Possessed Possessed Vào đầu thập kỷ 80, Heavy Metal phát triển vô cùng mạnh mẽ tại nước Mỹ, tại đây lần lượt xuất hiện các dòng nhạc lớn như Thrash, Doom, Progressive góp phần rất quan trọng trong việc phát triển của dòng nhạc này. Và bây giờ, một lần nữa, chúng ta đến với nước Mỹ để chứng kiến sự ra đời của một dòng nhạc hết sức mạnh mẽ nhưng cũng đầy tính kỹ thuật – đó chính và Death Metal. Band nhạc khởi đầu cho trào lưu Death Metal không phải ai khác chính là Possessed. Dù chỉ có một sự nghiệp ngắn ngủi (với 2 albums) band nhạc này đã làm thay đổi rất lớn bộ mặt của Metal thế giới. Nếu không có Possessed, rất có thể sẽ không có Death Metal, hay chí ít là Death Metal sẽ không có dạng như ngày nay. Possessed thành lập năm 1983 tại San Francisco, quê hương của Thrash Metal, bởi tay guitar Mike Torrao và tay trống Mike Sus. Lúc đầu, band nhạc này không hề có tên và chơi Rock N Roll, Metal (chủ yếu là cover các bài hát của những band như Judas Priest). Đến cuối năm 83, giọng hát chính của band nhạc này là Barry Fisk tự tử vì thất tình và cặp bài trùng Sus và Torrao mời tay bass/vocalist Jeff Becerra vào thay thế. Có một điều khá thú vị là tại thời điểm này, Becerra và Fisk đang yêu hai chị em ruột (cô chị gái của gia đình này chính là lý do khiến Fisk tự tử). Trước khi tham gia Possessed, Becerra đang là thành viên của nhóm nhạc Blizzard với tay guitar Larry LaLonde – một người rất nổi tiếng mà chúng ta sẽ còn gặp lại sau này. Sau khi Becerra tham gia, nhóm lấy tên là Possessed và bắt đầu chơi một thứ âm nhạc mạnh mẽ hơn. LaLonde sau này cũng tham gia Possessed với vai trò của tay guitar thứ hai. Với đội hình mới, tên mới, phong cách cũng mới, Possessed cũng tìm cho mình hướng đi mới. Lúc này các thành viên quyết định trở thành band nhạc đánh nhanh và mạnh nhất trong lịch sử Metal thế giới với phong cách Satanist. Chính vì những quyết định quan trọng này, nhóm cũng từ bỏ chơi cover và tự sáng tác những bài hát của riêng mình (Death Metal là bài hát đầu tiên mà nhóm sáng tác ). Do quen biết rộng rãi (Becerra là bạn của Gary Holt – tay guitar của Exodus), nên chỉ 6 tháng sau khi Becerra gia nhập nhóm, Possessed đã có hợp đồng ghi âm với hãng đĩa Combat. Có một điều ta cũng cần nhắc lại, các thành viên của Possessed lúc này đều còn rất trẻ (họ sinh năm 68) và vẫn đang là học sinh phổ thông nên trong quá trình ghi âm album đầu tiên họ có khá ít thời gian. Sau một thời gian ghi âm, nhóm tung ra album kinh điển đầu tay Seven Churches vào ngày 16 tháng 11 năm 1985, thời điểm ra đời chính thức của Death Metal. Âm nhạc của Possessed trong album này là sự phát triển tiếp theo của những band nhạc Extreme Thrash như Slayer, Celtic Frost, Kreator, Destrucstion kết hợp với dạng ghi âm kiểu raw của Venom. Giọng ca của Becerra trầm, gầm gừ, phát từ cuống họng ra kết hợp với phong cách chơi guitar tremolo picking của cặp đôi Torrao, Lalonde với phong cách chơi trống đầy tốc độ kiểu blast beat của Mus gây shock cho những fan hâm mộ Metal toàn thế giới. Album cũng tạo tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển của cả Death lẫn Black Metal sau này. Nó cũng chính là cầu nối hết sức quan trọng giữa Thrash và Death Metal. Tuy album này có ý nghĩa vô cùng quan trọng và ảnh hưởng lớn tới Metal thế giới hiện đại, nó bị cấm tại rất nhiều cửa hàng trên nước Mỹ vì sử dụng biểu tượng chữ thập ngược (Satanism). Việc album bị cấm bán tại nhiều nơi trên nước Mỹ có lẽ cũng tác động không nhỏ tới tâm lý của các thành viên của Possessed, những người còn rất trẻ. Chính vì lý do này, album thứ hai của họ không sử dụng logo với hình chữ thập ngược nữa. Họ quay trở lại với Thrash Metal trong album thứ hai là Beyond The Gates vào năm 1986. Lúc này âm nhạc của họ không còn tốc độ cao như trước và sử dụng nhiều kỹ năng chơi nhạc hơn, âm nhạc dễ nghe để hướng tới việc thương mại hóa hơn. Tuy nhiên, album này ghi âm khá tệ và làm buồn lòng rất nhiều fan hâm mộ của nhóm. Nó cũng là nỗ lực cuối cùng của Possessed trước khi tan rã. Sau khi tung ra album này không lâu, Becerra gặp một tai nạn khủng khiếp, anh bị hai tên cướp bắn và bị liệt trong 4 năm. Possessed tan rã ngay sau tai nạn xảy ra để lại sự tiếc nuối cho những fan Metal thế giới. Tuy tan rã, vai trò của Possessed trong sự phát triển của Death Metal là vô cùng to lớn, và giúp dòng nhạc này có diện mạo như hiện tại. The Exorcist Death Metal Beyond the Gates Swing of the Axe
đã tới phần mong chờ nhất của em, thật sự ngưỡng mộ sự am hiểu sâu sắc về rock của bác chủ thớt, đã nghe rock được 15 năm nhưng so với bác em vẫn như đứa con nít tập đi , mong topic sẽ được phổ biến rộng rãi hơn nữa tới các fan rock metal VN \m/
Death Death Bây giờ là lúc chúng ta đến với huyền thoại lớn nhất của Death Metal, band nhạc Death. Như đã giới thiệu ở trên, Death Metal thực chất đã bắt đầu từ Possessed nhưng nó chưa tạo thành một trào lưu phát triển rộng khắp như hiện tại. Band nhạc có công rất lớn cho sự phát triển của nhánh nhạc này không phải ai khác ngoài Death. Death thành lập từ năm 1983 bởi tay guitar Chuck Schuldiner dưới cái tên Mantas cùng với tay trống Kam Lee và tay guitar Rick Rozz. Band nhạc này lúc đầu chơi theo phong cách khá gần với Venom và Motorhead chứ chưa phải Death Metal. Sau đó, Schuldiner có nhận được bản demo của Possessed và quyết định thay đổi sang phong cách Death Metal. Năm 1984, Chuck quyết định đổi tên band thành Death. Những năm sau đó, sau khi ghi âm một số album demo, lần lượt Rozz và Lee rời khỏi nhóm vì những lý do khác nhau. Schuldiner đã có lúc chuyển sang chơi cho band nhạc Thrash Metal Canada – Slaughter vào năm 1986 nhưng rồi lại quay trở về Mỹ. Sau đó, anh này gặp tay trống Chris Reifert và ghi âm một album demo nữa là Mutilation. Album này nhận được sự chú ý của hãng đĩa Combat và giúp cho Death có được hợp đồng ghi âm đầu tiên (Combat cũng là hãng đĩa của Possessed). Cùng với Reifert, Schuldiner bước vào ghi âm album kinh điển Scream Bloody Gore vào năm 1987. Lúc này, Schuldiner đảm nhận công việc của 2 tay guitars, bass, vocal còn Reifert chơi trống. Dù đã ghi âm khá nhiều bài hát trong những album demos (Death có 9 albums demos trước khi tung ra album đầu tay) nhưng chỉ có một nửa số bài hát trong album này được trích từ các album demo (Infernal Death, Baptized In Blood từ Infernal Death, Zombie Ritual, Mutilation từ Multilation và Evil Dead từ Death By Metal) còn lại là những sáng tác mới. Album rất nhanh, mạnh nhưng cũng khá đơn giản và có rất nhiều điểm tương đồng với Seven Churches của Possessed. Rất nhiều fan hâm mộ cũng như giới chuyên môn coi đây mới thực sự là album đầu tiên của Death Metal như chúng ta đã phân tích kỹ ở phía trên. Zombie Ritual Như là trò đùa của số phận, sự bất ổn của Death tiếp tục sau album kinh điển Scream Bloody Gore, Schuldiner quyết định quay trở về Florida nhưng Reifert thì muốn ở lại California nên cặp đôi này đành phải chia tay. Reifert lập ra nhóm Death Metal huyền thoại khác là Autopsy. Khi trở lại Florida, Rick Rozz cùng với Terry Butler và Bill Andrews gia nhập trở lại Death (cả 3 anh này đang là thành viên của một band nhạc khác là Massacre). Cùng với đội hình này, Death tung ra album thứ hai là Leprosy vào năm 1988. So với album trước, album này đánh có phần chậm hơn, các bài hát dài và phức tạp hơn. Tuy nhiên, do chất lượng ghi âm hạn chế và kỹ năng chơi nhạc chưa thực sự tốt của các thành viên (trừ Schuldiner) khiến album chưa thực sự hay và vươn lên tới hàng kinh điển. Leprosy Sự chuyển mình của Death để trở thành một band nhạc chơi kỹ thuật hơn bắt đầu diễn ra trong album The Spiritual Healing vào năm 90, lúc này, Rozz bị sa thải và thay vào đó là một trong những tay guitar huyền thoại của Metal underground thế giới – James Murphy. Sự có mặt của Murphy khiến album chơi hết sức kỹ thuật với những đoạn solo guitar phức tạp. Lúc này, Schuldiner cũng đã trưởng thành hơn nhiều nên album không còn nói về ma quỷ, máu me nữa mà chuyển sang nói về cuộc sống của con người và chính trị. Các bài hát phức tạp và dài hơn (trung bình hơn 5 phút/bài), chất lượng ghi âm cũng tốt hơn so với 2 albums đầu tiên rất nhiều. Tuy nhiên, sau một album chất lượng tốt, sự bất ổn lại bắt đầu với Death, đầu tiên là việc tay guitar Murphy bất ngờ rời khỏi band nhạc mà không hề báo trước do những mâu thuẫn nhỏ với Schuldiner. Việc mất đi tay guitar khiến Schuldiner không hài lòng (anh này là người theo chủ nghĩa hoàn mỹ, muốn làm việc gì cũng tốt nhất) và hủy chuyến đi tới châu Âu vì không thể tìm được tay guitar ưng ý. Nhưng Butler và Andrew (những thành viên còn lại) thì không muốn bỏ lỡ cơ hội được biết đến nên thuê một tay guitar và vocalist khác để đi lưu diễn châu Âu dưới tên Death mà không cần Schuldiner. Schuldiner sau đó kiện 2 anh này và lấy lại tên Death. Cũng từ thời điểm này Schuldiner không còn hứng thú với việc mời những thành viên chính thức mà chỉ thuê những nghệ sỹ đã thuộc biên chế band nhạc khác. Spiritual Healing Sau khi thuê Steve DiGiorgio, tay guitar bass huyền thoại của nhóm Sadus, Schuldiner tiếp tục thuê tay tay trống Reinert và guitarist Masvidal của nhóm nhạc Progressive Death Metal huyền thoại Cynic để tiến hành ghi âm album thứ 4 là Human vào năm 1991. Cũng cần nhắc lại là cả 3 thành viên này đều là những nghệ sỹ với kỹ năng chơi nhạc cụ siêu hạng. Chính vì lý do này, không quá lạ khi album trở nên rất kỹ thuật, phức tạp và chịu nhiều ảnh hưởng của Progressive Metal. Album nhận được vô số lời khen ngợi và trở thành album kinh điển của Death Metal thế giới với rất nhiều bài hát mà fan hâm mộ của Death không thể quên như Flattening Of Emotions, Suicide Machine và đặc biệt là Lack Of Comprehensions. Đây cũng chính là album thành công nhất về mặt thương mại của Death với hơn 100.000 bản bán tại Mỹ và hơn 600.000 bản trên toàn thế giới. Lack Of Comprehension Flattening of Emotions (còn tiếp)
Death Death (tiếp theo và hết) Sau thành công rất lớn của Human, Schuldiner tìm ra hướng đi cho âm nhạc của mình – đó là phong cách Technical Progressive Death Metal. Ấn tượng trước phong cách chơi của DiGiorgio, Schuldiner mời anh này ở lại để ghi âm album tiếp theo. Lúc này, Cynic đang chuẩn bị cho ra album kinh điển Focus nên cả Reinert và Masdival đều không thể trở lại. Là fan của King Diamond, Schuldiner liên lạc với tay guitar Andy La Roque để chơi trong album này. Ở vị trí trống, tay trống huyền thoại Gene Hoglan là người được lựa chọn. Năm 1993, Death một lần nữa tung ra album kinh điển Individual Thought Patterns. Với đội hình như vậy, không lạ khi đây chính là album đánh kỹ thuật nhất trong lịch sử của Death. Tuy nhiên, khác với nhiều band Technical khác, khi họ trở thành nô lệ cho kỹ thuật của mình (chỉ chú trọng đến kỹ thuật chơi nhạc với những bài hát vô hồn). Death không để kỹ thuật siêu việt quá ảnh hưởng tới những bài hát của mình. Các bài hát trong album đều tay và rất hay như Trapped In A Corner, In Human Form, Overactive Imagination và đặc biệt là The Philosopher, siêu phẩm được biết đến rộng rãi nhất của Death. The Philosopher In Human Form Sự phát triển của Death vươn lên tới đỉnh cao với siêu album, tuyệt phẩm Symbolic vào năm 1995. Lúc này Death không còn sự phục vụ của của DiGiorgio và LaRoque nữa, chỉ còn lại Hoglan. Schuldiner thuê Koelble và Conlon, những người kém nổi tiếng hơn để thay thế. Nhưng Lúc này, âm nhạc của Death chuyển sang chịu ảnh hưởng rất nhiều của Progressive Metal. Các bài hát trong album này đều khá dài, cấu trúc phức tạp với rất nhiều đoạn riff thần sầu mà những fan hâm mộ của Metal thế giới khó có thể quên. Tốc độ của album này cũng có phần cao hơn so với Human và Individual nhưng không kém phần kỹ thuật. Một album gần như hoàn hảo từ đầu tới cuối. Dù không thực sự thành công về mặt thương mại như Human, album vẫn trở thành một trong những album hay nhất trong lịch sử của Death và là một trong những đỉnh cao (gần như không thể vượt qua) của Death Metal thế giới. Symbolic Crystal Mountain Sau album kinh điển Symbolic, Schuldiner dành thời gian cho band nhạc Progressive Control Denied trước khi tung ra album cuối cùng trong sự nghiệp của nhóm – The Sound Of Perseverance. Lúc này toàn bộ đội hình cũ đã thay đổi, không Gene Hoglan, không Digiorgio và chất Death Metal cũng không còn nhiều. Album mang nhiều tính Progressive và Thrash Metal hơn là Death khi tốc độ đánh không còn quá nhanh, mạnh, dồn dập, giọng hát của Chuck cũng trở nên trong và dễ nghe hơn nhiều lần. Mặc dù có sự thay đổi, album vẫn được chào đón nhiệt tình trên toàn thế giới và vẫn là một trong những album rất hay trong sự nghiệp của nhóm. Voice Of The Soul Spirit Crusher Phần còn lại của câu chuyện về Death là tấn bi kịch mà hầu như những fan của Metal không thể quên, năm 1999 Schuldiner mắc bệnh ung thư não. Anh buộc phải phẫu thuật, sau lần phẫu thuật thứ nhất thành công với sự trợ giúp đắc lực của những fan hâm mộ Metal trên toàn thế giới (nhà Schuldiner không đủ tiền để trả chi phí thực hiện ca phẫu thuật lên tới hơn 70.000$). Tuy nhiên sau 2 năm, căn bệnh quái ác quay trở lại một lần nữa vào năm 2001. Lần này thì Schuldiner không thể qua khỏi, anh mất vào ngày 13 tháng 12 năm 2001 để lại rất nhiều sự thương tiếc cho những người hâm mộ. Hàng năm, vào ngày này, luôn có những buổi biểu diễn để tưởng niệm Schuldiner trên toàn thế giới. Với tài năng hiếm có của mình, Schuldiner đưa Death Metal trở thành một trong những dòng nhạc lớn nhất (có lẽ Death Metal là dòng nhạc có số lượng band đông đảo nhất) và có sức sống mãnh liệt nhất thế giới, dù anh không còn nữa. Điều này cũng đưa Schuldiner trở thành một trong những nghệ sỹ có ảnh hưởng nhất của Metal thế giới. Sau khi anh mất, âm nhạc của Death vẫn tiếp tục chinh phục khán giả. Đến thời điểm hiện tại Death đã trở thành band Death Metal có số lượng đĩa bán được lớn nhất trên toàn thế giới. Hiển nhiển họ cũng là band nhạc thành công và có nhiều ảnh hưởng nhất tới Death Metal hiện đại.
Morbid Angel Morbid Angel Nếu như Death là band nhạc có tầm ảnh hưởng lớn nhất tới Death Metal thế giới thì Morbid Angel sẽ đứng ở vị trí thứ hai với khoảng cách rất nhỏ so với Death. Như ta đã biết, Death Metal khởi đầu với Possessed, tiếp tục phát triển với Death. Đến năm 1989 – năm Morbid Angel tung ra album đầu tay, Death đã tung ra 2 albums đầu tiên. Tuy nhiên cả 2 albums của Death chưa thực sự hay, cả hai đều khá đơn giản với kỹ năng chơi nhạc . cũng như sáng tác chưa cao. Phải đến năm 1989 khi Morbid Angel và Atheist tung ra những album đầu tay với kỹ thuật siêu đẳng thì lịch sử của Death Metal mới bước sang một trang mới. Với những album đầy chất lượng, Morbid Angel rất thành công và trở thành một trong những thế lực lớn nhất của Death Metal. Tay guitar Trey Azagthoth của nhóm chính là một trong những tay guitar có tầm ảnh hưởng lớn lao và có kỹ thuật chơi nhạc cao nhất của Death Metal thế giới. Trở lại với lịch sử của band nhạc, Morbid Angel được thành lập vào năm 1984 tại Florida bởi tay guitar huyền thoại Azagthoth. Vào năm 86, band đã ghi âm được album đầu tay là Abominations Of Desolation nhưng không hài lòng với chất lượng của album này nên quyết định không tung ra. Sau đó, band ký hợp đồng với hãng đĩa độc lập của Anh là Earache và tung ra album đầu tay Altars Of Madness vào năm 1989. Dù ghi âm rất kém, album nhanh chóng có vị trí kinh điển trong làng nhạc Metal thế giới nói chung và Death Metal nói riêng. Khác với những album đánh có phần đơn giản của Death và Possessed, album này đánh với tốc độ chậm rãi hơn, và rất kỹ thuật. Dù rất mạnh, ghi âm tệ (có bài ghi âm lớn, bài khác lại ghi âm nhỏ hơn) tài năng tuyệt vời của band nhạc vẫn thể hiện rõ nét. Các bài hát trong album rất khác biệt, nên người nghe có thể phân biệt rõ những bài hát với nhau (một điểm đặc biệt khác hẳn so với những band Death Metal cùng thời – người nghe không thể phân biệt các bài hát với nhau). Azagthoth cũng thể hiện trình độ chơi nhạc tuyệt vời của mình với những đoạn solo guitar thần sầu. Chính album kinh điển này đã khiến cho những band nhạc Death Metal đều phải thay đổi xu hướng chơi nhạc của mình để dòng nhạc Death Metal trở nên kỹ thuật hơn trong tương lai (ngay cả Death cũng phải thay đổi sau khi Morbid Angel xuất hiện). Chapel Of Ghouls Immortal Rites Với những thành công đầu tiên của Altar Of Madness, Morbid Angel đã có nhiều tiền để ghi âm hơn trong album thứ hai là Blessed Are The Sick vào năm 1991. (Chữ đầu tiên của các album của Morbid Angel đều lấy tên lần lượt theo bảng chữ cái alphabet). So với album trước, album này tiếp tục chứng kiến sự trưởng thành của Morbid Angel, đặc biệt là giọng ca của vocalist/bassist David Vincent. Vincent lúc này kết hợp cả giọng gầm gừ trong cuống họng đặc trưng của Death với giọng hát gào thét cao, đầy giận dữ. Âm nhạc trong album tiếp tục chậm hơn với những đoạn riff đầy uy lực kết hợp với những đoạn hòa tấu ngắn giữa những bài hát. Album tiếp tục thành công và trở thành một album kinh điển nữa của Death Metal thế giới, góp phần đưa Morbid Angel trở thành band Death Metal đầu tiên tiệm cận tới mainstream. Fall From Grace Desolate Ways Sau những thành công của Altar Of Madness và Blessed Are The Sick, Morbid Angel trở thành một thế lực của Metal thế giới. Chính vì vậy, album đầu tay của họ là Abominatión Of Desolation được hãng Earache mua để tung ra lại vào năm 91. Sau đó, band nhạc có hợp đồng với hãng đĩa lớn là Giant tại nước Mỹ.Tuy nhiên, đến album thứ 3 là Covenant vào năm 1993, nhóm chỉ còn lại 3 người là Vincent, Azagthoth và tay trống Sandoval do tay guitar Burnelle rời khỏi nhóm. Tuy chỉ còn 3 thành viên nhưng rất khó để ta có thể nhận ra điều này vì chất lượng của album này tiếp tục rất cao. Album tiếp tục thành công với những bài hát kinh điển được biết đến rộng rãi của Morbid Angel như God Of Emptiness hay Rapture. Âm nhạc trong album này cũng hết sức mạnh nhưng vẫn đầy tính kỹ thuật. Covenant cũng đồng thời là album thành công nhất của Morbid Angel và Death Metal thế giới. Tính tới thời điểm hiện tại, đây là album Death Metal bán chạy nhất trong lịch sử. Rapture God of Emptiness
Morbid Angel Morbid Angel (tiếp theo và hết) Chuỗi thành công của Morbid Angel không dừng lại ở 3 albums, album thứ 4 là Domination -1995 tiếp tục là một album kinh điển nữa của Death Metal thế giới. Lúc này, band kết nạp thêm tay guitar thứ hai là Erik Rutan. Đây có lẽ là album đánh mạnh nhất trong số 4 albums kinh điển đầu tiên của Morbid Angel. Album cũng sử dụng rất nhiều keyboards. Chất lượng ghi âm của album này cũng rất tốt. Tuy nhiên đây cũng chính là album cuối cùng của giọng ca Vincent với Morbid Angel. Thay thế cho anh này là Steve Tucker. Where the Slime Live Caesar's Palace Năm 1997, Morbid Angel tung ra album thứ 5 của nhóm là Formulas Fatal To The Flesh. (Album live Entangled In Chaos tung ra vào năm 1996). Lúc này, Morbid Angel chỉ còn lại ba thành viên là Tucker, Azagthoth và Sandoval. Sự ra đi của giọng ca huyền thoại Vincent kết hợp với việc hãng đĩa Giant của họ phá sản khiến tương lai của Morbid Angel trở nên không chắc chắn. Và album Formulas cũng chịu số phận tương tự. Với 3 thành viên, Azagthoth mong muốn viết album dạng Covenant thứ hai. Chính vì thế, album này có khá nhiều ý tưởng giống với Covenant(dạng ý tưởng cũ làm lại). Album mạnh hơn nhưng giọng ca của Tucker thì không đặc biệt như của Vincent nên album chỉ thành công ở mức vừa phải và không mang nhiều tính đột phá như 4 albums đầu. Nothing Is Not Sau album khá thất vọng Formulas, Morbid Angel trở lại trên bầu trời âm nhạc thế giới với album Gateways to Annihilation vào năm 2000. Lúc này thì Erik Rutan đã trở lại trong vai trò tay guitar thứ hai. Nếu như Formulas chịu ảnh hưởng rất nhiều của Covenant thì Gateways lại giống Blessed Are The Sick (tiết tấu chậm) và Domination (đơn giản). Ngoài ra nhóm còn mang thêm những ảnh hưởng và tiếng riff của Doom Metal vào trong album này. Cũng như album trước, album này không thực sự đột phá nhưng vẫn có chất lượng rất tốt (hay hơn Formulas) và nhận được nhiều sự khen ngợi. To The Victor The Spoils Sau album Heretic không thành công khi trở lại với bộ ba (Rutan lại rời nhóm) với nhiều thử nghiệm kỳ quặc như đoạn drum check, chuyển bài…là quãng nghỉ dài trong sự nghiệp của Morbid Angel. Phải đến năm 2011, nhóm mới tung ra album thứ 8 là Illud Divium Insanus với sự trở lại Vincent (nhưng lại mất đi tay trống Sandoval). Album này gây shock cho tất cả những fan hâm mộ phong cách Death Metal của Morbid Angel khi nó mang tính Industrial làm chủ đạo. Sự thử nghiệm này quá sức chịu đựng của hầu hết tất cả những người hâm mộ của nhóm dù album không hề tệ. Enshrined By Grace ExistoVulgore Trải qua một sự nghiệp dài. Những đóng góp của Morbid Angel cho Death Metal là rất lớn khi tung ra một loạt những album đầy chất lượng. Azagthoth, với tài năng kiệt xuất của mình trở thành một dạng anh hùng guitar đầu tiên của Death Metal (Schuldiner của Death viết nhạc giỏi nhưng kỹ năng chơi nhạc không bằng Azagthoth). Sau cái chết của Schuldiner, Azagthoth trở thành tay guitar được tôn trọng và có tầm ảnh hưởng lớn nhất của Death Metal. Anh này cũng chính là người đầu tiên đặt nền móng cho Technical Death Metal. Hiển nhiên, Morbid Angel là band nhạc không thể thiếu trong bất kỳ bộ sưu tập Death Metal nào.
Obituary Obituary Obituary là một huyền thoại nữa của Death Metal thế giới. Nhóm thành lập từ năm 1984 tại Florida Mỹ bởi anh em John (vocal) và Donald (drums) Tardy. Band cũng là một trong những nhân tố chính thúc đẩy sự hình thành và phát triển của Death Metal thế giới. Đây cũng là một trong những nhóm nhạc Death Metal thành công nhất về mặt thương mại. Vocalist John Tardy là một trong những giọng ca lạ và có tầm ảnh hưởng lớn rất lớn tới Death Metal sau này. Tardy thường sử dụng giọng trầm, gằn xuống nghe rất hiếu chiến và bạo lực. Trở lại với lịch sử của band nhạc, ban đầu Obituary lấy tến là Excutioner nhưng sau đó đổi thành Xecutioner (cắt bỏ chữ E đầu tiên vì trùng tên với một band nhạc khác). Nhóm tung ra một loạt demo trong những năm 85-87. Tuy nhiên ngay trước khi tung ra album đầu tay là Slowly We Rot vào năm 89, nhóm đổi tên thành Obituary và giữ tên đó cho tới hiện tại. Trong album đầu tay này, nhóm trình diễn một thứ âm thanh tối, đục và đầy bạo lực với rất nhiều ảnh hưởng của Celtic Frost và Venom. Âm nhạc trong album này khá đơn giản nhưng giọng ca của Tardy thì tuyệt vời, đầy mạnh mẽ và uy lực và dĩ nhiên là rất phù hợp với âm nhạc của nhóm. Slowly We Rot Sau album Slowly We Rot đánh mạnh và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn và fan hâm mộ, Obituary bước vào ghi âm album thứ hai – album huyền thoại Cause Of Death vào năm 1990. Lúc này, đội hình của Obituary có thay đổi khi tay guitar Allan West bất ngờ rời nhóm (không rõ lý do) và thay thế bởi James Murphy còn tay bass Tucker bị thay thế bới Frank Watkins. Album này tiếp tục phát triển thứ âm nhạc bạo lực trong album đầu tay. James Murphy là tay guitar rất có tài nên album này đánh rất kỹ thuật. Những đoạn solo của James Murphy trong album này có thể coi là đỉnh cao trong sự nghiệp kéo rất dài và tham gia rất nhiều band của anh này. Đoạn solo trong bài hát Infected có thể coi là đoạn solo kinh điển và được biết đến nhiều nhất của Death Metal thế giới. Infected Cause of Death Sau album kinh điển Cause Of Death thì West trở lại để thay thế James Murphy nhóm tiếp tục tung ra một album kinh điển nữa là The End Complete vào năm 1992. Âm nhạc của nhóm trong album này không khác quá nhiều so với album trước là Cause Of Death. Tuy nhiên chất lượng sản xuất và ghi âm thì tăng lên đáng kể. Dĩ nhiên West không thể so sánh về độ sáng tạo và kỹ năng với Murphy tuy nhiên lối chơi của anh lại rất phù hợp âm nhạc của band. Có lẽ chính vì hai lý do nêu trên, đây là album thành công nhất về mặt thương mại của Obituary với khoảng trên 100.000 bản bán được tại Mỹ (đứng trong top 5 albums Death Metal bán chạy nhất tại Mỹ) và khoảng hơn 500.000 nghìn bản trên toàn thế giới. Thời gian trước đây, album này không được đánh giá cao bằng album Cause Of Death nhưng càng về sau, khi thời gian qua đi, album càng nhận được nhiều lời khen ngợi hơn. Dĩ nhiên, nó cũng là một trong những album kinh điển của Death Metal thế giới. The End Complete Corrosive Chuỗi những album kinh điển của Obituary chưa dừng lại ở The End Complete. Album tiếp theo của nhóm là World Demise -1994 tiếp tục là một trong những album kinh điển của Death Metal. Trong album này, âm nhạc của Obituary có nhiều thay đổi khi nhóm tích hợp thêm một số ảnh hưởng của Hardcore vào Death Metal và sử dụng thêm một số hiệu ứng âm thanh bằng việc sử dụng keyboards. Đây cũng là album lạ và mang nhiều tính thử nghiệm nhất trong lịch sử của nhóm. Album này dài hơn những album trước khá nhiều (hơn 50 phút so với chưa đầy 40 phút của các album trước đó). Album cũng được thu âm với chất lượng rất tốt (có lẽ là tốt nhất trong sự nghiệp của Obituary). Don't Care Tuy nhiên, sau 4 albums kinh điển, sự nghiệp của Obituary dần đi xuống với album Back From The Dead vào năm 97. Album này không thực sự mới lạ mà vay mượn ý tưởng từ 3 album kinh điển đầu tiên. Album không thực sự thành công kết hợp với việc John Tardy không còn hứng thú với những chuyến lưu diễn nữa là nguyên nhân chủ yếu khiến Obituary tan rã. Phải đến năm 2003 nhóm mới tái hợp trở lại và tung ra các album mới Frozen In Time vào năm 2005. Sau đó nhóm còn tiếp tục tung ra thêm 2 albums nữa là Xecutioner’s Return -2007 và Darkest Day -2009 nhưng chất lượng của cả 3 albums này đều không thực sự cao và ít sự sáng tạo. Dự kiến cuối năm 2014, nhóm sẽ tung ra album thứ 9 trong sự nghiệp là Ink In Blood. Tuy sự nghiệp đi xuống sau năm 1994, Obituary vẫn là một huyền thoại của Death Metal thế giới. Rất nhiều band Brutal Death sau này đều chịu ảnh hưởng của nhóm (có thể kể ra một số band rất lớn như Deicide hay Cannibal Corpse chẳng hạn). Evil Ways
Bolt Thrower Bolt Thrower Từ nước Mỹ, Death Metal dần lan sang bên kia Đại Tây Dương và nơi đầu tiên Death Metal đặt nền móng tại châu Âu là nước Anh. Và Bolt Thrower có lẽ là band nhạc chơi Death Metal đầu tiên tại lục địa già. Bolt Thrower thành lập năm 1986 với 5 thành viên là Karl Willets – vocal, Barry Thompson – guitars, Gavin Ward – guitars, Martin Kearns – trống, Jo Bench -bass. Lúc đầu, band nhạc chơi theo phong cách Thrash/Punk chứ chưa phải Death Metal. Đây có lẽ cũng là band nhạc Extreme Metal đầu tiên có thành viên là nữ (tay bass Jo). Các thành viên của band nhạc lúc này còn trẻ và vẫn ham mê chơi game nên tên của nhóm lấy theo một loại vũ khí của trò chơi Warhammer Fantasy Battle. Các bài hát của band nhạc vì thế cũng chủ yếu lấy cảm hứng từ chiến tranh và game. Trở lại với lịch sử của band, sau khi thành lập nhóm đã có hợp đồng với hãng đĩa Vinyl Solution – một hãng đĩa chuyên về Hardcore. Năm 88, nhóm tung ra album đầu tay In The Battle There Is No Law. Âm nhạc trong album này là sự pha trộn giữa Thrash và Hardcore với một chút ảnh hưởng của Death (giọng hát có chút gầm gừ). Tuy nhiên, album này thu âm và sản xuất rất kém mà lỗi chủ yếu là do hãng đĩa (album được mixed và sản xuất bởi hãng đĩa mà các thành viên không hề được nghe lại). Tất nhiên album không mấy thành công và làm cho các thành viên của band nhạc cảm thấy chán nản và nhóm chuyển sang ký hợp đồng với hãng đĩa mới thành lập Earache. Cuối năm 1989, nhóm tung ra album thứ hai là Realm Of Chaos với nội dung, bìa đĩa, lyric lấy cảm hứng từ trò chơi Warhamer 40 000. Âm nhạc trong album này đã chuyển dần sang phong cách Death Metal lai với Grindcore. Album có chất lượng khá tốt và là bước phát triển vượt bậc của Bolt Thrower tuy nhiên so với những album đầu tay của Morbid Angel, Atheist cũng tung ra trong năm, chất lượng của nó không bằng. Album tiếp theo của nhóm là War Master -91 tiếp tục chứng kiến sự chuyển hoàn toàn Hardcore/Grindcore sang Death Metal của nhóm. Lúc này âm nhạc của nhóm đã là thứ Death Metal cổ với những bài hát tiết tấu trung bình. Tiếng trống điên loạn blast beats đã giảm. Đối với những người yêu Death Metal cổ (old school Death Metal) thì đây là một album khá hay. Tuy nhiên, sự tiến bộ vượt bậc của Bolt Thrower chỉ diễn ra trong album thứ 4 – The Fourth Crusade vào năm 1992. Lúc này thì toàn bộ những ảnh hưởng của Grindcore và blast beats đã không còn. Các bài hát trong album này chơi kỹ thuật với giai điệu rất tốt và dễ nhớ và với tiết tấu khá chậm. Tuy vậy chất bạo lực vẫn còn rất mạnh (do nhóm chủ yếu hát về chiến tranh). Đây cũng chính là album kinh điển đầu tiên của nhóm và cũng là một trong những album kinh điển của Death Metal. Hiển nhiên nó cũng nhận được vô số những lời khen ngợi từ cả giới chuyên môn lẫn fan hâm mộ. Chính album này cũng giúp Bolt Thrower trở thành một trong những nhóm Death Metal hàng đầu tại Anh Quốc. Từ thời điểm này trở đi, các album của Bolt Thrower đều có chất lượng rất cao. Album thứ 5 For Victory -1994 tiếp tục là một album rất hay. Âm nhạc trong album này tiếp tục là sự phát triển của The VIth crusade: mạnh mẽ, có giai điệu hay, hơi có chút ảnh hưởng của Groove Metal (lặp lại những đoạn riff) nhưng vẫn mang nhiều tính bạo lực. Cenotaph The IVth Crusade ...For Victory Tuy nhiên, sau For Victory là một khoảng lặng dài trong sự nghiệp của Bolt Thrower khi cả giọng ca chính Karl Willets và tay trống Whale đều rời khỏi nhóm. Sau đó, do những mâu thuẫn với hãng đĩa, Bolt Thrower còn rời khỏi Earache để ký hợp đồng với Metal Blade. Năm 98, nhóm tung ra album thứ 6 là Mercenary. Rất may lúc này thì giọng ca chính Willets đồng ý trở lại để ghi âm album. Album này đánh có chậm hơn những album trước nhưng chất lượng thì không tồi hơn. Thậm chí, các bài hát trong album này còn có nhiều tính giai điệu và dễ nghe hơn. Đây vẫn là một album đầy chất lượng của nhóm. Sau album Mercenary, Willets rời nhóm một lần nữa và band mời Dave Ingram – giọng ca chính của nhóm Benediction tham gia nhóm để thu âm album album Honour – Valour- Pride vào năm 2001. Album này có chất lượng rất tốt, tuy giọng ca của Ingram thì không tốt bằng giọng ca của Willets (giọng của Ingram quá trầm). Tuy nhiên chất lượng âm nhạc thì vẫn rất cao. Album cuối cùng của nhóm là Those Once Loyal -2005 tiếp tục chứng kiến sự quay lại của Willets và có chất lượng rất rất tốt và là một trong những album kinh điển của Death Metal thế giới trong thế kỷ 21. Với rất nhiều nhà chuyên môn và fan hâm mộ, đây thậm chí là album xuất sắc nhất trong lịch sử của band nhạc. Một album gần như hoàn hảo với tiết tấu chậm, các đoạn riff mạnh mẽ nhưng khá đơn giản mang tính lặp lại nhưng với giai điệu rất hay. No Guts, No Glory Contact Wait Out The Killchain Trong suốt sự nghiệp của mình, Bolt Thrower là một nhóm nhạc mang lại rất nhiều cảm xúc cho fan hâm mộ Death Metal. Âm nhạc của nhóm khá ổn định (với đội hình gần như không thay đổi). Đây có lẽ cũng là một trong những band nhạc Death Metal thành công nhất trong lịch sử của Anh với rất nhiều album có chất lượng cao. Tuy không phải là band nhạc quá phổ biến, đây vẫn là một nhóm mà các fan của Death Metal dạng cổ không thể bỏ qua.
Autopsy Autopsy Autopsy tiếp tục là một trong những band nhạc có tẩm ảnh hưởng rất quan trọng tới sự phát triển của Death Metal sau này, nhất là Death Metal châu Âu. Band thành lập năm 1987 bởi tay trống Chris Reifert và tay guitar Eric Cutler tại California, Mỹ. Reifert không phải là người quá xa lạ với những fan hâm mộ của Death Metal. Anh chính là tay trống đã ghi âm album đầu tay Scream Bloody Gore với Chuck Schuldiner của Death (khi anh này mới chỉ 17 tuổi còn Schuldiner 19 tuổi). Tuy nhiên, sau khi ghi âm album kinh điển này, Reifert quyết định rời khỏi Death và tới sống tại California. Vào năm 1989, Autopsy tung ra album đầu tay Severed Survival qua hãng đĩa Peaceville của Anh Quốc với sự có mặt của tay bass huyền thoại Steve Digiorgio. Album này là một album kiểu oldschool Death Metal với rất nhiều ảnh hưởng của Thrash (dạng Scream Bloody Gore). Tuy nhiên, sau đó Autopsy bắt đầu thay đổi âm nhạc của mình trong album tiếp theo là Mental Funeral vào năm 1991. Khác với nhiều band nhạc Death Metal cùng thời khi tiếp tục đẩy tốc độ chơi nhạc lên cao hơn nữa, Autopsy sử dụng các bài hát với tiết tấu trung bình và chậm (nhiều khi mang ảnh hưởng của Doom Metal nên rất nhiều người còn gọi Autopsy là band nhạc Death Doom, tuy nhiên âm nhạc của họ vẫn mang tính Death Metal là chủ đạo). Phong cách chơi mới mẻ này của Autopsy ảnh hưởng rất lớn tới những band Death Metal của Thụy Điển như Entombed, Dismember hay những band của Mỹ như Deicide, Cannibal Corpse, Immolation. Album thứ 3 của nhóm là Acts Of The Unspeakable lại chịu nhiều ảnh hưởng của grindcore với những bài hát ngắn. Sau album Shitfun -1995 mang nhiều âm hưởng hardcore, Autopsy tan rã. Đến năm 2009 nhóm tái hợp trở lại và tung ra liên tiếp 3 albums: Macabre Eternal -2011, The Headless Ritual -2013 và Tourniquets, Hacksaws and Graves -2014. Các album đều có chất lượng vừa phải. Autopsy là một trong những band nhạc tiên phong trong phong cách chơi nhạc chậm của Death Metal và là band đầu tiên sử dụng lyric bạo lực kiểu máu me chết chóc (gore lyric). Hiển nhiên họ cũng có nhiều ảnh hưởng tới Death Metal thế giới. Disembowel Dark Crusade Voices Always About To Die My Corpse Shall Rise
...kể từ lúc quán Tùng bờ kè dẹp...e như mất đi một nửa linh hồn...nhiều khi chới với & điên cuồng, e chả còn đi đâu...ngày trước ngập ngụa trong khói thuốc và men nồng của chai Rhum đến giữa đêm, e bất cần cuộc sống bên ngoài nó diễn ra ntn...sau, tìm, nhưng chưa thấy chỗ nào như Tùng...các bác kinh nghiệm, chỉ giúp em với...
Deicide Deicide Những band nhạc đầu tiên chơi Death Metal như Possessed, Death, Morbid Angel, Atheist, Obituary đã đặt những nền móng rất quan trọng cho sự phát triển của Death Metal sau này như đã phân tích ở trên. Vào thời điểm những năm đầu thập niên 90, một loạt những band Death Metal đã lần lượt tạo dựng tên tuổi của mình góp phần tạo nên một trào lưu mới trong lòng Death Metal. Trào lưu thứ hai này rất mạnh với nhiều band nhạc mới và Deicide là một trong những tên tuổi đầu tiên của trào lưu thứ hai này. Thành lập từ năm 1987 dưới cái tên Amon sau khi tay guitar Brian Hoffman gọi điện cho tay bass Glen Benton sau khi đọc một đoạn quảng cáo trong một cuốn tạp chí. Lúc này Brian cùng với em trai mình là Eric (cả 2 anh em đều chơi guitar) đang chơi cho band nhạc Carnage cùng với tay trống Steve Asheim. Band nhạc này lúc đó chỉ chơi cover của những band nhạc Thrash Metal như Slayer, Exodus, Celtic Frost hay Dark Angel. Sau khi Benton gia nhập, band đổi tên thành Amon và ghi âm 2 albums demo. Năm 1989, Amon ký hợp đồng vớ hãng đĩa Roadrunner và theo yêu cầu của hãng này, đổi tên thành Deicide như hiện tại. Năm 1990 nhóm tung ra album đầu tay Deicide, một trong những album kinh điển và được tôn thờ của Death Metal thế giới. Âm nhạc trong album này chịu nhiều ảnh hưởng của Slayer nhưng chơi với tốc độ cao và mạnh hơn rất nhiều. Giọng ca của Benton trong album này thực sự rất đáng khâm phục: nó là sự kết hợp của giọng trầm gầm gừ (Death) với giọng gào rít (kiểu Black). Anh em nhà Hoffman cũng là những tay guitar có tài. Họ có thể thực hiện nhiều đoạn solo guitar ở tốc độ rất cao với những đoạn tung hứng lạ và khá ngoạn mục. Về mặt lyrics, Deicide chủ yếu sự dụng lyrics dạng Satanism, chống Thiên Chúa, báng bổ và giết người. Tuy album này không mang tính đột biến lớn như kiểu Seven Churches hay Altar Of Madness nhưng nó cũng rất hay và trở thành một trong những album kinh điển của Death Metal thế giới. Theo những thống kê không chính thức, đây được coi là album Death Metal bán chạy nhất nước Mỹ (theo thống kê chính thức nó đứng thứ hai chỉ sau Covenant của Morbid Angel – tuy nhiên, thống kê chính thức này chỉ tính từ năm 91 trở đi mà album này tung ra trước đó 1 năm). Dead by Dawn Sau khởi đầu rất thành công, Deicide quyết định thay đổi âm nhạc theo hướng chơi kỹ thuật với những bài hát dài và phức tạp hơn trong album thứ hai (theo hướng của Death). Album thứ hai Legion vào năm 1992 có lẽ là album tham vọng nhất trong lịch sử của nhóm. Album này, cũng như album trước, nhận được rất nhiều sự khen ngợi của cả giới chuyên môn lẫn fan hâm mộ Death Metal và trở thành một trong những album kinh điển của Death. Về mặt thương mại, album cũng hết sức thành công và là một trong những album bán chạy nhất trong lịch sử của Death Metal (đứng thứ 3 chỉ sau Covenant và Deicide). Tuy nhiên phong cách chơi kỹ thuật này, rất tiếc, không tồn tại được lâu vì Benton cảm thấy rất khó có thể biểu diễn live các bài hát trong album (trong một thời gian rất dài chỉ có một bài hát duy nhất của album này thường xuyên xuất hiện trong những biểu diễn live đó là Dead But Dreaming). Holy Deception Sau 2 albums rất thành công sự nghiệp của Deicide dần đi xuống. Sau album đánh khá chậm là Once Upon The Cross năm 1995, các album về sau này của họ không thực sự gây ra sự đột biến mặc dù vẫn đầy mạnh mẽ và bạo lực. Rất khó để phân biệt các bài hát trong các album như Serpents Of The Light -97, Insineratehymn -2000, In Torment In Hell-2001 hay Scars Of The Crucifix -2004. Sau khi tung ra Scars Of The Crucifix, những mâu thuẫn trong band nhạc (giữa anh em nhà Hoffman và Benton) trở nên không thể hàn gắn được nữa và anh em nhà Hoffman rời nhóm. Benton thuê Jack Owen (Cannibal Corpse) và Ralph Santolla (Death, Iced Earth) để tiếp tục theo đuổi sự nghiệp âm nhạc. Band tung ra album The Stench Of Redemption vào năm 2006. Album này, rất lạ lùng, là nhận được vô số lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Rất nhiều fan hâm mộ cho rằng band nhạc đã trở lại là Deicide cũ mặc dù mất đi hai tay guitar gạo cội. Trong album này Owen và Santolla sử dụng rất nhiều đoạn solo mang tính neoclassical, traditional Metal xen lẫn với những đoạn riff đặc trưng của Deicide. Xét về mặt xếp hạng thì đây là album thành công nhất trong lịch sử của Deicide khi có mặt tại top 11 của bảng Heatseeker tại Mỹ (bảng xếp hạng dành cho những nghệ sỹ chưa bao giờ lọt vào top 100 của Mỹ). Once Upon The Cross Serpents of the Light Scars Of The Crucifix Homage for Satan Tuy nhiên sau album khá hay The Stench Of Redemption, âm nhạc của Deicide không thực sự gây đột phá và phát triển. Nhóm tiếp tục tung ra những album vừa phải như Till Death Do Us Part -2008, To Hell With God -2011 và In The Minds Of Evil -2013. Deicide không thực sự là một band nhạc mang nhiều tính đột phá trong Death Metal nhưng vẫn là một band nhạc nhận được nhiều sự tôn trọng với một số album rất hay và được fan hâm mộ yêu thích. Họ cũng là một trong những band Death Metal mang nhiều tính báng bổ nhất và thường xuyên bị kiện bởi những tổ chức tôn giáo. Họ cũng rất thành công về mặt thương mại (band nhạc bán chạy thứ hai tại Mỹ chỉ sau Cannibal Corpse). Conviction End the Wrath of God
Cannibal Corpse Cannibal Corpse Cùng với Deicide, Cannibal Corpse là một trong những band nhạc thành công nhất trong thế hệ thứ hai. Đồng thời, họ cũng là một trong những band nhạc thành công nhất trong lịch sử của Death Metal, một trong những biểu tượng của Death Metal thế giới. Cannibal Corpse thành lập năm 1988 tại New York, Mỹ và là tập hợp của một nhóm nghệ sĩ chơi cho các band nhạc Death Metal khác nhau. Năm 1989, nhóm ký hợp đồng với hãng đĩa Metal Blade và tung ra album đầu tay Eaten Back To Life vào năm 90. So với các band nhạc Death Metal cùng thời, âm nhạc của Cannibal Corpse mạnh và bạo lực hơn rất nhiều. Các bài hát trong album có tiết tấu rất nhanh và chủ yếu nói về những yếu tố bạo lực như giết người, ăn thịt người, máu me… Chính vì những yếu tố kinh dị này, âm nhạc của Cannibal Corpse bị cấm tại rất nhiều nước. Phong cách chơi Death đầy bạo lực và đẫm máu tiếp tục với một loạt những album có chất lượng khá tốt như Butchered At Birth -91 và Tomb Of The Mutilated -92. Cả 2 album này đều rất thành công về mặt thương mại và đem đến cho Cannibal Corpse một lượng fan hâm mộ trung thành rất lớn. Cannibal Corpse vươn lên tới đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm với album thứ 4 là The Bleeding vào năm 1994. Đây cũng là album cuối cùng của giọng ca chính Barnes với nhóm. Âm nhạc trong album này thay đổi theo xu hướng chậm hơn và mang nhiều âm hưởng của Groove (đều đều). Tuy là album cuối cùng của Barnes nhưng giọng của anh trong album này tốt hơn rất nhiều so với những album trước đó với việc kết hợp cả giọng trầm gầm gừ với những đoạn gào thét ở những nốt rất cao. Album này cũng là album thành công nhất trong lịch sử của nhóm về mặt thương mại đồng thời cũng là một trong những album bán chạy nhất trong lịch sử của Death Metal thế giới (đứng thứ 5 sau Covenant – Morbid Angel, Deicide và Legion của Deicide và The End Complete của Obituary). Tốc độ chơi nhạc chậm hơn cũng khiến cho các thành viên của band nhạc có điều kiện thể hiện kỹ năng chơi nhạc rất tốt trong album này, đặc biệt là tiếng guitar và bass. Sau sự ra đi của Barnes, Cannibal Corpse thuê George Fisher để thay thế. Cùng với giọng ca mới này, band nhạc cũng sử dụng logo mới (do logo cũ thuộc về Barnes). Âm nhạc của nhóm cũng trở lại với những tiết tấu hết sức nhanh và mạnh trong những album tiếp theo như Vile -96, Gallery Of Suicide -98, Bloodthirst -99 hay Gore Obsessed -2002. Đến năm 2004, Cannibal Corpse tiếp tục vươn tới đỉnh cao một lần nữa với album The Wretched Spawn. Sau đó, nhóm tiếp tục tung ra một loạt những album có chất lượng khá như Kill -2006, Evisceration Plague -2009 hay Torture -2012. Dự kiến trong năm 2014 nhóm tiếp tục tung ra album thứ 13 trong sự nghiệp là A Skeletal Domain. Như đã nói ở trên, Cannibal Corpse là band nhạc gây rất nhiều tranh cãi với những bài hát mang nhiều tính bạo lực, nhiều khi là bệnh hoạn. Tuy nhiên, trái ngược với những tranh cãi, band nhạc rất thành công về mặt thương mại (là band nhạc Death Metal bán được nhiều đĩa nhất tại Mỹ và nhiều thứ hai trên thế giới – chỉ sau Death). Họ cũng tạo dựng tên tuổi và có một lượng fan không hề nhỏ trong thế giới Metal. Hammer Smashed Face The Bleeding I Will Kill You Frantic Disembowelment Death Walking Terror
Benediction Benediction Benediction là một trong những band nhạc Death Metal có lịch sử lâu đời và một sự nghiệp trải khá dài tại Anh Quốc. Nhóm thành lập năm 1989 tại Birmingham. Ngay sau khi thành lập, nhóm nhận được sự chú ý từ hãng đĩa Nuclear Blast và có hợp đồng ghi âm album đầu tiên là Subconscious Terror vào năm 90. Nên nhớ là lúc này giọng ca chính Greenway của Benediction vừa chơi cho Napalm Death vừa chơi cho Benediction. Sau này, do không thể cáng đáng nhiệm vụ là vocalist của 2 bands trong những chuyến lưu diễn nên anh này buộc phải từ bỏ Benediction. Album đầu tay nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Âm nhạc trong album này đúng theo kiểu oldschool Death Metal với những bài hát có chất lượng rất tốt (dễ nhớ) và có nhiều điểm nhấn (tempo change). Giọng ca của Greenway tốt và là điểm sáng trong album. Sau album đầu tay khá ấn tượng, Benediction tiếp tục phát triển ở một mức cao hơn trong album thứ hai là The Grand Leveller. Album này đánh mạnh hơn album trước và có lẽ sự thay đổi lớn nhất là giọng ca của Greenway lúc này được thay thế bởi Dave Ingram. Giọng của Ingram có lẽ không tốt bằng giọng của Greenway nhưng do các thành viên trong band nhạc đã trưởng thành hơn nên các bài hát có chất lượng cao hơn so với album đầu tay. Album tiếp tục nhận được rất nhiều lời khen ngợi của giới chuyên môn và người hâm mộ. Album thứ 3 của nhóm là Transcend The Rubicon tiếp tục rất thành công với thay đổi chín là trong cách sản xuất và mixed. Lúc này âm nhạc của nhóm đã dễ nghe hơn với những bài hát kinh điển như Nightfear hay Bow To None. Tuy nhiên đến album thứ 4 là The Dreams You Dread năm 1995 thì sự nghiệp của Benediction đi xuống (lúc này Death Metal thế giới cũng bắt đầu đi xuống theo trào lưu chung). Các album sau đó của nhóm như Grind Bastard -98, Organized Chaos -2001, Killing Music -2008 không còn tạo được nhiều tiếng vang. Tuy nhiên sự thành công của 3 albums đầu tiên giúp Benediction trở thành một trong những thế lực và là một trong những band thành công nhất trong lịch sử của Death Metal Anh quốc. Subconscious Terror The Grand Leveller I Bow To None jGCzFFAUJM8 The Grotesque Killing Music
Entombed Entombed Emtombed đã và luôn là một trong những band nhạc Death Metal đầu tiên của Thụy Điển và cũng chính là một trong những band nhạc nhiều ảnh hưởng nhất của đất nước này. Entombed thành lập năm 1987 dưới cái tên Nihilist. Năm 1990, nhóm tung ra album đầu tay, cũng là một siêu phẩm của Death Metal thế giới, đó chính là album Left Hand Path. Trong album này, Entombed chơi một thứ âm nhạc Death Metal khá chậm rãi và chịu nhiều ảnh hưởng của rock n roll. Phụ trợ cho phong cách Death Metal này lần đầu tiên cuất hiện lối chơi guitar buzz saw (guitar lấy rất trầm xuống 2 nốt hoặc nhiều hơn). Phong cách chơi guitar này về sau ảnh hưởng tới hầu như tất cả những band nhạc Death Metal của Thụy Điển. Tất nhiên, phong cách chơi nhạc chậm (chịu ảnh hưởng của Autopsy) và nghiêng về giai điệu này khá mới mẻ. Đây là một trong những album hay nhất mà Death Metal Thụy Điển từng sản sinh ra và dĩ nhiên nó là một trong những album kinh điển. Left Hand Path Album thứ hai của nhóm là Clandestine vào năm 1991 tiếp tục là một trong những album kinh điển của Entombed. Âm nhạc trong album này thậm chí còn dễ nghe hơn album kinh điển Left Hand Path với những bài hát dạng trường ca khá dài (epic) và có giai điệu rất tốt. Những ảnh hưởng của Doom và Prog Metal xuất hiện khá rõ trong album này. Với một thứ âm nhạc dễ nghe hơn, album cũng chiếm được rất nhiều cảm tình của fan hâm mộ cũng như giới chuyên môn toàn thế giới. Cả 2 albums đầu tay của Entombed đều là những album rất hay và trở thành kinh điển. Stranger Aeons Tưởng rằng những thành công ban đầu này sẽ tiếp tục được phát triển kế tiếp trong những album tiếp theo của nhóm nhưng không phải như vậy. Vào năm 1993, nhóm tung ra album Wolverine Blues với rất nhiều thay đổi trong âm nhạc. Lúc này họ không tiếp tục chơi một thứ Death Metal thuần chủng nữa mà kết hợp rất nhiều những âm nhạc của Hard Rock và Rock N Roll vào trong âm nhạc của mình (còn gọi là Death N Roll). Sự thay đổi trong phong cách chơi nhạc đã gây ra sự chia rẽ rất lớn trong nội bộ fan hâm mộ của Entombed. Rất nhiều fan hâm mộ cho rằng sự kết hợp này không hợp lý và mong muốn band quay trở lại với thứ Death Metal truyền thống. Tuy nhiên, phong cách chơi mới mẻ này lại rất được lòng giới chuyên môn và được giới chính thống (mainstream) công nhận và khen ngợi. Chính vì những lý do kể trên, Wolverine Blues vẫn là một trong những album kinh điển của nhóm. Hollowman Những album sau đó của Entombed tiếp tục theo đuổi phong cách Death N Roll nhưng không thực sự nhận được nhiều thành công với những albums như DCLXVI -97, Sam Difference -98, Uprising -2000. Phải đến năm 2001 thì Entombed mới quay trở lại phong cách Oldschool Death Metal với album Morning Star. Album nhận được rất nhiều lời khen ngợi và là một trong những album Death Metal hay trong thập kỷ 2000s. Sau đó nhóm còn tiếp tục tung ra 2 albums: Inferno -2003 với phong cách Death N Roll và Serpent Saints- The Ten Amendments -2006 với phong cách Oldschool Death kiểu như 2 album đầu tiên. Tại thời điểm hiện tại, sự nghiệp của Entombed đã đi xuống. Nhưng với những album đầu tiên có chất lượng và nhiều ảnh hưởng, Entombed là một trong những tuổi lớn nhất của Death Metal châu Âu. Addiction King I For An Eye Serpent Saints
Pungent Stench Pungent Stench Như chúng ta đã biết ở trên, sau khi hình thành tại Mỹ, Death Metal dần lan sang châu Âu với những đại diện đến từ Anh, Thụy Điển. Bây giờ, chúng ta đến với một đại diện của Áo, band nhạc Pungent Stench. Pungent Stench thành lập năm 1988 tại Viên và bắt đầu chơi Death Metal theo một phong cách hoàn toàn khác biệt. Âm nhạc của họ là một thứ Death Metal với nhiều yếu tố hài hước (dark humorous). Ngoài ra, âm nhạc của nhóm còn chịu ảnh hưởng rất lớn từ Rock và nhạc Blues. Lời bài hát thì thường viết về tình dục (rất khác biệt so với những band Death khác). Nhóm tung ra album đầu tay For God Your Soul.. For Me Your Flesh vào năm 1990. Đây là một album Death Metal khá đơn giản, tuy cũng có một số đoạn solo bass hoặc guitar có chất lượng tốt. Album này khá thành công và đưa tên tuổi Pungent Stench có mặt trên bản đồ Death Metal châu Âu. Just Let Me Rot Năm 1991, nhóm tung ra album thứ 2 là Been Caught Buttering. Album này có chất lượng cao hơn album trước rất nhiều. Tất nhiên, với khoảng cách chỉ một năm, album không thể là sự khác biệt hoàn toàn so với album trước đó. Âm nhạc trong album vẫn là Death Metal khá đơn giản với chất lượng ghi âm thấp (thô, tối và đục). Tuy nhiên trong album này, nhóm đã tích hợp thêm nhiều yếu tố của Groove (riff lặp lại). Chính việc thêm những yêu tố Groove góp phần không nhỏ trong việc đưa chất lượng album lên cao hơn. Những ảnh hưởng của Rock và Blues vẫn còn nên album này nghe khá giống phong cách Death N Roll của Entombed hay Gorefest. Album này rất thành công và là một trong những album kinh điển của Death Metal. Thậm chí 2 bài hát trong album còn được quay video clips để quảng bá. Shrunken and Mummified Bitch Sau album rất thành công Been Caught Buttering, band nhạc tung ra album thứ ba là “Club Mondo Bizarre” For Members Only vào năm 1994. Tuy nhiên đây lại là một album thất bại của Pungent Stench. Trong album này, âm nhạc của nhóm thay đổi khá nhiều, âm nhạc bớt đục và tối hơn album trước nhưng những ảnh hưởng của Groove còn lại rất mờ nhạt. Một số bài hát thậm chí không phải là Death Metal (mà là kiểu Hard Rock). Album không được giới hâm mộ và chuyên môn chấp nhận. Nó chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới sự tan rã của Pungent Stench vào năm 1995. Nhưng sự tan rã này chỉ là tạm thời, nhóm tái lập vào năm 1999 và tiếp tục tung ra những album có chất lượng khá ổn là Master Of Moral – Servants Of Sin -2001 và Ampeauty -2004. Năm 2007, nhóm tan rã lần thứ hai và chỉ tái lập lại lần nữa vào năm 2013. So với những band nhạc Death Metal gạo cội khác, Pungent Stench ít được biết đến hơn rất nhiều. Tuy nhiên phong cách chơi nhạc của nhóm là khá đặc biệt với một số album có chất lượng rất tốt. Đây cũng là một nhóm chinh phục được cảm tình của không ít những fan hâm mộ oldschool Death Metal. Viva La Muerte I'm A Family Man
Suffocation Sau khi vòng quanh châu Âu chúng ta lại quay trở lại nước Mỹ để gặp gỡ một trong những band nhạc huyền thoại khác của Death Metal Mỹ trong thế hệ thứ hai, band nhạc Suffocation. Có một điều khá kỳ lạ là rất nhiều band nhạc Death Metal trong thế hệ thứ hai có tên kết thúc bằng “tion” như Immolation, Suffocation, Incantation, Mortification, Benediction… và đều là những band nhạc khá xuất sắc. Trở lại với lịch sử band nhạc Suffocation thành lập năm 1988 tại New York. Thành phố New York là quê hương của rất nhiều band nhạc Hardcore lừng danh nên âm nhạc của Suffocation chịu ảnh hưởng lớn của dòng nhạc Hardcore. Năm 1991, Suffocation tung ra album đầu tay Effigy Of The Forgotten, một album kinh điển và có rất nhiều ảnh hưởng tới thế giới của Death Metal sau này. Trong album, Suffocation đã thể hiện những kỹ năng chơi nhạc cực cao góp phần tạo tiền cho một nhánh Technical Death Metal riêng biệt về sau. Cũng cần phải nhắc lại rằng trước Suffocation thì đã có không ít nhóm Death Metal chơi rất kỹ thuật như Morbid Angel, Atheist, Death… nhưng những nhóm này hầu hết đều chịu ảnh hưởng của Prog và Jazz (cấu trúc bài hát và phong cách chơi trống). Nhưng để có chỗ cho lối chơi kỹ thuật siêu đẳng, các band nhạc này đều phải chơi chậm lại. Suffocation thì hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của cả Prog lẫn Jazz và họ cũng không chơi chậm lại. Âm nhạc của họ vẫn là một thứ Death Metal đầy bạo lực, tốc độ (tuy vẫn có một số đoạn chậm nhưng hầu hết là với tốc độ rất cao) mà vẫn thể hiện được siêu kỹ thuật với những đoạn riff và solo guitar rất khó và phức tạp ở tốc độ cực cao. Đây cũng được coi là một trong những album Death Metal kinh điển chơi với kỹ năng siêu việt mà vẫn có đầy đủ những tính chất của Death Metal. Infecting The Crypts Sau thành công rất lớn của album đầu tay, Suffocation tiếp tục sự nghiệp với album thứ hai là Breeding The Spawn vào năm 1992. Tuy nhiên, do những khó khăn về tài chính của hãng đĩa Roadrunner, nhóm không thể ghi âm album này tại phòng thu Morrisound như của album Effigy Of The Forgotten. Cũng chính vì những lý do tài chính, nhóm cũng không thể tiếp tục thuê nhà sản xuất Scott Burns được nữa. Việc không thể thu âm và sản xuất tốt ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng âm nhạc của album này. Gần như không có bất kỳ một nhà chuyên môn nào lại không phàn nàn về chất lượng thu âm quá tồi khi nghe album này. Âm nhạc của nhóm gần như không thay đổi so với album trước, nhưng tất nhiên nó không thể mang tính bất ngờ và đột phá như trước kết hợp với chất lượng thu âm quá tệ khiến album này thực sự không được đánh giá cao dù kỹ năng chơi nhạc của band thì vẫn khó tìm ra những lời để chê trách. Sau thất bại của album Breeding The Spawn, rất bất ngờ khi hãng đĩa Roadrunner thay đổi ý kiến và chấp nhận để Suffocation trở lại với phòng ghi âm Morrisound để ghi âm album thứ 3 là Pierced From Within vào năm 1995. Suffocation đã tận dụng rất tốt cơ hội này để tung ra tiếp một album kinh điển nữa trong lịch sử của nhóm. Tất nhiên, đây là một trong những album Death Metal được ghi âm tốt nhất tại thời điểm những năm giữa thập kỷ 90. Lúc này, các thành viên của Suffocation cũng đã trưởng thành hơn nên những bài hát họ sáng tác có chất lượng cao hơn rất nhiều. Âm nhạc của họ lúc này gồm nhiều những đoạn nhỏ ghép lại với tempo liên tục thay đổi và rất phức tạp. Album này tất nhiên cũng là một trong những album kinh điển của nhóm. Pierced From Within Tuy nhiên, sau album này, Suffocation tan rã trong một thời gian khá dài. Mãi tới năm 2003, nhóm mới tái hợp và tung ra album Souls To Deny với chất lượng rất tốt và nhận được vô số lời khen ngợi. Âm nhạc của nhóm dĩ nhiên vẫn là phong cách Death Metal với kỹ năng chơi nhạc tuyệt vời và các bài hát chất lượng cao. Năm 2006, nhóm tiếp tục tung ra album Suffocation tuy nhiên album này đánh nhẹ hơn các album trước đó và chỉ thành công ở mức vừa phải. 2 albums cuối của nhóm tính tới thời điểm hiện tại là Blood Oath -2009 và Pinnacle Of Bedlam đều có chất lượng cao với những bài hát hay và dễ nhớ hơn so với album Suffocation. Surgery of Impalement Abomination Reborn Cataclysmic Purification Suffocation là một trong những band thuần Death Metal chơi kỹ thuật bậc nhất trong lịch sử của Death Metal. Khả năng chơi nhạc điêu luyện với kỹ năng tuyệt vời của Suffocation là niềm cảm hứng rất lớn cho rất nhiều band nhạc Death Metal sau này. Nhóm cũng là một trong những band nhạc có ảnh hưởng rất lớn tới Deathcore sau này. As Grace Descends Catatonia
Immolation Immolation Immolation là một trong những band nhạc “tion” tiêu biểu của New York, Mỹ. Nhóm thành lập năm 88 và ngay sau đó có hợp đồng với hãng đĩa Roadrunner. Năm 1991 nhóm tung ra album đầu tay Dawn Of Posseission và nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Cũng như Suffocation, Immolation chơi theo phong cách Death Metal truyền thống với kỹ năng chơi nhạc rất cao. Âm nhạc của nhóm chịu ảnh hưởng khá lớn của Morbid Angel. So với album đầu tay của Sufforcation thì album này của Immolation không tạo được nhiều ảnh hưởng bằng. Tuy nhiên sau album đầu tay ấn tượng là một thời gian nghỉ khá dài trong sự nghiệp của Immolation. Nguyên nhân là do band đã mất hợp đồng với Roadrunner. Roadrunner lúc này cũng thay đổi chiến lược kinh doanh và sa thải phần lớn những band Death Metal ra khỏi hãng đĩa của họ. Phải đến năm 1996, nhóm mới tung ra được album thứ hai là Here In After qua hãng Metal Blade. Sau 5 năm, âm nhạc của nhóm thay đổi khá nhiều. Âm nhạc của họ trở nên dễ nghe hơn với rất nhiều những cú riff đầy kỹ thuật. Sau khi tung ra album Failures For Gods vào năm 1999 và nhận được nhiều lời khen ngợi. Nhóm tung ra một trong những album Death Metal quan trọng nhất của thập kỷ 2000s, album Close To The World Below. Một album hết sức mạnh mẽ với kỹ năng chơi nhạc tuyệt vời làm chúng ta liên tưởng tới những band nhạc như Morbid Angel, Deicide hay Death ở những giai đoạn đầu trong sự nghiệp. Một album mang nhiều chất Florida Death Metal dù Immolation đến từ New York. Album này cũng được giới chuyên môn và hâm mộ đánh giá rất cao và là một trong những album kinh điển của Death Metal thế giới. Sau này Immolation còn tung ra một loạt những album Death Metal với chất lượng rất tốt như: Unholy Cult -2002, Harnessing Ruin -2005, Shadows In The Light -2007, Majesty And Decay -2010 và Kingdom Of Conspiracy -2013. Immolation là band nhạc Death Metal có kỹ năng chơi nhạc tốt và tung ra nhiều album hay, đều tay. Cùng với thời gian, họ dần trở thành một thế lực trong làng nhạc Death Metal thế giới trong những năm gần đây. Dawn of Possession Father, You're Not A Father Harnessing Ruin World Agony A Glorious Epoch Illumination
Masacre Massacre Massacre là một trong những band Metal thành lập sớm nhất trong lịch sử, nhóm thành lập năm 1984 tại Florida, Mỹ bởi cặp đôi Allen West – guitar và Bill Andrews – trống. Lúc đầu, nhóm chơi theo phong cách Speed Metal. Chỉ đến khi tay bass Kam Lee và tay guitar Rick Rozz gia nhập nhóm thì band mới chuyển dần sang chơi Death Metal. Chắc nhiều fan hâm mộ của Death Metal vẫn còn nhớ, Lee và Rozz chính là hai thành viên gạo cội của band nhạc huyền thoại Death/Mantas. Vào năm 1987, tất cả các thành viên của Massacre – trừ Lee - đều gia nhập Death (để ghi âm 2 albums Leprosy và Spiritual Healing) khiến band nhạc buộc phải giải tán. Năm 1989, Rozz bị sa thải tại Death để nhường chỗ cho James Murphy nên anh này quay trở lại và cùng Lee tái lập Massacre. Cùng với tay trống Joe Cangelosi (của band Thrash Metal – Whiplash) band ghi âm album demo nhưng không được các hãng đĩa quan tâm nên một lần nữa đành phải tan rã. Sau đó diễn ra sự việc tại Death với chuyến lưu diễn châu Âu (đã trình bày trong phần viết về Death) nên cả Andrews và Butler quay trở lại và Massacre được tái lập một lần nữa. Tuy thành lập từ rất sớm, nhưng do rất nhiều lý do (tiêu biểu là sự bất ổn trong nhân sự của band nhạc) nên phải mãi tới năm 1991, Massacre mới tung ra được album đầu tay là From Beyond. Đây là một album khá hay kiểu Death Metal truyền thống với giọng hát rất trầm của Lee, một trong những giọng ca có ảnh hưởng lớn nhất của Death Metal thế giới (trước khi ra đĩa thì Lee đã ghi âm nhiều album demo và tham gia biểu diễn live). Tuy nhiên, sự nghiệp của Massacre dần đi xuống với album Promise vào năm 1996. Lúc này, âm nhạc của họ chịu rất nhiều ảnh hưởng của Pantera và còn rất ít chất Death Metal. Thất bại này khiến band nhạc tan rã ngay sau đó. Phải đến năm 2011 nhóm mới tái lập nhóm và tung ra album Back From Beyond trong năm 2014. Massacre là một band nhạc mà các thành viên của nhóm từng tham gia rất nhiều những band Metal khác nhau và có nhiều ảnh hưởng trong làng Death Metal thế giới. Dawn Of Eternity Promise Back From Beyond
Dismember Dismember Dismember là một trong những band nhạc quan trọng nhất của oldschool Death Metal Thụy Điển (cùng với Entombed). Nhóm thành lập từ năm 1988 tại Stockholm. Năm 1991, nhóm tung ra album đầu tay Like An Ever Flowing Stream với rất nhiều lời khen ngợi của giới hâm mộ trên toàn thế giới. Âm nhạc trong album này là kiểu Old School Brutal Death Metal với những giai điệu khá hay và chịu rất nhiều ảnh hưởng của Thrash Metal. Album này sau đó trở thành kinh điển và có ảnh hưởng rất lớn tới Death Metal của Thụy Điển. Sau album rất thành công này, Dismember trở nên nổi tiếng và band nhạc ngay lập tức tận dụng cơ hội để tham gia biểu diễn live với những tên tuổi khổng lồ khác của Death Metal như Death, Morbid Angel và Cannibal Corpse. Số lượng fan của nhóm tăng lên một cách hết sức nhanh chóng. Tuy nhiên việc nhanh chóng tạo dựng được tên tuổi qua những buổi trình diễn live không thực sự giúp ích được nhiều cho sự nghiệp của Dismember trong những album tiếp theo. Năm 1993, nhóm tung ra album thứ 2 là Indecent & Obscene. Đáng buồn là chất lượng của album này kém khá xa so với album đầu tay Like An Ever Flowing Stream với âm nhạc khá đơn giản. Tuy đây là album thành công nhất về mặt thương mại của nhóm nhưng nó không thực sự được giới chuyên môn đánh giá cao. Khi Dismember tung ra album thứ ba là Massive Killing Capacity vào năm 1995 là lúc bắt đầu diễn ra những sự thay đổi lớn trong lòng Death Metal Thụy Điển nói riêng và Death Metal thế giới nói chung. Âm nhạc của Dismember lúc này nhẹ đi khá nhiều và bắt đầu chịu nhiều ảnh hưởng của Rock(tương tự như Entombed). Ngoài ra, album còn mang rất nhiều tính giai điệu và tính Death Metal thì còn khá ít. Với chất lượng ghi âm khá tốt, album dễ nghe hơn nhiều so với những album trước đó. Dĩ nhiên phong cách này khá được lòng giới chuyên môn nhưng nó lại gây chia rẽ trong nội bộ fan hâm mộ: một số thích còn số khác thì không. Band tiếp tục theo đuổi phong cách này với album Death Metal vào năm 1997 nhưng thất bại thảm hại. Cũng cần nhắc lại là tại thời điểm cuối những năm 90 thì old school Death Metal Thụy Điển đang trên đà đi xuống với hàng loạt band dừng hoạt động hoặc chuyển sang chơi theo phong cách khác. Riêng Dismember vẫn kiên trì theo đuổi Death Metal. Trong những album tiếp theo của họ như Hate Campaign -2000, Where Ironcrosses Grow -2004, The God That Never Was -2006, âm nhạc của họ chịu ảnh hưởng rất lớn của Autopsy (chậm) và Iron Maiden (melodic). Cả 3 albums đều không mấy thành công dẫn tới sự đi xuống của Dismember. Sau khi tung ra album cuối cùng Dismember vào năm 2008, nhóm tan rã vào năm 2011. Dù sau này sự nghiệp đi xuống khá nhanh, Dismember vẫn là một trong những tên tuổi tiên phong của Death Metal Thụy Điển và có rất nhiều ảnh hưởng. Soon to Be Dead Dreaming In Red Casket Garden Misanthropic Time Heals Nothing
Vader Vader Trong những năm đầu thập kỷ 90, Death Metal lan rất rộng ra toàn thế giới như một thứ bệnh truyền nhiễm không thể ngăn nổi. Điển hình cho thành công và sự phổ biến của Death Metal chính là band nhạc Vader. Vader đặc biệt vì họ là một trong những band nhạc Death Metal đầu tiên đến từ Đông Âu gây được sự chú ý tới những hãng đĩa và người hâm mộ trên thế giới. Chắc cũng cần phải nhắc lại lịch sử, những năm đầu tiên của thập kỷ 90 chính là lúc chiến tranh lạnh chấm dứt và các nước Đông Âu bắt đầu hòa nhập rộng rãi hơn với thế giới. Vader là một band nhạc thành lập từ rất sớm -1983 tại Ba Lan, là lúc các band nhạc Death Metal đầu tiên như Possessed, Death được thành lập. Tuy nhiên, ban đầu Vader theo đuổi phong cách Thrash/Speed trước khi chuyển dần thành Death Metal vào cuối thập kỷ 80. Trong thời gian này nhóm tung ra 3 albums demo nhưng chỉ có album thứ 3 là Morbid Reich là giành được nhiều sự chú ý khi bán được hơn 10,000 bản (một trong những album demo bán chạy nhất trong lịch sử). Thành công này khiến nhóm có hợp đồng với hãng đĩa Earache của Anh và tung ra album đầu tay The Ultimate Incantation vào năm 1992. Âm nhạc trong album là sự kết hợp giữa Death (giọng hát, phong cách chơi trống) với Thrash Metal (riff, lead guitar). Album chịu rất nhiều ảnh hưởng của Slayer và Deicide và được nhiều fan hâm mộ chú ý. Nhưng ngay sau đó, Vader mất hợp đồng với hãng đĩa Earache. Đây cũng là lúc mà Death Metal đã mất dần sự chú ý của những hãng đĩa. Một band nhạc nhỏ đến từ Đông Âu, chưa có một album kinh điển nào, lại không có hãng đĩa nào đứng sau lưng, hiển nhiên band gặp những khó khăn chồng chất. Tuy nhiên, khác với nhiều band nhạc khác – buộc phải tan rã, Vader tìm cách chống lại tất cả những khó khăn kể trên. Sau khi tìm kiếm được hợp đồng với một hãng đĩa nhỏ là Impact Records của Đức, Vader liên tiếp tung ra 3 albums De Profundis -95, Future Of The Pass-96 và Black To The Blind-97 đều có chất lượng rất tốt. Trong những năm tháng khó khăn, Vader còn liên tục lưu diễn với vài trăm show trong 3 năm. Những nỗ lực này khiến Vader nhận được nhiều sự chú ý hơn của các hãng đĩa cũng như fan hâm mộ. Cùng với sự chuyển hướng hoặc tan rã của hàng loạt những band Death Metal châu Âu, Vader củng cố vị trí của mình thành một trong những band nhạc hàng đầu của châu lục này bằng tài năng, sự kiên nhẫn chứ không phải là sự tò mò của thế giới phương Tây với một band nhạc đến từ một nước thuộc phe cộng sản. Đến năm 98, sau những nỗ lực không biết mệt mỏi, Vader có được hợp đồng với hãng đĩa Metal Blade, một hãng đĩa Mỹ rất có uy tín trong làng nhạc Metal thế giới. Năm 2000 họ tung ra album kinh điển của Death Metal thế giới là Litany. Âm nhạc trong album này có sự thay đổi rất lớn khi những ảnh hưởng của Thrash gần như không còn. Tất cả các bài hát trong album này đều mang đậm phong cách Death Metal với tiết tấu rất nhanh và lối chơi đầy bạo lực. Các bài hát trong album đều khá ngắn. album nhanh chóng nhận được vô số lời khen ngợi từ fan Death Metal thế giới và trở thành album thành công nhất trong sự nghiệp của Vader tới thời điểm hiện tại. Sau đó Vader tiếp tục củng cố vị trí của mình trong làng nhạc Death Metal thế giới bằng những album có chất lượng khá như Revelations -2002, The Beast -2004, Impressions In Blood-2006, Necropolis -2009, Welcome To The Morbid Reich-2011. Album gần đây nhất của họ là Tibi et Igni -2014 cũng nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ những fan Death Metal thế giới. Hiện tại, Vader đã trở thành một trong những band nhạc Death Metal hàng đầu tại châu Âu nói riêng, và trên toàn thế giới nói chung. Âm nhạc của nhóm, dù chịu ảnh hưởng của Slayer và Morbid Angel vẫn có nhiều điểm khác biệt khá lớn với những nhóm khác. Một trong những điểm riêng biệt của Vader là giọng hát nghiêng nhiều về âm thanh họng khá dễ nghe (có thể nghe rõ lời) và phong cách chơi solo guitar riêng biệt (lúc thì tăng mạnh, lúc thì giảm nhẹ hoặc gần như không có những đoạn solo). Sự thành công của của Vader cũng tạo tiền đề lớn để Death Metal phát triển mạnh mẽ tại Ba Lan và nhiều nước Đông Âu khác. Với khả năng và sự kiên định đi theo con đường đã lựa chọn, Vader đã trở thành một trong những huyền thoại của Death Metal thế giới. Sothis Wings Epitaph Helleluyah (God Is Dead) Never Say My Name Triumph Of Death
Cryptopsy Cryptopsy Cryptopsy là một trong những band nhạc đầu tiên của Canada và là một trong những huyền thoại của Death Metal thế giới. Nhóm thành lập năm 1988 tại Quebec và lấy tên là Necrosis. Band lúc này chơi theo phong cách Thrash/Speed Metal. Sau khi tung ra vài albums demo không mấy thành công. Tay trống Flo Mounier – một trong những tay trống tài năng nhất của thế giới Metal underground gia nhập nhóm. Phong cách chơi trống với tốc độ rất cao và mạnh mẽ của anh này là một trong những nhân tố chính tạo nên âm nhạc của Cryptopsy về sau. Sau khi đổi tên thành Cryptosy, band vẫn rất khó khăn để có thể kiếm được hợp đồng thu âm đầu tiên. Album đầu tiên, lúc này do nhóm tự tung ra mà không cần hãng đĩa, là Blasphemy Made Flesh vào năm 1994. Sau đó, hãng đĩa của Đức Invasion Records mua bản quyền và phát hành lại. Lúc này, âm nhạc của Cryptopsy khá giống với những nhóm Brutal Technical Death của Mỹ (Suffocation) và có chất lượng khá tốt nên nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới hâm mộ và chuyên môn tại Canada. Mutant Christ Mặc dù khá thành công trong album đầu tiên, những khó khăn tiếp tục theo đuổi band nhạc. Hãng đĩa của họ tan rã và Cryptopsy một lần nữa trở thành band nhạc tự do. Đội hình của band nhạc tiếp tục thay đổi rất nhiều. Tuy gặp nhiều khó khăn, nhóm vẫn kiên định theo đuổi sự nghiệp ca hát. Đến năm 1996, nhóm tung ra album kinh điển None So Vile qua hãng đĩa Wrong Again của Thụy Điển. Trong album này, nhóm đã đẩy âm nhạc Extreme và lối chơi kỹ thuật lên một tầm cao mới. Với một phong cách chơi nhạc đầy bạo lực với những cú riff guitar đầy kỹ thuật, những đoạn solo guitar đôi lúc mang phong cách neoclassical đã biến album trở thành một trong những album kinh điển của Technical Death Metal thế giới. Crown of Horns Graves Of The Fathers Sau album kinh điển None So Vile, Cryptopsy tiếp tục rơi vào bất ổn với những thay đổi lớn về nhân sự, đặc biệt là việc thay đổ giọng ca chính Lord Worm bằng Mike DiSalvo. Giọng của DiSalvo thì không còn là Death Meal nữa mà mang nhiều âm hưởng của Hardcore. Với DiSalvo, Cryptosy tung ra 2 albums: Whisper Supremacy -98, một album tích hợp thêm phong cách jazz/fusion và And The You’ll Beg -2000 với nhiều âm hưởng của Progressive. Cả 2 albums thành công ở mức độ vừa phải. Liền ngay sau đó, Cryptopsy rơi vào bất ổn một lần nữa khi tay guitar, người sáng tác chính là Levasseur rời nhóm, rất may là giọng ca chính gạo cội Lord Worm quay trở lại và nhóm tiếp tục ghi âm album One Was Not vào năm 2005, album này nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới hâm mộ trên toàn thế giới. Sau này, Cryptopsy còn ghi âm một album rất thất vọng với phong cách Metalcore là The Unspoken King vào năm 2008 rồi quay lại với Technical Death trong album Cryptopsy vào năm 2012. Cold Hate, Warm Blood The Pestilence That Walketh In Darkness Dù sự nghiệp trải qua rất nhiều thăng trầm, Cryptopsy vẫn là band nhạc hết sức được yêu mến của thế giới underground. Band có lối chơi rất kỹ thuật và một số albums hay có thể vươn tới hàng kinh điển như None So Vile. Worship Your Demons Two-Pound Torch
Kataklysm Kataklysm Kataklysm là một trong những band nhạc Death Metal đầu tiên của Canada và cũng là một trong những band nhạc Death được yêu mến nhất của đất nước này. Nhóm thành lập năm 1991 tại Quebec. Trong những năm đầu tiên của sự nghiệp, Kataklysm chơi một thứ Death Metal hỗn loạn, rất nhanh và mạnh với 2 albums Sorcery -1995 và Temple Of Knowledge-1996. Nhóm tự gọi phong cách chơi nhạc của mình là northern hyperblast do phong cách chơi blast beast vô cùng nhanh và mạnh của tay trống Oli Beaudoin. Đến album thứ 3 vào năm 1998, âm nhạc của nhóm có nhiều sự thay đổi khi có mặt một loạt các thành viên mới. Album Victims Of This Fallen World chịu rất nhiều ảnh hưởng của Hardcore, đặc biệt là giọng hát của tay vocalist Maurizio Iacono. Tuy nhiên, rất may là sự thay đổi này chỉ là tạm thời. Nhóm tiếp tục quay trở lại với Death Metal trong album The Prophercy vào năm 2000 với khá nhiều ảnh hưởng của Thrash Metal. Kể từ album Epic: The Poetry Of War -2001, âm nhạc của Kataklysm tiếp tục có sự thay đổi đáng kể khi mang nhiều tính giai điệu hơn (melodic). Tuy mang tính giai điệu nhưng họ hoàn toàn không phải là band nhạc Melodic Death và vẫn là Death Metal. Phong cách chơi mới mẻ này nhận được khá nhiều sự khen ngợi của giới chuyên môn. Trong những năm sau đó, Kataklysm tung ra một loạt những album đầy ấn tượng như : Shadow & Dust -2002, Serenity In Fire -2004 hay In The Arms Of Devastation. Trong những năm gần đây, Kataklysm tiếp tục tung ra những album có chất lượng khá như Prevail-2008, Heaven’s Venom-2010, Waiting For The End To Come -2013. Là một trong những band nhạc gạo cội của Death Metal Canada, Kataklysm luôn theo đuổi phong cách Death Metal với những album chất lượng cao. Đội hình band nhạc thay đổi rất ít. Nhóm cũng thường tích hợp thêm những đoạn nhạc phim và những ảnh hưởng của Heavy Metal cổ (melodic) vào âm nhạc của mình trong những album sau này. Phong cách chơi trống đầy tốc độ theo kiểu blast beat cũng là một trong những đặc trưng của nhóm. Dù thành lập khá lâu Kataklysm chưa có dấu hiệu xuống sức. Nhóm vẫn là một band nhạc Death Metal hàng đầu của Canada và thế giới. Shadows And Dust The Ambassador of Pain Crippled And Broken Taking The World By Storm Push The Venom Elevate
Nile Nile Như chúng ta đã nhắc ở trên, ở nửa sau thập kỷ 90, Death Metal bắt đầu mất dần sự quan tâm của fan hâm mộ trên thế giới. Các band nhạc gạo cội lúc này dần đi vào ngõ cụt khi không còn tung ra những album để đời nữa. Rất nhiều band nhạc Death Metal lúc này cũng tan rã hoặc chuyển sang phong cách chơi không còn là Death Metal nữa. Chính vì lý do kể trên, việc thành lập một band Death Metal tại những thời điểm này không thực sự là một quyết định khôn ngoan. Tuy nhiên, Nile có lẽ là một trong những ngoại lệ hiếm hoi. Band nhạc thành lập năm 1993 tại South Caroline, Mỹ này là một trong những diện tiêu biểu cho thế hệ thứ 3 của Death Metal thế giới. Âm nhạc của nhóm là sự kết hợp giữa tốc độ cực cao, bạo lực với những ảnh hưởng của âm nhạc cổ Trung Đông trên một nền tảng kỹ thuật chơi nhạc siêu đẳng. Người lãnh đạo của Nile chính là tay guitar/vocal Karl Sanders, anh này cũng là một trong những tay guitar có nhiều ảnh hưởng nhất trong thế giới Death Metal hiện tại. Sau khi thành lập, Nile tung ra 2 album EP là Festival Of Atonement -95 và Ramses Bringer Of War -97. (2 albums EP này sau đó được tổng hợp lại thành album In The Beginning vào năm 2000). 2 Album này nhận được sự chú ý của hãng đĩa Relapse và sự nghiệp của Nile bắt đầu vào năm 1998, khi nhóm tung ra album Amongst The Catacombs Of Nephren-Ka. Đây là một album khá ngắn (33 phút) với những bài hát có tiết tấu rất nhanh và mạnh với một số âm hưởng của nhạc dân ca Trung Đông. Album này rất khác so với những album sau này của Nile, tuy nhiên nó vẫn khá hay và rất đáng nghe với những đoạn solo rất đặc trưng. Serpent Headed Mask Ramses Bringer of War Sau thành công của Amongst The Catacombs, âm nhạc của Nile bắt đầu có sự thay đổi lớn trong album thứ hai Black Seeds Of Vengeance vào năm 2000. Những bài hát trong album này đã dài hơn và có tiết tấu chậm hơn so với album đầu tay.Các bài hát có cấu trúc phức tạp hơn so với album trước rất nhiều. Đây cũng là album đầu tiên của Nile mà trong booklet (quyển sách bìa đĩa) tay guitar viết những dòng diễn tả nội dung của bài hát. Lúc này, đội hình của Nile đã tăng từ 3 lên 5 thành viên, đáng chú ý nhất là sự xuất hiện của tay guitar rất tài năng Dallas Toler-Wade (người luôn có mặt trong tất cả những album sau này của Nile). Black Seeds of Vengeance Nile vươn lên đỉnh cao trong sự nghiệp của mình với album kinh điển In Their Darkened Shrines vào năm 2002. Album này kế tiếp sự thay đổi trong album trước đó là Black Seeds, Nile tiếp tục khai thác những câu chuyện truyền thuyết của Ai Cập và Trung đông cổ đại. Album rất dài với các bài hát có cấu trúc phức tạp (dài gần 60 phút với 12 bài hát). Đặc biệt có những bản trường ca Unas Slayer Of The God dài tới 12 phút và In Their Darkened Shrine gồm 4 phần dài tới gần 20 phút. Với một dòng nhạc đánh mạnh như Death Metal, việc các bài hát quá dài sẽ khiến người nghe ít nhiều mệt mỏi. Tuy nhiên những bài hát dài trong album này lại chính là những bài hát được yêu thích nhất vì cấu trúc hợp lý và kỹ năng chơi nhạc cụ tuyệt vời. Album nhanh chóng thành công và đưa Nile trở thành tên tuổi đáng chú ý nhất của Death Metal trong những năm đầu thập kỷ 2000s. Sarcophagus Unas Slayer of The Gods (còn tiếp)
Nile Nile (tiếp theo và hết) Sau một album kinh điển, việc duy trì phong độ trong những album tiếp theo là vô cùng khó khăn đối với bất kỳ band nhạc nào. Tuy nhiên, rất may mắn, đây không phải là trường hợp của Nile. 3 năm sau khi tung ra In Their Darkened, Nile tung ra album kinh điển thứ hai là Annihilation Of The Wicked vào năm 2005. Âm nhạc trong album vẫn là thứ âm thanh quen thuộc của Nile: đó là sự kết hợp của Brutal Death và Technical Death Metal. Album khá dài (gần 52 phút) với những bài hát có cấu trúc phức tạp. Với kỹ năng chơi nhạc tuyệt hảo, album tiếp tục nhận được vô số lời khen ngợi và cũng nhanh chóng trở thành một album kinh điển của Death Metal thế giới. Sacrifice Unto Sebek Năm 2006, sau khi kết thúc hợp đồng với hãng đĩa Relapse, Nile ký hợp đồng mới với hãng đĩa Nuclear Blast và tung ra album thứ 5 là Ithyphallic vào năm 2007. Âm nhạc trong album này đã bớt tính Epic (trường ca) với những bài hát ngắn và cấu trúc bớt phức tạp đi nhiều. Chính vì vậy, album này mang nhiều tính oldschool Death hơn so với những album trước. Giọng hát của Toler-Wade trong album này khá hay và phong cách chơi trống của Kollias rất tốt và đầy kỹ thuật. Album tiếp tục nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn cũng như người hâm mộ. Sau 3 albums chất lượng tốt, Nile gặt hái những thành quả đầu tiên trên thị trường, đây là album đầu tiên của họ lọt vào trong Top 200 của Mỹ với vị trí khiêm tốn 162. The Essential Salts Album thứ 6 trong sự nghiệp của Nile là Those Whom The Gods Detest -2009. Âm nhạc trong album này lại trở về dạng epic như trong các albums In Their Darkened hay Annihilation of the Wicked. Các bài hát trong albums đều hay và rất khác biệt. Lúc này, 2 tay guitars Wade và Sanders trở nên cực kỳ ăn ý dù là những đoạn riff tốc độ cực cao, những đoạn solos đầy kỹ thuật, hay là những đoạn riff ở tốc độ trung bình. Với những bài hát đầy cảm xúc với cấu trúc phức tạp và sử dụng rất nhiều những nhạc cụ lạ để tạo âm hưởng ambient cho phù hợp với nội dung, album tiếp tục là một điểm sáng trong sự nghiệp của Nile. Về mặt thương mại, album vươn lên hạng 160 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và tiếp tục nhận được vô số lời khen ngợi của giới hâm mộ Death Metal trên toàn thế giới. Permitting the Noble Dead to Descend to the Underworld Album cuối cùng của Nile cho tới thời điểm hiện tại là At The Gate Of Sethu năm 2012 tiếp tục chứng kiến sự thay đổi trong âm nhạc Nile. Thay đổi lớn nhất là việc họ bắt đầu sử dụng clean vocal và những đoạn gào thét. Tuy vậy, các bài hát vẫn có cấu trúc dạng epic với kỹ năng chơi nhạc hết sức kỹ thuật. Album này có phần hơi khó nghe hơn so với những album trước đó nhưng vẫn là một trong những album có chất lượng tốt của nhóm. Album tiếp tục có bước tiến về mặt thương mại khi vươn lên hạng 131 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Enduring The Eternal Molestation Of Flame Dù ra đời muộn hơn rất nhiều band nhạc khác, với tài năng của mình, Sanders đã biến Nile thành một band nhạc hàng đầu của Death Metal thế giới ở thời điểm hiện tại. Các albums của họ luôn có chất lượng rất cao và đều được các fan của Death Metal háo hức đón chờ và tiếp nhận. Nile cũng dần củng cố vị trí trở thành một trong những band nhạc quan trọng nhất trong lịch sử của Death Metal.