Paradise Lost Paradise Lost Như đã nói ở phần trước, album thứ 4 của Paradise Lost lại tiếp tục là một siêu phẩm của nhóm. Lúc này chất Death Metal trong các album trước của nhóm đã không còn. Giọng clean của Holmes khiến ta nhớ tới giọng James Hetfield của Metallica. Lúc này âm nhạc của nhóm đã chuyển hoàn toàn sang Gothic Metal. Ta cần giải thích xem Gothic Metal là gì? Gothic Metal thực chất là sự kết hợp của Doom Metal với Gothic Rock. Gothic Rock là một trào lưu âm nhạc diễn ra vào cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80, trào lưu này chịu nhiều ảnh hưởng của punk và alternative rock. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn của Gothic Rock so với punk là các band nhạc Gothic thường sử dụng keyboards như là một nhạc cụ chủ đạo. Các bài hát Gothic Rock thường tạo ra không gian đen tối, nặng nề và sử dụng lời ca theo trường phái lãng mạn. Một trong những band chủ đạo và tài năng nhất trong dòng nhạc Gothic có thể kể đến là The Cure. The Cure không chỉ là một band Gothic điển hình mà còn là một trong những band nhạc tài năng, sáng tạo và có nhiều ảnh hưởng bậc nhất của thế giới âm nhạc nói chung. Nói vậy chúng ta cũng hiểu âm nhạc của Paradise Lost lúc này sử dụng rất nhiều keyboards và chịu ảnh hưởng rất nhiều của Gothic Rock. Album này về sau được coi là album kinh điển đầu tiên của Gothic Metal (chứ không phải Doom Death) với một loạt những bài hát nổi tiếng trong lịch sử như: True Belief, Christendom, Remembrance… Album này lần đầu tiên vươn lên vị trí số 31 tại Đức và biến Paradise Lost trở thành một band nhạc mainstream ở đất nước này. True Belief Christendom Ngay sau một album kinh điển lại tiếp tục là một album kinh điển nữa của Paradise Lost trước khi chuyển hẳn sang một thứ âm nhạc hoàn toàn mới. Album thứ 5 của nhóm là Draconian Times -95 tiếp tục là một siêu album. Âm nhạc trong album này dĩ nhiên vẫn là phong cách kiểu Doom/Gothic hết sức hoành tráng mà những fan hâm mộ sẽ khó thể quên. Từ đoạn intro sử dụng hết sức mạnh mẽ trong bài hát kinh điển Enchantment tới những bài hát đầy cảm xúc như trong Forever Failure hay bay bổng, lãng mạn trong Hallowed Land… Enchantment Forever Failure Hallowed Land Album thứ 6 của nhóm là One Second -97 và Host -99 thì âm nhạc của Paradise Lost thay đổi hoàn toàn. Lúc này họ thậm chí không chơi Metal nữa mà thay vào đó là một thứ âm nhạc kiểu synth – pop (phong cách sử dụng syntherizer và các nhạc cụ điện tử đánh rất nhẹ kiểu Depeche Mode) và electronica. Dù cả 2 albums này bị fan Metal ghét cay ghét đắng nhưng nó lại là những đỉnh cao về mặt thương mại của Paradise Lost khi One Second có mặt trong top 10 của rất nhiều nước tại châu Âu. Say just words Xu hướng chơi theo kiểu synth pop này còn tiếp diễn trong album Believe In Nothing vào năm 2001. Tuy nhiên, album này đã mang nhiều chất rock hơn so với 2 album trước đó (2 albums trước đánh quá nhẹ và gần như không còn chất Rock). Tuy nhiên xu hướng quay trở lại với Rock lại không phù hợp với yêu cầu của hãng đĩa khổng lồ EMI. Mâu thuẫn với hãng đĩa và sự thất bại của album này khiến Paradise mất hợp đồng ngay sau đó. Mouth Phải đến tận năm 2002 thì Paradise Lost mới quay trở lại với Metal bằng album Symbol Of Life. Tuy album này đã đánh mạnh hơn những album trước đó khá nhiều và mang tính Metal nhưng những ảnh hưởng của synth pop và electronica thì vẫn còn. Ngoài ra, âm nhạc của Paradise Lost và giọng hát của Holmes còn chịu nhiều ảnh hưởng của Nu Metal nữa (ít có solo guitar). Chính vì vậy xu hướng âm nhạc chính trong album này là kiểu Doom – Nu – Industrial Metal. Nếu như bạn không phải là anti fan của Nu Metal thì album khá lạ và hay. Một sự trở lại đúng đắn của Paradise Lost. Erased (còn tiếp)
Paradise Lost Paradise Lost (tiếp theo và hết) Quá trình quay trở lại với Gothic/Doom Metal của Paradise Lost chỉ thực sự hoàn tất vào năm 2005 khi nhóm tung ra album thứ 10 làParadise Lost c. Sự trở lại này được fan hâm mộ chào đón nhiệt liệt mặc dù album này chỉ ở mức khá với không nhiều những bài hát nổi trội. Giọng hát của Holmes trong album này rất dễ nghe và có phần thiếu mạnh mẽ. Bài hát Forever After có lẽ là điểm sáng lớn nhất trong album này. Forever After Nhưng đến album thứ 11 thì Paradise Lost mới trở lại đỉnh cao một lần nữa với album Requiem -2007. Lúc này, âm nhạc của nhóm trở lại hết sức mạnh mẽ và làm ta gợi nhớ về thời kỳ đỉnh cao của những album Gothic/Doom kinh điển như Icon hay Draconian Times. Album được cả fan hâm mộ và giới chuyên môn đánh giá rất cao. Rất nhiều fan hâm mộ còn cho rằng, album này đáng nhẽ phải là album tiếp theo của Draconian Times mới là hợp lý. Hiển nhiên album rất hay với một loạt các bài hát đầy chất lượng như: Never For The Damned, The Enemy… Never For The Damned The Enemy Album thứ 12 của nhóm là Faith Divides Us – Death Unites Us -2009 là một album chống lại tất cả các tôn giáo. Album này tiếp tục được fan hâm mộ hoan nghênh nhiệt liệt vì thậm chí còn đánh mạnh hơn so với album trước là In Requiem. Về mặt âm nhạc thì album này không quá khác biệt so với album trước khi nhóm vẫn chơi theo phong cách Gothic Doom đã tạo nên thương hiệu của nhóm. Nhưng lần này, nhóm sử dụng cả giàn nhạc giao hưởng để đánh bè cho album này. Faith Divides Us Death Unites Us The Rise Of Denial Album gần đây nhất của Paradise Lost là Tragic Idol -2012 thực chất là sự trở lại với những giá trị truyền thống của họ. Rất nhiều những yếu tố đã có trong những album kinh điển của nhóm như Draconian Times, Icon, Shades Of God đều quay trở lại trong album này với những bài hát chịu ảnh hưởng của 3 album trên. Chỉ có 2 điểm chính trong sự nghiệp của band nhạc là phong cách Doom Death và Synth Pop là không thấy xuất hiện. Nếu sự vắng mặt của Synthpop chẳng đem lại mấy sự nuối tiếc cho fan của Metal thì sự vắng mặt của Doom Death lại khiến cho nhiều fan Metal cảm thấy buồn lòng. Dù sao đây cũng là album rất đáng nghe của nhóm. Honesty In Death Trải qua một sự nghiệp dài gần 30 năm, tuy không thực sự quá thành công về mặt thương mại, Paradise Lost vẫn là cái tên nhận được rất nhiều sự yêu mến của không chỉ fan Extreme Metal. Đây cũng là một trong những band sáng tạo và có nhiều ảnh hưởng nhất trong suốt thập niên 90 và 2000s của Metal Châu Âu. Phong cách Doom Death và Gothic, đặc biệt là phong cách Gothic Metal mà nhóm là tiên phong thậm chí còn phát triển hết sức mạnh mẽ và trở thành một dòng nhạc riêng biệt. Tuy là những người tiên phong sáng tạo ra Gothic Metal nhưng bản thân Paradise Lost chưa bao giờ là một band Gothic Metal thực thụ. Những sáng tạo và ảnh hưởng to lớn của nhóm đã biến họ trở thành một quái kiệt trong làng nhạc Metal châu Âu và thế giới. Một band mà các fan Metal khó có thể quên.
My Dying Bride My Dying Bride My Drying Bride là cái tên thứ 2 trong bộ 3 huyền thoại Peaceville Three (3 nhóm đều ký hợp đồng với hãng Peaceville). Bộ 3 huyền thoại này cũng chính là những người sáng tạo và phát triển nhánh nhạc Doom Death và sau này là Gothic Metal như chúng ta đã biết trong bài viết về Paradise Lost. Cùng với Paradise Lost và Anathema, My Dying Bride đều có sự nghiệp kéo dài và hết sức huy hoàng. Cả 3 nhóm đều hết sức được yêu mến và có nhiều ảnh hưởng trên thế giới nhưng lại gần như không được biết đến nhiều trên quê hương của chính họ là nước Anh. My Dying Bride thành lập vào năm 1990 tại vùng Yorkshire, Anh Quốc bởi bộ tứ Aaron Stainthorpe – vocal, hai tay guitar Craighan và Robertshaw cùng với tay trống Rick Miah. Bộ tứ này ghi âm album demo đầu tiên mà không cần tay guitar bass. Phải đến năm 92 thì tay bass Ade Jackson mới gia nhập nhóm. Cũng trong năm 92, My Dying Bride tung ra album kinh điển đầu tiên là As The Flower Wither. Đây là album mang đậm chất Doom Death nhất của My Dying Bride khi Stainthorpe sử dụng hoàn toàn giọng hát kiểu Death trên nền nhạc đậm chất Doom mạnh mẽ và nặng nề của hai tay guitar Craighan và Robershow. Album góp một phần hết sức quan trọng trong việc định hình và phát triển dòng nhạc Doom Death rất mới mẻ lúc bấy giờ (thời điểm này chỉ có mỗi mình Paradise Lost chơi theo phong cách DoomDeath và chưa thể tạo ra một trào lưu cho tới khi xuất hiện My Dying Bride và Anathema). Sear Me The Forever People Tuy nhiên, ngay trong album thứ 2 của họ, album Turn Loose The Swans thì âm nhạc của My Dying Bride thay đổi rất nhiều. Đây là một album với các bài hát rất dài (gồm 7 bài hát và kéo dài tới hơn 58 phút – trung bình mỗi bài hơn 8 phút). Tay keyboard/violin Martin Powell được kết nạp chính thức vào band nhạc và chính anh này là nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi rất lớn trong âm nhạc của My Dying Bride. Các bài hát trong album dù vẫn mang nặng phong cách Doom Metal, đã tích hợp thêm rất nhiều thành phần của Progressive Metal và âm nhạc dạng thử nghiệm phá cách Experimental. Giọng hát của Stainthorpe lúc này cũng thay đổi khi anh sử dụng giọng trầm, buồn kết hợp với giọng gầm gừ kiểu Death. Giọng của Stainthorpe thì không quá mạnh mẽ và kỹ thuật nhưng đầy cảm xúc và buồn bã. Có lẽ chính My Dying Bride, với giọng hát của Stainthorpe là nhóm nhạc đầu tiên mang tới sự buồn bã, thảm thiết và tuyệt vọng cho Doom Metal. Việc sử dụng nhiều keyboards cũng mang lại nhiều yếu tố Gothic trong âm nhạc của My Dying Bride (từ đây sẽ viết tắt là MDB). Dù thay đổi rất lớn trong âm nhạc, Turn Loose The Swans vẫn hết sức thành công với những đoạn kéo violin khiến người nghe phải rợn tóc gáy. Giọng hát đầy đau đớn, tuyệt vọng của Stainthorpe cũng là nguồn cảm hứng lớn lao cho rất nhiều band chơi theo phong cách Doom Metal sau này. Tất cả những đóng góp quan trọng đó biến album này trở thành một trong những album kinh điển của Doom Metal thế giới. The Songless Bird Your River Kế tiếp sự thành công của Turn Loose The Swans, album thứ 3 của nhóm là The Angel And The Dark River -1995 tiếp tục chứng kiến sự chuyển hướng sang kiểu Doom pha lẫn Gothic đã mầm mống xuất hiện trong album Turn Loose The Swans. Lần này, giọng hát của Stainthorpe chuyển hoàn toàn sang kiểu clean chứ không còn một chút nào gầm gừ (Death) như trong 2 albums trước đó. Tiếng keyboards và violin của Powell trở thành xu hướng âm nhạc chủ đạo của MDB. Về mặt âm nhạc, nhóm tiếp tục xu hướng Epic, Progressive với các bài hát cũng rất dài (6 bài dài 52 phút – thậm chí trung bình mỗi bài hát còn dài hơn cả album trước). Điều đặc biệt hơn nữa là những bài hát dài nhất sau này lại trở thành những bài hát được yêu mến nhất trong album này. Tiêu biểu có thể kể tới 2 nhạc phẩm thuộc hàng kinh điển và được yêu mến nhất của MDB như: The Cry Of Mankind, dài tới hơn 12 phút hay Two Winters Only dài hơn 9 phút. The Cry Of Mankind Two Winters Only (còn tiếp)
My Dying Bride My Dying Bride Album thứ 4 của nhóm là Like Gods Of The Sun -1996 là một trong những album gây nhiều tranh cãi nhất trong sự nghiệp của MDB. Rất nhiều fan hâm mộ cho rằng đây là một trong những album đáng quên nhất trong sự nghiệp của nhóm. Nhưng một phần còn lại, nhiều cũng không kém, lại cho rằng đây là album rất hay và thậm chí là đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm. Âm nhạc trong album này một lần nữa nghiêng nhiều về Gothic Metal với những bài hát không quá dài như 2 albums trước đó. Giọng hát trong album này cũng hoàn toàn sử dụng clean vocal và vai trò của violin trở nên hết sức quan trọng trong những bài hát của MDB. Sự tham gia mạnh mẽ của violin cũng là một trong những yếu tố quan trọng tao ra sự buồn bã, bi thảm và tuyệt vọng rất lớn trong những bài hát của MDB. Rất nhiều bài hát trong album này vô cùng được yêu mến bởi những đoạn kéo violin “khủng khiếp” của Powell mà chúng ta có thể kể đến như: A Kiss To Remember, For You hay For My Fallen Angel. Dù gây nhiều tranh cãi, nhưng theo ý kiến các nhân của người viết, đây vẫn là một trong những album hay và mang nhiều cảm xúc của MDB. Tuy nhiên đây cũng chính là album cuối cùng của Powell với MDB, sau album này thì anh rời nhóm để gia nhập Anathema rồi Cradle Of Filth. Sau này, Powell còn tiếp tục sự nghiệp học hành và nhận bằng tiến sỹ về sáng tác nhạc vào năm 2013. A Kiss To Remember For You For My Fallen Angel Cùng với sự ra đi của Powell và tay trống Miah (vì lý do sức khỏe) MDB quay trở lại với đội hình gồm 5 người. Tất nhiên, không còn Powell nữa thì âm nhạc của nhóm phải thay đổi rất nhiều. Năm 1998, nhóm tung ra album thứ 5 là 34.788%... Complete với rất nhiều sự thay đổi trong âm nhạc. Đây là album mang đậm chất thử nghiệm của nhóm khi sử dụng rất nhiều keyboards. Chính việc sử dụng rất nhiều keyboards khiến album này mang nhiều tính industrial và experimental hơn là chất Doom Metal trong những album trước. Sự thay đổi này, khiến cho một số lượng lớn fan của MDB vô cùng phấn khích và cho rằng đây là một trong những album lạ nhất trong sự nghiệp của nhóm. Một album không thể thiếu trong các bộ sưu tập về MDB. The Whore, the Cook and the Mother Heroin Chic Sau album mang nặng tính thử nghiệm, MDB lại quay trở về với phong cách Doom/Gothic truyền thống trong album The Light At The End Of The World -1999. Ta hẳn cũng đoán được sự vui sướng đến tột độ của những fan hâm mộ MDB trên toàn thế giới. Thậm chí, trong album này còn xuất hiện cả dạng vocal gầm gừ kiểu Death trong 2 album đầu tiên của nhóm. Nói như vậy, ta cũng hiểu rằng đây là một album mang cả chất Doomdeath lẫn chất Gothic. Album khá hay với một số bài hát sau này cũng trở thành kinh điển như: She Is The Dark hay The Fever Sea. iQzisL_aDxM iQzisL_aDxM Album tiếp theo của nhóm là The Dreadful Hours tiếp tục nối tiếp album trước đó là The Light At The End Of The World với phong cách chủ yếu là DoomDeath với những ảnh hưởng của Gothic Rock. Các bài hát đánh khá nhanh và mạnh, đây là một album khá dài tới hơn 70 phút với một bài hát được ghi âm lại từ album đầu tiên của nhóm là As The Flower Withers – bài The Return Of The Beautiful. The Dreadful Hours (còn tiếp)
My Dying Bride My Dying Bride (tiếp theo và hết) MDB một lần nữa trở lại đỉnh cao trong sự nghiệp âm nhạc của mình trong album thứ 8 của nhóm là Songs Of Darkness, Words Of Light -2004. Sự thay đổi lớn nhất trong âm nhạc của MDB trong album này có lẽ là sự xuất hiện của tay keyboards nữ Sarah Stanton. Đóng góp của Stanton vào âm nhạc trong album này rất lớn với tiếng keyboards mang nhiều âm hưởng của nhạc cổ điển và nhà thờ. Album cũng sử dụng rất nhiều giọng gầm gừ kiểu Death làm cho âm nhạc của nhóm nghe mạnh và tối hơn. Chính vì sự khác biệt trong âm nhạc của Stanton khiến cho album này gần như mang rất ít âm hưởng của Gothic mà chủ yếu mang âm hưởng của Doom và DoomDeath. Đây cũng là một trong những album tối tăm nhất trong sự nghiệp của nhóm. Khỏi cần miêu tả sự hài lòng của fan Metal cũng như các nhà phê bình trên thế giới. Với rất nhiều người, đây mới thực sự là album đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm. My Wine In Silence A Doomed Lover Sau album đỉnh cao năm 2004, cũng dễ hiểu khi album thứ 9 của MDB là A Line Of Deathless Kings -2006 lại gây ra một ít sự thất vọng. Sự thất vọng đến vì album này chất lượng không bằng album trước đó. Album này sử dụng gần như hoàn toàn clean vocal chứ không sử dụng kiểu Death vocal như album trước. Chính vì lý do này, album này nghe khá giống album The Angel And The Dark River vào năm 1995. Mặc dù đây vẫn là một album đáng nghe nhưng chất lượng của album này không thể so được với Songs Of Darkness, Words Of Light. Deeper Down Thy Raven Wings Trong album thứ 10 của mình, một lần nữa đội hình của MDB lại thay đổi khi keyboardist Stanton rời nhóm. Thay thế cho cô này lại là một keyboardist nữ khác là Katie Stone. Cô này cũng có khả năng chơi violin nên một lần nữa tiếng violin trở lại trong âm nhạc của MDB kể từ sau album Like Gods Of The Sun vào năm 1996. Dù tiếng violin trở lại nhưng album này chất lượng khó có thể so sánh với những album trước và có dấu hiệu cho thấy sự mệt mỏi và mất phương hướng của MDB. My Body, A Funeral Sau khi tung ra album For Lies I Sire, MDB tiếp tục bận rộn với những dự án mới mang nhiều tính thử nghiệm. Đầu tiên là nhóm tung ra 1 album kép gồm các bài hát cũ nhưng được ghi âm theo phong cách hoàn toàn mới (chủ yếu dùng keyboards và mang rất ít chất Metal) trong album Evinta. Sau đó là ghi âm một bài hát dài tới 27 phút trong EP The Barghest O’Whitby. Sau những thử nghiệm, MDB bất ngờ tung ra album A Map Of All Our Failures vào năm 2012. Bất ngờ hơn nữa là album này không mang nhiều dạng thử nghiệm như Evinta mà mang đậm chất Doom Metal. Giọng hát kiểu Death cũng tiếp tục quay trở lại kết hợp với tiếng violin (không nhiều như khi Powell còn ở trong nhóm) khiến fan hâm mộ vô cùng hứng thú và yêu thích. Đây tiếp tục là một trong những album hay và đáng nghe của MDB. Đây cũng là album gần nhất của MDB. A map of all our failures Trải qua một sự nghiệp dài và không bị gián đoạn, âm nhạc của MDB không thay đổi quá nhiều theo thời gian. Chất âm nhạc chủ đạo của nhóm là sự pha trộn giữa các phong cách Doom, DoomDeath và Gothic. Giọng hát của Stainthorpe, tuy không quá kỹ thuật nhưng đầy cảm xúc và thê lương, lại khiến cho những albums của nhóm luôn được yêu mến trên toàn thế giới (chỉ có một ngoại lệ duy nhất là nước Anh – quê hương của họ). Các album của MDB đều tay và có chất lượng khá tốt. So với Paradise Lost và Anathema, âm nhạc của MDB ít sự thay đổi và đột biến lớn, nhưng chính vì lý do này, họ lại có một lượng lớn fan trung thành. MDB cũng là một trong những band gạo cội và đóng góp rất nhiều cho sự hình thành và phát triển của DoomDeath, Gothic Metal nói riêng và Heavy Metal thế giới nói chung. Một band nhạc dành cho tất cả những người yêu Metal thế giới.
Anathema Anathema Nhân vật cuối cùng trong Peaceville Three là band nhạc Anathema. Cũng giống như My Dying Bride, Anathema thành lập năm 1990, nhưng là tại Liverpool, quê hương của band nhạc huyền thoại The Beatles. Tuy nhiên, khác với các band nhạc còn lại của Peaceville Three, Anathema gần như một band nhạc gia đình vì các thành viên trong band nhạc chủ yếu là anh em, họ hàng. Band nhạc được thành lập bởi 3 anh em nhà Cavanagh (Vicent – guitars, Daniel – guitars và Jamie – bass), tay trống John Douglas và giọng ca chính Darren White. Khởi đầu Anathema chơi hoàn toàn theo phong cách Doom Death mà chúng ta đã biết trong những bài viết trước và tung ra album đầu tay là Serenades vào năm 1993. Album này cũng là một trong những album kinh điển của Doom Death Metal và có ảnh hưởng rất rộng về sau này. Tuy nhiên, ngay sau album này, thì giọng ca chính quyết định rời khỏi band nhạc. Vicent Cavanagh quyết định tiếp tục theo đuổi sự nghiệp âm nhạc và đích thân anh này đảm nhận vai trò hát chính. Sleepless Với việc Vincent đảm nhận vai trò hát chính, nhóm tiếp tục tung ra album thứ 2 là The Silent Enigma vào năm 1995. Âm nhạc của Anathema chỉ có một chút ít thay đổi trong album này khi họ tích hợp thêm một số yếu tố của Progressive Metal vào. Dù đổi giọng ca chính nhưng vẫn là chất Doom Death điển hình với giọng ca gầm gừ. Tuy nhiên, album này cũng chứng kiến sự trưởng thành nhiều hơn của band với các bài hát có cấu trúc phức tạp hơn. Band cũng sử dụng khá nhiều keyboards trong album này. The Silent Enigma A Dying Wish Sau 2 albums đầu tay khá hay và mang đậm chất Doom Death, âm nhạc của Anathema bắt đầu chuyển sang hướng mới trong album thứ 3 là Eternity -1996. Trong album này thì âm nhạc của họ chịu rất nhiều ảnh hưởng của Pink Floyd. Tức là mang đậm phong cách space/psychedic với những giai điệu hay, dễ nghe. Giọng hát của Vicent lúc này thì đã trở nên sạch sẽ và dễ nghe chứ không còn âm điệu của Death Metal như trong The Silent Enigma. Tuy mang rất nhiều âm hưởng của Progressive Rock, nhưng album vẫn đánh mạnh và những ảnh hưởng của Doom Metal vẫn còn rất nhiều. Cũng bởi lý do này, rất nhiều nhà chuyên môn, tại thời điểm bấy giờ cho rằng, đây là một dạng mới của Doom là Atmospheric Doom. Tại thời điểm năm 1996, sự thay đổi này trong âm nhạc của Anathema gây ra rất nhiều bất ngờ đối với cả fan hâm mộ cũng như giới chuyên môn. Sự thay đổi này khiến âm nhạc của Anathema trở nên hết sức đặc biệt và nó sẽ còn tiếp diễn trong những album sau đó để tạo nên âm nhạc của Anathema hiện tại. Angelica The Beloved (còn tiếp)
Anathema Anathema Nếu như Eternity chứng kiến sự chuyển đổi âm nhạc của Anathema từ Doom Death sang dạng Progressive Doom Metal thì album tiếp theo là Alternative 4 -1998 chứng kiến bước trưởng thành vượt bậc của Anathema. Lúc này, band nhạc chơi một thể loại nhạc hết sức phức tạp: nó là sự pha trộn giữa Progressive Metal, Alternative Rock, Neo Progressive Rock và tất nhiên là cả Doom Metal nữa. Giọng hát của Vincent cũng trở nên mạnh mẽ và giàu cảm xúc hơn album trước là Eternity rất nhiều. Album cũng sử dụng các nhạc cụ mới mẻ như cello và violin một cách hết sức mới mẻ và đầy cảm xúc. Cũng dễ đoán rằng đây chính là một trong những siêu phẩm của Anathema. Inner Silence Fragile Dreams Nhưng Alternative 4 chỉ là sự khởi đầu trong một chuỗi những album kinh điển theo xu hướng Progressive của Anathema. Album tiếp theo của nhóm là Judgement -1999 thậm chí còn được đánh giá cao hơn cả Alternative 4. Về mặt âm nhạc, album này không quá khác biệt so với album trước đó và vẫn là sự pha trộn của Progressive Rock với kiểu dark ambient, Alternative, Doom Nhưng album này có một loạt những bài hát hết sức có chất lượng. Một phần nguyên nhân chính có lẽ là việc mẹ của anh em nhà Cavanagh vừa mất trước album này một thời gian ở tuổi 49. Đây là album mà anh em Cavanagh thể hiện với đầy cảm xúc mạnh mẽ và có nhiều chất u buồn. Album này từng gây sốt trên rất nhiều nước trên thế giới trong năm 1999. Album cũng đánh dấu những thành công đầu tiên của Anathema trên thị trường khi xuất hiện trên bảng xếp hạng của một số nước như Đức, Anh (đây là lần đầu tiên album của nhóm xuất hiện trên các bảng xếp hạng). Nhiều bài hát trong album này đã trở nên kinh điển như Deep, Forgotten Hopes hay bản ballad One Last Goodbye. Deep One Last Goodbye Album thứ 6 của Anathema là A Fine Day To Exit -2001 tiếp tục chứng kiến sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm. Trong album này, chất âm nhạc chủ đạo là Alternative Rock với rất nhiều âm hưởng của Radiohead và chất Trip Hop kiểu Potishead. Một nhân tố nữa cũng tạo nên âm nhạc cho album này là chất Progressive Rock kiểu Porcupine Tree. Chất Metal chỉ còn rất ít, thậm chí không còn. Chính vì những lý do nêu trên, album thuộc hàng dễ nghe nhất trong toàn bộ các album của nhóm. Một album lạ nhưng cũng khá hay của nhóm. A Fine Day To Exit Pressure Album thứ 7 của nhóm là A Natural Disaster -2003 tiếp tục theo xu hướng của album trước là A Fine Day To Exit. Trong album này, sự ảnh hưởng của Trip Hop, theo xu hướng mà ta đã biết là của nhóm Potishead càng thể hiện rõ nét hơn nữa với sự xuất hiện của hai giọng ca nữ là Lee Douglas và Anna Livingstone. Tất nhiên, chất nhạc Alternative dạng thử nghiệm của Radiohead hay Coldplay thì vẫn hiển hiện rõ nét không kém. Một xu hướng nữa cũng bắt đầu xuất hiện mạnh mẽ hơn trong album này là xu hướng chơi nhạc Post Rock (kiểu Mogwai, Mono). Cũng như album trước thì album này cũng gần như không còn tính Metal và rất dễ nghe. Natural disaster Are You There? (còn tiếp)
Anathema Anathema Sau album A Natural Disaster là một khoảng lặng dài trong sự nghiệp của Anathema. Nguyên nhân chính của khoảng lặng này không đến từ band nhạc mà lại là từ hãng đĩa của họ. Trong 3 album trước đó, Anathema ký hợp đồng với hãng Music For Nations nhưng đến năm 2004 thì hãng này bị đóng cửa nên Anathema không thể tìm được hãng đĩa nào khác để ký hợp đồng. Không chịu từ bỏ sự nghiệp âm nhạc của mình, band tiếp tục sáng tác và tung những bài hát của họ lên trang web và bán cho fan hâm mộ. Phải đến tận năm 2008 thì những dấu hiệu đầu tiên của sự thành công mới đến với Anathema khi họ tung ra album tuyển chọn Hindsight. Album này chỉ có một bài hát mới và 9 bài hát cũ trong các album kinh điển như Eternity, Alternative 4, Judgement, A Fine Day To Exit và A Natural Disaster. Các bài hát cũ này đều được chơi lại theo phong cách Acoustic. Dù là album tuyển chọn nhưng thật bất ngờ là album khá thành công khi vẫn xuất hiện trên các bảng xếp hạng của Phần Lan, Pháp, Hà Lan. Tháng 3 năm 2010 thì Anathema bất ngờ tung ra album thứ 8 của mình là We’re Here Because We’re Here qua hãng đĩa chuyên về Progressive - Kscope. Điểm đáng chú ý nhất trong album này là sự xuất hiện của Steven Wilson của nhóm Porcupine Tree trong vai trò sản xuất và mix. Khỏi phải diễn tả thì ta cũng biết là album này mang đậm phong cách Progressive và Post Rock. Sự xuất hiện của Wilson mang lại hiệu ứng rất tích cực. Album đánh khá nhẹ nhưng đầy cảm xúc với một loạt những bài hát rất hay như: Everything, Angels Walk Among Us, Dreaming Light hay A Simple Mistake. Album nhận được rất nhiều lời khen ngợi cả từ phía người hâm mộ lẫn giới chuyên môn và thậm chí còn được bầu là album Progressive hay nhất trong năm 2010 của tạp chí Classic Rock. A simple Mistake Dreaming Light Sau khi rất thành công với album We’re Here… Anathema tiếp tục trở nên bận rộn với dự án mới là album Falling Deeper với một loạt các bài hát rất cũ được chơi với phong cách khác hẳn khi sử dụng khá nhiều dàn giao hưởng (tương tự album Hindsight năm 2008). Để rồi sau đó 1 năm, họ tung ra album thứ 9 của nhóm là Weather Systems vào năm 2012. Về mặt âm nhạc, album này không khác quá nhiều so với We’re Here… và vẫn là dạng Progressive Rock với nhiều âm hưởng của Neoprogressive Rock (một nhánh nhạc khác trong dòng nhạc Progressive với âm thanh hiện đại hơn). Điểm khác biệt lớn nhất trong album này có lẽ là sự xuất hiện rất nhiều của các nhạc cụ acoustic không dây như guitar gỗ hay piano. Album hay và cũng đạt thành công không nhỏ về mặt thương mại khi xuất hiện trên gần như tất cả các bảng xếp hạng tại châu Âu trong đó có những thị trường lớn như Anh – hạng 50, Pháp -14 và Đức -15. Album tiếp theo của nhóm là Distant Satellites dự kiến sẽ được tung ra vào giữa tháng 6 năm nay (2014) và cũng hứa hẹn sẽ là một trong những album rất hay nữa của nhóm khi đã có những đánh giá rất cao trên các diễn đàn có tiếng về âm nhạc. Lightning Song Untouchable Anathema là cái tên cuối cùng trong số bộ 3 huyền thoại, những người đã tạo tiền đề và sáng lập ra dòng nhạc DoomDeath Metal. So với Paradise Lost và My Dying Brid, Anathema có lẽ có ít ảnh hưởng hơn. Âm nhạc của nhóm đã thay đổi rất nhiều (tới mức không thể nhận ra nếu bạn chỉ nghe 2 album đầu và những album về sau này của nhóm thì bạn sẽ không thể tin được đây là do cùng một band chơi). Tuy nhiên, họ cũng vẫn là những tài năng rất lớn và được không ít những fan của Progressive Rock / Metal tôn thờ với một phong cách riêng biệt. Những album như Alternative 4, Judgement hay We’re Here, Weather System chắc chắn sẽ có vị trí không thể thiếu trong bộ sưu tập của những fan hâm mộ cả Progressive Rock lẫn Metal. Đặc biệt hơn, trong những năm gần đây, Anathema liên tục tung ra những album chất lượng và vô cùng được yêu thích. Chắc rằng chúng ta sẽ còn phải nhắc nhiều đến Anathema trong những năm sắp tới. The Lost Song part 3
Katatonia Katatonia Katatonia là cái tên đầu tiên ngoài biên giới nước Anh chơi theo phong cách DoomDeath. Nhóm thành lập năm 91 tại Stockholm, Thụy Điển. Đến giữa năm 92, nhóm tung ra album demo đầu tiên là jhva Elohim Meth và được giới hâm mộ chào đón nhiệt liệt, album được bán hết gần như ngay lập tức. Thành công này khiến nhóm nhận được sự chú ý cua một hãng đĩa nhỏ của Hà Lan là hãng Vic, hãng sau đó mua lại bản quyền và phát hành lại album này như một EP. Album EP này cũng bán hết ngay sau đó. Thành công khiến nhóm có hợp đồng để cho ra album đầu tiên là Dance Of December Souls vào tháng 12 năm 93 thông qua một hãng đĩa của Thụy Điển là No Fashion. Âm nhạc trong album là sự kết hợp giữa phong cách Epic Doom với Black (band khởi đầu chơi Black Metal) và tất nhiên là cả Death nữa. Việc sử dụng keyboards để tạo thêm hiệu ứng ambient/atsmopheric khá phù hợp với chất chậm rãi của Doom làm cho album được giới chuyên môn lẫn fan hâm mộ đánh giá khá cao. Without God Dù khá thành công với album đầu tay, phải đến 3 năm sau thì Katatonia mới tung ra được album thứ 2 là Brave Murder Day vào năm 1996. Nguyên nhân thì có rất nhiều, một phần do sự tan rã của hãng đĩa No Fashion, một phần khác do sự do dự của band nhạc khi được các hãng đĩa khác chèo kéo, một phần nữa là do sự bất ổn trong nội bộ band nhạc khi một số thành viên, do mâu thuẫn, quyết định từ bỏ band. Do những lý do phức tạp nêu trên, khi ghi âm album thứ 2 này, nhóm chỉ có 3 thành viên mà thôi. Trong album này thậm chí nhóm phải mời cả giọng ca Mikael Akerfeldt của nhóm Opeth vào trình diễn cùng vì giọng ca chính của nhóm không thể hát được những đoạn kiểu Death. Âm nhạc của album này không khác quá nhiều so với album trước và được rất nhiều fan hâm mộ yêu thích. Rainroom Brave Đến album thứ 3 là Discouraged Ones -98 thì Katatonia buộc phải thay đổi phong cách vì không thể tiếp tục mới Akerfeldt tiếp tục tham gia như một thành viên không chính thức. Lúc này họ buộc phải sử dụng clean vocal. Ngoài ra, họ cũng không sử dụng trống với double bass nữa. Album tất nhiên không còn nhiều tính Extreme mà, chúng ta có thể đoán được, mang nhiều phong cách Gothic. Các bài hát trong album cũng khá ngắn (chỉ khoảng 4 phút/bài). Ngoài những thay đổi trong âm nhạc, nhóm thay đổi luôn cả logo tên band nhạc bằng logo khác. Sự thay đổi này vẫn được giới hâm mộ đánh giá khá tốt. I break Nhưng sự thay đổi lớn hơn nữa chỉ diễn ra ở album thứ 4 của nhóm là Tonight’s Decision -99. Lúc này âm nhạc của nhóm bắt đầu trở nên dễ nghe hơn rất nhiều so với album trước đó và mang nhiều xu hướng thương mại hóa. Âm nhạc của nhóm cũng chuyển dần từ Gothic Metal sang Gothic Rock. Phản ứng của cả người hâm mộ lẫn giới chuyên môn đều khá phức tạp: rất nhiều người thích phong cách này, nhưng cũng có không ít người phản đối sự thay đổi mà theo họ là bị thương mại hóa này. I Am Nothing For My Demons (còn tiếp)
Katatonia Katatonia (tiếp theo) Nhưng xu hướng Rock hóa và thương mại hóa của Katatonia còn tiếp tục trong 2 albums sau đó là Last Fair Deal Gone Down -2001 và Viva Emptiness -2003. Chất Metal trong 2 albums này không có nhiều mà phong cách kiểu Gothic Rock (với ảnh hưởng rõ nét của The Cure) và phong cách Nu Metal. Chất Doom cũng vẫn còn nhưng rất ít. Tonight´s Music I Am Nothing Katatonia chỉ trở lại với Metal với album thứ 7 của nhóm là The Great Cold Distance -2006. Đây là một album mà chất Gothic Metal trở lại mạnh mẽ, tuy nhiên chất Alternative (Nu Metal) thì vẫn còn hiện diện rõ nét. Diễn tả thì dài dòng nhưng thực chất album này đánh mạnh hơn so với những album trước đó và cộng thêm một số ảnh hưởng của Progressive Metal vào nữa (tempo thay đổi). Không ít người hâm mộ của Alternative và Progressive vì thế cũng rất yêu thích album này. My Twin In the white Trong album thứ 8 của nhóm là Night Is The New Day -2009, âm nhạc của nhóm lại một lần nữa thay đổi. Lúc này, nhóm sử dụng rất nhiều các dụng cụ điện tử như syntherizer, tiếng trống điện để tạo âm hưởng kiểu electronic music. Ngoài ra, album còn tích hợp rất nhiều yếu tố của Progressive Metal, Folk music, Alternative Rock… Chính vì tích hợp nhiều loại nhạc trong album này, âm nhạc của nhóm nhiều khi nghe khá giống với Porcupine Tree hay Opeth. Album một lần nữa gây chia rẽ trong nội bộ fan hâm mộ. Những fan yêu thích xu hướng Progressive cho rằng đây là album đỉnh cao của nhóm, fan Doom Metal thì không mấy hài lòng. Day And Then The Shade Album thứ 9 là Dead End Kings -2012 không có nhiều sự thay đổi về âm nhạc so với album trước là Nght Is The New Day. Chính vì lý do này, những ai hâm mộ album trước thì cũng vẫn sẽ thấy album này rất hay với một số bài hát có giai điệu dễ nhớ như Parting, The One You Are Looking For Is Not Here… Trong năm 2013 Katatonia còn tung ra 1 album nữa là Dethroned And Uncrowned. Tuy nhiên đây không thực sự là một album mới mà chính là album Dead End Kings được ghi âm lại theo phong cách acoustic kết hợp với giao hưởng. Hầu như tất cả những gì thuộc về Metal như tiếng trống mạnh mẽ, tiếng méo của guitar điện (distortion) đã bị loại bỏ nên album này không còn một chút gì gọi là Metal cả. Phần tài chính của album này dựa hoàn toàn trên sự đóng góp tự nguyện của fan hâm mộ. Đến cuối năm 2013 thì Katatonia lại gặp rắc rối khi 2 /5 thành viên quyết định rời nhóm vì nhiều lý do khác nhau làm cho tương lai của nhóm trở nên khá mờ mịt. Lethean Trải qua sự nghiệp nhiều thăng trầm, Katatonia vẫn là cái tên được nhiều fan hâm mộ yêu mến và có khá nhiều album khá hay và dễ nghe dù không quá đặc biệt. Âm nhạc của nhóm có rất nhiều điểm tương đồng với Anathema nhưng có phần tối hơn. Họ cũng góp phần rất lớn vào việc phát triển Doom Death và Gothic Metal sau này.
Amorphis Amorphis Amorphis có lẽ là một trong những tên tuổi được yêu thích nhất của Metal Phần Lan. Nhóm thành lập từ năm 1990 tại Helsinki bởi cặp đôi guitar Tomi Koivusaari và Esa Holopainen. Tại thời điểm mới thành lập, Koivusaari còn là thành viên cua một nhóm Death Metal khác là Abhorrence. Nhóm này ngay sau đó tan rã và Koivusaari tập trung vào Amorphis. Tuy nhiên, một điều kỳ lạ đã xảy ra, khi Abhorrence đã tan rã thì nhóm này lại nhận được một lá thư mời ký hợp đồng của hãng Relapse tại Mỹ do hãng đĩa tình cờ nghe được album demo của band và thấy band rất có triển vọng. Vì Abhorrence đã tan rã nên Koivusaari đề xuất Amorphis thay thế và gửi đến hãng album demo mới ghi âm. Hãng này sau đó đã đồng ý ký hợp đồng với Amorphis và nhóm tung ra album đầu tiên là The Karelian Isthmus vào cuối năm 92. Album đầu tiên này của nhóm tất nhiên mang đậm chất Death Metal với một số ảnh hưởng của Doom và khá giống với album đầu tay Lost Paradise của band nhạc Doom Death huyền thoại Paradise Lost (tuy chất Doom ít hơn rất nhiều). Intro: Karelia / The Gathering 2 năm sau, tức là vào năm 1994, nhóm tung ra album thứ 2 và cũng là album kinh điển đầu tiên của nhóm là Tales From The Thousand Lakes. Đây là một album concept với lời hát dựa trên bản trường ca của Na Uy là Kalevalaa. Bản trường ca này được sáng tác từ thế kỷ 19 và kể về những câu truyện cổ tích truyền miệng cũng như các truyền thuyết của dân tộc Phần Lan. Trong album này, chất âm nhạc chủ đạo của nhóm là Doom Death với các bài hát được đánh chậm hơn rất nhiều. Band cũng sử dụng syntherizer và giọng ca kiểu clean. Ngoài chất liệu chủ đạo là Doom Death thì band còn sử dụng cả chất Melodic ảnh hưởng từ Metal cổ (vì lý do này, một số fan còn cho rằng đây là một album kiểu Melodic Death) và tất nhiên, như ta đã miêu tả ở trên, là cả chất Folk Metal nữa. Đây là một album rất hay và là bước đột phá của Metal Phần Lan với thế giới, gần như ngay sau đó nó đã vươn tới tầm kinh điển. Black Winter Day Thousand Lakes Cùng với sự xuất hiện của vocalist ới là Pasi Koskinen âm nhạc của Amorphis cũng thay đổi khá nhiều với một album kinh điển khác là Elegy vào năm 1996. Đây là một album mà chất Doom Death và Melodic Death đều còn lại khá ít khi nhóm chủ yếu sử dụng clean vocal. Chất âm nhạc chủ đạo trong album này là kiểu Progressive Folk và Melodic Metal. Dù các bài hát trong album này khá đơn giản và ngắn hơn rất nhiều so với những album trước, đây vẫn là một trong những album kinh điển của nhóm và được chào đón nhiệt liệt. Nó cũng góp phần không nhỏ trong việc thay đổi gần như hoàn toàn âm nhạc của Amorphis trong 3 album liên tiếp. My Kantele Sự thay đổi này khởi đầu bằng album Tuonela – 99, tiếp nối bởi album Am Universum -2001 và kết thúc bởi Far From The Sun 2004. Nếu như trong Tuonela, chất âm nhạc chủ đạo là Stoner Doom với một chút ít ảnh hưởng của progressive rock với guitar là nhạc cụ chính, thì chất âm nhạc chủ đạo của Am Universum lại là kiểu Progressive Rock với saxophone và keyboards giữ vai trò chủ đạo và không còn giọng kiểu Death Metal nữa. Far From The Sun thì thậm chí còn tệ hơn nữa với âm nhạc đậm chất Hard Folk Rock pha lẫn một chút Psychedelic. 3 albums này gây khá nhiều tranh cãi trong sự nghiệp của Amorphis với cả những lời khen lẫn chê. Divinity Alone (còn tiếp)
Amorphis Amorphis Sau thất bại với album Far From The Sun, Amorphis thay đổi giọng ca chính. Điều này một lần nữa làm âm nhạc của họ thay đổi. Sau 3 albums sử dụng clean vocal, Amorphis trở lại với giọng ca kiểu Death trong album Eclipse vào năm 2006. Đây cũng là album khởi đầu trong chùm 3 album concept về nội dung Kalevala (như đã viết ở trên). Việc trở lại với phong cách cũ làm cho album này được giới hâm mộ hoan nghênh nhiệt liệt. Lúc này thì âm nhạc của Amorphis trở nên hết sức phức tạp với chất liệu chủ điệu là Folk Metal kết hợp với Melodic Death, Doom Death, Melodic Metal, Progressive Metal, Progressive Rock. Cùng với sự đánh giá cao của giới chuyên môn là những thành công lớn về mặt thương mại khi album vươn lên đứng hạng 1 trên bảng xếp hạng âm nhạc của Phần Lan và đạt được chứng chỉ đĩa vàng tại nước này (bán hơn 15.000 bản). House Of Sleep Sau thành công của Eclipse, cũng không lạ khi album tiếp theo của nhóm là Silent Water tiếp nối xu hướng thay đổi này. Về mặt âm nhạc, album này không quá khác so với album Eclipse chỉ có điều chất Gothic Metal lần này là chủ đạo. Ngoài ra vẫn có sự kết hợp với Melodic Death, Progressive và cả Folk.Tuy album chỉ vươn lên vị trí cao nhất là thứ 3 trên bảng xếp hạng nhưng cũng đạt được đĩa vàng tại Phần Lan. Silent Waters Album thứ 3 trong chuỗi này là Skyforger -2009 nhận được rất nhiều sự khen ngợi của giới chuyên môn lẫn người hâm mộ và tiếp nối thành công của 2 album trước khi đạt đĩa vàng tại Phần Lan và vươn lên vị trí dẫn đầu tại quốc gia này. Âm nhạc của album vẫn là sự kết hợp giữa Folk, Progressive, Gothic với kiểu Melodic, Epic của Metal cổ. Album cũng là một trong những điểm sáng của Metal thế giới trong những năm gần đây. Silver Bride Skyforger Xu hướng kết hợp giữa Progressive với Death, Folk, Melodic này còn tiếp tục trong album The Beginning Of Times (đây cũng là một album concept nữa về chủ đề thần thoại Phần Lan). Thậm chí trong album gần đây nhất là Circle thì phong cách này vẫn không thay đổi nhiều (mặc dù đây không phải là một album concept kiểu 4 albums trước đó). Cả 2 albums đều rất thành công về mặt thương mại (chiếm vị trí số 1 tại Phần Lan) mặc dù chất lượng thì chưa thể sánh được với những Eclipse hay Skyforger. Tuy vậy, đây vẫn là những album đáng nghe trong những năm gần đây. You I Need The Wanderer Trải qua sự nghiệp dài, Amorphis trở thành biểu tượng của Heavy Metal Phần Lan và trở thành một trong những band nhạc thành công nhất của đất nước này. Âm nhạc của họ phức tạp nhưng có khá nhiều chất Doom ở trong đó.Một band nhạc mà rất nhiều fan Metal của châu Âu và cả Việt Nam nữa rất yêu quý.
Novembers Doom Novembers Doom Novembers Doom là một trong những band nhạc Mỹ chơi theo phong cách Doom Death sớm nhất và vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay. Band thành lập năm 89 bởi vocalist Paul Kuhr – anh này cũng là thành viên ổn định duy nhất của nhóm. Khởi đầu, Novembers Doom chơi theo phong cách Death/Thrash chứ không phải theo phong cách Doom. Khoảng đến năm 91 thì nhóm bắt đầu có sự thay đổi vừa trong phong cách chơi nhạc vừa trong đội hình. Đến năm 1995 thì nhóm tung ra album đầu tay Amid Its Hallowed Mirth với phong cách hoàn toàn kiểu Doom Death truyền thống với giọng hát hoàn toàn là phong cách Death đôi lúc pha trộn với giọng nữ cao soprano kiểu opera. Dĩ nhiên phong cách này thì khá giống với bộ ba huyền thoại người Anh mà chúng ta đã biết ở trên. Nhưng điểm khác biệt của Novembers Doom đối với các band DoomDeath khác cùng thời là họ chưa bao giờ từ bỏ thứ âm nhạc yêu thích Doom Death trong suốt sự nghiệp của mình. Cho tới thời điểm hiện tại Novembers Doom đã tung ra được 8 albums và dự định tiếp tục tung ra album thứ 9 vào năm 2014. Tất cả các album của họ đều có chất lượng rất tốt và là những album rất đáng nghe của dòng nhạc Doom Death Metal. Silent tomorrow Dark Fields For Brilliance The Pale Haunt Departure Rain A Eulogy For the Living Lost What Could Have Been
Saturnus Saturnus Saturnus là một band nhạc Doom Death Metal đến từ Đan Mạch, thành lập từ năm 1991 và lúc đầu chơi theo phong cách Death Metal. Đến khoảng năm 94 thì nhóm chuyển hướng sang chơi theo phong cách Doom Metal. Nhưng bước chuyển biến lớn hơn chỉ đến vào năm 96, khi nhóm cho dịp chơi cùng band nhạc huyền thoại My Dying Bride trong một chuyến lưu diễn của band nhạc này sang Đan Mạch. Ấn tượng trước phong cách chơi nhạc của My Dying Bride khiến nhóm chuyển hẳn sang chơi theo phong cách Doom pha lẫn Gothic Metal (sử dụng rất nhiều keyboards). Tuy thành lập từ rất lâu nhưng nhóm viết nhạc khá chậm và tung ra được rất ít album. Từ năm 96 tới nay, nhóm chỉ tung ra được 4 album (khoảng 6 năm mới tung ra được 1 album) lần lượt là: Paradise Belongs To You -96, Martyre -2000, Veronika Decides To Die -2006, Saturn In Ascension -12. Cả 4 albums đều có chất lượng rất tốt và là sự kết hợp theo phong cách vừa Doom vừa atmospheric (sử dụng syntherizer) vừa Gothic và cả Doom Death nữa. Dù chỉ có 4 album nhưng những album này được rất nhiều fan hâm mộ và mong chờ. 2 album có chất lượng nhất có lẽ là Martyre và Veronika Decides To Die đều gồm nhiều bài hát hay. Một band nhạc hay và lạ mà các fan Doom Death và Gothic nên tìm hiểu. Christ Goodbye Noir I Long Wind Torn
Daylight Dies Daylight Dies Daylight Dies là một trong số những cái tên chiếm được rất nhiều cảm tình của fan hâm mộ Doom Death trong những năm gần đây. Nhóm thành lập từ năm 96 tại North California, Mỹ và chơi một thứ âm nhạc kiểu Melodic Death/Doom Metal. Phong cách của nhóm khá giống với Katatonia và cả Agalloch nữa nhưng chơi mạnh và giọng hát thì giận dữ hơn so với cả 2 nhóm trên. Âm nhạc của nhóm chơi khá dày và gồm nhiều lớp nhạc cụ chồng lên nhau (hơi có phong cách Post Rock) và hơi nghiêng về phía giai điệu (Melodic) với những bài hát khá dễ nghe. Tính tới thời điểm hiện tại, Daylight Dies đã tung ra được 4 albums lần lượt là No Reply -02, Dismantling Devotion-06, Lost To The Living -08 và A Frail Becoming -12 (4 năm thì ra 1 album). Các album của nhóm đều rất hay và được yêu mến và có xu hướng là ngày càng đánh hay hơn. Một band nhạc rất đáng chú ý của Doom Metal trong những năm gần đây. Unending Waves Lies That Bind Last Alone Dreaming of Breathing
Swallow The Sun Swallow The Sun Swallow The Sun là một trong những cái tên đáng chú ý nhất trong những năm gần đây của Doom Metal. Nhóm thành lập từ năm 2000 tại Phần Lan. Trong 3 albums đầu tiên trong sự nghiệp của mình là The morning Never Came -2003, Ghosts Of Loss -2005, Hope -2007, nhóm chơi theo đúng phong cách Doom/Death kiểu cổ. Do Doom Death không thực sự là một trào lưu hợp thời nên chỉ có một lượng không lớn fan hâm mộ của dòng nhạc biết tới 3 albums này và cả 3 đều được đánh giá khá cao. Âm nhạc của nhóm chỉ thực sự thay đổi lớn hơn trong album thứ 4 và thứ 5 của nhóm lần lượt là New Moon -2009, Emerald Forest And The Blackbird -2012. Trong cả 2 albums này thì âm nhạc của nhóm trở nên khá phức tạp khi sử dụng nhiều keyboards và hiệu ứng kiểu ambient/atmospheric. Ngoài ra, nhóm còn sử dụng clean vocal pha lẫn với việc sử dụng âm nhạc kiểu giao hưởng và một chút ảnh hưởng của Progressive Metal nữa. 2 albums này nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ cả giới chuyên môn cũng như fan hâm mộ và biến Swallow The Sun trở thành một trong những tên tuổi đáng chú ý nhất của phong cách Doom/Death trong thời gian gần đây. Nếu bạn thực sự yêu Doom thì đây là cái tên không nên bỏ qua. Don't Fall Asleep Doomed to Walk the Earth Falling World Cathedral Walls Bài viết về Swallow The Sun cũng là bài viết cuối cùng về nhánh nhạc Doom Death. Nhánh tuy không thực sự quá thành công về mặt thương mại nhưng lại được các fan hâm mộ và giới chuyên môn đánh giá rất cao về mặt âm nhạc. Dù không có quá nhiều band nhạc chơi theo phong cách Doom Death nhưng các band nhạc theo đuổi dòng nhạc này đều rất có tài và hứa hẹn còn cho ra nhiều những tuyệt phẩm trong tương lai.
Kyuss Stoner Rock (Metal) Stoner Rock (Metal) hay còn gọi là Desert Rock/Metal là một nhánh nhỏ của Doom Metal và khá thành công về mặt thương mại với một số band đã vươn tới tầm các siêu sao như Monster Magnet hay Queens Of The Stone Age. Về mặt âm nhạc, Stoner Rock là sự kết hợp giữa Doom Metal với Psychedelic Rock và đồng thời có những đặc điểm của Metal cổ, Blues Rock và Acid Rock. Các band trong trào lưu thường chơi nhạc có tiết tấu nhanh hơn các band Doom Metal một chút với những tiếng riff guitar trầm, mạnh, méo tiếng (đặc trưng của Doom). Những ảnh hưởng của Psychedelic (nhạc ảo giác của thập niên 60) và Blues Rock làm cho Stoner Rock nghe khá ồn, đều đều và có xu hướng tạo ảo giác (do hiệu ứng làm méo tiếng guitar). Dù Stoner Rock ra đời khoảng năm 91 nhưng phải mãi đến tận năm 97 thì dòng nhạc này mới được thừa nhận là một nhánh mới và có tên là Stoner Rock hay Desert Rock (theo tên của 1 album tuyển chọn của hãng Roadrunner). Thực ra, đến tận bây giờ thì người ta cũng không thể giải thích được lý do tại sao dòng nhạc lại có tên như vậy và cái tên này có ý nghĩa gì. Kyuss có lẽ là band nhạc đầu tiên thực sự chơi Stoner Rock và có rất nhiều ảnh hưởng tới dòng nhạc này về sau. Tuy nhiên, nhóm chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian rất ngắn rồi tan rã. Nhưng dòng nhạc tiếp tục phát triển rất mạnh và trở thành một trong những dòng nhạc chính thống (mainstream) vào những năm cuối thập kỷ 90 đầu thập kỷ 2000 với những tên tuổi nổi bật như Monster Magnet hay Queens Of The Stone Age. Cho tới thời điểm hiện tại, dòng nhạc này đang phát triển rất mạnh và hoàn toàn có thể tách ra thành một dòng nhạc riêng biệt. Tuy nhiên, do mang nhiều âm hưởng của Doom Metal nên chúng ta tạm thời để dòng nhạc này là một nhánh nhỏ trong Doom Metal. Dòng nhạc này cũng có khá nhiều điểm tương đồng với Sludge Metal nên cũng có không ít band chơi theo nhạc theo kiểu pha trộn giữa 2 phong cách Sludge/ Stoner. Trước tiên chúng ta hãy đến với những nhân vật chủ chốt của Stoner Rock. Kyuss Kyuss là band nhạc đầu tiên thực sự chơi theo phong cách Stoner Rock và có lẽ cũng là band nhạc có ảnh hưởng lớn nhất tới nhánh nhạc này. Nhóm thành lập từ năm 1987 tại Palm Desert, California, Mỹ và lấy tên là Katzenjammer rồi Sons Of Kyuss rồi mới đổi lại thành Kyuss vào năm 91. Khoảng tháng 9 năm 91, nhóm tung ra album đầu tay là Wretch. Album này không thực sự được giới chuyên môn đánh giá cao vì nó khác khá xa so với 3 album kinh điển sau này của nhóm. Một trong những nguyên nhân chính khiến album này bị đánh giá thấp là do quá trình sản xuất và thu âm quá kém. Dù chất lượng ghi âm rất thấp, album vẫn có một số bài hát rất hay và rất được yêu mên như: Son Of A Bitch, Black Widow hay Katzenjamer với những đoạn riff guitar đặc trưng cho Stoner Rock sau này của tay guitar huyền thoại Josh Homme. Son Of A Bitch Sau album đầu tay khá thất vọng, Kyuss lập tức bắt tay vào ghi âm album thứ 2 với nhà sản xuất mới là Chris Goss. Goss là nhà sản xuất có tài nên chất lượng album này tốt hơn rất nhiều so với album trước đó. Album thứ 2 của nhóm là Blues For The Red Sun được tung ra vào năm 92 và gần như ngay lập tức trở thành album kinh điển đầu tiên của Stoner Rock. Âm nhạc trong album là sự kết hợp của rất nhiều thể loại nhạc như: psychedelic, space, grunge, doom với những ảnh hưởng không nhỏ từ Black Sabbath, Hawkwind, Blue Cheer, Alice In Chains. Một lần nữa Homme là điểm sáng nhất trong âm nhạc của Kyuss với một lối chơi rất sáng tạo. Anh này lấy guitar trầm xuống (downtune) và sử dụng ampli dành cho guitar bass và sử dụng rất nhiều thiết bị méo tiếng wah-wah pedals. Đây là phong cách chơi guitar hết sức mới mẻ và tạo ra sự đặc biệt trong âm nhạc của Stoner Rock sau này (guitar chơi gần như bass). Album được giới chuyên môn đánh giá cực cao và được coi như một album kinh điển của nhạc Metal thế giới vào thời điểm này. Tuy nhiên, album lại không mấy thành công về mặt thương mại khi chỉ bán được khoảng 40.000 bản. Green Machine Thong Song Album tiếp theo của nhóm là Welcome To Sky Valley -1994 tiếp tục là một trong những album kinh điển nữa của Kyuss. Album này thậm chí còn chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc đến mức khó tin của Kyuss. Nếu như ở album trước ta vẫn còn thấy đâu đó những ảnh hưởng của một số band nhạc gạo cội thì ở album này, hầu như tất cả những ảnh hưởng đó đều không còn. Một album dài tới hơn 55 phút với 10 bài hát và chia thành 3 chương riêng rẽ (movement) nhưng đều là những bài hát rất hay và những bước đột phá trong âm nhạc. Hiển nhiên đây cũng là album thành công nhất cả về mặt thương mại lẫn chuyên môn của Kyuss. Demon Cleaner Whitewater Mặc dù rất thành công với album Welcome To Sky Valley, nội bộ của Kyuss tồn tại nhiều bất ổn với những thành viên thay đổi liên tục. Năm 1995 họ tung ra album cuối cùng ...And the Circus Leaves Town. Album này khá hay, tuy nhiên không thể so sánh với những album kinh điển như Blues For The Red… hay Welcome to… được, rồi nhóm tan rã. Nguyên nhân tan rã là do rất nhiều mâu thuẫn được tích tụ khá lâu giữa 2 thế lực, 2 người bạn, 2 người sáng tác chính của Kyuss là giọng ca chính Garcia và tay guitar Homme. Sự tan rã của họ để lại rất nhiều sự nuối tiếc cho fan hâm mộ. Cũng có không ít lần, thông tin Kyuss sẽ tái lập xuất hiện nhưng rồi chỉ dừng lại ở mức tin đồn. Dù có sự nghiệp ngắn ngủi, Kyuss vẫn được đánh giá là một band rất quan trọng trong lịch sử phát triển của Heavy Metal thế giới. One Inch Man
Monster Magnet Cùng với Kyuss, Monster Magnet là 2 cái tên có công rất lớn trong việc hình thành và phát triển của Stoner Rock. Nhóm thành lập từ năm 89 tại New Jersey, Mỹ và thay đổi rất nhiều tên gọi khác nhau trước khi đổi tên thành Monster Magnet dựa trên cảm hứng từ một loại đồ chơi từ những năm 60. Sau khi thành lập, Monster Magnet tung liền ra 2 album demos và một số single, EP trước khi tìm được hợp đồng với hãng Caroline Records. Đến năm 1991 thì nhóm tung ra album đầu tay là Spine Of God. Album này gần như ngay lập tức sau đó trở thành một trong những album kinh điển của Stoner Metal và được fan hâm mộ chào đón nhiệt liệt. Âm nhạc trong album là sự kết hợp của rất nhiều các dòng nhạc khác nhau như punk, Metal cổ, Psychedelic, Space Rock. Medicine Nhưng ta nên quay lại một chút với lịch sử, vào thời điểm những năm 92 thì thế giới âm nhạc đang bị Grunge thống trị. Chính vì thế, dù là album rất hay nhưng album đầu tiên của Monster Magnet không thể thành công về mặt thương mại vì không hợp thời. Hiển nhiên, album thứ 2 của nhóm cũng chịu số phận tương tự. Album Superjudge -93 được tung ra bởi một hãng khá lớn là A&M và được các fan hâm mộ tôn thờ nhưng không thể trở thành một album giàu tính thương mại như các album grunge được. Superjudge Chính sự không thành công về mặt thương mại khiến âm nhạc của Monster Magnet buộc phải thay đổi trong album thứ 3 là Dopes To Infinity -95. Lúc này âm nhạc của nhóm trở nên dễ nghe hơn rất nhiều khi tích hợp thêm những ảnh hưởng của pop vào thêm. Dù có một bài hát hết sức nổi tiếng và được phát đi phát lại trên MTV là Negasonic Teenage Warhead - bản hit đầu tiên của nhóm nhưng sự thành công về mặt thương mại vẫn không đến như nhóm và hãng đĩa mong đợi. Bản hit cũng chỉ giúp cho album thành công hơn album Superjudge một chút mà thôi. Cả 3 albums đầu tay của nhóm đều không thể lọt vào bảng xếp hạng của Mỹ. Negasonic Teenage Warhead Phải đến tận năm 1998, khi trào lưu Grunge đi xuống, Monster Magnet mới trở nên thành công về mặt thương mại khi tung ra album thứ 4 là Power Trip. Trong album này, âm nhạc của nhóm cũng bớt dần chất Stoner Rock và tích hợp thêm những ảnh hưởng của Hard Rock, Metal cổ với guitar là nhạc cụ chủ đạo. Một loạt những bài hát nổi tiếng nhất của band đều xuất hiện trong album này và đều trở thành những bản hit lớn như: Space Lord, Power Trip, Temple Of Your Dreams hay See You In Hell. Dù chỉ xuất hiện khiêm tốn ở vị trí số 97 trên bảng xếp hạng của Mỹ nhưng album này sau đó đã đạt chứng chỉ đĩa vàng và trở thành album thành công nhất trong lịch sử của nhóm. Space Lord Powertrip (còn tiếp)
Monster Magnet Monster Magnet (tiếp theo và hết) Tuy rất thành công với Power Trip nhưng album tiếp theo của Monster Magnet là God Says No -2000 lại không thành công về mặt thương mại như album trước đó, mặc dù album này chất lượng âm nhạc không hề kém. Album này mang nhiều tính thử nghiệm và dùng nhiều keyboards cũng như sử dụng nhiều trống điện. Một yếu tố quan trọng khiến album thất bại là việc thiếu sự quảng bá rộng rãi của hãng đĩa A&M. Chính vì lý do này mà Monster Magnet rời khỏi hãng đĩa A&M gần như ngay sau đó để chuyển sang hãng đĩa SPV của Đức. Monster Magnet Cùng với sự thay đổi của hãng đĩa một lần nữa âm nhạc của Monster Magnet thay đổi trong album thứ 6 là Monolithic Baby -2004. Lúc này thì âm nhạc của nhóm trở nên đơn giản hơn rất nhiều và nghiêng về phía Hard Rock. Dù thay đổi nhiều trong âm nhạc thì album cũng rất hay với nhiều bài hát tốt như: Monolithic, Slut Machine, Radiation Day hay Unbroken. Unbroken Monolithic Album thứ 7 của nhóm là 4 Way Diablo -2007 gây sự tranh cãi lớn trong nội bộ những fan hâm mộ của band nhạc này. Chỉ có một phần nhỏ cho rằng đây là album hay của nhóm, phần còn lại không thích album này và cho rằng nó chỉ là sự copy của những album đầu tiên. Album không mấy thành công về mặt thương mại dẫn tới sự kết thúc hợp đồng của band với hãng đĩa SPV. Kể từ khi được tung ra, không có bài hát nào trong album này xuất hiện trong những buổi biểu diễn live của band nhạc. 4-Way Diablo Album thứ 8 của nhóm là Mastermind -2010 lại chứng kiến sự thay đổi rất nhiều trong âm nhạc. Đây có thể nói là một trong những album mạnh nhất trong sự nghiệp của Monster Magnet. Âm nhạc trong album này tối và mang rất nhiều tính Doom, tức là khá chậm. Sự thay đổi này được chào đón nhiệt liệt bởi cả fan hâm mộ lẫn giới chuyên môn. Sau 2 album không thể xuất hiện trên các bảng xếp hạng của Mỹ, album này trở lại bảng xếp hạng ở vị trí khiêm tốn 142 và còn xuất hiện trên bảng xếp hạng của rất nhiều nước trên thế giới. Một số bài hát hay trong album có thể kể đến Time Machine, Bored With Sorcery hay When Planes Fall Out Of The Sky, Gods And Punks. Gods and Punks Album cuối cùng (tính tới năm 2014) của nhóm là Last Patrol tiếp tục xu hướng của album trước đó khi trở lại với những âm thanh cổ kiểu Psychedelic và space rock. Để tăng phần vintage cho album, nhóm ghi âm toàn bộ album trên các thiết bị analog. Album này khá hay nhưng không được bằng album Mastermind. Khác với Kyuss có sự nghiệp khá ngắn ngủi, Monster Magnet có một sự nghiệp trải dài và không gián đoạn. Các albums của nhóm đều có chất lượng khá tốt và có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của Stoner Metal sau này. Monster Magnet cũng là band nhạc Stoner Rock đầu tiên nhận được sự chú ý của truyền thông đại chúng và đã góp phần biến Stoner Rock trở thành một dòng nhạc chính thống (mainstream). Mindless Ones
Sleep Sleep Sleep là một trong những tên tuổi đầu tiên chơi theo phong cách Stoner Rock. Nhóm thành lập năm 90 tại California, Mỹ và tung ra album đầu tay Volume One vào năm 91. Album này có phong cách chịu ảnh hưởng nặng nề của Doom Metal cổ như Saint Vitus hay Trouble. Album này được đánh giá khá cao trong giới hâm mộ. Việc album đầu tay được đánh giá cao khiến Sleep nhận được sự chú ý từ các hãng đĩa của Anh, nên ngay sau đó nhóm ký hợp đồng với hãng đĩa Earache để tung ra một album sau này được coi là kinh điển của Stoner Rock là Sleep’ss Holy Mountain -92. Mặc dù album này thực chất chỉ là demo và do Sleep gửi tới Earache, nhưng hãng đánh giá rất cao và tung ra luôn thành một album chính thức mà không cần chỉnh sửa gì cả. Chính vì lý do này, chất lượng ghi âm của album khá kém. Nhưng chất lượng âm nhạc thì lại ngược lại. Đây là một album rất hay với những đoạn riff kinh điển và có rất nhiều bài hát được fan hâm mộ yêu thích. Một trong những điểm sang trong album có thể kể đến giọng hát rất tuyệt vời nhiều khi mang âm điệu thánh ca và rất phù hợp với âm nhạc của nhóm. Sau album thành công, Sleep nhận được sự chú ý của hãng đĩa lớn hơn là London và Elektra. Do London records hứa sẽ tôn trọng tự do sáng tác của band nên nhóm ký hợp đồng với hãng đĩa này. Nhưng rất tiếc, đây lại là một quyết định hết sức sai lầm của nhóm. Năm 1995, nhóm hoàn thành album Dopesmoker. Đây là một album theo phong cách mới và chỉ gồm duy nhất một bài hát, kéo dài tới hơn 63 phút. London, hãng đĩa không có bất kỳ sự hiểu biết nào về Heavy Metal do chưa từng ký hợp đồng với một band Metal nào, quá lạ lùng với album nên quyết định sẽ không tung ra album này. Tiếp theo đó là một những tranh cãi triền miên và căng thẳng giữa band nhạc và hãng đĩa. Sau cùng, band nhạc phải nhượng bộ và sửa lại album khi cắt bỏ một số đoạn và viết lại lời dễ nghe hơn, band thậm chí đổi tên cả album thành Jerusalem với độ dài chỉ còn hơn 52 phút. Nhưng hãng London vẫn tiếp tục không chịu tung ra album Jerusalem này. Tuyệt vọng, Sleep tuyên bố tan rã ngay sau đó. Phải đến tận năm 99, hãng Rise Above mới quyết định tung ra album Jerusalem. Album nguyên bản, Dopesmoke thì phải mãi đến năm 2003 mới có thể tung ra nhờ hãng đĩa Teepee (là hãng đầu tiên mà Sleep ký hợp đồng). Cả Jerusalem và Dopesmoke đều nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ fan hâm mộ mặc dù đây không hẳn là một album dễ nghe. Nhưng dù album rất hay thì sự nghiệp của Sleep cũng chấm dứt, không phải vì lý do âm nhạc mà vì hãng đĩa của họ không tin tưởng vào sự sáng tạo và tài năng của band nhạc. Sleep vẫn là cái tên hết sức đáng trân trọng trong làng nhạc Metal thế giới. Stillborn Dragonaut Holy Mountain
Orange Goblin Orange Goblin Orange Goblin là một trong những cái tên đáng chú nhất của Stoner Metal trong những năm gần đây với một loạt những album có chất lượng rất cao. Tuy nhiên, nhóm thành lập từ năm 95 tại London, Anh Quốc với cái tên Our Haunted Kingdom và khá thân thiết với nhóm Electric Wizard. 2 nhóm này cùng ký hợp đồng với hãng Rise Above và còn tung ra 1 album chung vào năm 96. Sau khi tung ra album này, nhóm mới đổi tên thành Orange Goblin. Ngay sau khi đổi tên, nhóm tung ra liền 3 albums Frequencies From Planet Ten -97, Time Travelling Blues -98 và The Big Black -2000 với phong cách đậm chất Stoner Rock. Đến album thứ 4 và 5 là Coup De Grace -2002 và Thieving From The House Of God -2004 thì nhóm bắt đầu thử nghiệm thêm khi tích hợp cả Punk vào âm nhạc của mình. 5 albums đầu tiên của Orange Goblin đều có chất lượng khá nên hãng chuyển sang một hãng đĩa lớn hơn là Sanctuary. Phải đến album thứ 6 thì Orange Goblin mới vươn tới đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm với album Healing Through Fire -2007. Trong album này thì âm nhạc của nhóm mang đậm nét Doom Metal hơn so với phong cách mang nặng tính Psychedelic ở những album trước đó. Album hay, được giới chuyên môn ca ngợi rất nhiều và là một trong những album hay nhất trong năm 2007 của Heavy Metal thế giới. Thế nhưng, trong lúc sự nghiệp đang lên thì Orange Goblin lại có những đoạn chững lại rất khó hiểu khi nhóm liên tục hoãn không thể ra album mới trong vòng gần 5 năm. Phải đến năm 2012 nhóm mới tung ra được album thứ 7 là A Eulogy For The Damned. Album này cũng khá hay và mang nhiều chất Doom hơn cả album trước. Tuy sự nghiệp đang có dấu hiệu chững lại, Orange Goblin hứa hẹn sẽ là một tên tuổi mang lại nhiều album chất lượng trong những năm tới. Time Travelling Blues Monkey Panic Some You Win, Some You Lose Beginners Guide To Suicide Acid Trial Red Tide Rising
Queens Of The Stone Age Queens Of The Stone Age Queens Of The Stone Age là cái tên thành công và nổi tiếng nhất của Stoner Rock/Metal. Band thành lập năm 1996 tại California, Mỹ bởi tay guitar huyền thoại Josh Homme (nhóm Kyuss). Lúc đầu nhóm lấy tên là Gamma Ray nhưng rồi bị nhóm nhạc Power Metal Đức cùng tên dọa kiện nên nhóm đổi lại thành Queens Of The Stone Age (QOTSA). Năm 1998, nhóm tung ra album đầu tay là Queen Of The Stone Age và nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Âm nhạc trong album này thì hiển nhiên là phong cách Stoner Rock điển hình mà Homme là một rong những người đồng sáng lập. Lúc này QOTSA chỉ có 3 thành viên, cả 3 thành viên đều là những người từng tham gia Kyuss. Dĩ nhiên Homme có vai trò quyết định, sáng tác, chơi guitar và kiêm luôn giọng ca chính. Regular John Nhưng phải đến năm 2000, khi tung ra album thứ 2 là Rated R. thì QOTSA mới dành được những thành công đầu tiên về mặt thương mại. Album này rất hay với những bài hát nổi tiếng như The Lost Art Of Keeping A Secret, Feel Good Hit Of The Summer hay Monsters In The Parasol. Những bài hát này giúp QOTSA đạt được đĩa vàng lần đầu tiên trong lịch sử tai Anh Quốc chứ không phải tại Mỹ (Kyuss tuy nổi tiếng nhưng chưa bao giờ thành công về mặt thương mại). Vừa thành công về mặt thương mại, Rated R. còn được giới chuyên môn đánh giá rất cao và được coi là album kinh điển của Stoner Rock thế giới. Sự thành công của Rated R. khiến band nhạc trở nên nổi tiếng và có được những chuyến lưu diễn hàng đầu với những band lớn như The Smashing Pumpkins, Foo Fighters hay Hole tại Ozzfest 2000. Feel Good Hit Of The Summer Monsters In The Parasol Việc band có thời gian làm việc với Foo Fighters đã giúp cho QOTSA có thể hướng tới những thành công rực rỡ hơn nữa trong tương lai sau này. Tay trống Dave Grohl- Nirvana- (lúc này đang chơi guitar tại Foo Fighters) cảm thấy ấn tượng với âm nhạc của QOTSA đã quyết định chơi trống trong album thứ 3 của nhóm là Songs For The Deaf vào năm 2002. Sự có mặt của khách mời nổi tiếng như Grohl khiến album rất được chú ý và được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Về mặt thương mại, album trở thành một trong những album thành công nhất trong lịch sử của Stoner Rock khi vươn tới hạng 17 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được gần 1 triệu bản tại quốc gia này (hiện tại đã bán được hơn 1 triệu bản – tức là vượt quá đĩa bạch kim tại Mỹ). Tại châu Âu, band nhạc cũng rất thành công với khoảng hơn 1 triệu bản bán được. 2 bài hit chính trong albums này là No One Knows và Go With The Flow thậm chí còn được đề cử giải thưởng Grammy trong 2 năm 2003, 2004. Ngoài việc biến QOTSA trở thành những siêu sao nhạc Rock, album này còn đưa Stoner Rock trở nên phổ biến trên toàn thế giới và trở thành một trong những dòng nhạc chính thống. No One Knows Go With The Flow (còn tiếp)
Queens Of The Stone Age Queens Of The Stone Age (tiếp theo và hết) Sau album thành công rực rỡ Songs For The Deaf, album tiếp theo của QOTSA là Lullabies To Paralyze tiếp tục gặt hái những thành công khá lớn về mặt thương mại khi leo lên tới vị trí thứ 5 trên bảng xếp hạng ở Mỹ. Tuy nhiên, số lượng đĩa bán ra của album này không thể so sánh được với album trước (chỉ bán được hơn 300.000 nghìn bản) . Album có tới 5 bản hit và đều rất được yêu mến như: Little Sister, In My Head, Everybody Knows That You’re Insane, Burn The Witch hay Someone’s In The Wolf. Album này cũng được giới chuyên môn đánh giá rất cao nhưng chất liệu chủ yếu của album này lại không còn là Stoner Rock nữa mà có dạng Alternative kết hợp với Psychedelic. Little Sister In My Head Burn The Witch Sau những album thành công, album thứ 4 là Era Vulgaris có vẻ là một bước lùi trong sự nghiệp của QOTSA. Album tích hợp rất nhiều các loại âm nhạc khác nhau như Alternative, Psychedelic, Electronic, Stoner Rock… Cả giới chuyên môn lẫn người hâm mộ đều đánh giá album này không cao bằng những album trước đó. Về mặt thương mại, album cũng không thành công bằng khi chỉ chiếm được hạng 14 tại Mỹ 9sau này bán được khoảng 200.000 bản tại Mỹ). Tuy nhiên, bài hát Sick, Sick, Sick trong album này tiếp tục được đề cử giải thưởng Grammy trong năm 2008. Make It Wit Chu Sick, Sick, Sick Phải đến năm 2013 thì QOTSA mới tiếp tục tung ra album .. Like Clockwork. Trái ngược với album trước, album này được giới chuyên môn đánh giá rất cao và trở thành một trong những album hay nhất trong năm 2013. Về mặt thương mại, album cũng rất thành công khi vươn lên hạng 1 trên bảng xếp hạng của Mỹ (đây cũng là lần đầu tiên một album của QOTSA vươn lên đỉnh cao trên bảng xếp hạng của Mỹ). Album này sau đó còn được đề cử 3 giải Grammy nhưng đều không thành công. My God Is The Sun I Appear Missing QOTSA không còn nghi ngờ gì, chính là band nhạc thành công nhất về mặt thương mại và có lẽ cũng là band nhạc biểu tượng của Stoner Rock. Band góp phần rất lớn để đưa Stoner Rock trở thành dòng nhạc chính thống và được yêu mến rộng rãi trên toàn thế giới. QOTSA đã trở thành một band nhạc mainstream và được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới. Band đã 7 lần được đề cử Grammy (nhưng chưa một lần thành công).