tại Carnegie Hall và tại Syracuse. Tác phẩm Adagio viết cho kèn Oboe và dàn nhạc dây được trình diễn năm 1984 với dàn nhạc Pasadena Chamber Orchestra, và tác phẩm Elegy viết cho violon và dàn nhạc dây trình diễn năm 1985 ở Tokyo. Elegy được trình diễn ở Mỹ năm 1986 với nhạc trưởng Dennis Russell Davies và dàn nhạc giao hưởng Philadelphia. Tác phẩm Sacred Ground viết cho piano, flute, cello, và clarinet đã được Chamber Music Society của Lincoln Center ủy thác và được trình diễn bởi Jarrett cùng với Paula Robison, Fred Sherry và Richard Stoltzman. Bản Woodwind Quintet trình diễn năm 1989 bởi ngũ tấu Dorian Quintet. Bridge of Light viết cho viola và dàn nhạc giao hưởng thì được trình diễn năm 1991 với violist Patricia McCarty và dàn nhạc Fairfield Orchestra, nhạc trưởng Thomas Crawford. Năm 1987, Chamber Music Chicago đã dành cho Jarrett một buổi tối để tôn vinh ông như một nhà soạn nhạc của thế giới tại Orchestra Hall với 4 tác phẩm đã trình diễn trên toàn thế giới đó là Reminder viết cho piano, clarinet, flute, cello và violon; Terra Cotta viết cho clarinet và Tuned drum; Suite viết cho solo violon; và Sonata viết cho clarinet và Tuned drum. Tháng 3, 1992 Lincoln Center Great Performers Series cũng chiêu đãi tôn vinh Jarret một buổi tối với sự trình diễn các tác phẩm giao hưởng của ông: Bridge of Light, Elegy, Adagio cho Oboe, cộng với Sonata cho violin và piano. Hai cuốn sách về Keith Jarrett đã được xuất bản; Keith Jarrett: Inner Views do Kunihiko Yamashita, biên tập viên của tạp chí JazzLife (Japan) viết, đã được xuất bản tại Nhật và Italy; Keith Jarrett: A Man and His Music một cuốn tiểu sử do hiệp hội phê bình và tôn vinh nghệ sỹ kèn Jazz của Vương Quốc Anh Ian Carr viết và được nhà xuất bản Grafton Books phát hành ở Anh, nhà xuất bản Da Capo Books xuất bản ở Mỹ. Mr. Jarrett còn được mời viết bài phê bình cho York Times, Musician và tạp chí Downbeat như là một nhà phê bình thật thụ. Ông cũng từng chấp bút cộng tác với Larry Fine, cho quyển The Piano Book, nhà xuất bản Brookside Press (Mỹ), và với Robert Harley trong quyển The Complete Guide to High-End Audio do nhà xuất bản Accapella Publishing (Mỹ) ấn hành. Và ông cũng viết lời tựa cho quyển Dyer's But Beautiful (nhà xuất bản North Point Press) của Geoff Dyer, một tác phẩm liên tưởng về nhạc Jazz. Bảy video hòa nhạc của Keith Jarrett được quay tại Tokyo và được phát hành trên toàn thế giới bằng DVD. Last Solo là tác phẩm ông viết sau cùng trước khi nghỉ một thời gian, 4 năm 1983-1987, không viết các tác phẩm solo nữa. Standards I và II là tác phẩm chủ đạo mà tam tấu Jarrett chơi ở hòa nhạc Tokyo năm 1985 và 1986. Tác phẩm lôi cuốn Solo Tribute trong chương trình hòa nhạc 1987 thể hiện lối chơi solo hiếm thấy của Jarrett khi chơi trong tam tấu. Đó là một tối hòa nhạc mà Jarrett hoàn toàn chơi solo “standards”. Tác phẩm thu hút khác The Keith Jarrett Trio: Live at The Open Air Theatre East và Keith Jarrett/Gary Peacock/Jack DeJohnette Tokyo '96 của tam tấu trình diễn vào các năm 1993 và 1996 tại Tokyo. Tháng 5, 2006 ECM phát hành DVD đầu tiên, Keith Jarrett: Tokyo Solo, một video hòa nhạc hoàn toàn, được quay trong tháng 12, 2002. Trong tháng 5 năm 2005, nhân dịp sinh nhật 60 của mình, một bộ phim tài liệu dài 90 phút mang tên Keith Jarrett: The Art of Improvisation đã được phát hành trên toàn thế giới trên DVD (hãng Euro Art). Bộ phim của nhà làm phim tài liệu người Anh, Mike Dibb, cộng tác với nhà viết tiểu sử Ian Carr, đã lột tả khá sâu sắc âm nhạc và công việc của Jarrett trong suốt hơn 40 năm qua. Keith Jarrett sở hữu nhiều giải thưởng danh giá bao gồm Guggenheim Fellowship, Prix du President de la Republique và giả thưởng Grand Prix du Disque của Academie Charles Cros (Pháp), bảy giải Deutscher Schallplattenpries (Đức), và 8 giải Grammy (Mỹ) đề cử cho cả 2 thể loại nhạc Jazz và cổ điển. Ông cũng nhận được hàng chục danh hiệu Nghệ Sỹ của năm hay giải thưởng “Album of the Year” của các tổ chức và tạp chí âm nhạc New York Times, New Yorker, Time, Stereo Review, Downbeat, Billboard, CD Review, và Rolling Stone; gồm cả giải Best Classical Keyboardist của Keyboard Magazine Reader's Polls (1991, '93), giải Best Classical CD cho tác phẩm Shostakovich 24 Preludes and Fuques, Op. trong CD Review Editor's Poll (1992); và hàng chục giải nhà phê bình xuất sắc nhất trong năm của các tạp chí âm nhạc quốc tế. Các album Melody At Night, With You (1999), Whisper Not (2000), và Up For It (2003) đều nhận giải “Best Album of the Year” của Swing Journal's Gold Disc Award tại Nhật Bản, cũng như các giải thưởng Choc des Chocs từ tạp chí Jazzman Magazine (Pháp). Trong các cuộc thăm dò ý kiến hàng năm của tạp chí Downbeat Magazine, Keith Jarrett đã giành nhiều giải thưởng “Pianist of The Year” của giới phê bình bầu chọn liên tiếp trong các tháng 1 đến tháng 5 năm 1996, và của bạn đọc bầu chọn liên tiếp trong các năm 1994, 1996, 1997, tháng 5 năm 1999. Giải “Album of The Year” do giới phê bình bầu chọn năm 1996 cho album Live At The Blue Note. Giải “Best Acoustic Group” do bạn đọc bầu chọn trong các năm 1998, 1999 và năm 2004. Năm 1989, Jarrett được phong “Officier de L'Ordre des Arts et des Lettres”, một trong những danh hiệu cao quý nhất của Bộ Văn Hóa Pháp có thể trao cho một nghệ sỹ. Năm 1996 ông được bầu là thành viên của Royal Swedish Academy of Music (Viện Hàn Lâm Quốc Gia Âm Nhạc Thụy Điển), ông là người nước ngoài thứ hai sau Duke Ellington được tôn vinh như vậy. Năm 2002 ông được bầu làm ủy viên American Academy of Arts and Sciences, là viện có danh dự trong xã hội và lâu đời nhất của Mỹ, thành lập từ năm 1780. Trong năm 2003 Keith Jarrett được trao giải thưởng âm nhạc Polar Music Prize 2003, là một trong giải thưởng uy tín nhất trên thế giới, do chính vua của Thụy Điển trao thưởng trong một buổi lễ truyền hình đặc biệt ở Stockholm. Sau đó, tháng 7, 2004, ông lại được trao giải Leonie Sonning Prize ở Copenhagen, cũng là một giải thưởng âm nhạc lớn khác của thế giới. Ông là nghệ sĩ nhạc Jazz thứ hai nhận giải thưởng Leonie Sonning Prize kể từ khi nó thành lập vào năm 1959, Miles Davis là người đầu tiên vào năm 1985. Cũng trong tháng 7, 2004, ông được nhận giải thưởng Miles Davis Prize nhân lễ kỷ niệm lần thứ 25 của Liên hoan nhạc Jazz quốc tế de Montreal. (Festival International de Jazz de Montreal). Keith Jarrett là nghệ sỹ đầu tiên biểu diễn thể loại nhạc ngẫu hứng tại nhiều tụ điểm quan trọng nhất trên thế giới. Năm 1978 ông đã biểu diễn tại nhà hát Metropolitan tại New York; 1990 tại Musikverein ở Vienna; 1991 tại Vienna State Opera (Staatsoper); và 1995 tại La Scala ở Milan. Vẫn dịch từ đây:http://www.allaboutjazz.com/php/musician.php?id=7984 Xem thêm ở đây:http://www.allaboutjazz.com/php/article.php?id=31393