Nhạc kịch Những người khốn khổ

Discussion in 'Âm nhạc' started by Loving, 16/10/07.

  1. Loving

    Loving Advanced Member

    Joined:
    4/12/05
    Messages:
    1.913
    Likes Received:
    24
    Location:
    Cực Chuối Lạc Bang Giáo
    Les Miserables
    Vở nhạc kịch vĩ đại nhất thế kỷ 20

    Mặc dù đã bị đẩy xuống vị trí thứ 3 trong danh sách các vở nhạc kịch ăn khách nhất mọi thời nhưng với nhiều người, Les Miserables luôn là tác phẩm được ưa thích nhất, được đánh giá là có tính nghệ thuật cao nhất và gây ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng khán thính giả hâm mộ. Không như Cats quá hiện đại, Phantom of the Opera mang nhiều màu sắc cổ điển, Les Miserables là sự kết hợp rất hài hoà giữa 2 yếu tố trên, tạo nên một bữa tiệc âm nhạc cực kỳ phong phú, đặc sắc – xứng đáng được coi là một trong những vở nhạc kịch hay nhất thế kỷ 20.

    Sẽ có người hỏi, sao cái tên Les Miserables nghe quen quen? Vâng, đó chính là là tên bộ tiểu thuyết của đại văn hào Pháp Victor Hugo, dịch ra tiếng Việt là Những người khốn khổ. Không phải nói gì nhiều về bộ tiểu thuyết này vì nó đã quá nổi tiếng, cho đến nay vẫn được coi là thiên anh hùng ca vĩ đại bằng văn xuôi mô tả giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử nước Pháp, một tác phẩm văn hoá đồ sộ của nhân loại. Les Miserables đã được dựng thành phim, thành kịch, thậm chí hồi thế kỷ 19, một vài nhạc sĩ đã dàn dựng nó dưới hình thức một vở opera. Nhưng phải đến 120 năm sau, khi Alain Boubil và người bạn lâu năm là nhà soạn nhạc Claude-Michel Schoberg biến nó thành nhạc kịch thì mới có một phiên bản Les Miserables không-phải-tiểu-thuyết đạt tới sự ăn khách và nổi tiếng sánh ngang với chính đứa con đẻ của Victor Hugo.

    Claude Michel Schoberg nhớ lại, “đó là một cuốn sách mà tôi tin chắc ai cũng phải thích. Nó như một dòng sông lớn vậy, làm cho người đọc có cảm giác như nó đang trôi vể biển cả. Khi đọc sách, tôi đã hầu như nghe thấy tiếng nhạc trong đó”. Sau hai năm lao động miệt mài, bộ ba Schoberg, Boubil đã có bản ghi âm hoàn chỉnh, dài hơn 2 tiếng. Tung ra năm 1980, đĩa nhạc Les Miserables đã tiêu thụ được 260.000 bản, một con số rất khả quan (chỉ ở riêng thị trường Pháp mà thôi).

    Năm 1982, Peter Ferago, một đạo diễn trẻ rất tâm đắc với Les Miserables quyết định cầm đĩa nhạc tới gặp nhà sản xuất kiêm đạo diễn sân khấu hàng đầu nước Anh là Cameron Mackintosh – người duy nhất có khả năng đưa vở nhạc kịch này lên các sân khấu hàng đầu thế giới là West End (ở London) và Broadway (ở New York). Những thành công từ các vở nhạc kịch dàn dựng lại như My Fair Lady, Oklahoma, Oliver! cho tới các tác phẩm đương đại như Side by Side by Sondheim, Tom Foolery, Little Shop of Horrors và đặc biệt là vở nhạc kịch ăn khách nhất mọi thời Cats của nhà soạn nhạc Andrew Lloyd Webber đã cho thấy Mackintosh quả thực là nhà phù thuỷ đại tài trên sân khấu, ông có khả năng biến mọi điều không thể thành có thể. Và Herbert Kretzmer bắt tay vào dịch lời sang tiếng Anh, Trevor Nun được chọn làm đạo diễn, Mackintosh quyết định ra mắt phiên bản tiếng Anh của Les Miserables lần đầu tiên tại nhà hát Barbican vào năm 1982.

    Những thành công rực rỡ
    Năm 1985, Les Miserables chuyển tới diễn tại Nhà hát Hoàng gia London cho tới tận ngày nay và trở thành vở (nhạc) kịch có thời gian trình diễn lâu thứ 3 trong lịch sử sân khấu Anh quốc. Ngày 12/3/1987, Les Miserables chính thức ra mắt tại sân khấu Broadway. Tính ra, cho tới cuối năm 2004, đã có 56 đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp với 38.000 nghệ sĩ đã diễn Les Miserables ở 38 quốc gia và 223 thành phố, lượng khán giả lên tới 51 triệu người, doanh thu phòng vé đạt tới 1,8 tỷ USD. Tại châu á, Les Miserables đã tới Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Philippines, trong đó, ở Nhật, vở nhạc kịch này được dịch hẳn sang tiếng bản địa. Les Miserables cũng được thu âm thành 31 bản khác nhau, bao gồm cả album, đĩa đơn (single) và hoà tấu. Năm 1996, nhân giải bóng đá Euro được tổ chức tại Anh, Les Miserables đã được biểu diễn bởi 250 nghệ sĩ và truyền hình trực tiếp tới 400 triệu khán giả ở 197 quốc gia trên thế giới. Vở diễn cũng giành được hơn 50 giải thưởng sân khấu danh giá nhất trên thế giới trong đó có 8 giải Tony năm 1987 (tương đương Grammy của âm nhạc và Oscar của điện ảnh), 2 giải Grammy cho các album nhạc tung ra sau đó và vô số giải thưởng lớn nhỏ khác ở hầu hết các nước mà nó được công diễn. Les Miserables hiện đã xuất hiện ở Việt Nam dưới dạng DVD, ghi hình chương trình biểu diễn nhân kỉ niệm 10 năm công diễn ở Anh. Chương trình này diễn ra vào ngày 8/10/1995 tại Royal Albert Hall ở London với sự góp mặt của 250 nghệ sĩ - dàn diễn viên chính tất cả đến từ Broadway - và dàn nhạc giao hưởng hơn 100 người. Nếu bạn còn ngại ngần với thể loại nhạc kịch (hơi xa lạ với người Việt Nam), hãy tìm mua DVD Hey! Mr Producer, trong đó có trích đoạn các vở nhạc kịch nổi tiếng nhất mà nhà sản xuất Cameron Mackintosh đã dàn dựng trong đó có cả My Fair Lady, Oliver, Oklahoma, Phantom of the Opera, Cats, Side by side by Sondheim, Miss Saigon và dĩ nhiên, Les Miserables.

    Sức quyến rũ mạnh mẽ của âm nhạc
    Nội dung của Les Miserables gần như trung thành hoàn toàn với nguyên tác, phần lời được viết rất sâu sắc nhưng dễ hiểu, khiến cho ngay cả những người chưa đọc qua truyện cũng không cảm thấy quá bỡ ngỡ khi xem nhạc kịch. Các tuyến nhân vật xuất hiện rất có lớp có lang, lối dẫn nhập, đưa đẩy cực kỳ linh hoạt và khéo léo – và điều đặc biệt là tất cả vở diễn không có lấy một câu nói. Tất cả là âm nhạc và chỉ âm nhạc mà thôi. So với các tác phẩm của Andrew Lloyd Webber, Claude-Michel Schoberg tỏ ra vượt trội hơn hẳn trong các trường đoạn đòi hỏi sự “hoành tráng” về âm thanh. Trong Les Miserables, người xem hẳn phải rùng mình sởn gai ốc khi thưởng thức các bản Look Down, At the End of the Days, Do You Hear the People Sing, One day more. Chúng mang lại cho khán thính giả những cảm xúc chân thực nhất, sâu sắc nhất. Look Down, At the End of the Day là sự căm hờn, phẫn nộ. Do You Hear the People Sing gợi lên hào khí bừng bừng về một cuộc cách mạng, một sự đổi đời. Xuất sắc nhất phải nói là One Day More. 6 tuyến nhân vật, 6 tâm trạng, 6 suy nghĩ. Tất cả cùng hoà chung trên một nền giai điệu. Nỗi lo sợ của Jean Valjean. Âm mưu nham hiểm của mật thám Javert. Tâm trạng xót xa, nuối tiếc của đôi uyên ương Cossette và Marius trước giờ chia tay. ý chí nung nấu của nhóm sinh viên chuẩn bị khởi nghĩa. Nỗi đau của nàng Eponine. Niềm vui sướng của vợ chồng nhà Thenardier. Mỗi người hát một lời. Người nọ làm nền cho người kia. Đằng sau là dàn đồng ca hơn 100 người phụ hoạ. Sự khéo léo, tài tình của Claude-Michel Schoberg đã được thể hiện rõ nhất trong ca khúc này. Thoạt nhìn thì có vẻ mỗi người đi một ngả nhưng cuối cùng, mọi sự riêng rẽ đó lại được quyện chặt vào nhau, vẽ nên một bức tranh chặt chẽ, hoàn chỉnh. Đủ để thâu tóm toàn bộ nội dung nửa đầu vở diễn một cách gọn gàng nhất.

    Có thể nói, các nghệ sĩ Mỹ đã góp phần đưa Les Miserables lên một tầm cao mới. Bên cạnh các màn hợp ca hoành tráng, mỗi phần đơn ca, song ca, hát bè theo nhóm cũng quyến rũ người xem không kém, qua đó giúp khắc hoạ tính cách nhân vật một cách rõ ràng, cụ thể hơn. Màn chào hỏi rất đặc trưng của 2 vai chính Jean Vanjean và Javert trong phần Prologue (mở đầu) là ví dụ điển hình. Ca khúc I dreamed a Dream giúp chúng ta hiểu nàng Fantine tội nghiệp đáng thương tới mức nào. Bản Master of the House rất vui nhộn và The Bargain-Ealtz of Treachery đã mô tả rất chính xác tính cách xấu xa, bần tiện của vợ chồng nhà Thenardier. Stars cho chúng ta thấy Javert không phải là một con người quá đáng ghét. Hắn chỉ là một công cụ của bộ máy tư sản cầm quyền mà thôi. Hấp dẫn, dễ thương nhất có lẽ là bản On My Own, về tình yêu đơn phương của Eponine tội nghiệp dành cho anh chàng Marius. Mỗi ca khúc là một câu chuyện, một tâm trạng, một lời tự sự. Vui có, buồn có, đau khổ, oán giận có, hạnh phúc cũng có. Tất cả được kết nối liền lạc một cách đáng ngạc nhiên, không gượng ép, không giả tạo.

    Và để tôn những ca khúc đó lên, dàn diễn viên chính gồm toàn ngôi sao hàng đầu của sân khấu Broadway đã thể hiện hết mình. Colm Wilkinson, ngôi sao gạo côi vào vai Jean Vanjean nhẹ nhàng như trong cuộc sống thực bởi ông cho rằng Jean Vanjean rất giống mình, đều là những con người tràn đầy lòng yêu thương, biết quan tâm đến mọi người. Giọng hát ấm áp, khuôn mặt hiền hoà của Wilkinson giúp ông nhiều hơn trong việc chinh phục cảm tình của khán giả. Philip Quast, với chất giọng tenor hiếm có cũng nhập vai Javert một cách xuất sắc, thể hiện được hết cái “thần” của nhân vật này – lạnh lùng, cay nghiệt, độc đoán, nhưng rất mẫn cán. Hình ảnh chàng sinh viên Marius của Michael Ball hơi khác so với nguyên tác. Sự nhu nhược, ngây thơ đã không còn. Thay vào đó là sự trầm tĩnh, quyết đoán của một người biết rõ mình đang làm gì. Chỉ tiếc là nhân vật Cosetre hơi mờ nhạt, có lẽ cũng bởi nhân vật Eponine do nữ nghệ sĩ gốc Philippines Lea Salonga lại quá chói sáng. Phần đơn ca của Lea Salonga rất tuyệt vời, những tràng pháo tay như sấm kéo dài mãi không dứt của khán giả dành tặng cô sau ca khúc On My Own đã đủ nói lên điều đó. Cô gái nhỏ nhắn này đã nhiều năm thủ vai chính trong một vở diễn rất ăn khách khác: Miss Saigon, cũng của Claude-Michel Schoberg và do Cameron Mackintosh sản xuất. Vai Fantine thuộc về Ruthie Henshall – người có chất giọng đẹp nhất đêm diễn: mượt mà như lụa, cao chót vót mà lại có độ vang, có tiếng ngân rất sâu. Sự kết hợp của những cá nhân xuất sắc này đã biến Les Miserables trở thành tuyệt tác – dĩ nhiên không thể không nhắc tới nhà sản xuất Cameron Mackintosh – người có công đưa Les Miserables đến với công chúng trong một dáng vẻ hoàn hảo nhất. Nếu chỉ dùng một từ để mô tả vở nhạc kịch Les Miserables, người viết xin được mạo muội chọn từ vĩ đại – như nguyên tác Les Miserables của Victor Hugo vậy.
     

    Attached Files:

    Tags:
  2. tai_trau

    tai_trau Moderator

    Joined:
    11/4/06
    Messages:
    15.532
    Likes Received:
    4.988
    Location:
    Hà Nội
    Có lẽ bản thân chúng ta cũng là những nhân vật trong The Miserable bác nhỉ? Trong 1 chừng mực nào đó, em cũng thấy mình thật khốn khổ khi nghiện cái món au đi ô này .
     

Share This Page

Loading...