Heavy Metal - Nửa thế kỷ nhìn lại.

Discussion in 'Âm nhạc' started by no1knows, 20/5/13.

  1. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Necrophagist

    Necrophagist​


    Như chúng ta đã biết, phần lớn các band nhạc Technical Death của thế hệ thứ nhất và thứ hai đều xuất phát từ Bắc Mỹ (Mỹ và Canada) còn các đối tác phía châu Âu ít có những band nhạc thiên về kỹ thuật. Phải mãi đến thế hệ thứ ba, thực tế này mới thay đổi với sự có mặt của một band nhạc Đức, đó chính là Necrophagist. Nhóm thành lập năm 1992 tại Karlsruhe và chơi một thứ âm nhạc là sự kết hợp của grindcore, death với khả năng chơi nhạc siêu hạng của tay guitar Mohammed Suicmez. Sau khi thành lập, nhóm ghi âm album demo đầu tiên là Requiems Of Festered Gore nhưng không nhận được nhiều sự chú ý. Phải đến năm 1995, khi nhóm ghi âm album demo thứ hai là Necrophagist thì mới nhận được sự chú ý từ thế giới underground Death Metal của châu Âu. Sau một loạt những thay đổi trong đội hình band nhạc, đến thời điểm ghi âm album đầu tiên, chỉ còn lại duy nhất Suicmez. Một trong những lý do hết sức quan trọng khiến các thành viên còn lại buộc phải rời band chính là do độ phức tạp của các bài hát, đòi hỏi kỹ năng chơi nhạc rất cao của band. Do không thể chơi trống, Suicmez đành sử dụng công cụ trợ giúp trống điện tử để ghi âm album đầu tiên (các nhạc cụ còn lại của band nhạc thì anh này tự chơi). Năm 1999, Necrophagist tự mình tung ra album đầu tay là Onset Of Putrefaction mà không cần hãng đĩa. Album chịu khá nhiều ảnh hưởng của nhạc cổ điển với một lối chơi hết sức kỹ thuật. Có lẽ chỉ có phần trống và giọng hát gầm gừ quá trầm của Suicmez là những phần duy nhất không có tính kỹ thuật của band nhạc. Tuy kỹ thuật, album đánh hết sức bạo lực và làm hồi sinh cả nhánh nhạc nhỏ Brutal Death Metal tưởng chừng như sắp đến hồi tuyệt chủng. Album nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ fan hâm mộ trên thế giới.
    Sau thành công của album đầu tay, Necrophagist có cơ hội lưu diễn cùng một loạt những tên tuổi lớn của Death Metal thế giới như: Cannibal Corpse, Napalm Death hay Sinister. Sự bất ổn của band nhạc cũng kết thúc khi một loạt những nghệ sỹ mới bắt đầu tham gia nhóm. Vào thời điểm tung ra album thứ hai là Epitaph vào năm 2004, Necrophagist đã có đầy đủ 4 thành viên. Album này tiếp tục là một trong những album rất đáng nghe của Death Metal thế giới trong thập kỷ 2000s với khả năng chơi nhạc cụ với kỹ năng siêu hạng của Suicmez và các thành viên band nhạc. Đây thậm chí còn được coi một siêu album của Technical Death Metal của mọi thời đại. Tuy nhiên, sau album này, dù có rất nhiều tin đồn về một siêu album mới của nhóm (album hứa hẹn còn hay hơn cả những album trước đó) nhưng thời gian tung ra album này liên tục lùi lại. Đến tận thời điểm hiện tại, vẫn chưa có một thông tin mới nào về album tiếp theo của Necrophagist. Tuy chỉ có 2 albums, Necrophagist vẫn là một cái tên đáng chú ý của làng nhạc Death Metal thế giới.

    Extreme Unction

    Only Ash Remains

    Epitaph
     
  2. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Behemoth

    Behemoth​


    Trong phần viết về Black Metal chúng ta đã chứng kiến rất nhiều band Black Metal gạo cội của trào lưu thứ hai có xuất phát điểm là Death Metal rồi chuyển dần sang chơi Black Metal (tất nhiên họ mang theo cả lối chơi tốc độ và bạo lực của Death Metal vào Black). Behemoth là một nhóm mang phong cách ngược lại so với những band Black gạo cội như Darkthrone hay Immortal, họ xuất thân là một band Black nhưng rồi chuyển dần sang Death Metal. Behemoth thành lập năm 1991 tại Gdansk, Ba Lan bởi tay guitar/vocal Nergal. Năm 1995, nhóm tung ra album đầu tay Sventevith. Album này mang phong cách Black hoàn toàn với giọng gào rít, ghi âm thô (raw) và không nhận được nhiều sự chú ý vì không có gì đặc biệt. Phong cách Black Metal này tiếp tục với albums Grom-1996. Đến album thứ ba là Pandemonic Incantations vào năm 1998, nhóm bắt đầu bắt đầu chuyển dần sang chơi theo phong cách lai giữa Black/Death Metal (Blackened Death Metal) nhưng Black Metal vẫn mang vai trò chủ đạo. Phải đến album thứ 4 là Satanica thì nhóm mới chuyển hẳn sang Death Metal nhận được rất nhiều lời khen ngợi của fan hâm mộ Extreme Metal trên toàn thế giới. Âm nhạc của nhóm lúc này chơi gần với phong cách của Morbid Angel, Deicide và Nile hơn là Black Metal. Band nhạc cũng trưởng thành hơn với những bài hát có giai điệu rất tốt. Album này vì thế cũng góp phần không nhỏ vào việc đưa tên tuổi của Behemoth trở nên phổ biến trên thế giới của Extreme Metal.
    Decade Ov Therion


    Phong cách Blackened Death Metal này của Behemoth tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những album tiếp theo là Thelema. 6 và Zos Kia Cultus -2002. Cả 2 albums đều nhânj được rất nhiều lời khen ngợi của fan Extreme Metal trên toàn thế giới với kỹ năng chơi nhạc ngày càng hoàn thiện hơn (kỹ thuật hơn).
    Behemoth vươn lên đỉnh cao trong sự nghiệp của mình với một chùm 2 albums kinh điển: Demigod -2004 và The Apostasy -2007. Trong cả 2 albums này lối chơi của Behemoth đều trở nên hết sức kỹ thuật, tuy nhiên, vẫn không kém phần bạo lực. (The Apostasy chơi chậm hơn một chút so với Demigod). Cả 2 albums đều rất thành công và được fan hâm mộ Death Metal trên thế giới chào đón nhiệt liệt đưa tên tuổi của Behemoth trở nên phổ biến rộng rãi hơn nữa. Tuy nhiên, đến album thứ 9 là Evangelion -2009 thì Behemoth có dấu hiệu xuống sức. Album không còn khác lạ và đặc biệt như Demigod hay The Apostasy nữa.
    Conquer All

    At The Left Hand Ov God


    Sau album khá thất vọng, phải 5 năm sau Behemoth mới trở lại bầu trời âm nhạc thế giới với album Satanist. Lúc này âm nhạc trong album thay đổi rất nhiều với việc sử dụng nhiều keyboards cũng như dàn hợp xướng phức tạp trên nền Death Metal. Việc sử dụng những âm thanh kiểu symphonic và cổ điển khiến album này hơi khó nghe lúc đầu và cần nhiều thời gian để thưởng thức thì mới có thể nhận biết được hết những cái hay của album. Album tiếp tục nhận được nhiều lời khen ngợi và là một trong những albums rất đáng nghe trong năm 2014.
    Với một sự nghiệp khá dài, Behemoth trở thành một trong những band nhạc quan trọng nhất của Extreme Metal Ba Lan. Họ cũng đóng góp công sức rất lớn để Death Metal ngày càng trở nên phổ biến và phát triển tại châu Âu cũng như trên thế giới. Một band nhạc mà những fan của cả Black và Death không nên bỏ qua.
    Ov Fire And The Void

    Blow Your Trumpets Gabriel
     
  3. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Decapitated

    Decapitated​


    Trong những năm đầu thập niên 2000s lịch sử của Death Metal có sự biến đổi rất lớn. Trước đây, dòng nhạc này hết sức phát triển tại Mỹ với những tên tuổi khổng lồ. Nhưng đến đầu thập niên 2000s, Death Metal Mỹ đi xuống nhanh chóng với rất ít những tên tuổi nổi tiếng. Ngược lại, tại châu Âu, lại xuất hiện một loạt những band nhạc trẻ mới thành lập với tài năng vượt trội. Sự phát triển có phần hơi lệch này đã giúp cho cán cân quyền lực của Death Metal, lần đầu tiên trong lịch sử, nghiêng dần sang phía châu Âu. Tại ngay bản thân châu Âu, sự dịch chuyển cũng dần trở lên rõ ràng hơn khi những band nhạc Death Metal mới lại xuất phát từ những quốc gia như Đức hoặc Ba Lan (chứ không phải những quốc gia có truyền thống lâu đời như Anh, Thụy Điển hay Áo). Và Decapitated là một cái tên tiêu biểu cho sự phổ biến và lớn mạnh của Death Metal tại châu Âu.
    Decapitated thành lập năm 1996 tại Krosno, Ba Lan (một lần nữa là Ba Lan, một quốc gia ít tên tuổi trong làng nhạc Extreme thế giới) bởi tay guitar Vogg Kieltyka và em ruột của anh này là Vitek Kieltyca chơi trống. Tại thời điểm mới thành lập Vogg chỉ mới 15 tuổi còn Vitek mới 12. Dù còn rất trẻ, nhóm nhạc lại lựa chọn một phong cách chơi rất khó là Technical Death Metal. Năm 2000, sau khi ký hợp đồng với hãng đĩa Earache, Decapitated tung ra album đầu tay Winds Of Creation. Thực ra đây chỉ là album ghi âm lại của album demo The Eye Of Horus vào năm 1998 (cả 7 bài hát của album demo đều có mặt trong album này kết hợp với 2 sáng tác mới). Âm nhạc trong albums này là sự kết hợp theo phong cách Brutal Death của Cannibal Corpse với lối chơi kỹ thuật của Death. Cũng cần phải nhắc lại là các thành viên của band nhạc lúc này còn rất trẻ (16 đến 19 tuổi) nên việc họ có khả năng chơi một thứ âm nhạc đầy kỹ thuật như vậy thực sự đem lại sự phấn khích cho toàn bộ fan hâm mộ Death Metal trên thế giới. Một tương lai tươi sáng đang thực sự mở ra với Decapitated.
    Sau thành công đầy hứa hẹn của album đầu tay, Decapitated tiếp tục sự nghiệp sáng chói của mình với 2 albums Nihility -2002 và The Negation -2004. Cả 2 albums đều rất thành công và gây được nhiều tiếng vang trên toàn thế giới. Lúc này, họ dần tiến lên để chiếm vị trí band nhạc hàng đầu trong thế giới của Death Metal với lối chơi hết sức phóng khoáng và đầy tính kỹ thuật. Năm 2006, họ tung ra album đỉnh cao trong sự nghiệp là Organic Hallucinosis. Album này có sự thay đổi trong giọng hát chính khi vocalist Covan nhập band. Giọng của anh này chịu nhiều ảnh hưởng của Robb Flynn (Machine Head) và John Tardy (Obituary). Với giọng hát đặc biệt của Covan cùng với màn trình diễn chói sáng của tay trống Vitek gúp album tiến lên tới hàng kinh điển của Death Metal thế giới. Tiếc thay, đây lại là album cuối cùng của Vitek với Decapitated. Năm 2007, trên đường đi lưu diễn tại Belarus, chiếc xe chở band nhạc bị tai nạn. Covan và Vitek bị thương rất nặng, chỉ có một mình Covan vượt qua thử thách khắc nghiệt này của cuộc sống còn Vitek không qua khỏi. Anh mất trong một bệnh viện của Nga khi mới 23 tuổi và để lại rất nhiều sự tiếc nuối cho fan hâm mộ trên toàn thế giới. Sau cái chết của Vitek, Decapitated cũng ngừng hoạt động trong một thời gian rất dài. Mãi đến năm 2011, Vogg mới tái lập nhóm và tung ra album Carnival Is Forever. Sự đi xuống của Decapitated là điều ta có thể hiểu được khi nghe album này. Dự kiến nhóm sẽ ra album Blood Mantra trong năm 2014.
    Dù sự nghiệp gặp những trắc trở rất lớn, Decapitated là một cái tên nhận được rất nhiều sự tôn trọng trong thế giới của Death Metal. Đây cũng là một trong những tên tuổi quan trọng nhất của Death Metal trong thập kỷ 2000s (trào lưu thứ 3)
    Winds Of Creation

    Spheres of Madness

    The Negation

    Day 69

    Homo Sum

    Pest
     
  4. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Bloodbath

    Bloodbath​


    Bloodbath là một trong những siêu nhóm đầu tiên của Death Metal thế giới và nhóm cũng nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn cũng như fan hâm mộ. Band thành lập năm 1998 và gồm Mikael Akerfeld (Opeth) – vocals, Dan Swano (Edge Of Sanity) – drum, Blakkheim Nystrom (Katatonia), Jonas Renkse(Katatonia) bass. Với một đội hình toàn anh tài và đầy hứa hẹn, Bloodbath tung ra album đầu tay Ressurection Through Carnage vào năm 2002. Đây là một album mang nhiều tính Oldschool Death Metal với một chút âm hưởng hiện đại với những đoạn riff đều đều và thu âm khá tốt.
    Do các thành viên đều đang thuộc biên chế của các band nhạc khác, việc thay đổi trong đội hình của Bloodbath là điều không tránh khỏi. Sau album đầu tay, Akerfeldt rời nhóm để tập trung vào band nhạc chính Opeth. Peter Tagtgren của nhóm Hypocrisy được lựa chọn để thay thế Akerfeldt. Lúc này thì Swano cũng chuyển từ chơi trống sang chơi guitar và tay trống Martin Axenrot (Witchery) thay thế vị trí của Swano. Với đội hình đầy đủ hơn, nhóm chuyển thành một band nhạc thực sự chứ không còn tồn tại kiểu side project như trước. Album thứ hai của nhóm là Nightmares Made Flesh được tung ra vào năm 2004. Với một giọng ca mới mang nhiều tính giận dữ và bạo lực hơn, âm nhạc của nhóm vì thế cũng nghiêng nhiều hơn về hướng Oldschool Death Metal của Thụy Điển. Tuy không thể nói đây là một album có tính đột phá và mới mẻ, nhưng những bài hát trong album đều khá hay và thể hiện khả năng sáng tác rất tốt của các thành viên trong nhóm. Album vì thế rất thành công và đưa tên tuổi Bloodbath thành một cái tên quan trọng của Death Metal trong thập kỷ 2000s
    Ngay sau thành công của Nightmare Made Flesh, giọng ca chính Tagtgren rời nhóm và Akerfeldt quay trở lại đảm nhận vai trò hát chính. Swano cũng rời nhóm và thay thế cho anh này là tay guitar Per Eriksson của nhóm Katatonia. Với đội hình mới này, nhóm bắt đầu tiến hành ghi âm album thứ 3 là The Fathomless Mastery vào năm 2008. Đây tiếp tục là một album có chất lượng cao của nhóm. Album tiếp tục thành công trên phạm vi toàn cầu nhưng một lần nữa Akerfeldt lại rời nhóm ngay sau đó. Việc tìm kiếm tay vocalist mới lúc này thì khó khăn hơn rất nhiều. Thực ra, nhóm đã tìm được người thay thế nhưng không thể tiết lộ tên tuổi vì giọng ca này đang vướng hợp đồng với những hãng đĩa khác. Trong nhiều cuộc phỏng vấn, Blakkheim chỉ tiết lộ rằng giọng ca mới của nhóm là một trong những huyền thoại của Metal thế giới. Chỉ đến thời gian rất gần đây, nhóm mới tiết lộ tên của giọng ca huyền thoại này, đó chính là Nick Holmes của nhóm Paradise Lost. Dự kiến Bloodbath sẽ tung ra album thứ 4 là Grand Morbid Funeral vào cuối năm 2014. Đây tiếp tục là một album hết sức được trông đợi của Bloodbath, nhất là với những fan của Oldschool Death Metal kiểu Thụy Điển.

    Cry My Name

    Eaten

    Hades Rising

    Unite In Pain
     
  5. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Cattle Decapitation

    Cattle Decapitation​


    Trong thế hệ thứ 3 ta thấy Death Metal chuyển dần sang châu Âu với một loạt những tài năng mới nổi đến từ Ba Lan, Đức, Thụy Điển. Nước Mỹ, quê hương của Death Metal chỉ trình làng một tên tuổi đáng kể là Nile. Tuy nhiên sự chuyển dịch này chỉ có ý nghĩa tạm thời trước khi xuất hiện thế hệ Death Metal thứ 4 vào giữa những năm 2000s. Mở đầu cho trào lưu này là một band nhạc đến từ nước Mỹ, Cattle Decapitation. Cattle Decapitation thành lập năm 1996 và khởi đầu chơi theo phong cách Grindcore (một thể loại nhạc kết hợp của Thrash, Industrial, Noise Music với Hardcore). Về mặt âm nhạc, nhóm chưa quá đặc biệt như sau này, nhưng về mặt lời bài hát thì nhóm hết sức đặc biệt. Các thành viên của band nhạc đều là những người ăn chay nên các bài hát của họ đều giành thiện cảm cho các loài động vật, phản đối cách ứng xử của loài người với động vật (giết thịt). Nhiều bài hát của nhóm đưa giả thiết nếu con người cũng bị đem làm vật thí nghiệm hoặc giết thịt như loài vật thì sẽ như thế nào? Rõ ràng, thông điệp trong các bài hát của họ cũng mạnh mẽ không kém âm nhạc của nhóm. Sau khi tung ra album đầu tay chỉ có tính Grindcore là To Serve Man không nhận được nhiều sự chú ý vào năm 2002, âm nhạc của nhóm có sự thay đổi lớn vào năm 2004 khi tung ra album thứ 2 là Humanure. Trong album này, nhóm tích hợp thêm rất nhiều ảnh hưởng của Death Metal. Tất nhiên, chất grindcore vẫn còn nhưng nó không còn đóng vai trò chính trong âm nhạc của Cattle Decapitation nữa. Album theo phong cách Deathgrind này tuy chưa thực sự xuất sắc,nó vẫn là một album tốt và nhận được nhiều lời khen ngợi từ cả giới chuyên môn lẫn fan hâm mộ.

    Chummified


    Sau những thành công ban đầu với Humanure, Cattle Decapitation tiếp tục phát triển âm nhạc của mình theo phong cách Deathgrind trong album tiếp theo là Karma, Bloody, Karma vào năm 2006. Lúc này các thành viên band nhạc đã trưởng thành hơn nên họ có sự phát triển khá lớn trong kỹ năng chơi nhạc cũng như viết bài hát. Âm nhạc trong album trở nên phức tạp hơn khá nhiều với các bài hát bắt đầu chịu ảnh hưởng của Progresssive và Technical Death Metal. Lần này thì chính những fan hâm mộ và những nhà chuyên môn khó tính nhất cũng phải do dự khi lên tiếng chỉ trích âm nhạc của nhóm. Album rất thành công và tạo tiền đề lớn cho sự phát triển của Cattle Decapitation sau này.
    Tại thời điểm năm 2009, khi band nhạc tung ra album thứ 4 là The Harvest Floor, những người không thích phong cách âm nhạc của nhóm này buộc phải im lặng. Đơn giản là họ đã tung ra một album với chất lượng quá tốt. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp giữa sự phức tạp của Progressive với sự đơn giản của Grindcore, sự mạnh mẽ bạo lực của Death, giai điệu của Black Metal và những cú riff chậm, đều đều của Hardcore. Sự mới lạ trong âm nhạc của album giúp nhóm vươn lên một tầm cao mới. Một thứ âm nhạc mới, lạ, đầy bạo lực và cũng đầy sáng tạo đưa album trở thành một trong những album kinh điển của Death Metal trong những năm gần đây.

    Regret & The Grave



    Sự thăng tiến đến chóng mặt của Cattle Decapitation chưa dừng lại ở đây. Album tiếp theo của nhóm, Monolith Of Inhumanity -2012 một lần nữa gây shock cho fan hâm mộ của Death Metal trên toàn thế giới. Nhưng fan khó tính nhất của Death Metal bây giờ cũng phải thừa nhận rằng đã lâu lắm rồi họ không còn được nghe những album Death Metal đầy tính sáng tạo và đặc biệt như vậy. Âm nhạc trong album tiếp tục là sự kết hợp giữa Deathgrind với Progressive nhưng với những bài hát dài hơn, hay hơn, kết hợp thêm nhiều yếu tố giai điệu và có những đoạn khá nhẹ nhàng. Giọng hát của vocalist Travis Ryan cũng có nhiều sự biến đổi: nó là sự tổng hợp từ phong cách Death sang Black với nhiều đoạn sử dụng clean vocal. Tất nhiên, đây là một điểm sáng trong album và cũng không nên quên rằng nhóm chơi hết sức kỹ thuật. Dù ra đời muộn, album nhanh chóng trở thành album kinh điển của Death Metal thế giới.

    Your Disposal

    Kingdom of Tyrants


    Cattle Decapitation là một band nhạc đặc biệt và sáng tạo bậc nhất trong thế giới Death Metal thế giới tại thời điểm hiện tại. Họ là một trong những band nhạc đầu tiên khởi đầu cho một trào lưu mới trong lịch sử của Death Metal. Chúng ta sẽ tiếp tục chờ đợi sự phát triển của band nhạc trong album mới dự kiến sẽ phát hành vào năm 2015.
     
  6. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Daath

    Daath​


    Với những band nhạc trong trào lưu thứ 4 của Death Metal, âm nhạc của họ thường có nhiều sự biến đổi. Trong một thế giới đầy rẫy những band nhạc Death Metal với kỹ năng viết nhạc khá kém cỏi (rất khó phân biệt những bài hát) trong những năm cuối thập kỷ 2000s, Daath là một điểm sáng. Âm nhạc của họ là sự kết hợp của Death Metal với Thrash, Industrial, Grunge và cả Jazz. Daath chính thức năm 2003 nhưng thực ra các thành viên band nhạc đã chơi với nhau từ rất lâu trước đó trong band nhạc Dirt Nap tại Atlanta, Mỹ. Năm 2004 nhóm tự tung ra album đầu tay là Futility. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp kỳ quặc của Avant Garde Metal với Industrial trên nền Death Metal. Album khá thành công khi bán được tới 15 000 bản và giúp tên tuổi của Daath nhận được sự chú ý của hãng đĩa Roadrunner.
    Năm 2007, Daath tung ra album đầu tiên với hãng Roadrunner là The Hinderers. Đây tiếp tục là một album rất lạ của Death Metal thế giới khi âm nhạc của nhóm chịu rất nhiều ảnh hưởng của Industrial và Electronica. Do tính chất rất lạ của album này, nó vừa nhận được nhiều lời khen ngợi vừa nhận được nhiều sự chỉ trích. Dù âm nhạc gây nhiều tranh cãi, Daath vẫn trở thành một trong những tên tuổi đang lên của Metal thế giới vào năm 2007. Trong năm này, nhóm kiếm được suất diễn tại đại nhạc hội Ozzfest. Tuy nhiên, trên đà phát triển rất mạnh mẽ, Daath bất ngờ rơi vào bất ổn khi mất đi 2 thành viên là tay keyboards Mike Kameron và đặc biệt là giọng ca chính Sean Farber. Sau khi tìm được giọng ca chính Sean Z, nhóm quyết định ghi âm album thứ 3 là The Concealers vào năm 2009 mà không cần tay keyboards. Dĩ nhiên không có keyboards thì không thể còn ảnh hưởng của Industrial nữa (Industrial là dòng nhạc sử dụng nhiều âm nhạc điện tử). Âm nhạc trong album này vì thế có thể coi là gần như khác hoàn toàn so với album trước. Lúc này guitar là nhạc cụ chủ đạo và âm nhạc chịu ảnh hưởng của Groove/Thrash Metal. Âm nhạc của nhóm lúc này cũng không quá mức Extreme và bạo lực với xu hướng nghiêng nhiều về giai điệu và kiểu thử nghiệm (experimental). Album tiếp theo của nhóm là Daath -2010 tiếp tục xu hướng âm nhạc này. Năm 2012, phần lớn các thành viên của Daath chuyển sang chơi cho Chimaira, band nhạc Thrash Metal. Vào tháng 9 năm 2014, Chimaira quyết định tan rã. Tương lai của Daath hiện tại vẫn không rõ ràng.
    Daath là một band nhạc luôn bị đánh giá một cách không công bằng vì âm nhạc của nhóm là sự kết hợp của Death Metal với những thứ âm nhạc dễ nghe hơn. Điều này khiến âm nhạc của họ thường bị coi là quá mainstream và kém. Nhưng khi thời gian qua đi, chúng ta sẽ có cái nhìn chân thực hơn về lịch sử. Âm nhạc của nhóm khá đặc biệt và họ từng là một band nhạc đầy triển vọng của Metal thế giới trong thiên niên kỷ mới.

    Blender For The Baby

    War Born

    Day Of Endless Light

    Destruction-Restoration
     
  7. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Divine Heresy

    Divine Heresy​


    Divine Heresy là một trong những cái tên không xa lạ với những fan hâm mộ Metal trong những năm gần đây. Nhóm thành lập năm 2006 bởi tay guitar Dino Cazares sau khi anh này rời khỏi nhóm Industrial Metal huyền thoại Fear Factory. Việc đầu tiên Cazares làm là tìm một tay trống. Do những vấn đề về visa lần lượt John Sankey (nhóm Devolved) và Nicholas Barker (Cradle Of Filth, Dimmu Borgir) đều phải về nước. Sau đó, Cazares gặp Tim Yeung, cựu thành viên của nhóm Vital Remains và câu chuyện về Divine Heresy bắt đầu. Cặp đôi Yeung và Cazares viết một số bài hát rồi tuyển được giọng ca chính Tommy Vext Cummings (giọng anh này chịu nhiều ảnh hưởng của Hardcore nên nhiều khi nghe khá giống Metalcore). Thành viên cuối cùng gia nhập nhóm là tay bass Joe Payne,cựu thành viên của nhóm Nile. Với đội hình này, nhóm ghi âm album đầu tiên Bleed The Fifth vào năm 2007. Với Cazares là người sáng tác chính thì album này hiển nhiên là có nhiều nét tương đồng với âm nhạc của Fear Factory. Những đoạn riff của anh này chắc không thể lẫn đi đâu được. Tuy nhiên, nếu gọi Divine Heresy là bản sao của Fear Factory thì sẽ là sai lầm rất lớn vì album là sự kết hợp của Death Metal với lối chơi hết sức tốc độ và bạo lực của Yeung và những đoạn riff ngắn đơn giản đầy mạnh mẽ của Cazares. Những âm thanh đặc trưng của Industrial (Fear Factory) không có trong album này. Album khá thành công và nhận được nhiều lời khen ngợi của giới chuyên môn.
    Tuy nhiên, ngay sau album thành công đầu tiên, Divine Heresy đã rơi vào bất ổn khi tính tình kỳ quặc của Cazares (nguyên nhân chính khiến anh này bị tống cổ khỏi Fear Factory) lại gây ra chuyện. Trong một buổi biểu diễn, dù đã thống nhất từ trước là sẽ kết thúc sớm để hôm sau còn đi biểu diễn ở một nhạc hội khác, Cazares vẫn tiếp tục chơi nhạc tiếp sau khi Vext tuyên bố kết thúc. Vext và Cazares đã có nhiều mâu thuẫn từ trước nên hai anh này lao vào ẩu đả. Ngay sau đó thì Vext rời nhóm. Giọng ca chính Travis Neal được mời vào thay thế. Album thứ 2 là Bringer Of Plagues được tung ra vào năm 2009 tiếp tục là một album có chất lượng rất tốt và được nhiều fan hâm mộ yêu thích. Cũng trong năm này, Fear Factory tái lập và Cazares trở về. Tuy vậy anh tuyên bố sẽ tiếp tục sự nghiệp với Divine Heresy. Nhưng những năm sau đó, các thành viên khác lần lượt rời nhóm, chỉ còn lại cặp đôi Yeung và Cazares. Tương lai của nhóm ra sao vẫn là một dấu hỏi lớn chưa có lời giải đáp.
    Âm nhạc của Divine Heresy không phải là Death Metal thuần chất mà có nhiều ảnh hưởng của Thrash, Groove Metal cũng như Hardcore. Họ cũng là một band nhạc gây nhiều tranh cãi trong những năm gần đây nhưng âm nhạc của họ vẫn rất đáng nghe. Đây cũng là phần viết cuối của những band trong nhánh chính của Death Metal. Từ bài viết sau chúng ta sẽ bắt đầu chuyển sang Progressive Death Metal.

    Closure

    Failed Creation

    Facebreaker
     
  8. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Atheist

    Progressive Death Metal​


    Vào những năm cuối cùng của thập niên 80s, Death Metal dần trở nên phổ biến, tuy nhiên hầu hết âm nhạc của những band Death Metal tại thời điểm này đều thiên về tốc độ và rất đơn giản, lặp đi lặp lại. Đến năm 89, lịch sử của Death Metal sang trang với sự xuất hiện của những siêu sao như Morbid Angel, Obituary và đặc biệt là Atheist. Atheist cũng là band nhạc khởi đầu của nhánh nhạc nhỏ Progressive Death Metal. Ngay tại thời điểm mới thành lập, Atheist đã viết những bài hát Death Metal siêu kỹ thuật với nhiều âm hưởng của Progressive và đặc biệt là Jazz (cấu trúc bài hát). Rõ ràng, đây là những ý tưởng quá mới và vượt quá tầm thời đại của Atheist. Không biết có phải do tầm cỡ của band nhạc vượt thời đại quá xa không mà âm nhạc của họ không được số đông người hâm mộ và giới chuyên môn chấp nhận mà thậm chí còn bị ném đá tả tơi. Tuy nhiên, Progressive Death Metal không chết, sau khi Atheist tan rã, Cynic tiếp nối sự phát triển của nhánh nhạc này với album kinh điển Focus vào năm 1993. Trong album này, Cynic đã sử dụng keyboards và syntherizer vào âm nhạc của mình (những nhạc cụ hết sức phổ biến trong Progressive). Phong cách âm nhạc mới mẻ này sau đó rất thành công và tạo tiền đề cho những band Progressive Death Metal khác tiếp tục phát triển. Rất nhiều band nhạc lừng danh của thế giới như Opeth hay Edge Of Sanity đều theo đuổi phong cách này và gặt hái được vô số những thành công. Tính tới thời điểm hiện tại, vẫn có nhiều band nhạc trẻ nối gót đàn anh để tiếp tục phát triển nhánh nhạc rất được yêu mến này. Trước tiên chúng ta đến với Atheist.

    Atheist​


    Như đã nói ở trên Atheist chính là những người tiên phong tạo nên phong cách Progressive Death Metal. Tuy nhiên, nhóm nhạc vô cùng tài năng này lại không được cả giới chuyên môn cũng như fan hâm mộ đón nhận. Dù nỗ lực tung ra 3 albums (cả 3 albums sau này đều được đánh giá là những album kinh điển của Extreme Metal thế giới) nhóm buộc phải tan rã. Dù tài năng siêu việt, band nhạc không gặp nhiều may mắn trong sự nghiệp khá ngắn ngủi của mình (lịch sử của band nhiều chuyện buồn hơn là vui).
    Trở lại với lịch sử của band nhạc, Atheist thành lập từ năm 1985 tại Florida, Mỹ bởi tay guitar Kelly Shaefer và tay trống Steve Flynn. 2 anh này trước đó đã chơi chung trong 1 band nhạc rồi mới quyết định thành lập Atheist với một vocalist có tên là Scrappy. Sau đó đến lượt tay bass rất tài năng Roger Patterson, người được coi là Cliff Burton của Death Metal, tham gia nhóm. Lúc này nhóm lấy tên là R.A.V.A.G.E rồi mới đổi sang là Atheist. Ngay sau đó Scrappy rời nhóm và Shaefer đảm nhận luôn vai trò hát chính. Với 3 thành viên, nhóm ghi âm 3 albums demo nhưng không nhận được bất kỳ sự chú ý nào từ các hãng đĩa. Năm 1987, tay guitar thứ 2 là Rand Burkey gia nhập nhóm. Anh này cũng là một trong những tài năng đặc biệt và cũng chơi guitar tay trái (cả Shaefer và Burkey đều là những tay guitar chơi tay trái). Với đội hình 4 người, nhóm ghi âm album demo thứ 4 là Beyond. Khác với những album trước đó, album này nhận được rất nhiều lời khen ngợi của giới chuyên môn giúp cho band nhạc có hợp đồng vơi hãng đĩa Mean Machine. Cuối năm 1988, nhóm ghi âm xong album đầu tay Piece Of Time và đã in ra cassette nhưng rồi bất hạnh lại xảy đến với họ. Hãng đĩa của họ phá sản và kế hoạch tung ra album chấm dứt. Sau khi phá sản, band còn phải danh gần 1 năm để thanh lý hợp đồng với hãng đĩa. Đến tháng 8 năm 1989, album này được tung ra tại châu Âu nhưng vẫn không thể tìm được nhà phân phối tại Mỹ mà mãi tới năm 90. Âm nhạc trong album này là sự tổng hợp của Death với Progressive và Thrash Metal (thần tượng của Atheist là Rush, Slayer, Possessed và Mercyful Fate). Album chơi rất kỹ thuật, đặc biệt là phần bass của Patterson. Album nhận được khá nhiều lời khen ngợi.

    Piece Of Time

    Unholy War


    Sau những thành công nhỏ đầu tiên, đến đầu năm 1991, Atheist đã sáng tác đủ những bài hát cho album thứ hai và họ đang đi lưu diễn cùng nhóm Doom Metal huyền thoại Candlemass (2 band cùng hãng đĩa). Nhưng bi kịch gần như xảy ra ngay lập tức với họ, trong một chuyến lưu diễn, ô tô chở band nhạc bị tai nạn và tay bass Patterson qua đời khi mới 22 tuổi (số phận của Petterson cũng không khác nhiều so với số phận của Burton). Nên nhớ rằng, ngoài tài năng vượt trội, Patterson còn là một người dễ gần. Trong những buổi lưu diễn, anh như một người đại diện của band nhạc chuyên giao lưu, thu thập những album demo, sticker, áo, logo… của những band nhạc khác, giúp tên tuổi của Atheist trở nên phổ biến hơn. Chính vì vậy, cái chết của anh này là một đòn mạnh giáng vào band nhạc. Thậm chí, cả band nhạc đã khóc như mưa khi nhìn thấy người em sinh đôi của Patterson trong lễ tang.
    Sau cái chết của Patterson, band nhạc vẫn quyết định tiếp tục theo đuổi sự nghiệp vì đó cũng là mong muốn cuối cùng của anh này. Chỉ vài ngày trước tai nạn, Patterson có dịp gặp thần tượng của mình là tay bass Doug Kayser (của nhóm nhạc huyền thoại Watchtower) nên band nhạc nghĩ rằng mời Kayser tham gia album tiếp theo của nhóm sẽ là một ý tưởng tuyệt vời. Tuy nhiên khi Shaefer liên lạc với Kayser, anh này không nghĩ như vậy và từ chối. Band nhạc đành mời Tony Choy của band nhạc Cynic vào chơi trong album Unquestionable Presence năm 1991, album sau này trở nên kinh điển của Metal thế giới. Âm nhạc trong album chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc của Atheist khi họ tích hợp Avant Garde Jazz vào Death Metal. Một ý tưởng quá đỗi lạ lùng và không thể tượng tượng được vào những năm đầu thập kỷ 90. Sau này, album trở thành kinh điển nhưng tại thời điểm mới được tung ra, chỉ có rất ít người có thể hiểu được tầm cỡ của album này, và rất tiếc trong số đó không có những fan của Cannibal Corpse và điều này ảnh hưởng rất lớn tới số phận của Atheist về sau. Năm 1992, Atheist tổ chức lưu diễn cùng Cannibal Corpse và đây là một trong những sai lầm lớn nhất của Atheist. Cannibal Corpse có lượng fan đông đảo (Cannibal Corpse là band Death thành công nhất về mặt thương mại tại Mỹ) nhưng đa phần fan hâm mộ của nhóm này không hiểu nổi âm nhạc của Atheist. Họ còn là những kẻ bảo thủ và cố chấp nên chuyến lưu diễn của này trở thành ác mộng thực sự với Atheist khi không được chấp nhận. Sau chuyến lưu diễn, band nhạc thực chất đã tan rã khi Shaefer thành lập nhóm nhạc mới và chơi phong cách Hard Rock là Neurotica, Flynn theo đuổi sự nghiệp học hành, Choy thì đã gia nhập Pestilence từ trước, Burkey thì tham gia Cynic.

    Mother Man

    Unquestionable Presence


    (còn tiếp)
     
  9. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Atheist

    Atheist​


    (tiếp theo)

    Nhưng câu chuyện của Atheist vẫn chưa kết thúc sau album thứ hai. Sau khi band tan rã, Shaefer bất ngờ nhận được điện thoại của hãng đĩa yêu cầu ghi âm album thứ 3 theo hợp đồng (bắt buộc ). Lúc này Shaefer đang ghi âm album đầu tiên với band nhạc mới của mình là Neurotica và còn đang bị thương ở tay nên việc chơi guitar là rất khó. Nhưng với yêu cầu bắt buộc của hãng đĩa, anh này cấp tốc thành lập một band nhạc mới để vừa sáng tác và ghi âm album trong 40 ngày. Trong khoảng thời gian quá ngắn và ngặt nghèo như vậy, khả năng xoay sở và quản lý của Shaefer mới phát huy tác dụng triệt để. Anh ngay lập tức liên lạc với tay guitar Frank Emmi – người anh nhìn thấy chơi guitar khá ấn tượng cách đó vài tháng để chơi trong album, Emmi nhận lời. Ở vị trí tay bass, Choy đồng ý quay trở lại. Shaefer thuê tay trống Mike Hayes và bộ tứ bước vào sáng tác các bài hát. Sau khoảng hơn 20 ngày, họ đã có bộ khung các bài hát và đang trong quá trình nghe và chỉnh sửa lại. Lúc này, tay guitar Burkey, trong lúc quay trở lại thăm các bạn cũ, thấy ấn tượng với những gì Atheist đang làm nên quyết định quay trở lại với band nhạc. Anh này cũng có đóng góp rất lớn vào việc viết lại những bài hát của Atheist trong album (lúc này Atheist đang có 3 tay guitar). Khi Burkey quay lại, band chỉ còn 26 ngày để hoàn thành album. Thấy tay trống Hayes không đáp ứng nổi yêu cầu, Shaefer quyết định sa thải anh này và mời một tay trống nhạc Jazz đầy tài năng là Josh Greenbaum vào thay thế. Band nhạc với 5 thành viên bước vào ghi âm album mà chưa hề có lời cho các bài hát. Cặp đôi Shaefer và Burkey trao đổi và sau đó quyết định sử dụng lời hát viết về các nguyên tử theo quan niệm cổ của châu Âu (gồm đất, nước, khí và lửa). Band nhạc làm việc rất vất vả trong thời gian còn lại để hoàn thiện album, thậm chí ngay cả Shaefer, người lãnh đạo band nhạc cũng không còn thời gian để nghe lại những nhạc phẩm của chính anh viết ra. Kết quả cuối cùng là một album kinh điển nữa của Metal thế giới là Elements được tung ra vào năm 1993. Âm nhạc trong album khác rất nhiều so với các album trước với những bài hát hết sức khác biệt. Ảnh hưởng của jazz là đáng kể nhưng ảnh hưởng của âm nhạc Latin cũng rất lớn, ngoài ra còn có những ảnh hưởng của Progressive nữa. Chất mạnh mẽ của Death Metal lúc này đã giảm nhiều (album đánh nhẹ hơn và dễ nghe hơn rất nhiều so với 2 albums trước) nhưng nó vẫn là một tuyệt phẩm mà những fan của Heavy Metal không thể nào quên. Và đây cũng là album cuối cùng của Atheist trong thời kỳ vàng của band nhạc.

    Water

    Samba Briza


    Atheist là một band nhạc với tư tưởng cấp tiến và tư tưởng vượt trên thời đại. Band có lẽ cũng là một trong những band tài năng lớn nhất mà Death Metal từng sản sinh ra. Đây cũng là một band chơi nhạc với kỹ thuật siêu đẳng. Họ chỉ có 3 albums nhưng cả 3 đều rất được yêu mến và được coi là những album kinh điển của cả Death lẫn Progressive Metal. Tuy nhiên ở thời điểm band nhạc còn tồn tại họ không thành công, thậm chí còn bị người hâm mộ ngăn cản không cho biểu diễn. Mãi tới những năm giữa thập niên 2000s, khi thế giới âm nhạc có nhiều biến đổi, giới chuyên môn và hâm mộ mới có cái nhìn đúng đắn hơn về âm nhạc của Atheist và những album của họ được săn lùng trên toàn thế giới. Để đáp ứng nhu cầu rất lớn của người hâm mộ, nhóm quyết định tái bản cả 3 albums kinh điển nêu trên và rất thành công về mặt thương mại (trước đây thì chỉ có rất ít người có đĩa của nhóm). Chính sự thành công ngoài dự tính này khiến Shaefer nảy ra ý tưởng tái hợp Atheist. Đầu năm 2006, band tái lập với các thành viên trụ cột, Shaefer, Flynn, Burkey, Choy. Tuy nhiên, sau đó Choy và Burkey lại rời nhóm và cặp đôi Shaefer/Flynn ở lại và viết các bài hát cho một album mới. Năm 2010, nhóm tung ra album Jupiter. Âm nhạc trong album này trở về với kiểu Death của album Piece Of Time. Phản ứng của fan hâm mộ và giới chuyên môn với album này không thống nhất. Có nhiều lời khen nhưng cũng không ít fan cho rằng album này, dù không phải tệ, nhưng lại kém 3 albums trước quá nhiều. Đến năm 2013, trước những yêu cầu lớn của fan hâm mộ, cả 3 album kinh điển trước đây của Atheist một lần nữa được tái bản dưới dạng Vinyl (LP). Hiện tại, Atheist đang trong quá trình thu âm album thứ 5 trong lịch sử của nhóm. Album này dự kiến sẽ được tung ra trong năm 2015.

    Second to Sun

    Live and Live Again
     
  10. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Cynic

    Cynic​


    Cynic tiếp tục là một band nhạc hết sức quan trọng và có đóng góp rất lớn cho sự hình thành và phát triển của Progressive Death Metal. Nhóm thành lập năm 1987 bởi tay guitar/vocal Paul Masvidal và tay trống Sean Reinert tại Florida, Mỹ. Tay guitar bass Tony Choy gia nhập nhóm vào năm 1989. Khởi đầu, nhóm chơi theo phong cách Oldschool Death Metal chứ chưa liên quan gì đến Progressive. Nhóm ghi âm 3 album demo và sau đó có hợp đồng với hãng đĩa Roadrunner. Tuy nhiên, ngay cả khi có hãng đĩa nhóm vẫn không thể bắt tay ngay vào ghi âm album đầu tay mà tiếp tục ghi âm album demo thứ 4. Sau đó, như chúng ta đã biết, Masvidal và Reinert tham gia Death và ghi âm album kinh điển Human vào năm 1991. Cùng với việc ghi âm album là một chuyến lưu diễn châu Âu cùng Schuldiner. Tuy nhiên, chuyến lưu diễn không suôn sẻ, Death gặp vấn đề nghiêm trọng về tài chính đến mức mà tất cả nhạc cụ của Masdival và Reinert đều bị tịch thu trong 6 tháng. Về đến Mỹ thì nhóm mất luôn tay bass Tony Choy (gia nhập Atheist). Sau khi tìm được tay bass Sean Malone thay thế, nhóm định bắt tay vào ghi âm album Focus thì lại gặp trục trặc. Lúc này tại Florida diễn ra một trận bão rất mạnh phá hủy nhà cửa và nơi tập luyện của band nhạc khiến quá trình ghi âm album tiếp tục bị hoãn lại trong vài tháng.
    Tuy nhiên trong cái rủi cũng còn một chút may mắn, thời gian này chính là lúc band nhạc tập trung vào viết nhạc. Đây cũng là lúc các thành viên của band nhạc quyết định thử nghiệm phong cách mới với nhiều ảnh hưởng của Progressive, phong cách Jazz/Rock fusion, guitar synths và sử dụng hiệu ứng cho giọng hát (tiếng robot). Tất cả những thay đổi này đều có mặt trong album kinh điển Focus mà nhóm tung ra vào năm 1993. Việc nhóm sử dụng keyboards và syntherizers trong album là một trong những bước tiến vượt bậc của Progressive Death Metal tại thời điểm bấy giờ. Phong cách chơi này gần như ảnh hưởng tới tất cả những band nhạc Progressive Death về sau. Tuy nhiên, ngay sau đó một lần nữa những sai lầm của Atheist lặp lại với Cynic. Dù họ viết ra một siêu phẩm đầy ảnh hưởng nhưng fan hâm mộ lúc ấy không hiểu họ muốn gì. Sau đó họ còn đi lưu diễn cùng với band nhạc Cannibal Corpse và những gì diễn ra tiếp theo chắc cũng không quá tầm tưởng tượng của bất kỳ ai. Hình ảnh sau đây nói lên tất cả những gì mà fan hâm mộ thời đó dành cho Cynic : khi đang biểu diễn Veil Of Maya – bài hát mở màn album Focus, Masvidal bị một fan hâm mộ ném chai nước vào đầu.
    Textures

    Veil of Maya


    Phản ứng quá mạnh của fan hâm mộ cũng là nguyên nhân chính khiến Cynic tan rã gần như ngay sau khi tung ra album Focus. Album này sau đó trở thành kinh điển và được fan hâm mộ săn lùng. Nhưng cũng phải hơn 10 năm sau khi tung ra, người ta mới nhận ra được điều này. Phải tới năm 2004 nó mới được tái bản lại. Cũng giống như Atheist sau thành công của lần tái bản, đến năm 2006 thì Masvidal quyết định tái lập Cynic với Reinert. Lúc này thì Masvidal cũng đảm nhận luôn vai trò của keyboardist trong band nhạc. Năm 2008, nhóm tung ra album thứ 2 là Traced In Air với sự trợ giúp của tay bass Marlone (người chơi trong album Focus). Âm nhạc của nhóm cũng thay đổi khá nhiều với việc nghiêng về Progressive Metal. Tất nhiên phong cách Jazz/Rock, Space và Technical vẫn còn rõ nét nhưng không còn là Death Metal nữa (họ không sử dụng giọng gầm gừ mà chỉ sử dụng clean vocal). Sự thay đổi này không làm phiền lòng fan hâm mộ vì những bài hát có chất lượng quá tốt và đây tiếp tục là một album kinh điển của Metal thế giới vào năm 2008.

    Evolutionary Sleeper

    The Space For This


    Sau khi thành công lớn với Traced In Air, Cynic có động lực rất lớn để tiếp tục sự nghiệp vinh quang của mình nhưng họ không vội tung ra một album mới ngay mà tung ra một số album dạng EP, remixed, đồng thời ra lại 1 album demo từ năm 1995 của nhóm. Phản ứng của giới hâm mộ với những album này khá tốt, nhóm nhận được nhiều lời khen ngợi. Phải đến đầu năm 2014 nhóm mới tung ra album studio thứ 3 trong sự nghiệp là Kindly Bent To Free Us. Nhóm ghi âm album này với chỉ 3 thành viên chính là Masdival, Reinert và Marlone. Album tiếp tục chứng kiến sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm khi tích hợp thêm cả những ảnh hưởng của Alternative Rock Metal vào trong âm nhạc. Album đánh khá nhẹ, dễ nghe và cũng ít kỹ thuật hơn so với những album trước. Điều này có thể làm phiền long một số fan yêu Metal nhưng với những fan của Progressive thì không có vấn đề gì lớn. Chính vì vậy đây vẫn là một album hay và đáng nghe của Cynic.
    Dù chỉ mới có 3 albums trong sự nghiệp, các albums của Cynic rất hay và có tầm ảnh hưởng rất lớn tới cả Death và Progressive Metal hiện đại, đặc biệt là 2 albums đầu tay.

    The Lion's Roar
     
  11. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Pestilence

    Pestilence​


    Pestilence là một trong những band Death Metal gạo cội ở châu Âu. Nhóm thành lập năm 1986 tại Hà Lan và khởi đầu chơi theo phong cách Thrash Metal. Sau khi ghi âm một vài album demo theo phong cách Thrash Metal kiểu Sepultura nhóm có hợp đồng với hãng đĩa Roadrunner. Cũng cần nhắc lại rằng hãng đĩa Roadrunner lúc này là một hãng đĩa khá nhỏ và có nguồn gốc tại Hà Lan. Mục tiêu của hãng đĩa lúc này chỉ là nhập khẩu những hãng albums Metal của các band nhạc Bắc Mỹ để bán lại tại châu Âu. Sau những thành công ban đầu, nhóm quyết định ký hợp đồng với một số tên tuổi nhỏ mà sau này trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới của Metal như Sepultura hay King Diamond. Với những thành công vượt bậc, hãng dần trở thành một trong những hãng đĩa lớn nhất thế giới tại thời điểm hiện tại. Tại thời điểm những năm đầu thập kỷ 90s của thế kỷ trước, hãng chỉ tìm kiếm hợp đồng với những band nhạc có triển vọng. Và Pestilence có thể coi là một trong những thành công của hãng. Trở lại với lịch sử của band nhạc, Pestilence tung ra album đầu tiên là Malleus Maleficarum vào năm 1988. Album này mang thuần chất Thrash Metal và chưa thực sự gây nhiều ấn tượng với người hâm mộ Metal trên toàn thế giới.
    Năm 1989, nhóm tung ra album thứ hai là Consuming Impulse. Tại thời điểm này, nhóm chuyển hoàn toàn sang Death Metal kiểu Oldschool với giọng hát kiểu gầm gừ. Nếu quay lại lịch sử của Death Metal thì có lẽ đây chính là một trong những album Death Metal sớm nhất tại châu Âu (nếu không muốn nói rằng đây chính là album đầu tiên của Death Metal châu Âu). Chính vì thế rất nhiều fan hâm mộ coi album này là kinh điển của Death Metal châu Âu. Tuy nhiên, dù có ý nghĩa quan trọng, đây chưa thực sự là một album hay của nhóm với những bài hát khá đơn giản.
    Chronic Infection

    Out Of The Body


    Phải đến khi tung ra album thứ 3 là Testimony Of The Ancients vào năm 1991 thì nhóm mới nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Lúc này thì giọng ca chính của nhóm đã có sự thay đổi khi Nick Sagias thay thế Van Drunen. Âm nhạc của nhóm vì thế cũng thay đổi lớn hơn khi bắt đầu sử dụng keyboards vào trong âm nhạc, chính vì lý do này, âm nhạc của nhóm đã mang nhiều tính giai điệu và không còn quá mạnh mẽ như trước. Có thể nói ảnh hưởng của những nhóm Metal cổ như Iron Maiden thể hiện rất rõ trong album này. Tuy chưa thể gọi album này là Progressive nhưng những ảnh hưởng của của Progressive bắt đầu xuất hiện (đây là một album concept). Album khá hay và nhận được nhiều lời khen ngợi từ cả giới chuyên môn lẫn fan hâm mộ.
    The Secrecies of Horror

    Land Of Tears

    Pestilence chỉ trở thành một band nhạc Progressive Death Metal thực thụ vào năm 1993, khi nhóm tung ra album thứ 4 là Spheres. Rất nhiều ảnh hưởng của Jazz fusion và Progressive xuất hiện trong album này (sử dụng rất nhiều syntherizer). Tất nhiên, những dấu ấn của Death Metal vẫn còn nguyên vẹn với việc sử dụng giọng ca gầm gừ. Band cũng sử dụng lối chơi khá kỹ thuật với những đoạn riff kiểu Thrash Metal và những đoạn solo guitar chịu ảnh hưởng của Jazz Rock fusion. Album rất hay và là một trong những album kinh điển của Death Metal, nó cũng nhận được rất nhiều lời khen ngợi của giới chuyên môn và khiến lượng fan hâm mộ của Pestilence tăng vọt. Tuy nhiên, đây là lúc mà quan hệ của những thành viên trong band nhạc trở nên hết sức căng thẳng và nhóm buộc phải tan rã ngay sau đó.

    Mind Reflections


    Phải đến năm 2008 nhóm mới tái hợp với chỉ một thành viên gạo cội duy nhất là Mameli (vocal/guitar) và tung ra album Resurrection Macabre. Album không thành công vì không còn mang nhiều tính Progressive nữa mà trở về với phong cách Oldschool Death Metal như trong album Consuming Impulse. Sau đó nhóm còn trung ra album Doctrine vào năm 2011 và Obsvideo -2013 với phong cách nghiêng nhiều về Technical Death Metal với chút ít âm hưởng của Jazz và Progressive. Cả 2 albums đều thành công ở mức độ vừa phải.
    Devouring Frenzy

    Necro Morph


    Tuy âm nhạc thay đổi nhiều qua từng album, Pestilence vẫn là một band nhạc tiêu biểu cho trào lưu Death Metal của thế giới với một số album rất đáng nghe và đã trở nên kinh điển của cả Oldschool Death và Progressive Death Metal. Cùng với Cynic, nhóm là những người tiên phong sử dụng syntherizer trong Progressive Death và có nhiều ảnh hưởng tới nhánh nhạc này.
     
  12. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Sadist

    Sadist​


    Sadist là một trong những band nhạc Death Metal gạo cội của Italia, nhóm thành lập năm 1991 sau khi tay trống Peso rời khỏi nhóm Necrodeath, một trong những nhóm Extreme Metal thành lập sớm nhất tại Italia. Sau đó, Peso cùng với tay guitar/keyboards Tommy Talamanca lập một nhóm mới lấy tên là Necrosadist, là tiền thân của Sadist sau này. Chính vì lý do này, âm nhạc của nhóm ban đầu là sự phát triển kế tiếp âm nhạc của Necrodeath và là một trong những band có âm nhạc khá kỳ quái. Sau khi kết nạp thêm tay bass Andy và giọng ca Fabio, nhóm tiến hành ghi âm album album demo đầu tiên và nhận được sự chú ý của hãng đĩa Obscure Plasma (sau đó album demo này được tung ra dưới dạng EP với tên gọi Black Screams vào cuối năm 1991). Nhưng ngay sau khi ghi âm album EP thì Fabio quyết định rời nhóm nên tay bass Andy Marchini đảm nhận luôn vai trò hát chính trong album đầu tay của nhóm là Above The Light vào năm 1993. Đây là một album khá hay chơi rất kỹ thuật với khá nhiều ảnh hưởng của Jazz và cổ điển (tuy nhiên chất nhạc chủ đạo vẫn là Death/Thrash Metal). Tuy chưa thực sự là một siêu phẩm (ghi âm kém, các bài hát chưa thực sự hay), album vẫn gây được sự chú từ một bộ phận không nhỏ người hâm mộ.
    Sometimes They Come Back


    Sau khi tung ra album đầu tay, tay bass/vocal Andy rời nhóm và lúc này người thay thế anh là Chicco (bass) và Zanna (vocal). Nhóm tung ra album thứ hai Tribe vào năm 1996. Lúc này, âm nhạc của Sadist thay đổi rất lớn khi sử dụng rất nhiều keyboards với hàng loạt những bài hát rất hay và mang đậm âm hưởng của Progressive. Chỉ với 8 bài hát và kéo dài trong 37 phút album trở thành một siêu phẩm bị lãng quên của Death Metal thế giới khi rất ít fan của Death Metal biết đến sự tồn tại của album này. Tại thời điểm những năm giữa thập kỷ 90s, những band nhạc chơi theo phong cách Progressive Death và đều rất thành công như Atheist, Cynic, Death hay Pestilence và trở thành những biểu tượng bất từ của Death Metal thì tuyệt phẩm của Sadist lại bị lãng quên. Có thể Sadist chưa vươn tới sự sáng tạo và ảnh hưởng như Atheist hoặc Cynic, nhưng họ hoàn toàn có thể sánh ngang với rất nhiều band nhạc khác như Pestilence, Gorguts…

    India

    From Bellatrix to Betelgeuse


    Sau thành công của Tribe, tưởng rằng Sadist sẽ còn tiếp tục thăng tiến thì họ rơi vào bất ổn khi lần lượt cả Chicco, Zanna và Peso lần lượt rời khỏi nhóm. Việc chỉ còn lại duy nhất tay guitar/keyboards Tommy khiến chất lượng âm nhạc của họ cũng có phần giảm sút. Sadist tung ra album thứ 3 là Crust vào năm 1997 và không gặt hái được nhiều thành công tuy âm nhạc trong album này khá giống so với album Tribe. Vào thời điểm năm 2000, khi nhóm tung ra album Lego, âm nhạc của nhóm đã không còn một chút gì là Death Metal nữa mà chuyển sang kiểu Alternative. Dĩ nhiên là nhiều fan hâm mộ không thể chấp nhận nổi sự thay đổi này và album thất bại. Thất bại này cũng là nguyên nhân chính khiến band tan rã. Tới năm 2005, nhóm mới tái lập trở lại và tung ra 2 albums là Sadist -2007 và Season In Silence -2010. Cả 2 albums đều chơi với phong cách Progressive Death nhưng chỉ thành công ở mức độ vừa phải.
    Sadist là một band nhạc kỳ lạ mà ít fan của Death Metal biết tới mặc dù album Tribe của họ xứng đáng được ca ngợi như một siêu phẩm của Death Metal. Một siêu phẩm bị lãng quên.

    Fools And Dolts

    Tearing Away

    One Thousand Memories
     
  13. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Alchemist

    Alchemist​

    Alchemist là một trong những band nhạc siêu hạng của cả Death và Progressive Metal trên thế giới. Nhóm thành lập năm 1987 tại Canberra, Australia và khởi đầu chơi Death Metal. Tuy nhiên, âm nhạc của nhóm trong những năm đầu tiên khá thô và đơn giản, không gây được nhiều sự chú ý. Đến năm 1989, âm nhạc của nhóm bắt đầu thay đổi khi tích hợp những ảnh hưởng của Avant Garde (Frank Zappa giai đoạn đầu tiên) và Psychedelic (Pink Floyd - thời kỳ psychedelic) vào Death Metal. Năm 1993, nhóm tung ra album đầu tay Jar Of Kingdom. Đây có thể coi là một album sử dụng giọng hát và ghi âm raw của Death trên nền một thứ Progressive nhanh và mạnh (album này phần nhạc mang hoàn toàn tính Progressive). Ý tưởng không tệ nhưng việc thu âm quá kém ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng âm nhạc của album khiến nó không được đánh giá quá cao.
    Chính vì lý do ghi âm mà band nhạc thấy cần phải tìm một hãng đĩa khác có thể cung cấp nhiều tiền hơn cho nhóm ghi âm album tiếp theo. Năm 1995, nhóm tung ra album thứ 2 là Lunasphere. Âm nhạc trong album này khá phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều thể loại nhạc khác nhau như: Thrash, Death, triber music (âm nhạc kiểu thổ dân), psychedelic và cả industrial nữa. Giọng vocal lúc này cũng mang khá ít tính gầm gừ nhưng vẫn có dạng khàn và rất bạo lực. Album này khá thành công.
    Xu hướng pha trộn nhiều thể loại trên nền Extreme Metal (chứ không còn là Death) tiếp tục phát triển trong những album tiếp theo của nhóm và gặt hái rất nhiều thành công. Đặc biệt là trong siêu album Spiritech vào năm 1997, nơi chúng ta có thể nghe thấy rất nhiều ảnh hưởng từ Jazz, Psychediclic, Space, Progressive, Tribe music, Industrial, âm hưởng của âm nhạc phương đông. Tuy chịu rất nhiều ảnh hưởng từ các thể loại nhạc khác nhau, các bài hát trong album đều được phát triển hợp lý và mạnh mẽ. Album này rất hay và trở thành một trong những album kinh điển của Metal thế giới.
    Sau này, Alchemist còn tiếp tục tung ra 3 albums nữa là Organasm -2000, Austral Alien -2003 và Tripsis -2007 với rất nhiều âm hưởng của Industrial, Progressive, kết hợp với Extreme Metal. Cả 3 album đều khá thành công và được nhiều fan hâm mộ yêu thích. Đây là một band nhạc khá kỳ lạ mà những fan của Progressive Death nên tìm hiểu thêm.

    Jar of Kingdom

    Yoni Kunda

    Road To Ubar

    First Contact

    Wrapped in Guilt
     
  14. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Opeth

    Opeth​


    Đây là thời điểm để chúng ta đến với một người khổng lồ nữa của Progressive Death Metal nói riêng và Metal thế giới nói chung – band nhạc Opeth. Opeth thành lập năm 1990 tại Stockholm, Thụy Điển bởi giọng ca chính là David Isberg. Isberg phát hiện ra tài năng của Mikael Akerfeldt (lúc này đang chơi trong band nhạc Death Metal Eruption) nên mời anh này về chơi bass trong Opeth. Tuy nhiên vấn đề phát sinh là các thành viên khác của band nhạc, kể cả tay bass chính thức, không hề biết gì về quyết định này của Isberg. Chính vì thế, tranh cãi nổ ra và các thành viên khác rời bỏ band nhạc để lại Isberg và Akerfeldt. Sau đó là một thời kỳ hỗn loạn của Opeth khi các thành viên đến rồi đi như cơm bữa, cuối cùng chính bản thân Isberg cũng quyết định rời khỏi band nhạc. Lúc này, Akerfeldt trở thành người hát chính và lãnh đạo band nhạc. Sau đó, Opeth bắt đầu viết những bài hát đầu tiên cho album Orchid để tung ra vào năm 1995. Âm nhạc trong album này khác rất xa so với thứ âm nhạc Progressive Death Metal mà Opeth sẽ trở nên hết sức nổi tiếng sau này. Nó là sự kết hợp của Black Metal, Melodic Death Metal, Doom Metal và cả Folk Rock nữa. Các bài hát trong album rất dài, giọng hát và lời hát là sự kết hợp của cả Black và Death Metal với rất nhiều đoạn sử dụng acoustic guitar và piano (Folk). Những ảnh hưởng của Jazz và Progressive Rock là có nhưng không nhiều. Tại thời điểm những năm 1990s, việc tung ra 1 albums Black/Death với những bài hát dài trên 10 phút là một điều khá kỳ lạ và Opeth nhanh chóng nhận được sự chú ý của những fan hâm mộ Extreme Metal trên toàn thế giới.

    In the Forest Of Winter


    Sau một vài buổi lưu diễn khá ngắn ngủi, Opeth quay trở lại phòng thu âm và tung ra album thứ hai là Morningrise vào năm 1996. Đây là một album với những bài hát rất dài: album chỉ có 5 bài hát nhưng dài tới hơn 66 phút (Black Rose Immortal là bài hát dài nhất trong sự nghiệp của Opeth với độ dài hơn 20 phút). Âm nhạc trong album không quá khác biệt so với album đầu tay: vẫn là sự kết hợp của Black/Death Metal với rất nhiều ảnh hưởng của Doom Metal. Lúc này những đoạn sử dụng acoustic guitar cũng dài hơn và với những bài hát trên 10 phút thì âm nhạc của Opeth cũng mang nhiều ảnh hưởng của Progressive hơn. Album này đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của Opeth so với album đầu tay và nhận được rất nhiều lời khen ngợi.
    Black Rose Immortal


    Sau 2 albums đầu tay, Opeth bắt đầu rơi vào bất ổn khi cả tay bass và trống rời nhóm. Vào thời điểm nhóm ghi âm album thứ 3 vào năm 1998, Opeth chỉ còn 3 thành viên và Akerfeldt đảm nhận cả vai trò guitar, bass, vocal. Tay trống Martin Lopez, một trong những người góp công lớn làm nên âm nhạc của Opeth sau này, lần đầu tiên xuất hiện trong 1 albums chính thức của band nhạc. Không hiểu có phải do trải qua nhiều biến động không mà album này đánh mạnh hơn khá nhiều so với 2 album đầu tay. Vì đánh mạnh hơn nên phần acoustic guitar cũng giảm bớt. Một điểm sáng nữa trong album là chất lượng ghi âm tốt hơn rất nhiều. Đây cũng là album concept đầu tiên của nhóm với nội dung kể về một câu chuyện ma một chàng trai đã chết nhưng không biết rằng mình chỉ còn là một hồn ma. Hồn mà thì chỉ có thể quan sát cuộc sống của những người thân yêu nhất của mình mà họ không thể nhận ra anh ở bên cạnh họ. Với những fan của Metal, đây là một album rất hay nhưng sự nghiệp của Opeth còn phát triển hơn rất nhiều với album sau đó là Still Life.

    When

    April Ethereal


    (còn tiếp)
     
  15. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Opeth

    Opeth​


    (tiếp theo)

    Sau khi tung ra 3 albums với hãng Candlelight, Opeth chuyển sang ký hợp đồng với hãng Peaceville của Anh Quốc. Cộng với việc tay bass Martin Mendez gia nhập nhóm, Opeth có đội hình hoàng kim trong lịch sử với Akerfeldt, Lindgren, Lopez và Mendez. Album kinh điển đầu tiên của Opeth là Still Life được tung ra vào năm 1999. Lúc này âm nhạc của Opeth chịu ảnh hưởng rất lớn của Progressive Rock của thập kỷ 70s (Camel là một trong những thần tượng của Opeth). Đây tiếp tục là một album concept với nội dung chính viết về đề tài chống Thiên Chúa giáo. Nội dung album kể về một chàng trai trẻ, người bị bắt buộc phải rời khỏi nơi mình sinh sống chỉ vì không có cùng niềm tin tôn giáo với những người xung quanh mình. Sau 15 năm rời bỏ quê hương, anh này quay trở lại để tìm người yêu cũ là Melinda nhưng cô gái đã trở thành một bà sơ trông giữ nhà thờ. Chàng trai thuyết phục cô gái bỏ trốn đi cùng mình và thành công. Tuy nhiên, họ không thể bỏ đi được xa khi người dân trong làng đuổi theo và bắt cô gái lại. Sau đó cô gái bị kết tội chết. Chàng trai một lần nữa quay trở lại và tìm cô gái. Khi biết cô đã chết, chàng trai phát điên và giết rất nhiều người trước khi bị bắt và cũng bị kết tội chết cùng với cô gái. Khi bị treo cổ, chàng trai thấy hồn ma của cô gái xuống đón mình đi cùng. Album rất hay với những bài hát dài và lối chơi phức tạp chịu nhiều ảnh hưởng của Progressive. Trong album, Akerfeldt sử dụng rất nhiều clean vocal và đáng ngạc nhiên là giọng anh này rất tốt. Các bài hát trong album đều chú trọng nhiều tới giai điệu nên có phần dễ nghe hơn. Album thành công rất lớn trên thế giới và trở thành một trong những album kinh điển của Metal hiện đại.

    Serenity Painted Death


    Sau album kinh điển Still Life niềm vui tiếp tục đến với Opeth. Khi chuẩn bị ghi âm album thứ năm thì Akerfeldt nhận được email từ một fan hâm mộ vô cùng đặc biệt – đó là Steven Wilson của nhóm Porcupine Tree. Lúc đầu thậm chí Akerfeldt còn không tin rằng đây là Wilson thật mà chỉ là trò đùa của ai đó. Cũng cần phải nhắc lại rằng Porcupine Tree, với Wilson là linh hồn, chính là một người khổng lồ của làng nhạc Progressive. Anh này là nhân tố quan trọng nhất cho sự hồi sinh của Progressive Rock trên thế giới khi dẫn đầu trào lưu Progressive Rock thứ 3. Tại thời điểm những năm đầu thập kỷ 2000s thì tên tuổi Porcupine Tree đã nổi như cồn và Akerfeldt là một trong những fan hâm mộ lâu năm của nhóm Progressive huyền thoại này. Ngoài việc là một nhạc sỹ tài năng, Wilson còn là một nhà sản xuất và kỹ sư ghi âm rất giỏi nên Akerfeldt quyết định mời Wilson về để sản xuất album tiếp theo là Black Water Park. Album này được tung ra vào năm 2001 và không làm bất kỳ ai thất vọng. Một album tuyệt vời với rất nhiều bài hát dài nhưng đầy tính giai điệu. Album tiếp tục vươn lên trở thành một album kinh điển của Metal thế giới.

    The Drapery Falls


    Sau thành công rất lớn của Black Water Park và Still Life, Opeth trở thành một trong những tên tuổi lớn của Metal thế giới. Khi họ trở lại để ghi âm album thứ 6, một ý tưởng thú vị đến với Akerfeldt khi anh quyết định sáng tác và ghi âm cùng một lúc 2 albums: một album mạnh mẽ còn album kia thì nhẹ hơn. Kết quả cuối cùng là cặp album Deliverance -2002 và Damnation vào năm 2003. Tuy ý tưởng khá hay nhưng việc thực hiện cả 2 albums đều không được tốt với Deliverance đánh mạnh và chịu ảnh hưởng quá nhiều của Death Metal (ngoài ra chịu thêm ảnh hưởng của Porcupine Tree khi sử dụng nhiều piano và mellotron). Damnation đánh nhẹ hơn rất nhiều và không còn tính Death Metal nữa (chỉ sự dụng clean vocal). Ngay cả chất Metal cũng gần như không còn khi mà âm nhạc trong album này chơi theo phong cách của Camel kết hợp với Porcupine Tree. Các bài hát trong Damnation vì thế mang nhiều tính giai điệu, dễ nghe và sử dụng rất nhiều các thiết bị acoustic. Damnation chính là album đầu tiên của Opeth chinh phục được thị trường Mỹ khi xuất hiện trên bảng xếp hạng của nước này ở vị trí thứ 192.

    Master's Apprentices

    In My Time Of Need


    (còn tiếp)
     
  16. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Opeth

    Opeth​


    (tiếp theo và hết)

    Sau cặp đôi album không mấy thành công, Opeth trở lại mạnh mẽ hơn trong album thứ 7 của nhóm là Ghost Reveries -2005. Lúc này Opeth đã có thành viên thứ 5 là tay keyboards Per Wiberg và nhóm cũng ký được hợp đồng với một hãng đĩa lớn hơn là Roadrunner. Việc xuất hiện một tay keyboards trong đội hình của Opeth khiến nhiều fan hâm mộ lo lắng và nghi ngờ về sự thay đổi rất lớn trong âm nhạc của Opeth. Tuy nhiên, nhóm đã chứng tỏ sự nghi ngờ này là không có cơ sở khi Wiberg chơi rất tốt. Anh sử dụng keyboards dạng cổ (keyboards cơ) để đưa những ảnh hưởng của Progressive Rock trở nên rõ rệt hơn nữa trong âm nhạc của Opeth. Với chất lượng âm nhạc rất tốt, album này tiếp tục trở thành một điểm sáng trong sự nghiệp của Opeth khi nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ cả giới chuyên môn lẫn người hâm mộ toàn thế giới. Đây cũng là album bán chạy nhất của Opeth tại Mỹ (gần 100 000 bản). Album vươn lên vị trí thứ 64 trên bảng xếp hạng của Mỹ, một kết quả không tồi với 1 band Extreme Metal. Nhưng rất tiếc, đây lại là album cuối cùng của đội hình hoàng kim của Opeth. Sau album này lần lượt Lopez (vì lý do sức khỏe) và Lindgren (vì không còn cảm hứng).

    The Grand Conjuration

    Album đầu tiên sau sự ra đi của 2 thành viên gạo cội là Watershed -2008 nhận được rất nhiều lời khen chê trái chiều. Đây cũng là một trong những album mang nhiều tính thử nghiệm nhất trong lịch sử band nhạc Opeth khi họ sử dụng rất nhiều bài hát với những phong cách khác biệt như Progressive Death, Symphonic Rock, sử dụng giọng ca nữ, Progressive Rock, Hard Rock, Funk… nhiều bài hát trong album chỉ sử dụng clean vocal. Rõ ràng đây là một album mang ý nghĩa chuyển đổi trong sự nghiệp của Opeth. Album tiếp tục thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 23 trên bảng xếp hạng của Mỹ.

    Porcelain Heart


    Năm 2011 một lần nữa chứng kiến sự thay đổi trong âm nhạc của Opeth với album Heritage. Lúc này họ hoàn toàn không sử dụng giọng ca gầm gừ kiểu Death nữa. Ngoài ra chất Metal cũng không còn, đây là một album mang âm hưởng rất nặng của Progressive Rock cổ (Camel), Space Rock (Pink Floyd), Hardrock (Rainbow) và Jazz fusion. Ta cũng đã biết Akerfeldt là một fan hâm mộ của Progressive Rock nhưng sự thay đổi quá đột ngột này vẫn gây shock cho nhiều fan hâm mộ và giới chuyên môn trên toàn thế giới. Dù tay keyboard Wiberg rời nhóm ngay trước khi album được chính thức tung ra nhưng anh vẫn đóng một vai trò rất quan trọng trong album này. Phong cách chơi keyboards cổ của anh này làm ảnh hưởng của Space Rock trong album trở nên vô cùng rõ nét. Lúc này thì Opeth cũng đã trở thành một band nhạc mainstream nên album tiếp tục rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên tới vị trí 19 trên bảng xếp hạng của Mỹ.

    The Devil's Orchard


    Album cuối cùng của Opeth tính tới thời điểm hiện tại là Pale Communion tung ra vào năm 2014 tiếp nối phong cách Progressive Rock cổ của album trước đó. Tuy nhiên, lúc này band nhạc đã có nhiều sự tự tin hơn so với Heritage nên âm nhạc của nhóm có phần tốt hơn so với album trước với việc sử dụng nhiều hơn acoustic guitar (một phần tạo nên thương hiệu của Opeth) và chơi mạnh hơn 1 chút so với Heritage. Album cũng rất thành công cả về mặt thương mại lẫn nghệ thuật (xếp hạng 19 tại Mỹ và được giới chuyên môn đánh giá rất cao).

    Cusp of Eternity


    Opeth có lẽ là band nhạc Progressive nhất trong số những band nhạc Progressive Death Metal. Âm nhạc của họ đặc biệt vì sử dụng rất nhiều dụng cụ acoustic. Với tài năng của mình, nhóm đã trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới và được đông đảo người yêu nhạc Metal thế giới yêu mến (đặc biệt là tại châu Âu và Việt Nam). Những album như Orchid, Black Water Park hay Ghost Reveries xứng đáng có mặt trong bất kỳ bộ sưu tập Metal nào.
     
  17. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Edge Of Sanity

    Edge Of Sanity​


    Edge Of Sanity là một trong những nhóm Death Metal gạo cội của Thụy Điển, nhóm thành lập từ năm 1989 bởi giọng ca chính Dan Swano. Swano là một trong những tên tuổi vô cùng nổi tiếng của Extreme Metal Bắc Âu vì vừa là một nghệ sỹ, vừa là một nhà sản xuất rất có tài (2 albums đầu tiên của Opeth là do anh này sản xuất). Nhóm tung ra album đầu tay là Nothing But Death Remains vào năm 1991. Đây là một album Oldschool Death Metal kiểu Thụy Điển và chưa thực sự đặc biệt. Phải đến album Unorthodox – 1992 và The Spectral Sorrow -93 thì những dấu hiệu đầu tiên của Progressive mới xuất hiện trong âm nhạc của nhóm với việc sử dụng clean vocal, một số đoạn chơi nhạc khá nhẹ nhàng và sử dụng keyboards (trong những bài hát như Enigma…) và sử dụng một số âm nhạc dạng thử nghiệm (trong bài hát Blood Of My Enemies – cover của Manowar hay Sacrificed với phong cách Gothic). Tuy có những dấu hiệu của Progressive nhưng những albums này vẫn mang tính Death là chủ đạo với những bài hát nhanh mạnh và giọng ca phần lớn là gầm gừ.
    Enigma


    Năm 1994, Edge Of Sanity tung ra một trong những album hay nhất trong sự nghiệp của nhóm là Purgatory Afterglow với phong cách Melodic Death kiểu Dark Tranquility. Album có chất lượng rất tốt với những bài hát hay, mạnh mẽ nhưng tính Progressive thì gần như không có. Band nhạc chỉ thực sự vươn lên tới đỉnh cao trong sự nghiệp với album Crimson vào năm 1996. Đây là một album concept với chỉ 1 bài hát duy nhất kéo dài hơn 40 phút và được sáng tác hoàn toàn bởi Swano. Cũng chính Swano kéo thêm cả Akerfeldt vào chơi trong album này với vai trò của một tay lead guitar và giọng hát rít lên kiểu Black Metal. Đây là một album đỉnh cao của Progressive Death Metal với những giai điệu hết sức mạnh mẽ nhưng cũng đầy tính giai điệu. Album là sự kết hợp của Melodic Death Metal với những đoạn chơi acoustic, keyboards và những cú riff với tempo thay đổi liên tục (Progressive). Album được đánh giá rất cao và trở thành một trong những album kinh điển của Death Metal thế giới.

    Black Tears

    Crimson


    Tuy nhiên, giữa lúc đang lên tới đỉnh cao thì Edge Of Sanity gặp vấn đề nghiêm trọng khi những mâu thuẫn tồn tại âm ỉ từ trước giữ Swano và tay guitar Axelsson bùng phát trong album tiếp sau là Infernal vào năm 1997. Lúc này các thành viên của nhóm chỉ còn là những phần tử rời rạc và không còn thật sự phối hợp với nhau. Các bài hát trong album là tập hợp những sáng tác chủ yếu của Axelsson với một số ít bài của Swano. Chất lượng các bài hát của band nhạc có sự chênh lệch rất rõ và không thực sự thành công. Khi những thành viên trong band không còn cùng nhìn về một hướng, việc chia tay là không thể tránh khỏi. Sau album này, Swano rời nhóm. Các thành viên còn lại tung ra album Cryptic, một album theo phong cách Oldschool Death thất bại thảm hại, các thành viên còn lại cũng từ bỏ Edge Of Sanity. Tới năm 2003, Swano tái lập Edge Of Sanity dưới dạng band nhạc 1 người khi chơi tất cả các nhạc cụ và kiêm cả hát. Album Crimson II được tung ra cùng năm với phong cách âm nhạc khá giống với Crimson (là sự kết hợp của Melodic Death với Progressive Rock) và nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Tuy nhiên, đây cũng là album cuối cùng của nhóm.

    Aftermath


    Cùng với Opeth, Edge Of Sanity là một trong những band nhạc đầu tiên của Thụy Điển tích hợp những ảnh hưởng của Progressive Rock vào Death Metal. Crimson (cả 1 và 2) đều là những album rất hay và có thể coi là kinh điển của Progressive Death Metal thế giới.
     
  18. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Gorguts

    Gorguts​


    Gorguts là một trong những cái tên nổi tiếng nhất của Death Metal Canada (cùng với những band như Cryptopsy, Martyr hay Kataklysm). Tất cả những band nhạc này đều chơi nhạc theo phong cách rất kỹ thuật nhưng có lẽ Gorguts là band nhạc có kỹ thuật tốt nhất trong số những band nhạc kể trên. Nhóm thành lập năm 1989 bởi tay guitar/vocals Luc Lemay tại Quebec, Canada. Sau khi ghi âm album demo đầu tiên nhóm nhận được sự chú ý của hãng đĩa Roadrunner và tung ra album đầu tiên là Considered Dead với sự trợ giúp của tay guitar huyền thoại James Murphy và giọng ca chính Chris Barnes (Cannibal Corpse). Album này chịu ảnh hưởng rất lớn của band nhạc Death (đặc biệt là 2 albums Spiritual Healing và Human). Album thứ hai là The Erosion Of Sanity -1993 tiếp tục chứng kiến sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm khi lần này nhóm chịu ảnh hưởng của những band Technical kiểu Suffocation.
    2 albums đầu tiên khá tốt nhưng nó là chưa đủ so với sự chờ đợi của hãng đĩa Roadrunner nên sau đó hãng đĩa này chấm dứt hợp đồng với band nhạc. Cũng cần phải nhắc lại rằng, những năm sau đó, Death Metal dần đi vào bão hòa, nên việc bị chấm dứt hợp đồng đã khiến band nhạc gặp vô số khó khăn. Vào thời điểm ghi âm và phát hành album thứ 3 là Obscura vào năm 1998, chỉ còn duy nhất Lemay là thành viên sáng lập, còn lại những người khác đã rời nhóm. Tuy nhiên, đây lại là một trong những album kinh điển của Death Metal thế giới khi tích hợp thêm Jazz, Avant Garde và Experimental và Progressive vào Death Metal. Chính vì thế, đây cũng được cọi là một trong những album chơi kỹ thuật và phức tạp nhất của thế giới Metal. Nhưng tiếc rằng đây cũng là tuyệt phẩm duy nhất của Gorguts vì họ chỉ còn kịp tung ra 1 album nữa là From Wisdom To Hate vào năm 2001 rồi tan rã. Âm nhạc trong album này khá đơn giản và rất giống với 2 albums đầu tay chứ không giống Obscura.
    Năm 2008, Lemay tái lập Gorguts và tham gia một số chuyến lưu diễn với một đội hình hoàn toàn mới. Năm 2013, tức là 12 năm sau khi tung ra album From Wisdom To Hate, nhóm tung ra album thứ 5 là Colored Sands. Đây là một album concept với nội dung chính về vùng đất Tây Tạng với văn hóa, lịch sử lâu đời rồi bị Trung Quốc sáp nhập thành một phần lãnh thổ vào năm 1950. Tiếp theo đó là những vụ đấu tranh, biểu tình rồi tự thiêu của những người dân Tây Tạng và những người tìm cách chạy trốn thì bị giết hại. Nội dung câu chuyện khá gai góc và động chạm(chắc sau album này thì các thành viên của Gorguts cũng khó có thể đến Trung Quốc). Về chất lượng âm nhạc thì đây là một trong những album tuyệt với nhất của Metal thế giới trong năm 2013. Âm nhạc trong album là sự kết hợp của Death Metal với Post Metal, Avant Garde Metal và Progressive Metal. Một phần lớn trong album còn được thực hiện với sự trợ giúp của dàn nhạc giao hưởng. Một siêu album mà những fan yêu Metal không thể bỏ qua trong những năm gần đây.

    Inoculated Life

    Condemned To Obscurity

    Earthly Love

    Inverted

    Forgotten Arrows
     
  19. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Augury

    Augury​

    Augury là một trong những band nhạc thuộc thế hệ thứ 4 của Death Metal. Dù ý tưởng về việc thành lập band nhạc đã có từ năm 1997, khi các thành viên của band nhạc gặp nhau và trao đổi, nhưng phải đến năm 2002 nhóm mới chính thức được thành lập tại Montreal, Canada. Như chúng ta đã biết trong phần về Death Metal trước đó, Canada là một quốc gia khá mạnh trong dòng nhạc này với những band nhạc đầy tài năng như Cryptopsy, Kataklysm hay Gorguts. Điểm đặc biệt là các band nhạc này đều xuất xứ từ vùng nói tiếng Pháp của Canada. Các band nhạc ở đây, đáng ngạc nhiên là đều chơi rất mạnh và âm nhạc có phần hỗn loạn. Tuy nhiên, có một điều không nên quên là những âm nhạc của các band này đều rất lạ. Và Augury cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ của Death Metal Canada. Điều này thể hiện rất rõ trong album đầu tay Concealed vào năm 2004. Âm nhạc trong album này là một thứ Death Metal đầy bạo lực kết hợp với Progressive Metal với kỹ năng chơi nhạc tuyệt vời. Trong album, nhóm sử dụng cả giọng gầm gừ kết hợp với clean vocal, đôi khi còn sử dụng cả giọng nữ kiểu opera (Gothic) kết hợp với acoustic guitar (ảnh hưởng của Opeth). Với một phong cách chơi nhạc lạ và khả năng sáng tác rất tốt đưa album trở thành một trong những điểm sáng của Death Metal trong năm 2004.
    Với một band nhạc nhạc mới với khả năng sáng tạo còn nhiều thì đến năm 2006 Augury đã có những sáng tác cho album thứ hai của nhóm. Tuy nhiên, những thay đổi trong nội bộ band nhạc đã khiến cho album không thể tung ra sớm được. Một trong những thay đổi quan trọng nhất là giọng ca nữ kiểu opera lúc này không còn nữa. Vị trí tay trống cũng là một vấn đề đau đầu với band nhạc khi liên tục thay đổi thành viên. Nhưng trong cái rủi cũng có cái may, trong thời gian này Augury được Kataklysm tiến cử với hãng đĩa Nuclear Blast và nhận được hợp đồng với hãng đĩa này. Cũng cần nhắc lại là Nuclear Blast là một trong những hãng đĩa rất nổi tiếng trên thế giới chuyên về Metal nên việc có hợp đồng với hãng này sẽ làm cho âm nhạc của nhóm trở nên phổ biến hơn. Hãng này cũng rất tôn trọng các nghệ sỹ nên cho phép Augury tự do phát triển âm nhạc của mình. Đến năm 2009, Augury tung ra được album thứ hai là Flagmentary Evidence. Đây tiếp tục là một album rất hay với phong cách Progressive Death Metal với những bài hát có cấu trúc phức tạp chịu nhiều ảnh hưởng của jazz và những cú riff, những đoạn solo guitar hết sức kỹ thuật. Một số bài hát trong album dài và nhiều lớp như Jupiter to Ignite hay Oversee the Rebirth khiến band nhạc gần như không dám trình diễn trong những buổi biểu diễn trực tiếp (live show). Album này, có lẽ không nhiều đột biến như album trước đó, nhưng vẫn là một album rất hay và được đông đảo fan hâm mộ trên thế giới chào đón. Hiện tại, Augury đang trong quá trình ghi âm album thứ 3 nhưng vẫn chưa rõ bao giờ album sẽ hoàn thành và tung ra.
    Augury là một trong những tên tuổi tiêu biểu của Death Metal thế hệ mới (thế hệ thứ 4), band nhạc rất có tài và đầy triển vọng để trở thành một band nhạc lớn của Death Metal thế giới.

    The Lair Of Purity

    Simian Cattle

    Beatus
     
  20. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Obscura

    Obscura​


    Trong những năm gần đây, một thế hệ mới của Death Metal dần thành hình với những band nhạc mới hết sức tài năng như Cattle Decapitation, Augury hay một số band như Beyond Creation hay Vale Of Pnath… Và Obscura cũng là một trong những tài năng lớn nhất của Death Metal thế hệ thứ 4 với một phong cách chơi nhạc hết sức kỹ thuật. Obscura – lấy theo tên album kinh điển của Gorguts, thành lập năm 2002 bởi tay guitar/vocal Steffen Kummerer tại Munich, Đức. Trong những năm sau đó, Obscura không thực sự nổi bật và chật vật trong việc tìm kiếm một hợp đồng ghi âm. Năm 2004, nhóm tự tung ra album đầu tay là Retribution nhưng tình hình cũng không khả quan. Âm nhạc trong album này là dạng Technical Death với rất nhiều ảnh hưởng của Death, Morbid Angel và Suffocation (band cover 3 bài hát của 3 band nhạc kể trên trong album này). Phải mãi đến năm 2006, nhóm bất ngờ được biết đến rộng rãi tại cộng đồng hâm mộ Death Metal châu Âu khi có hãng đĩa Vots phát hành lại album Retribution và tham gia chuyến lưu diễn vòng quanh châu Âu với band nhạc Technical Death Suffocation.
    Năm 2007, nhóm có sự thay đổi lớn về mặt nhân sự với những thành viên mới là Muzner – guitars, Grossmann – trống đều đến từ band nhạc chơi rất kỹ thuật Necrophagist. Ở vị trí của tay guitar bass là Thesseling của Pestilence. Đội hình với những thành viên rất kỹ thuật này nhận được sự chú ý của hãng đĩa Mỹ Relapse nên năm 2008, Obscura có được hợp đồng với hãng đĩa này. Nhóm tung ra album thứ 2 là Cosmogenesis vào năm 2009. Album này chứng kiến sự thay đổi rất lớn trong âm nhạc của nhóm với những bài hát có cấu trúc phức tạp (ảnh hưởng của Progressive) và đòi hỏi kỹ năng chơi nhạc cụ rất cao. Dù là một band nhạc Death Metal châu Âu, âm nhạc của nhóm khiến ta gợi nhớ tới nững band như Death hay Cynic ở những khía cạnh tích cực. Album được giới chuyên môn chào đón nhiệt liệt và khiến band nhạc trở nên nổi tiếng trong thế giới của Death Metal.
    Năm 2011, Obscura tung ra album thứ 3 của nhóm là Omnivium. Đây tiếp tục là một album rất hay của nhóm với kỹ năng chơi nhạc, mà ta có thể nói là siêu đẳng. Một lần nữa, album khiến ta nhớ đến những band như Atheist (ảnh hưởng của jazz), Death (cấu trúc bài hát kiểu Progressive), Cynic (sự dụng syntherizer và vocoder) hay Opeth (sự dụng acoustic guitar) ở thời kỳ đỉnh cao của những band nhạc này. Album tiếp tục rất thành công cả về mặt thương mại lẫn chuyên môn và góp phần đưa Obscura trở thành một trong những band nhạc Death Metal hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, sau album thì Obscura rơi vào bất ổn. Đầu tiên là tay bass Thesseling rời band do không thể cáng đáng nổi vai trò trong cả 2 band nhạc Pestilence và Obscura. Sau đó đến lượt Grossmann và Muenzner cùng rời nhóm vì mâu thuẫn về đường hướng phát triển của band nhạc với Kummerer. Kummerer sau đó tìm những thành viên mới để thay thế và chuẩn bị cho việc sáng tác album thứ 4 của nhóm.

    Hate Anthem

    The Anticosmic Overload

    Septuagint



    Bài viết về Obscura cũng là bài viết cuối cùng đóng lại phần Progressive Metal thế giới với những band nhạc rất đặc biệt và được fan hâm mộ yêu thích. Chúng ta sẽ chuyển sang phần viết về Melodic Death Metal.
     
  21. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Melodic Death Metal, Carcass

    Melodic Death Metal​


    Melodic Death Metal hay còn có tên là Melodeath, Gothenburg Metal là một nhánh nhỏ của Death Metal được hình thành và phát triển vào những năm giữa thập niên 90s tại Anh Quốc và Thụy Điển bởi những band như Carcass, At The Gates, Dark Tranquillity, In Flames và một phần nào đó là Dissection. Melodic Death thực chất là sự kết hợp giữa tính giai điệu (Melodic) của Metal cổ ( mà tiêu biểu là Iron Maiden, Judas Priest, Saxon và một số band thuộc trào lưu NWOBHM) với Death Metal. Như miêu tả ở trên, Melodic Death đặc trưng bởi những đoạn riff guitar tốc độ và sự tung hứng mang nặng tính giai điệu giữa 2 tay guitar chơi rất ăn ý của Metal cổ với những tiếng guitar nặng, méo, tiếng trống double bass đầy tốc độ, bạo lực – đôi khi là blast beat (của Death Metal) và giọng hát khàn, gằn xuống, đôi lúc gầm gừ. Những mầm mống đầu tiên của Melodic Death có bắt đầu từ album Necroticism: Descanting the Insalubrious vào năm 1991 của band nhạc Carcass. Carcass khởi đầu là một band nhạc Grindcore nhưng band nhanh chóng chuyển sang phong cách Death Metal và trong album kinh kiển Necroticism, nhóm đã tích hợp rất nhiều ảnh hưởng của Melodic Metal (Metal cổ) vào trong âm nhạc của mình. Sau đó không lâu, một loạt những anh tài của Melodic Death cũng xuất hiện tại Thụy Điển như At The Gates, Dark Tranquillity, In Flames cũng theo bước Carcass phát triển dòng nhạc này. Đến giữa thập kỷ 90s, các band nhạc nêu trên đều tung ra những album kinh điển của dòng nhạc Melodic Death Metal.
    Tuy nhiên, sau khi tung ra những album kinh điển, Carcass và At The Gates tan rã. Nhưng sau đó, Melodic tiếp tục phát triển rất mạnh tại Thụy Điển, đặc biệt là những band đến từ thành phố Gothenburg (vì thế nó còn có tên là Gothenburg Death Metal) với một loạt những tên tuổi nổi tiếng như Arch Enemy, Amon Amarth… và lan ra các nước Bắc Âu khác rồi lan ra toàn thế giới. Đến cuối thập kỷ 90s nhiều band bắt đầu sử dụng keyboards vào trong Melodic Death. Phong cách sử dụng keyboards trong Melodic trở nên nổi tiếng và có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành của dòng nhạc Metalcore tại Mỹ sau này.
    Do tính chất hết sức khác biệt của Melodic Death Metal với Death Metal truyền thống (ít bạo lực hơn) nên nó gây ra sự chia rẽ trong nội bộ fan của Death Metal: nhiều fan của Death Metal không chấp nhận Melodic Death vì nó không thuần chủng, một bộ phận rất lớn khác lại rất thích phong cách Melodic Death vì nó có giai điệu và dễ nghe hơn. Dù có yêu thích Melodeath hay không thì nó vẫn là một phần hết sức quan trọng của Death Metal thế giới mà chúng ta không thể bỏ qua trong một topic viết về Death Metal. Vì thế chúng ta sẽ đến với lịch sử sự hình thành và phát triển của Melodeath. Trước tiên ta đến với Carcass.


    Carcass​


    Carcass là một trong những band nhạc sáng tạo nhất của Extreme Metal thế giới. Nhóm thành lập từ năm 1985 tại Liverpool bởi tay guitar Bill Steer và tay trống Ken Owen dưới cái tên Disattack. Tay bass Jeff Walker gia nhập nhóm sau khi tung ra album demo A Bomb Drops vào năm 1996. Steer sau đó tham gia nhóm Napalm Death và giúp nhóm này tung ra album kinh điển Scum vào năm 1987. Cũng trong năm này, Disattack đổi tên thành Carcass và bắt tay vào ghi âm album đầu tay. Năm 1988, nhóm tung ra album Reek Of Putrefaction, một album ghi âm rất tồi (ghi âm trong vòng 4 ngày). Album này mang hoàn toàn tính grindcore với những bài hát rất ngắn (chỉ 1,2 phút). Đây cũng là một trong những album grindcore sớm nhất (chỉ sau Scum của Napalm Death) nên có thể coi Carcass là một trong những nhóm nhạc tiên phong của dòng nhạc này. Dù bản than band nhạc không mấy hài lòng với album, nó vẫn gây sự chú ý của John Peel, biên tập viên huyền thoại của kênh Radio 1, thuộc tập đoàn truyền thông quốc gia BBC. Sau đó, Carcass trở nên khá nổi tiếng với việc tham gia biểu diễn trên kênh Radio này.

    Exhume To Consume

    Album thứ 2 của nhóm là Symphonies Of Sickness được tung ra vào cuối năm 1989 chứng kiến sự thay đổi rất lớn trong âm nhạc của nhóm. Từ grindcore nhóm chuyển dần sang Death Metal, tất nhiên những ảnh hưởng của grindcore vẫn còn nên âm nhạc trong album này gần như là sự pha trộn của Death và Grindcore. Do đã khá nổi tiếng nên album này được ghi âm khá tốt và dễ nghe hơn. Giọng hát trong album là sự kết hợp của Death và giọng khàn. Các bài hát dài hơn. Đây chưa thực sự là một album hay nhất của Carcass nhưng nó có vai trò quan trọng vì là một trong những album Deathgrind đầu tiên trên thế giới.

    Reek of Putrefaction


    Bước sang thập kỷ 90s cũng là lúc Carcass vươn tới đỉnh cao trong sự nghiệp của mình với những album kinh điển không chỉ của Death Metal mà còn của Metal thế giới nói chung. Trước tiên là album Necroticsm : Descanting The Insalubrious năm 1991. Lúc này nhóm đã kết nạp thêm tay guitar thứ hai là Mike Amott và âm nhạc của nhóm chuyển hoàn toàn sang Death Metal mà không còn bất kỳ dấu vết gì của grindcore nữa. Các bài hát trong album dài và phức tạp hơn so với 2 albums đầu tay rất nhiều (album dài hơn 48 phút với 8 bài hát trung bình 6 phút/bài). Bản thân các thành viên band nhạc gọi đây là Progressive Death Metal nhưng nếu so với các band nhạc Progressive Death cùng thời như Atheist, Cynic, album này không có nhiều điểm chung về mặt âm nhạc. Mặc dù các bài hát phức tạp hơn nhiều, vẫn không thể gọi nó là Progressive được mà thực chất nó là một album theo phong cách Brutal Death Metal với những ảnh hưởng của Melodic Metal kiểu Iron Maiden. Album hay và rất lạ (mang nhiều tính giai điệu – Melodic) và trở thành một album kinh điển của Death Metal thế giới.
    Incarnated Solvent Abuse

    Corporal Jigsore Quandary


    (còn tiếp)
     
  22. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Carcass

    Carcass​


    Năm 1993, Carcass tiếp tục tung ra album kinh điển tiếp theo trong sự nghiệp của mình – album Heartwork. Trong album này, âm nhạc của Carcass tiếp tục thay đổi rất mạnh mẽ. Những mầm mống đầu tiên của Melodic Death trong album lần trước trở thành chất liệu chính trong album này (đẩy Death Metal trở thành chất liệu phụ). Như đã miêu tả, âm nhạc của Carcass lúc này là Melodic Metal kết hợp với tiết tấu nhanh, mạnh và giọng hát của Death Metal. Album vì thế ít tính bạo lực hơn và band nhạc cũng không còn sử dụng những lời bài hát về máu me, phẫu thuật. Cũng cần nhắc lại là việc Carcass thường xuyên sử dụng lời bài hát về phẫu thuật, y học cũng làm dấy lên tin đồn rằng các thành viên của band nhạc là sinh viên y khoa nhưng sự thật không phải như vậy. Các bài hát trong album này ngắn hơn, đơn giản hơn so với Necrotiscm nhưng chất lượng thậm chí còn cao hơn. Tất cả các bài hát đều có giai điệu hay và dễ nhớ với những đoạn solo guitar đặc trưng cho Melodeath sau này. Đây chính là một trong những album Melodic Death Metal đầu tiên trên thế giới (một số album khác của At The Gates, Dark Traquillity lúc này cũng đã được tung ra). Có thể, nó không phải album đầu tiên của Melodic Death nhưng có một điều chắc chắn, đây là siêu phẩm đầu tiên của Melodic Death và là một album kinh điển của Metal thế giới.

    Heartwork

    No Love Lost



    Sau những album kinh điển và sự trợ giúp của John Peel, Carcass đã trở thành một siêu sao trong làng nhạc Metal thế giới. Lúc này thì Amott đã rời nhóm và sau này rất nổi tiếng với việc thành lập band nhạc Arch Enemy. Nhưng đó là chuyện về sau, còn trong Carcass, đóng góp của anh hết sức hạn chế (album kinh điển Heartwork với phần guitar được ghi âm hoàn toàn bởi Steer – do Amott vắng mặt vì bị mất hộ chiếu không thể trở về Anh). Carcass lúc này chuyển sang một hãng ghi âm khổng lồ là Colombia thuộc tập đoàn Sony. Họ thậm chí được cấp tới 200 000$ để ghi âm album thứ 5 của nhóm. Đến cuối năm 1994, nhóm đã ghi âm xong 17 bài hát. Tuy nhiên, những bài hát này của Carcass lại không được hãng đĩa chấp nhận. Tranh cãi kéo dài và cuối cùng Carcass trở lại với hãng đĩa Earache để tung ra album cuối cùng Swansong vào năm 1996. Âm nhạc trong album này hoàn toàn thay đổi so với album trước đó khi những phong cách tiêu biểu của Carcass như: sử dụng nhiều lớp guitar, Death Metal, blast beat… tất cả đều không còn. Album này nghe giống âm nhạc của Megadeth hơn là Carcass. Những rắc rối với hãng đĩa khiên các thành viên của Carcass quyết định chấm dứt sự nghiệp trước cả khi album cuối cùng được tung ra. 3 thành viên của Carcass lập 1 band mới là Blackstar với phong cách chơi nhạc kiểu Swansong còn Steer thành lập nhóm Stoner Rock Firebird.

    Room 101


    Mike Amott có thể không đóng góp được nhiều vào âm nhạc của Carcass nhưng anh này có vai trò quyết định tới sự tái lập của Carcass vào năm 2007. Arch Enemy của Mike Amott rất thành công, đặc biệt là tại Nhật Bản, chính vì vậy, anh này cũng thường xuyên lưu diễn tại đất nước này. Tại Nhật Bản, album Heartwork của Carcass được tôn thờ, điều này đã khiến Amott quay lại thuyết phục Bill Steer – linh hồn của Carcass tái lập lại band nhạc. Dù đã bỏ chơi Extreme Metal từ lâu, nhưng khi nghe Amott thuyết phục, Steer liền cầm cây guitar lên và chơi những đoạn riff của Carcass và anh này quyết định tái lập Carcass vào năm 2007 với Jeff Walker, Mike Amott và tay trống Erlandsson (của nhóm Arch Enemy). Lúc này thì cả Amott, Walker, Steer đều là những cá tính lớn trong band nhạc nên không ai chịu ai và band nhạc không thể sáng tác được các bài hát mới mà chỉ đi lưu diễn. Đến năm 2012 điều gì cần đến cũng phải đến, cả Amott và Erlandsson đều rời nhóm để tập trung vào Arch Enemy. Bộ đôi Walker, Steer kết nạp thêm tay trống Wilding và nhóm tung ra album thứ 6 là Surgical Steel vào năm 2013. Album rất hay và gợi cho chúng ta nhớ đến quá khứ hào hùng của Carcass với những album như Necroticism, Heartwork hay Swansong.

    Unfit For Human Consumption

    Captive Bolt Pistol


    Carcass là một trong những band nhạc đặc biệt nhất trong lịch sử của Death Metal với những album hết sức khác lạ và chất lượng. Họ đồng thời cũng là một trong những band tiên phong trong rất nhiều nhánh nhạc như grindcore, deathgrind hay melodeath. Những siêu phẩm như Necroticism hay Heartwork là những album không thể thiếu trong bất kỳ bộ sưu tập nào về Death Metal thế giới.
     
  23. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Dark Tranquillity

    Dark Tranquillity​


    Dark Tranquillity có lẽ là band nhạc Melodeath có sự nghiệp kéo dài nhất trong lịch sử của dòng nhạc này. Nhóm thành lập năm 1989 tại Thụy Điển bởi cặp đôi guitar Mikael Stanne và Niklas Sundin, sau đó lần lượt vocalist Anders Friden, bassist Martin Henriksson và tay trống Anders Jivarp gia nhập nhóm. Lúc đầu nhóm lấy tên là Septic Broiler và tung ra 1 album demo vào năm 1990. Sau đó, nhóm thay đổi phong cách chơi nhạc và đổi tên thành Dark Tranquillity như hiện tại. Sau khi tung ra một loạt những album demo, nhóm tung ra album đầu tay Skydancer vào mùa thu năm 1993. Đây là một album khá lạ tại thời điểm nó được tung ra (album này tung ra trước album Heartwork của Carcass khoảng 4 tháng). Nó là một album Melodic Death Metal thực sự với rất nhiều ảnh hưởng của Iron Maiden. Một số bài trong album còn chịu thêm ảnh hưởng của Progressive (cấu trúc bài hát) và sử dụng cả clean vocacl và giọng nữ cao kiểu opera. Các bài hát trong album có chất lượng không tệ nhưng thu âm thì quá kém khiến album không thể trở thành kinh điển của Melodeath Metal thế giới. Nguyên nhân chính là do band nhạc lúc này còn mới, hãng đĩa chỉ cho họ khoảng 10 ngày để thu âm và sản xuất album nên chất lượng không thể tốt được.
    Sau album Skydancer, Dark Tranquillity thay đổi lớn về mặt nhân sự khi giọng ca chính Friden bị sa thải. Tay guitar Stanne trở thành giọng ca chính (trước đó anh này là giọng ca chính của nhóm nhạc huyền thoại Melodeath khác là In Flames). Stanne đảm nhận vai trò hát chính và từ bỏ luôn việc chơi guitar, Dark Tranquillity thuê thêm tay guitar Fredrik Johansson. Cùng với đội hình này, nhóm tung ra album The Gallery, một siêu phẩm của Melodeath vào thời điểm những năm giữa thập niên 90s. So với album trước, album này chất lượng tốt hơn rất nhiều với những đặc biệt vô cùng dễ nhận ra của Melodeath như: sử dụng cặp đôi ghi ta leads và sử dụng acoustic guitar. Giọng ca của Stanne mạnh mẽ hơn so với Friden. Với những bài hát chất lượng và khả năng chơi nhạc ăn ý, album trở thành một trong những đỉnh cao của Melodeath.
    Tuy nhiên, sau album đỉnh cao The Gallery, sự nghiệp của Dark Tranquillity không thể cất cánh bởi một loạt những thử nghiệm mới trong âm nhạc của họ. Trong album The Mind’s I -1997, nhóm chuyển sang chịu nhiều ảnh hưởng của Progressive và Gothic. Trong Projector -1999, nhóm lại chịu ảnh hưởng của Depeche Mode khi sử dụng nhiều âm thanh điện tử, piano và clean vocal. Phong cách chịu ảnh hưởng của electronic tiếp tục ảnh hưởng mạnh hơn nữa trong album Heaven -2000 với việc sử dụng keyboards và chơi nhẹ hơn nhiều. Hai 2 albums tiếp theo là Damage Done -2002 và Character -2005 chứng kiến sự trở lại của âm thanh Melodeath mạnh mẽ kiểu The Gallery và được fan hâm mộ hết sức yêu mến. Album Fiction -2007 tiếp tục nhận được rất nhiều lời khen ngợi trên toàn thế giới khi kết hợp những âm thanh mạnh mẽ của Character với một số ảnh hưởng kiểu electronic của Projector và Heaven. 2 album cuối cùng của nhóm là We Are The Void -2010 và Construct -2013 không thực sự quá nổi bật và có phần cạn kiệt ý tưởng. Vẫn là chất âm nhac kiểu Fiction nhưng thiếu vắng những đoạn solo guitar hay và những bài hát chất lượng vừa phải. Tuy sự nghiệp có xu hướng đi xuống trong những năm gần đây, Dark Tranquillity vẫn là một trong những tên tuổi nổi bật nhất trong làng Melodeath thế giới và có lẽ là band nhạc tồn tại lâu nhất trong lịch sử của dòng nhạc này. Cũng không nên quên The Gallery là một siêu phẩm của nhóm.

    A Bolt of Blazing Gold

    Lethe

    Therein

    Lost to Apathy

    Focus shift
     
  24. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    At The Gates

    At The Gates​


    Thành lập từ năm 1990 tại Gothenburg, At The Gates là một trong những tên tuổi đầu tiên tạo dựng nên Melodeath. Khi mới thành lập, At The Gates chơi theo phong cách Technical Death Metal tuy nhiên âm nhạc của họ vẫn có nhiều sự khác biệt so với những band nhạc cùng thời khi tích hợp thêm khá nhiều ảnh hưởng của Progressive (các bài hát có cấu trúc phức tạp). Album đầu tay của nhóm là The Red In The Sky Is Ours được tung ra vào năm 1992 mang rất nhiều ảnh hưởng của Progressive. Nhưng những hạn chế về khả năng chơi nhạc của các thành viên khiến cho album không thực sự nổi bật (mặc dù ý tưởng của các bài hát là rất tốt).

    Kingdom Gone


    Sau khởi đầu không mấy thành công, band nhạc còn đón nhận thêm tổn thất nữa khi tay guitar, đồng thời là người sáng tác chính Alf Svensson rời khỏi nhóm. Album tiếp theo của nhóm là With Fear I Kiss The Burning Darkness Reviews tung ra vào năm 1993 vời hầu hết tất cả các sáng tác đều của Svensson. Album này chứng kiến sự trưởng thành khá nhanh của At The Gates với những bài hát có cấu trúc hợp lý hơn. Kỹ năng chơi nhạc của band cũng tăng một cách đáng kể. Những dấu hiệu đầu tiên của Melodeath cũng có trong album này với những đoạn tung hứng guitar. Album khá hay và nhận được nhiều lời khen ngợi của cả fan hâm mộ Progressive Death cũng như Oldschool Death Metal.

    The Burning Darkness


    Tuy rời nhóm sau album đầu tiên, những ảnh hưởng của Svensson vẫn còn tiếp tục trong album thứ 3 của nhóm là Terminal Spirit Disease vào năm 1994. Một phần không nhỏ những cú riff trong album vẫn là sáng tác của anh này. Do đó, album vẫn mang tính Progressive với những bài hát khá phức tạp. Tuy nhiên, vì Svensson chỉ còn đóng góp một phần trong âm nhạc của At The Gates nên âm nhạc của nhóm tiếp tục có sự thay đổi lớn khi tính Melodic xuất hiện rất rõ ràng (với những đoạn riff mạnh mẽ và điệu trống kiểu Thrash).

    Terminal Spirit Disease


    At The Gates vươn lên đỉnh cao trong sự nghiệp của mình với album cuối cùng, album kinh điển Slaughter Of Soul vào năm 1995. Trong album này, những ảnh hưởng của Progressive hoàn toàn không còn tồn tại. Album đánh đơn giản hơn rất nhiều và là một album Melodeath thuần chủng với rất nhiều ảnh hưởng của Entombed. Đây là một trong những album kinh điển của Melodeath thế giới cùng với những siêu phẩm như Heartwork của Carcas, The Gallery – Dark Tranquillity hay The Jester Race – In Flames. So với những album kinh điển trên, Slaughter Of Soul đánh mạnh hơn khá nhiều với những bài hát ngắn, tiết tấu nhanh và rất nhiều blastbeats. Album đánh không quá phức tạp, kỹ thuật không cao nhưng bù lại có nhiều đoạn tung hứng tuyệt vời giữa 2 tay guitar (một đặc trưng của Melodic). Album hết sức thành công cả về mặt thương mại lẫn chuyên môn và trở thành một trong những album kinh điển của Death Metal thế giới. Tuy nhiên, đây cũng là album cuối cùng của nhóm vì đến năm 1996 thì nhóm tan rã, để lại rất nhiều sự tiếc nuối cho các fan hâm mộ Melodeath thế giới. Phải đến năm 2007, nhóm mới tái lập nhưng sau đó lại tan rã, rồi lại tái lập một lần nữa vào năm 2010. Dự kiến nhóm sẽ tung ra album tiếp theo vào cuối năm 2014 với cái tên At War With Reality.
    Blinded By Fear

    Slaughter Of The Soul


    Tuy sự nghiệp không kéo dài, At The Gates vẫn là một tên tuổi tạo dựng nên Melodeath Thụy Điển và có rất nhiều ảnh hưởng. Siêu phẩm Slaughter Of Soul của họ luôn có mặt trong bất kỳ một bộ sưu tập nào về Melodic Death Metal với một vị trí trang trọng. Đây cũng chính là một trong những album kinh điển của Death Metal thế giới.
     
  25. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    In Flames

    In Flames​


    Cái tên cuối cùng trong bộ tứ tạo dựng nên phong cách Melodeath là In Flames. Đây cũng là nhóm nhạc thành công nhất của Melodeath trên toàn thế giới với khoảng hơn 2 triệu bản bán được trong sự nghiệp. In Flames thành lập năm 1990 tại Gothenburg bởi tay guitar Jesper Stromblad và ban đầu chỉ là một dạng side project (band nhạc phụ) vì tay guitar Stromblad đang là thành viên chính thức của Ceremonial Oath – một band nhạc Death Metal khác của Thụy Điển. Mục tiêu chính của Stromblad là sáng tác và chơi những bản nhạc mang nhiều tính giai điệu hơn, điều mà anh không thể thực hiện ở Ceremonial Oath. Do khó khăn trong việc tìm giọng ca chính, Stromblad mời tay guitar Mikael Stanne của nhóm Dark Tranquillity vào hát chính và nhóm tự tung ra album đầu tay Lunar Strain vào năm 1994. Đây là một album Melodic Death Metal thực sự và cũng là một trong những album Melodic Death sớm nhất trên thế giới. Trong album này, In Flames sử dụng 3 tay guitar, Stromblad vừa đảm nhận vai trò guitar vừa chơi trống. Việc sử dụng 3 tay guitar (1 rhymthm, 2 lead) với phong cách tung hứng thường thấy của Melodic Metal (Iron Maiden). Ngoài những điểm đặc trưng của Death Metal như giọng hát gầm gừ, trống double bass, blast beats, album còn tích hợp thêm cả những đặc điểm của folk và dùng nhiều acoustic guitar. Album có chất lượng khá tốt dù ghi âm kém.
    Sau khởi đầu đầy hứa hẹn với Lunar Strain, Stromblad quyết định đưa In Flames trở thành một band nhạc chính thức chứ không còn tồn tại dưới dạng side project với việc mời thêm tay trống, guitar Gelotte và giọng ca chính Anders Friden (giọng ca chính của Dark Tranquillity). Hay nói 1 cách khác thì Dark Tranquillity và In Flames đổi giọng ca chính cho nhau sau album đầu tiên. Năm 1996, In Flames tung ra album kinh điển The Jester Race. Trong album này, In Flames vẫn sử dụng 3 guitar và nghiêng rất nhiều về phía giai điệu (Melodic). Có thể nói, album này mang nhiều chất Iron Maiden hơn là Death. Giọng ca của Friden nghiêng về gào thét bằng giọng khàn(screaming) hơn là gầm gừ. Album thu âm rất tốt, có giai điệu đẹp và khá nhẹ nhàng so với những album kinh điển của Carcass, Dark Tranquillity, At The Gates. Album này hết sức thành công và góp phần rất lớn đưa tên tuổi của In Flames trở nên phổ biến rộng rãi trong cộng đồng những người yêu Metal thế giới.
    Sau khi tung ra 1 album EP khá thành công là Subterranean, In Flames tiếp tục tung ra 1 album rất hay khác là Whoracle vào năm 1997. Đây là một album concept với nội dung chính viết về quá khứ, hiện tại và tương lai của loài người: từ khi xuất hiện, phát triển và sau cùng là tự hủy diệt mình bằng khoa học công nghệ. Khi con người kịp nhận ra điều này thì đã quá muộn và không thể thay đổi được số phận của mình được nữa. Các bài hát trong album này dễ nghe và đơn giản hơn album trước rất nhiều nhưng lại rất khác biệt (có thể dễ dàng phân biệt các bài hát với nhau). Tuy nhiên chất lượng ghi âm kém khiến album không được đánh giá cao. Nguyên nhân chính cho việc ghi âm kém chính là do các thành viên band nhạc. Trong thời gian ghi âm album này, các thành viên của band chủ yếu tập trung chơi game thay vì chú trọng tới việc ghi âm. Tuy có những hạn chế, album vẫn được khá nhiều fan hâm mộ yêu mến.
    Sau album Whoracle vào khá thành công, In Flames tung ra album tiếp theo là Colony vào năm 1999. Lúc này Gelotte chuyển sang chơi guitar và nhường lại vị trí trống cho Daniel Svensson. Album này đánh có phần mạnh hơn so với Whoracle nhưng các bài hát thì lại không được tốt như album trên. Giữa 2 album có rất nhiều điểm chung nhưng album này được ghi âm tốt hơn rất nhiều.
    Chỉ sau đó 1 năm, tức là vào năm 2000, In Flames tung ra album Clayman. Lúc này âm nhạc của In Flames tiếp tục có nhiều thay đổi với việc vocalist Friden bắt đầu chịu ảnh hưởng của nhóm nhạc Korn. Tuy nhiên những điểm đặc trưng cho Melodic Death vẫn còn rất nhiều trong album này và album được ghi âm rất tốt. Các bài hát trong album khá hay và dễ nhớ với những đoạn solo guitar và riff mang nhiều tính giai điệu. Việc thay đổi trong giọng hát của Friden khiến album nghiêng dần về hướng mainstream và dễ nghe hơn. Sự thay đổi này là nguyên nhân chính dẫn đến sự chia rẽ trong nội bộ fan của Melodeath với rất nhiều tranh cãi. Đây cũng là album Melodic Death cuối cùng của In Flames, sau album này họ chuyển dần sang kiểu Alternative/Nu Metal và trở thành một trong những band nhạc có tên tuổi và thành công nhất về mặt thương mại trên thế giới với những album xếp hạng rất cao trên các bảng xếp hạng của Mỹ, Thụy Điển như Rerout To Remain -2002, Soundtrack To Your Escape -2004, Come Clarity -2006, A Sense Of Purpose -2008, Sounds Of A Playground Fading-2011 và Siren Charms -2014. Các album này đều có mặt trong top 5 của Thụy Điển, thậm chí Come Clarity, A Sense Of Purpose và Siren Charms còn chiếm hạng nhất tại nước này biến In Flames thành một band nhạc mainstream trên toàn thế giới. Tuy nhiên, trái với những thành công về mặt thương mại, In Flames lại bị fan hâm mộ Melodeath ngoảnh mặt. Nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò rất quan trọng của band nhạc trong việc phát triển Melodeath Metal trên thế giới.

    In Flames

    Moonshield

    Episode 666

    Man Made God

    Pinball Map

    Trigger

    Take This Life
     

Share This Page

Loading...