Bác Mike yên tâm đê...vụ này khỏi nghĩ...Ai chứ bác thì em biếu chứ không bán ạ Em sẽ xếp viên gạch của bác ngay trên cái CD đó luôn cho khỏi chạy đi đâu hết...hehehe...Khi nào chán em sẽ alo bác liền :lol:
Bác ơi...Em biết là từ lúc bác mua được CD TAICHI này thì bác cũng đã nghe nó không dưới 2 lần rồi và chắc bác cũng đã nghiền ngẫm kỹ về nó nên em xin được bác nói giúp em về nội dung của các bản nhạc trong đó được không ạ ? Em thấy các bài trong Album này đều có viết chú thích nhưng toàn bằng tiếng Anh mà tiếng Anh của em thì quá phọt phẹt nên chắng hiểu mô tê gì hết , chí đoán rằng mỗi track trong Album đều gắn liền với 1 sự kiện , hoặc 1 câu truyện cổ nào đó của Trung Quốc. Rất mong bác mở lời để em thêm hiểu về món nhạc Tàu khựa , dàn tranh sáo nhị này ạ Thân.
Bác Ninh ơi, cái album TaiChi ( Thái Cực ) này nghe hay k vậy bác? Em chưa nghe bao giờ, hôm nào bác cho em mượn nghe với nhé, hoặc chổ nào bán, bác mua hộ em 1 cái với. Thanks bác trước.
Bài này nằm trong track 4 của đĩa Taiwan Audio Association International Hi End Show(ko biết năm mấy). Đây cũng chính là đĩa audiophile đầu tiên em được nghe, hix thế mà lại gặp trúng đĩa TQ mới chít chứ, bị thuốc từ lần nghe đầu tiên. Hồi mới nghe em nghiền lắm, nghe ko biết bao nhiêu lần, nghiền nhất là cái track 1 chơi bản Camen bằng bộ gõ và cái track này. Tự dưng hôm nay được nghe lại bài này trong 1 đĩa toàn nó hát nên em quyết tâm tìm ra tung tích cái thằng làm em bị thuốc. Hix, nghe giọng nó chắc tiểu đường mất :lol: .
Hôm nào làm gì cho xa xôi bác nhẩy...Ngày mai em đem qua bác luôn tiện ngồi hẻm cafe cóc nhé bác Cái CD này là đàn tranh bác ợ , 1 vài bài thì được chơi theo kiểu giao hưởng Tân Cổ giao duyên giữa đàn tranh và Piano xen lẫn 1 vài bài Vocal của ca sỹ hát nhạc cổ luôn , phần đông còn lại là độc tấu đàn tranh do nghệ sỹ SHAN KIU oánh. Bác cứ nghe thử mái thoải...khi nào ngấm thì bác mua cũng chưa muộn..hihihi @ bác Sonus Sonny : Lão ấy còn hót bài Wulala cũng kinh lắm bác ợ , bài này em nghe cả TongLi hát rồi nhưng không bằng lão ấy hót được :lol:
@ bác baohun00 : Em thì cũng chỉ là có cái sở thích hơi khác người này chút thôi về cái sự nghe, chứ hiểu biết về món này cũng chưa được bao bác ạ! Thôi thì biết đến đâu tâu đến đấy, có vài thông tin nhặt nhạnh chia sẻ với bác vậy! Trước hết nhạc cụ trong CD đó là "Cổ cầm" chứ không phải đàn tranh TQ. Thông tin về Cổ cầm em có thông tin ở bài viết sau. CD này có tên là "Cổ cầm tân vận" (nôm na nghĩa là đàn cổ - (âm) vận mới). Em nghĩ cái tên này xuất phát từ ý tưởng kết hợp với nhạc cụ Tây phương (piano, kèm cả giọng hát (vocal)) trong một số nhạc khúc được sáng tác mới dựa trên cái phong khí cổ của cổ khúc xưa được lưu truyền. 9 nhạc khúc trong CD là : 1. Thái cực 太极 Taichi - Concerto for Guqin & piano Thái Cực - Hợp khúc cho Cổ cầm (Guqin) và Piano Bản này là mới, là một bản concerto soạn cho Cổ cầm (Guqin) và đàn Piano. 2. Thoa (Xoa) đầu phượng (cầm ca) 钗头凤 (琴歌) Phoenix Hairpin Trâm cài đầu (của phụ nữ) hình chim phượng. Theo điển tích "Thoa đầu phượng" dưới đây. 3. Quảng lăng tán (cầm khúc) 广陵散(琴曲) Guangling Episode Nhạc khúc Quảng lăng - một trong "Trung Hoa thập đại danh khúc" (Mười nhạc khúc nổi tiếng Trung Hoa) của cổ nhạc TQ. 4. Hồ gia thập bát phách chi đệ nhất phách (cầm ca) 胡笳十八拍之第一拍(琴歌) Eighteen Passages Of The Hu Jia - The First Passage Khúc thứ nhất trong Hồ gia thập bát phách - cũng là một trong "Trung Hoa thập đại danh khúc" 5. Lưu thủy (cầm khúc) 流水(琴曲) Flowing Water Nước chảy 6. Quan sơn nguyệt (cầm ca) 关山月(琴歌) Moon Over Mountain Pass Trăng qua đầu núi 7. Mai hoa tam lộng (cầm khúc) 梅花三弄(琴曲) Triple Thematic Statement Of "Plum Blossoms" 8. Hồ gia thập bát phách chi đệ cửu phách (cầm ca) 胡笳十八拍之第九拍(琴歌) Eighteen Passages Of The Hu Jia - The Ninth Passage Khúc thứ chín trong Hồ gia thập bát phách. 9. Vịnh mai 咏梅 Singing Plum Vịnh hoa mai Về "Trung Hoa thập đại danh khúc"bác xem thông tin : viewtopic.php?f=36&t=38690
Cám ơn những thông tin rất hay của bác , vậy thì ra đây là 1 loại đàn cổ của Trung Quốc ngày xưa chứ không phải đàn tranh , hèn gì em nghe cũng không được giống đàn tranh lắm , tiếng hơi đục và không sắc như đàn tranh Thứ em đang vô cùng tò mò đó chính là những câu chuyện họ viết dành cho mỗi track trong Album này ( Viết bằng tiếng Anh và tiếng Tàu ) Em đọc trợn mắt mũi cũng chả hiểu mô tê...hehehe Theo cái trí tưởng bở của em thì có vẻ như mỗi track là 1 câu chuyện vô cùng sinh động kiểu như...Kim Dung :lol:
Cổ cầm Thính Cầm đồ - tranh của Tống Huy Tông. Năm 2003 Nghệ thuật âm nhạc Cổ cầm của Trung Quốc đã được tổ chức UNESCO tôn vinh là Kiệt tác văn hóa truyền khẩu phi vật thể của nhân loại (trước đó năm 2001, UNESCO đã phong cho nghệ thuật Kinh Kịch và năm 2005, phong tặng cho công phu Thiếu Lâm) cùng đợt tôn vinh này nghệ thuật Nhã nhạc cung đình Huế ở Việt Nam cũng được công nhận. Văn hóa Cổ cầm: Huyền tích và cứ liệu Có thể nói Cổ cầm là một cây đàn nổi tiếng gắn chặt với sinh hoạt đời sống văn hóa – Tư tưởng của người dân Trung Hoa. Ban đầu đàn có tên là Dao Cầm, gồm 5 dây: Cung – Thương – Dốc – Chủy – Vũ, sau thêm hai dây Văn – Võ là bẩy nên còn gọi là Thất huyền cầm tức là đàn 7 dây. Về việc đàn thêm vào 2 dây được giải thích trong tích Bá Nha đàm đạo với Tử Kỳ về cây đàn này như sau: Khi vua Thuấn gảy đàn ngũ huyền thì thiên hạ thái bình; sau khi vua Văn Vương bị tù ở Dũ Là con trai Bá Ấp Khảo nhớ thương đem đàn ra đánh thêm một dây mang tiếng oán gọi là dây Văn; trước khi vua Vũ Vương phạt Trụ có đem đàn ra đánh thêm một dây nữa gọi là đây Võ. Đàn Cầm có lẽ là cây đàn ra đời rất sớm ở Trung Hoa nên sơ khai khi người dân nói Cầm có nghĩa là chỉ cây đàn Cổ Cầm để phân biệt với Tranh (đàn tranh), Tiêu; Tì Bà …vv. Về sau chữ Cầm mới trở thành danh từ chung dùng cho các loại nhạc cụ dây. Vẫn trong tích Bá Nha gặp Tử Kỳ có nhắc đến sự ra đời của Cây đàn này như sau: Xưa vua Phục Hy thấy năm sắc sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng tới đậu ở cây, thấy ngô đồng là loại gỗ quý, hấp thụ tinh hoa của trời đất có thể chế nhạc cụ được, liền hạ cây xuống chặt làm ba khúc. Đoạn ngọn tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc tiếng quá đục mà nặng, chỉ có đoạn giữa tiếng trong, tiếng đục phân minh liền lấy để dùng. Vua đem ngâm nơi dòng nước 72 ngày xong đem phơi ra gió cho thật khô. Sau đó vua sai người thợ khéo là Lưu Tử Kỳ đẽo thành Dao Cầm. Dao Cầm dài 3 thước 6 tấc 1 phân ứng theo 361 độ chu thiên trong năm. Mặt trước rộng 8 tấc ứng với 8 tiết, mặt sau rộng 4 tấc ứng theo bốn mùa, bề dày 2 tấc ứng theo lưỡng nghi. Đàn gồm 12 phím ứng với 12 tháng trong năm, sau thêm một phím nữa ứng với tháng nhuận. Trên mắc 5 dây ngoài ứng theo ngũ hành, trong ứng với ngũ âm: Cung – Thương – Dốc – Chủy – Vũ. Đàn có sáu điều “kỵ” và bảy điều “không”. Sáu điều “kỵ” là kỵ rét lớn, nắng lớn, gió lớn, tuyết rơi lớn; gặp lúc ấy người ta không dùng. Bảy điều “không” là không đàn đám tang, không đàn trong lúc lòng nhiễu loạn, không đàn trong lúc bận rộn, không đàn trong lúc thân thể không sạch, không đàn trong lúc y quan không tề chỉnh, không đàn trong lúc không đốt lò hương, không gặp được tri âm. Lại còn có thêm tám “tuyệt” là : thanh, kỳ, u, nhã, li, tráng, lu, trường. Trong tám tuyệt ấy gợi đủ cả các tình cảm, vì vậy tiếng đàn có thể đi đến tuyệt vời. Thực chất, khó có một dữ liệu nào có thể chứng minh cây đàn Cầm có từ thời Tam Hoàng với những huyền tích về vua Phục Hy nhưng một điều chắc chắc bằng những cứ liệu lịch sử thì đàn Cổ cầm xuất hiện trong các văn bản từ thời Đông Chu. Quan Thư trong Kinh Thi có viết “Yểu điệu thục nữ/ Cầm sắt hữu chi”: Tức là Người thục nữ yểu điệu thì đàn cầm đàn sắt cùng lên tiếng. Hay bức tượng nhạc công chơi đàn Cổ cầm có từ đời Chiến Quốc được phát hiên tại Sơn Đông vào tháng 6 năm 1990. Tiếp theo đó là những hình nhạc công chơi đàn Cổ cầm được phát hiện trong các ngôi mộ Đông Hán ở tỉnh Tứ Xuyên vào những năm 70 của thế kỷ trước đã là những cứ liệu sớm nhất chứng minh về việc xuất hiện và diễn tấu cây đàn Cổ cầm trong văn hóa Trung Hoa. Sau đó người ta còn tìm thấy những bức thạch họa trên các mộ cổ đời Nam triều vẽ cảnh sinh hoạt của Trúc lâm thất hiền, trong đó có sự xuất hiện hình ảnh của cây đàn Cổ cầm. Tiêu biểu là bức thạch họa ở trong một ngôi mộ cổ ở Nam Kinh có từ thời Nam triều vẽ hình Kê Khang và Nguyễn Tịch. Trong truyền kỳ của dân gian thì Kê Khang là một tác giả nổi tiếng với khúc Quảng Lăng Tán vốn coi đã bị thất truyền. Nguyễn Du sau này lấy lại tích đó trong truyện Kiều với hai câu thơ: Kê Khang này khúc Quảng Lăng / Một rằng Lưu Thuỷ hai rằng Hành Vân. Quảng Lăng Tán – Lưu Thủy – Hành Vân là những khúc nhạc rất nổi tiếng được chơi trên cây đàn Cổ cầm. Bên cạnh các di chỉ khảo cổ tìm được trong các ngôi mộ từ Hán, Nam Triều; Cổ cầm xuất hiện khá nhiều trong các bức họa cổ. Thời Tùy Đường, họa sư Chu Phương có bức: Điệu cầm xuyết mính đồ (Bức họa vừa chơi đàn Cầm và uống trà) trong đó có vẽ một người phụ nữ quý phái đang ngồi chơi đàn và một a hoàn đứng bê khay trà. Thời Tống có bức "Thính Cầm đồ"(Bức họa nghe đàn) của vua Tống Huy Tông vẽ cảnh hai vương gia đang ngồi nghe một nhạc sư đàn cổ cầm dưới một gốc cây tùng, sau lưng một vị quan có một tiểu đồng đứng hầu. Ba chữ "Thính cầm đồ" đề trên bức họa do tự tay vua Tống Huy Tông đề bằng thể chữ "Sấu kim thể" (thể chữ gầy như chiếc kim) và một bài thơ không rõ người nào đề ở trên đầu bức họa. Thời Nguyên có bức "Tùng âm hội cầm đồ" (Hội ngộ trong buổi chiều tà dưới gốc Tùng nghe đàn cầm) của Triệu Mạnh Phủ vẽ cảnh hai ẩn sĩ ngồi dưới tán cây tùng nghe đàn trong buổi chiều tà có một tiểu đồng đứng hầu bên cạnh một lò hương. Triệu Mạnh Phủ là một nhà thư họa nổi tiếng Trung Hoa dưới thời nhà Nguyên, ông để lại rất nhiều bức họa và cùng với Nhan Chân Khanh, Âu Dương Tuân là ba nhà thư pháp để lại ba thể chữ Khải nổi tiếng trong văn hóa Thư họa của Trung Hoa dưới thời nhà Nguyên. Thời Minh có bức "Đào nguyên tiên cảnh đồ" (Bức họa cảnh tiên ở chốn đào nguyên) của họa sư Cửa Anh vẽ cảnh núi non chốn đào nguyên có những vị tiên đang ngôi nghe đàn cổ cầm xung quanh có các đạo đồng mặc áo đen kẻ bưng trà người quạt lò hương. Thời Thanh có bức "Đàn Cầm đồ" (Bức họa đánh đàn Cầm) của họa sư Nhậm Huân. Bức họa vẽ được vẽ trên quạt, cảnh sơn thủy, giữa một rừng tùng trong am nhỏ có một người đàn chơi đàn Cầm. Điệu khúc Hiện giờ ở Trung Quốc còn rất nhiều bài bản Cổ cầm tuy vậy nói đến các các điệu nhạc Cổ cầm thì mọi người thường kể đến 10 khúc nhạc cổ điển nổi tiếng: 1. U Lan; 2. Quảng lăng tán; 3. Ly tao; 4. Hồ gia thập bát phách; 5. Ái nãi; 6. Mai hoa tam lộng; 7. Tiêu tương thủy vân; 8. Lưu Thủy; 9. Dương quan tam điệp; 10. Bình sa lạc nhạn. 10 khúc nhạc này những người học Cổ Cầm đều biết, song chơi được cho hay thì quả là khó. Một nhạc sư có khi chỉ đánh được đến mức độ tinh diệu một vài trong số những bản nhạc này. Ví dụ như danh cầm Quản Bình Hồ (1879 - 1967) được coi là người chơi đàn Cổ cầm hay nhất thế kỷ 20, tiếng đàn của ông đã được thu băng và gửi vào vũ trụ coi như là tinh hoa của nhân loại. Ông nổi tiếng nhất là chơi các khúc Ly tao, Lưu Thủy, Quảng Lăng Tán, U Lan. Mỗi khúc nhạc cổ trên đều mang trong nó những câu chuyện kỳ thú. Thí dụ như khúc Lưu Thủy gắn với tích Bá Nha và Tử Kỳ, khúc Ly Tao gắn với tích Khuất nguyên trò chuyện với Ngư phủ về thế sự; khúc Quảng Lăng tán gắn với chuyện Kê Khang chịu hình giữa chợ mà thốt lên rằng: Từ nay Quảng lăng tán thất truyền. Cấu tạo một cây đàn Cổ cầm Một cây đàn Cổ cầm được làm bằng gỗ ngô đồng. Ngô đồng ở Trung Quốc có nhiều loại, ngô đồng đỏ, đồng bạch v.v... Nhiều khi, trong quá trình làm đàn người ta cũng dùng một số loại gỗ khác. Một cây đàn cổ cầm về cơ bản gồm hai phiến gỗ ghép úp vào nhau phiến mặt ở trên và phiến đáy ở dưới. Phiến gỗ mặt đàn thường có dạng khum hình lòng máng, ở bên trong lòng máng phía dưới phiến gỗ người ta chạm nổi 2 hình e-líp có gờ nổi lên gọi là Phượng Trì (Ao Phượng); Long Tỉnh (Giếng rồng). Phiến đáy của đàn là phiến gỗ phẳng có đục thủng hai lỗ thoát âm tương ứng đúng với vị trí Phượng Trì và Long Tỉnh. Trên mặt đàn người ta đánh dấu 13 vị trí được gọi là Huy. Long tỉnh Với những cây đàn quý người ta còn khảm vàng hoặc ngọc để đánh dấu các huy. Khi dùng một ngón tay chặn nhẹ lên dây đàn ở vị trí các huy rồi dùng tay kia gảy vào dây đàn thì đàn sẽ cho bồi âm có tiếng vang to và đẹp (tương tự như cách tạo bồi âm của Đàn Bầu ở nước ta). Tuy vậy thỉnh thỏang bồi âm mới được sử dụng trong các bản đàn Cổ Cầm. Còn người chơi đàn thường căn cứ vào các huy để định vị cho việc chăn dây sát xuống mặt đàn để tạo ra các âm mong muốn của bản nhạc. Đàn Cổ cầm có 7 dây, gắn với 7 trục làm bằng gỗ và có khi bằng ngọc để lên dây đàn. Cổ Cầm có nhiều hình dáng khác nhau, gọi là các thức. Ví dụ như đàn làm theo Trọng Ni thức thì tức là Cây đàn được làm theo kiểu của Khổng Tử - có hình dáng ngay ngắn theo lề lối cổ, có eo Kim Đồng, Ngọc Nữ với đường nét giản dị mà thanh nhã. Bên cạnh đó còn có nhiều kiểu khác nữa như: Sư Khoáng thức (mẫu đàn của Sư Khoáng – một đệ nhất nhạc sư ở Trung Quốc); Thần Y thức (mẫu đàn mang kiểu dáng y phục của thần tiên); Liên châu thức (kiểu đàn như hình chuỗi ngọc) … Cổ Cầm kiểu Trọng Ni thức. Eo Kim Đồng Đàn làm xong được phủ vài lớp sơn mài, người ta thường lấy sừng hươu đốt cháy rồi tán ra thành bột trộn với sơn sau đó mới sơn lên đàn. Cây đàn để càng lâu càng bóng, càng đẹp, và lâu ngày hình thành một lớp vân rạn như da rắn, gọi là Xà Vân. Mỗi cây đàn cổ cầm sau khi hoàn thành xong thì đươc đặt tên riêng. Mặt dưới của đàn được khắc tên dựa và thanh âm phát ra của tiếng đàn khi đánh thử. Ngòai tên đàn người ta còn khắc câu đối, hoặc những bài thơ mang ý nghĩa liên quan tới gia chủ hoặc tên đàn, và được đóng dấu. Long Ngâm - Tên một cây Cổ cầm. Văn hóa cổ cầm có mặt ở hầu hết các nước thuộc khu vực văn hóa Đồng Văn, ở Việt Nam cũng có nhưng đã bị thất truyền. Biên chế của dàn nhạc cung đình đầu đời Nguyễn ghi nhận có cây đàn Cầm ở trong đó. Ở Nhật Bản hay Hàn Quốc văn hóa cổ cầm vẫn còn tồn tại. Ở Nhật Bản người ta đã từng trưng bày những cây đàn cổ cầm do người Nhật làm, với tính mĩ thuật rất cao. Thần kỳ bí phổ (sách thời Minh) Khi UNESCO công nhận và tôn vinh cây đàn Cổ cầm thì cả nước Trung Quốc còn khoảng 50 người có thể chơi cây đàn này với trình độ bậc thầy. Thế hệ sau của những nhạc sư như cụ Quản Bình Hồ đã kế thừa một cách vẻ vang như nhạc sư Thành Công Lượng, Lý Tường Đình, Cung Nhất ..v.v. Người Trung Quốc coi cây đàn Cổ Cầm như một báu vật văn hóa. Những cây đàn được làm công phu và được bán với giá rất cao. Người chơi đàn vẫn giữ được những lễ tiết của văn hóa cổ xưa như việc đốt mỗi lư trầm đặt trước giá đàn mỗi khi tấu một bản nhạc. Một số CD ghi âm tiếng đàn của những nhạc sư nổi tiếng, với một vài bản đàn ghi diễn tấu là Đường Cầm, Tống Cầm, Minh Cầm … lại không phải là những bản nhạc có từ đời Tống, đời Đường mà chính là những cây đàn mà người Trung Quốc giữ được từ đời Đường đời, Tống để mang ra chơi và giới thiệu với bạn bè nước ngoài. Có thể đó là những cây đàn nguyên vẹn, hoặc thậm chí đã bị hư hỏng nhưng nhờ tình yêu và sự tài hoa của các nhạc sư mà người ta đã phục chế loại được để cây đàn cổ từ ngót một ngàn năm trước lại tấu lên những khúc nhạc ở chốn tiên giới trong một thế giới hiện đại dưới cõi trần. Cổ cầm xuất hịện trong phim "Anh hùng" - Hero Tên gọi các thành phần cấu tạo của Cổ cầm (ducati999 - sưu tầm và tổng hợp)
Quảng lăng tán cầm khúc (广陵散琴曲) Trong truyện Kiều, khi Kiều đàn cho Kim Trọng nghe tại vườn Thúy, có đoạn: Kê Khang này khúc Quảng Lăng Một rằng Lưu thủy hai rằng Hành vân Câu đầu chính là chỉ khúc "Quảng lăng tán". Quảng Lăng tán có tên đầy đủ là Quảng Lăng chỉ tức, là một khúc cầm mạnh mẽ sôi sục, mang tráng chí của hào kiệt. Bản đàn này xuất hiện đầu tiên dưới dạng văn bản trong cuốn Thần kỳ bí phổ có từ đời nhà Minh. Theo sách "Trung Quốc âm nhạc sử lược" của Lưu Đông Thăng thì khúc nhạc này xuất hiện vào cuối đời Đông Hán; gắn liền với hai tích: "Nhiếp Chính ám sát Hàn Vương"; "Kê Khang chịu hình". Dựa vào cầm phổ ghi lại, thời Chiến Quốc (战国) phụ thân của Nhiếp Chính (聂政) vì Hàn Vương (韩王) đúc kiếm, do trễ ngày giao kiếm mà bị thảm sát. Nhiếp Chính vì phụ thân lập chí báo thù, đã nhập sơn luyện cầm mười năm, đạt thành tuyệt kỹ, dương danh Hàn Quốc (韩国). Hàn Vương triệu Nhiếp Chính vào cung chơi đàn, Nhiếp Chính nhân cơ hội này giết chết Hàn Vương rồi hủy dung tự tử để khỏi liên lụy thân nhân. Hậu nhân dựa vào tích xưa phổ thành cầm khúc hùng hồn, khí thế là cổ khúc trứ danh đại khúc chi nhất. Các đoạn của Quảng Lăng tán được phân thành: Tỉnh lý (quê hương của Nhiếp Chính), Thủ Hàn, Vong thân, Hàm chí, Liệt nữ, Trầm danh, Đầu kiếm, Tuấn tích, Vi hành cùng toàn bộ quá trình ám sát Hàn vương của Nhiếp Chính. Sáu trăm năm sau, đời Ngụy Tấn, có Kê Khang là một nhạc gia nổi tiếng trong nhóm “Trúc Lâm thất hiền” đã phát triển khúc này thành một khúc nhạc tuyệt luân. Đương thời họ Tư Mã đang tiếm quyền Tào Nguỵ, Kê Khang tài giỏi nhưng tính cương liệt, đứng về phía nhà Nguỵ một mực tỏ thái độ không hợp tác với họ Tư Mã. Năm 262 tr.CN Kê Khang vì tội làm loạn triều chính đã bị chặt đầu giữa chợ, trước khi chết ông đã tấu khúc "Quảng lăng tán" một lần cuối cùng rồi thốt lên rằng: "Quảng Lăng Tán từ nay thất truyền!" Kê Khang không phải là người sáng tác ra bản Quảng Lăng tán, mà thực chất bản nhạc này có từ trước đó. Kê Khang chỉ là người nâng cấp nó lên thành một thiên tuyệt cầm. Nên khi Kê Khang mất đi là bản Quảng Lăng tán của ông bị thất truyền chứ bản Quảng Lăng vẫn lưu truyền trong dân gian kể về chuyện Nhiếp Chính ám sát Hàn Vương thì vẫn còn. Hiện nay ở Trung Quốc có khoảng 9 học phái Cổ cầm, mỗi phái có những nét chơi khác nhau dựa trên bài bản trong các cuốn Cầm phổ và phong cách được lưu truyền nội bộ trong từng phái. các bản Cổ cầm được lưu hành trong thời điểm hiên nay, tuy những nét chung về mặt tư tưởng vẫn được giữ nguyên nhưng mỗi người đánh mỗi khác. Có thể bản thân bài Quảng Lăng tán mà Kê khang cho là thất truyền chỉ là bản được coi là hay nhất lúc bấy giờ của riêng Kê Khang mà thôi.
Mai hoa tam lộng (梅花三弄) Nhạc khúc "Mai hoa tam lộng" thuộc loại "tá vật vịnh hoài", mượn hình ảnh tinh khiết,sự thơm ngát và sức kiên cường chống chọi với cái lạnh của hoa mai để tán tụng những người có tiết tháo cao thượng. Nửa đầu khúc nhạc giai điệu du dương, thanh u gợi lên sự cao quý và trạng thái tĩnh tại an tường của hoa mai. Nửa đoạn sau vội vàng, hấp tấp biểu hiện động thái bất khuất của hoa mai. Giai điệu tiết tấu hai đoạn đầu và cuối như là bất đồng, tương phản rõ rệt... Hồ gia thập bát phách (胡笳十八拍) Trung Quốc vào thời cuối Hán đại loạn, nội chiến liên miên, Sái Văn Cơ trong lần chạy nạn bị giặc Hung Nô bắt, lưu lạc ngoài quan ải. Về sau cùng Tả Hiền Vương kết thành vợ chồng, sinh được hai người con gái. Mười hai năm bà sống ly hương ngoài quan ải, nhưng chẳng lúc nào không nhớ về cố hương. Sau này Tào Tháo bình định được Trung Nguyên, quan hệ ngoại giao tốt với Hung Nô, sai sứ đem theo vàng bạc để chuộc Văn Cơ về, bởi vậy bà đã soạn ra khúc nhạc Hồ Gia Thập Bát Phách để trần thuật lại cảnh ngộ không may của mình. Cả bản nhạc có Đại Hồ Gia, Tiểu Hồ Gia và Hồ Gia Thập Bát Phách. Tuy khúc nhạc không giống nhau, nhưng tất cả đều phản ánh nỗi niềm nhớ cố hương của Sái Văn Cơ. Tâm tình đau khổ, mâu thuẫn bởi nỗi nhớ quê da diết nhưng lại không nỡ chia tay với cốt nhục tình thâm. Nét nhạc uyển chuyển, bi thương, như muốn cắt từng khúc ruột.
Thoa Đầu Phượng 釵頭鳳 ( Thơ của Đường Uyển - 唐婉) Lục Du (1125-1210) tự là Vụ Quan, hiệu Phóng Ông, là một nhà thơ yêu nước đời Tống, đa tài, cả thơ, từ, tản văn, sở trường về sử học... Lục Du lấy người em họ là Đường Uyển, hai người rất tâm đầu ý hợp. Nhưng mẫu thân họ Lục không ưa nàng, rốt cuộc hai người ly hôn. Sau này cả hai đều tái giá... Mấy năm sau, xuân về, tình cờ đi chơi Thẩm Viên, hai người tái ngộ. Đường Uyển lấy tình huynh muội, gửi rượu mời Lục Du. Ông vô cùng thương cảm, vung bút đề lên bức tường trong vườn Thẩm bài "Thoa đầu phượng" này. 釵 頭 鳳 陸遊 紅酥手,黃縢酒。滿城春色宮牆柳。 東風惡,歡情薄。一懷愁緒,幾年離索。 錯!錯!錯! 春如舊,人空瘦。淚痕紅浥鮫綃透。 桃花落,閑池閣。山盟雖在,錦書難託。 莫!莫!莫! Thoa đầu phượng - Lục Du Hồng tô thủ Hoàng đằng tửu Mãn thành xuân sắc cung tường liễu Đông phong ác Hoan tình bạc Nhất hoài sầu tự Kỷ niên ly tác Thác! Thác! Thác! Xuân như cựu Nhân không sấu Lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu Đào hoa lạc Nhàn trì các Sơn minh tuy tại Cẩm thư nan thác Mạc! Mạc! Mạc Dịch nghĩa Tay hồng mềm yếu (Tặng) rượu hoàng đằng Đầy thành xuân sắc, liễu xanh bên tường Gió đông ác nghiệt Ân tình bạc bẽo Ôm mãi một mối sầu Bao năm xa cách cô đơn. Sai! Sai! Sai! Xuân như cũ Người gầy võ Ngấn lệ thấm hồng tấm lụa Hoa đào rụng Trên gác bến hồ vắng Lời thệ hải minh sơn tuy còn đó Mà bức gấm thư khó lòng gửi đến nhau. Chớ! Chớ! Chớ! Đường Uyển khi đọc được cũng làm một bài từ theo điệu "Thoa đầu phượng" hoạ lại. Sau đó vì quá đau buồn đã lâm trọng bệnh mà qua đời. 釵 頭 鳳 唐琬 世情薄,人情惡。雨送黃昏花易落。 曉風乾,淚痕殘。欲箋心事,獨語斜闌。 難,難,難。 人成各,今非昨。病魂嘗似秋千索。 角聲寒,夜闌珊。 怕人尋問,咽淚裝歡。 瞞,瞞,瞞。 Thoa Đầu Phượng - Đường Uyển Thế tình bạc Nhân tình ác Vũ tống hoàng hôn hoa dị lạc Hiểu phong can Lệ ngân tàn Dục tiên tâm sự Độc ngữ tà lan Nan! Nan! Nan Nhân thành các Kim phi tạc Bệnh hồn thường tự thu thiên tác Giác thanh hàn Dạ lan san Phạ nhân tầm vấn Yết lệ trang hoan Man! Man! Man Dịch nghĩa Tình đời bạc Tình người ác Mưa tiễn hoàng hôn hoa dễ rụng Gió sớm khô khan Ngấn lệ tàn Muốn viết thư giải bày tâm sự (Nhưng đành) tựa lan can độc thoại Khó! Khó! Khó! Nay đã thành mỗi người một nơi Ngày nay cũng chẳng phải ngày hôm qua Tâm hồn đau đớn vẫn giống như sợi dây đu tiên (???) Tiếng tù và lạnh lẽo Đêm sắp tàn Sợ người tìm hỏi Nuốt lệ giả vui Giấu! Giấu! Giấu!
Mấy khúc kia thì em chưa tìm được điển tích điển cố gì liên quan, sẽ cập nhật thêm sau ạ! Mong rằng với một số thông tin trên đây, bác baohun00 có thể cảm nhận thêm cái hay cái đẹp trong mỗi nhạc khúc. Kính bác và các bác!
Rất hay bác ạ , nghe nhạc và cảm nhận nó đã hay nhưng hiểu hết về bản nhạc càng khiến ta say đắm cùng nó bác nhỉ Cám ơn bác rất nhiều về những thông tin hay dành cho Album này. Hôm qua em lang thang lọ mọ cũng kiếm đựoc cái CD thể loại nhạc Chinesse Jazz của cô bé Shirley , giọng ca này cũng đáng để nghe thử 1 lần cho....nghiện ( chất giọng hơi đục và nhựa nhựa , có chút gì đó khè khè trong cuống họng ) Mời các bác tham khảo : PONDER ON AFFECTION - SHIRLEY 01.Blue Day By Day 02.Danny Boy 03.Ponder 04.Quando Quando Quando 05.Would You Still Love Me Tomorrow ? 06.Don’t It Make My Brown Eyes Blue 07.A Piece Of Dream 08.Fields Of Gold 09.Get Myself Drunk Tonight 10.Affection 11.Superstar 12.A Desperate Wait 13.My Life Is There For You 14.Relief
Em củng giới thiệu các bác vài CD hay CD này của cô ca sỉ Sing tên Từ Văn hát lại nhửng bảng nhạc của cố ca sỉ Đặng Lệ Quân
Gửi bác ducati999 2 cái CDs đàn tranh em mới lượm được trưa nay ở khu bán nhạc Q5.Em nghe thì thấy có 1 vài bài trùng với cái CD " Cổ Cầm Tân Vận " mà bác đề cập đến.Bác nhìn thử xem nó là cái thể loại gì bác nhé Hình đây bác ạ :
Sáng mai bác qua khẩn trương chỗ đó múc cho e 2 CD này rùi gửi qua bác duchangbai cho e nhé! Bác cho e STK VCB e sẽ thổi khói nhờ bác! Hai cái này là đàn tranh bác ạ! Nhạc khúc có thể giống nhau vài bài nhưng nhạc khí là khác! - Cái trên là "Cổ tranh" - Cái dưới là "Thùy dữ tranh phong" Pic nhỏ quá e ko nhìn được list. Bác PM em nhé!
Vâng , cái trên là độc tấu đàn tranh bác ạ , và em nghe bài đầu tiên thì thấy rất giống với 1 bài trong Cổ Cầm Tân Vận , bài số 1 này nghe thật thích với những đoạn cao trào nghe tiếng đàn dồn dập như ai oán , giận dữ...em nổi da gà :lol: Cái Album thứ hai thì là hòa tấu bác ạ ( Piano ) đúng kiểu Tân Cổ Giao Duyên...nhưng vẫn thích Cái CD màu xanh bên trên phía trong em thấy cũng toàn tiếng Tàu , mỗi 1 bài họ còn kèm theo cái hình rất đẹp , em đoán là các điển tích đính kèm theo ạ :mrgreen:
Các bác Fan của Chinese Audiophile kiếm đĩa này về nghe thử xem sao nhé....Chủ đề này có 9CDs em nghe thì thấy rất tuyệt ạ ( Em mới đựoc nghe Album số 2 ). Đây là CD tổng hợp các bản nhạc hòa tấu nhiều ca khúc rất quen thuộc và nổi tiếng.Cái hay , cái lạ và cái làm em rất thích đó chính là kiểu kết hợp giữa nhạc cụ dân tộc Trung Quốc như : Đàn nhị , đàn tranh , sáo...cùng với Piano , guitar , Violin , Cello , Bass & Drum...Đặc biệt hơn nũa là giọng Vocal đựơc mix xen kẽ trong nhiều bài phải nói là rất phiêu ( Không phải hát mà chỉ là hò theo giai điệu ) , tiếng trống cực kỳ ấn tượng , Cello cũng không kém Cái hay của Album này không chỉ là sự kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ của Trung Quốc với Phương Tây mà vẫn giữ được cái hồn chủ đạo của dòng nhạc Trung Quốc qua tiếng đàn nhị ( Em không biết gọi là đàn nhị có đúng không nữa ) réo rắt đầy tâm trạng trong từng bản nhạc. 1CD theo em là đáng để nghe thử..con chuyện ngấm hay không có lẽ cũng tùy từng sở thích khác nhau nhưng riêng cái gọi là thu âm của Album này cũng đáng để nghe qua 1 lần xem bộ giàn của mình nó thể hiện bộ dây , tiếng trống ra làm sao ạ :lol: Vài tấm hình gửi các bác tham khảo : ( Em chẳng biết làm sao để có thể up file lên trên này chia sẻ cùng các bác phương xa nghe thử ạ )
Tiếp theo và...hết Em xin trích lược những gì họ viết trong track 3 : The End Of The World In the song , you may hear a wonderful beginning played by erhu and drum and then come the beautiful guitar and magic singing. Every note played by pipa sound so fluent , and the middle part played by guitar and erhu brings the song to climax . The sons endeed worths listening. Bác nào dịch giúp em với ạ
Ngắm qua cũng thấy ngon rùi đây! Erhu (二胡) : Nhị hồ Pipa (琵琶) : Tì bà Em phán bừa nó tả bài này thế này ạ : - Đọan đầu là tiếng nhị hồ và trống tuỵệt vời - Tiếp theo là ghi-ta (cũng) tuyệt vời và giọng hát ma thuật - Phần giữa (cao trào) là ghi-ta và nhị hồ hòa tấu - Điểm bằng tiếng đàn tì bà uyển chuyển lưu sướng :lol: Nói chung là đáng giá ạ! Kính bác baohun00 và các bác!
Bác Ninh ui, hôm nào rảnh ghé cafe hẻm em nhé, em gửi lại bác cai CD Thái Cực, em nghe 1 lát phê wa ngủ đến hết đĩa luôn