Hypocrisy Hypocrisy Chúng ta đã chứng kiến sự hình thành của Melodeath Metal trong những bài viết về 4 thành viên gạo cội góp phần rất lớn vào sự hình thành của dòng nhạc này là Carcass, Dark Tranquillity, At The Gates và In Flames. Vào những năm giữa thập niên 90s các band nhạc kể trên đều tung ra những album kinh điển và góp phần rất lớn vào việc phổ biến dòng nhạc này ra thế giới. Ngoài những band nhạc mới xuất hiện, một số band nhạc Death Metal truyền thống cũng dần chuyển sang chơi Melodeath và Hypocrisy. Hypocrisy thành lập từ năm 1990 và ban đầu là một dự án solo của tay guitar Peter Tagtgren. Dù là một band nhạc Thụy Điển, âm nhạc của Hypocrisy lúc đầu lại mang phong cách Florida Death Metal. Điều này cũng không quá ngạc nhiên vì Tagtgren đã có một thời gian khá dài sống ở Florida (3 năm) trước khi trở về Thụy Điển và bắt đầu sự nghiệp âm nhạc. 2 albums đầu tiên của nhóm trong thời kỳ oldschool Death Metal là Penetralia -1992 và Osculum Obscenum -1993 không thực sự gây được nhiều sự chú ý. Đến năm 1994, nhóm tung ra album thứ 3 là the Fourth Dimesion với rất nhiều sự thay đổi trong cả đội hình (từ 5 thành viên trong album đầu xuống chỉ còn 3 thành viên trong album này) lẫn phong cách chơi nhạc. Dù album vẫn mang nặng tính Death Metal, Tagtgren đã sử dụng thêm cả keyboards và nhiều ảnh hưởng của Melodic vào trong âm nhạc của nhóm. Vào năm 1996, Hypocrisy tung ra album kinh điển Abducted. Lúc này âm nhạc của nhóm đã chuyển hoàn toàn sang kiểu Melodic Death. Với những bài hát rất hay như Roswell 47 hay Killing Art và chất lượng ghi âm tuyệt vời, album trở thành một trong những album hay nhất trong lịch sử của nhóm. Tiếp theo album Abducted, Hypocrisy tung ra một album có chất lượng rất tốt là The Final Chapter vào năm 1997 rồi tan rã tạm thời. Nguyên nhân tan rã của Hyporcisy là do Tagtgren quá bận rộn với vai trò trong cả band nhạc lẫn nhà sản xuất của một loạt những band nhạc khác và điều hành cả một phòng ghi âm khá nổi tiếng và không có thời gian duy trì band nhạc. Tuy nhiên, dù tan rã, band nhạc nhanh chóng trở lại và tung ra 1 loạt những album khá hay của Melodic Death như: Hypocrisy -99, Into The Abyss -2000, Catch 22-2002, The Arrival -2004, Virus -2005, A Taste Of Extreme Divinity -2009 và End Of Disclosure -2013. . Tuy cùng là Melodic Death nhưng âm nhạc của Hypocrisy có rất nhiều sự khác biệt so với những band của Gothenburg Metal khi tích hợp nhiều phong cách khác nhau trên nền Oldschool Death Metal trong những album đầu tiên. Rosewell 47 The Final Chapter Eraser Scrutinized End Of Disclosure
Arch Enemy Arch Enemy Arch Enemy là một trong những band nhạc đầu tiên trong thế hệ thứ hai của Melodeath và cũng là một trong những người khổng lồ của dòng nhạc này. Nhóm thành lập tại Halmstad, Thụy Điển bởi tay guitar Mike Amott , cựu thành viên của Carcass và giọng ca chính Johan Liiva của nhóm Carnage. Trong năm 1996, Arch Enemy tung ra album đầu tay là Black Earth. Album này, hơi lạ thường, là đạt được thành công lớn tại Nhật Bản và gây được sự chú ý tại quốc gia này. Về mặt âm nhạc, album này chơi theo phong cách Melodic Death kiểu cổ, tức là vẫn còn rất mạnh và bạo lực kèm theo một chút ghi âm khá thô. Do album này thực chất là một album solo của Mike Amott, khi anh này viết toàn bộ các bài hát, đảm nhiệm vai trò lead và rhymth guitar cũng như chơi luôn cả bass nên album còn khá nhiều điểm yếu như các bài hát khá đơn giản, nhưng không quá khác biệt, khó nhớ. Ngoài ra chất lượng ghi âm của album không tốt cũng là một trong những điểm yếu của album. Bù lại phần leads guitar của 2 anh em nhà Amott: Mike và Christopher là rất tốt và nhiều cảm xúc nên album này có chất lượng khá và là một khởi đầu đầy hứa hẹn cho Arch Enemy. Bury Me An Angel Sự nghiệp của Arch Enemy tiếp tục phát triển rất mạnh với album thứ 2 là Stigmata vào năm 1998. Lúc này Arch Enemy đã là một band nhạc thực sự với sự xuất hiện của một tay bassist mới là Martin Bengtsson. Các bài hát trong album này chủ yếu được sáng tác bởi anh em nhà Amott. Trong album này, âm nhạc của Arch Enemy chịu nhiều ảnh hưởng của Metal cổ và cả những cú riff của Thrash Metal. Album gợi chúng ta nhớ tới siêu album Heartwork của nhóm nhạc huyền thoại Carcass. Album khá hay và nhận được nhiều lời khen ngợi của giới chuyên môn trên toàn thế giới. Đây cũng là album đầu tiên của Arch Enemy được tung ra trên toàn thế giới và nó cũng gây được ấn tượng rất tốt tại châu Âu và Mỹ. Bridge of Destiny Album thứ 3 của Arch Enemy là Burning Bridges được tung ra vào năm 1999 tiếp tục là một bước phát triển hợp lý của nhóm. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của Melodic Death của In Flames, Carcass với những ảnh hưởng của Hardrock cổ (Thin Lizzy, Wishbone Ash) với Metal truyền thống (Iron Maiden, Judas Priest). Lúc này ảnh hưởng của Thrash Metal đã trở nên hết sức rõ nét. Album tiếp tục được đánh giá rất cao trên thế giới. Tuy khá thành công với 3 albums đầu tay nhưng giọng ca của Liiva là một điểm yếu của Arch Enemy khi thiếu lực, nhất là trong các buổi biểu diễn live. Chính vì lý do này, sau album Burning Bridges, Mike Amott yêu cầu Liiva rời khỏi nhóm. Liiva sau đó được thay thế bằng một giọng ca nữ huyền thoại của Extreme Metal – Angela Gossow. Gossow tại thời điểm này chỉ là một nhà báo nghiệp dư tại Đức và cô đã gửi một bản demo giọng hát của mình cho Christopher Amott trong một buổi phỏng vấn anh này đầu năm 2000. Gossow là người có đóng góp rất lớn để Arch Enemy trở thành một band nhạc hàng đầu của Melodic Metal thế giới trong thập kỷ 2000s. The Immortal Silverwing (còn tiếp)
Arch Enemy Arch Enemy Năm 2001, Arch Enemy tung ra album đầu tay với giọng ca mới Gossow là Wages Of Sin. Vào thời điểm đầu những năm 2000s, việc thuê một giọng ca nữ hát trong một band nhạc Death Metal khiến rất nhiều người hâm mộ nghi ngờ và nghĩ rằng Arch Enemy đang tự hủy diệt tương lai của chính minh. Nhưng khi Wages Of Sin được tung ra mọi sự nghi ngờ về tài năng của Gossow buộc phải chấm dứt. Điều kỳ lạ là dù là giọng ca nữ nhưng giọng của Gossow thậm chí còn mạnh mẽ và bạo lực hơn cả giọng của Liiva. Dù thiếu vắng khá nhiều đoạn guitar solo ấn tượng, đây vẫn là một album rất hay của nhóm và tiếp tục đưa tên tuổi Arch Enemy lên thành những siêu sao trên bầu trời Metal thế giới. Ravenous Enemy Within Album tiếp theo của Arch Enemy là Anthems Of Rebellion tiếp tục là một bước tiến mới trong sự nghiệp của nhóm. Trong album này, Arch Enemy thử nghiệm phong cách sử dụng kết hợp clean vocal của Christopher kết hợp với giọng gầm gừ kiểu Death của Gossow. Với bản hit Dead Eyes See No Future, album tiếp tục thành công trên phạm vi toàn cầu. Dead Eyes See No Future Năm 2005, Arch Enemy tung ra album thứ 6 trong sự nghiệp của nhóm là Doomsday Machine. Nếu như album trước đó là Anthems Of Rebellion chỉ có duy nhất 1 bản hit có chất lượng cao nhất thì album này có 3 bài hát đáng chú ý. Nó cũng chính là 3 bài đầu tiên của album. Các bài hát khác trong album thì chất lượng kém khá xa so với 3 bài đầu. Tuy vậy, album này còn có phần khá hơn so với album trước. Nó cũng đánh dấu thành công đầu tiên về mặt thương mại của Arch Enemy tại thị trường nước Mỹ khi xuất hiện ở vị trí thứ 87 trên bảng xếp hạng của nước này. Sau album này, tay guitar Christopher rời tạm thời rời nhóm để tập trung vào cuộc sống riêng. Nhưng sau đó anh này tiếp tục quay trở lại để ghi âm album tiếp theo của nhóm là Rise Of The Tyrant vào năm 2007. Nemesis My Apocalypse (còn tiếp)
Arch Enemy Arch Enemy (tiếp theo và hết) Cuối năm 2007, Arch Enemy tung ra album thứ 7 trong sự nghiệp của nhóm là Rise Of The Tyrant. Nếu như trong 2 albums trước đó, Arch Enemy có vẻ chững lại thì đến album này, nhóm tiếp tục vươn tới một đỉnh cao mới trong sự nghiệp. Điểm thay đổi cốt yếu của album này so với những album trước đó là tính bạo lực, album đánh mạnh hơn rất nhiều. Các bài hát trong album khá đều tay và có chất lượng rất tốt. Grossow cũng không còn sử dụng phong cách double vocal trong album mà chỉ sử dụng duy nhất 1 lớp vocal. Album tiếp tục là một điểm sáng trong sự nghiệp của Arch Enemy. Album cũng tiếp tục thành công khi vượt qua Doomsday Machine và xếp hạng 84 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Revolution Begins I Will Live Again Sau khi tung ra 1 album tuyển chọn ghi âm lại những bài hát hát cũ của nhóm là Root Of All Evil vào năm 2009 (các bài hát trong album này đều lấy từ 3 albums đầu tay là Black Earth, Stigmata và Burning Bridges được ghi âm lại với giọng hát của Grossow) là một giai đoạn bận rộn trong sự nghiệp của Arch Enemy với những chuyến lưu diễn kéo dài với những ên tuổi khổng lồ như Megadeth, Judas Priest, Slayer, Anthrax… Phải mãi tới năm 2011, nhóm mới tung ra album studio tiếp theo là Khaos Legions. Album này cũng tiếp tục thành công về mặt thương mại khi vươn lên vị trí thứ 78 trên bảng xếp hạng tại Mỹ, tuy nhiên album không có quá nhiều đột biến về mặt âm nhạc và chất lượng cũng chưa bằng Rise Of The Tyrant. Đây cũng là album cuối cùng của 2 nhân vật chủ chốt của Arch Enemy là giọng ca chính Grossow và tay guitar Christopher. Sau album này, cả 2 đều rời khỏi nhóm vì những lý do khác nhau. Dark Insanity Thay thế cho Christopher là Nick Cordle của nhóm Arsis và thay thế cho Grossow là một giọng ca nữ khác Alissa White Gluz của nhóm The Agonist. Giọng của Gluz trầm hơn nhưng cũng không kém phần bạo lực so với Grossow. Album đầu tiên của White Gluz với Arch Enemy là War Eternal được tung ra vào giữa tháng 9 năm 2014. Trái với sự lo ngại của nhiều fan hâm mộ rằng sự nghiệp của Arch Enemy sẽ đi xuống sau khi mất 2 thành viên trụ cột, band nhạc đã chứng tỏ sự lo lắng này là thừa. Album rất hay với nhiều bài hát mạnh mẽ và đầy tính giai điệu và có cả những đoạn sử dụng giao hưởng khá tốt. Album rất hay và có lẽ là một đỉnh cao tiếp theo trong sự nghiệp của Arch Enemy. Album tiếp tục thành công về mặt thương mại khi vươn lên đứng thứ 44 trên bảng xếp hạng của Mỹ. War Eternal You Will Know My Name Arch Enemy là một trong những band nhạc được yêu thích nhất trong dòng nhạc Melodic Death. Âm nhạc của họ chịu nhiều ảnh hưởng của Carcass và một số band Thrash Metal như Megadeth. Với một sự nghiệp kéo dài , nhiều album hay, trong khi những band nhạc Melodeath khác lần lượt tan rã hoặc xuống phong độ, Arch Enemy vươn lên trở thành band nhạc hàng đầu của Melodic Death thế giới với những album kinh điển mà ta không thể bỏ qua khi nhắc tới Melodeath.
Children Of Bodom Children Of Bodom Children Of Bodom là một trong những nhóm nhạc đầu tiên chơi theo phong cách Melodic Death nằm ngoài Thụy Điển và Anh. Nhóm thành lập năm 1993 bởi tay guitar Alexi Laiho và tay trống Jaska Raatikainen. Sau rất nhiều thay đổi trong đội hình, đến năm 1997 nhóm mới tung ra được album đầu tay Something Wild. Âm nhạc trong album này rất lạ với phong cách Melodic Death kết hợp với lối chơi guitar đầy kỹ thuật của Laiho. Band cũng sử dụng rất nhiều keyboards với sự xuất hiện của keyboardist Warman – anh này chơi cũng rất kỹ thuật. Chính vì tích hợp quá nhiều thứ vào âm nhạc của mình album này rất khó đánh giá chính xác là nó chơi theo thể loại gì. Lake Bodom Phong cách chơi nhạc đặc biệt của Children Of Bodom để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp sau album đầu tay. Năm 1999, nhóm tung ra album thứ 2 là Hatebreeder. Album này là một trong những đỉnh cao trong sự nghiệp của Children of Bodom và được rất nhiều fan hâm mộ yêu mến. Phong cách trong album mang rất nhiều tính Neoclassical Metal với lối chơi đầy tốc độ của Laiho. Ngoài ra nó còn mang rất nhiều tính Power Metal với việc sử dụng lối chơi keyboards đầy kỹ thuật và mang nhiều tính giai điệu kiểu Metal cổ. Những ảnh hưởng của Thrash, Black và Death metal cũng tràn ngập trong cả album. Album rất hay với những bài hát rất được yêu thích như Warheart, Downfall, Bed Of Razors. Album cũng chứng kiến những thành công đầu tiên về mặt thương mại của Children Of Bodom khi vươn lên hạng 6 trên bảng xếp hạng của Phần Lan và là album bán chạy nhất trong lịch sử của nhóm. Downfall Sau những thành công đầy hứa hẹn với Hatebreeder, Children Of Bodom tung ra album thứ 3 là Follow The Reaper vào năm 2000. Đây tiếp tục là một trong những đỉnh cao của nhóm. Âm nhạc trong album này mang nhiều tính Melodic kết hợp với Power Metal châu Âu. Tức là âm nhạc trong album này có phần ít bạo lực hơn album trước đó. Album tiếp tục hết sức thành công tại châu Âu và biến Laiho trở thành một trong những tài năng guitar trẻ đầy triển vọng của thế giới Metal. Album xuất hiện trên rất nhiều bảng xếp hạng tại châu Âu và vươn lên vị trí thứ 3 tại Phần Lan. Everytime I Die Phải đến album thứ 4 là Hate Crew Deathroll vào năm 2003 thì Children Of Bodom mới vươn tới đỉnh cao về mặt thương mại. Album này vươn lên đứng đầu bảng xếp hạng của Phần Lan và khởi đầu cho một chuỗi những album hết sức thành công của nhóm về sau. Trong album này, dù vẫn mang nhiều tính giai điệu, vai trò của keyboards đã giảm đáng kể và guitar trở thành nhạc cụ chủ đạo của album. Chính vì thế, âm nhạc trong album nghiêng rất nhiều về phía Thrash Metal và nghe có phần mạnh mẽ hơn. Album tiếp tục được đánh giá rất cao và là một album rất được yêu thích của nhóm. Sixpounder Tuy nhiên sau 4 albums hết sức thành công, sự nghiệp của Children Of Bodom dần đi xuống kể từ album thứ 5 Are You Dead Yet? - 2005. Album này chứng kiến rất nhiều ảnh hưởng của Groove Metal trong âm nhạc của nhóm. Sự ảnh hưởng của Groove Metal tiếp tục tăng rất cao trong album thứ 6 là Blooddrunk vào năm 2007. Cả 2 album đều không thực sự được nhiều fan hâm mộ yêu mến. Nhưng những album sau này của Children Of Bodom thậm chí còn tệ hơn với khá nhiều ảnh hưởng của Metalcore như Relentless Reckless Forever -2011, Halo Of Blood -2013. Tuy những album sau này của Children Of Bodom còn nhiều tranh cãi, đây vẫn là một nhóm nhạc rất được yêu mến trên thế giới, đặc biệt là 4 albums đầu tiên. Are You Dead Yet? Was It Worth It? Transference
Soilwork Soilwork Soilwork thành lập từ năm 1995 tại Thụy Điển dưới cái tên Breed. Lúc này thì âm nhạc của nhóm chịu ảnh hưởng khá nhiều của Pantera và Meshuggah (tức là dạng Thrash). Vào năm 1996 thì nhóm đổi tên thành Soilwork và bắt đầu chuyển sang chơi Melodic Death Metal. Sau đó, nhóm gặp tay guitar Mike Amott (anh này có một phòng ghi âm) và sau đó band nhạc có hợp đồng với hãng đĩa Listenable. Trong 2 năm 98, 2000 Soilwork tung ra 2 albums là Steelbath Suicide và The Chainheart Machine với chất lượng khá tốt. Tuy nhiên nó chưa thực sự là những album mang tính đột phá. Phải đến năm 2001 khi nhóm tung ra album thứ 3 là A Predator’s Portrait thì tên tuổi của nhóm mới trở nên nổi tiếng. Đây là một album Melodic Death với rất nhiều ảnh hưởng của Thrash Metal. Album này rất hay và thành công nên khiến Soilwork được rất nhiều fan hâm mộ của Melodeath biết tới. Vào thời điểm tung ra album thứ 4 là Natural Born Chaos vào năm 2002 thì Soilwork đã vươn tới đỉnh cao trong sự nghiệp của mình. Album này bắt đầu chứng kiến những ảnh hưởng của Alternative Metal tới âm nhạc của Soilwork. Tại thời điểm năm 2002 phong cách này khá lạ và rất nhiều fan hâm mộ của Melodeath cũng như giới chuyên môn đã bình chọn đây là album hay nhất trong năm. Album này cũng góp phần rất lớn đưa Soilwork trở thành một trong những band nhạc nổi tiếng và thành công nhất của Melodeath Metal trong những năm đầu tiên của thập kỷ 2000s. Phong cách chơi nhạc chịu ảnh hưởng của Alternative tiếp tục trong album Figure Number Five vào năm 2003. Những album sau đó như Stabbing The Dram -2005 và Sworn To a Great Divide -2007 đánh quá nhẹ và không thực sự thành công khiến Soilwork quay trở lại với Melodic Death trong album The Panic Broadcast vào năm 2010. Năm 2013, nhóm tung ra album The Living Infinitive, một album kép mang phong cách Melodic Death với rất nhiều lời khen ngợi. Đây có lẽ cũng là một trong những album kép đầu tiên trong lịch sử của Melodeath Thụy Điển và thế giới. Về mặt âm nhạc Soilwork không gây quá nhiều đột biến, âm nhạc của nhóm là sự kết hợp giữa Melodic Death Thụy Điển với những cú riff mạnh – đều đều theo phong cách Metal cổ của châu Âu. Tuy vậy, với những album chất lượng, nhóm trở thành một trong những tên tuổi lớn của Metal thế giới. Structure Divine As We Speak Rejection Role Let This River Flow Spectrum Of Eternity
Amon Amarth Amon Amarth Amon Amarth là một trong những tên tuổi mới nổi trong những năm gần đây của Melodic Metal. Tuy nhiên, thực ra nhóm đã thành lập từ năm 1992 tại Thụy Điển. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Amon Amarth đã xác định phong cách chơi nhạc của nhóm là Melodeath kết hợp với lời hát viết về những truyền thuyết Viking. Sau khi thành lập, nhóm tung ra một số những album demo và một trong số này đã thuyết phục được một hãng ghi âm có trụ sở tại Singapore là Pulverised. Sau khi tung ra 1 album mini với hãng đĩa Pulverised khá thành công (bán được hơn 6000 bản), số phận một lần nữa mỉm cười với Amon Amarth khi nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa Metal Blade. Sau đó, nhóm tung ra một loạt những album có chất lượng khá tốt là : Once Sent From The Golden Hall -98, The Avenger -99, The Crusher -2001, Versus The World -2002 và Fate Of Norns -2004. Âm nhạc trong những album này là sự kết hợp giữa Melodeath với phong cách Viking Folk của Bathory (trong giai đoạn sau của nhóm). Sự nghiệp của Amon Amarth chỉ thực sự thăng hoa vào năm 2006 khi nhóm tung ra album With Oden On Our Side. Âm nhạc không quá khác biệt so với những album đầu tay nhưng chất lượng các bài hát thì tốt hơn rất nhiều. Album này được đánh giá rất cao và được bầu là một trong những album Metal hay nhất trong năm 2006. Điều này khiến tên tuổi của Amon Amarth trở nên vô cùng nổi tiếng trên toàn thế giới Metal (chứ không chỉ trong nội bộ fan của Melodeath nữa). Sau khi bất ngờ nổi tiếng, Amon Amarth tiếp tục sự nghiệp với một chuỗi album có chất lượng rất cao như Twilight Of The Thunder God -2008, Surtur Rising -2011 và gần đây nhất là Deceiver Of The Gods -2013. Các album này không chỉ nhận được rất nhiều lời khen ngợi, chúng còn đạt được những thành công rất lớn về mặt thương mại và có mặt trên hầu hết tất cả những bảng xếp hạng trên toàn thế giới. Ngay cả tại nước Mỹ, cả 3 albums này đều có mặt trong top 50 những album bán chạy nhất. Nếu có một band nhạc nào đó có rất nhiều sự kiên nhẫn để tạo dựng nên tên tuổi của mình trong làng nhạc Death Metal thì Amon Amarth thực sự là một trong những ứng cử viên hết sức nặng ký. Dù thành lập từ rất lâu, đây vẫn là một band nhạc đang lên của Metal thế giới. Cry Of The Black Birds Gus Of Asgaard Twilight Of The Thunder God Destroyer of the Universe Father of the Wolf
Insomnium Insomnium Insomnium tiếp tục là một trong những cái tên mới nổi trong làng nhạc Melodeath thế giới. Nhóm thành lập từ năm 1997 tại Phần Lan. Sau khi ghi âm 2 albums demo, nhóm nhận được sự chú ý của hãng đĩa Candlelight vào năm 2001. Sau đó nhóm tung ra một loạt những album có chất lượng rất khá là In The Halls Of Awaiting -2002, Since The Day It All Came Down -2004, Above The Weeping World -2006, Across The Dark -2009 với một phong cách khá đặc biệt. Trong khi nhiều band Melodic có xu hướng đánh bạo lực hơn thì Insomnium lại muốn kết hợp phong cách bạo lực và những giai điệu nhẹ nhàng, dễ nghe, đôi khi gợi chúng ta nhớ tới Opeth hoặc Katatonia. Tại thời điểm những năm giữa và cuối thập niên 2000s, các band nhạc Melodeath cũng gặp nhiều khó khăn và buộc phải tích hợp thêm nhiều ảnh hưởng của Metalcore để có thể tồn tại và được biết tới nhiều hơn thì Insomnium lại là một trường hợp khác hoàn toàn. Đến năm 2011, nhóm tung ra album One For Sorrow và nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ cả giới chuyên môn lẫn người hâm mộ của Melodeath. Và chúng ta có thể đoán được âm nhạc của Insomnium như thế nào: nó là sự kết hợp giữa tính melodic của 2 tay guitar với giọng hát gầm gừ trong cổ họng, tiếng trống double bass mạnh mẽ và tính atmospheric và những cú riff của Doom Metal và một chút ít ảnh hưởng của Post Metal vào nữa. Album rất hay và giúp tên tuổi của Insomnium trở thành một trong những band nhạc hàng đầu của Melodeath Metal trên toàn thế giới. Album gần đây nhất của nhóm là Shadows Of The Dying Sun được tung ra vào năm 2014 và tiếp tục là một trong những album rất hay của năm. Album nhận được rất nhiều lời khen ngợi cả từ fan hâm mộ lẫn giới chuyên môn và đưa Insomnium trở thành một trong những tên tuổi đang lên của Melodeath thế giới. Black Waters Bereavement Drawn To Black Lay Of The Autumn Through The Shadows While We Sleep
Thời gian trôi qua khá nhanh và sẽ chỉ còn 2 band nhạc nữa là phần viết về Death Metal kết thúc để bước sang những dòng nhạc tiếp theo. Những dòng nhạc mới này sẽ có ít người biết hơn, mời các bác chú ý đón đọc.
Be’lakor Be’lakor Be’lakor là band nhạc khá mới mẻ trên bầu trời Death Metal thế giới. Nhóm thành lập từ năm 2004 tại Úc, nhưng chỉ bắt đầu biểu diễn live vào năm 2005. Đến năm 2007, nhóm tự sản xuất và tung ra album The Frail Tide và nhận được nhiều lời khen ngợi. Sau đó, nhóm ký hợp đồng với hãng đĩa Descent và ra lại album này. Sau album khởi đầu ấn tượng, nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa Prim Cuts và tung ra album Stone’s Reach vào năm 2009. Album này nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn đã gây ra sự tò mò cho những fan hâm mộ của Death Metal thế giới. Đến tháng 3 năm 2010, Be’lakor lại nhận thêm tin vui nữa khi album Stone’s Reach được bầu chọn là album hay nhất của Melodeath trong năm 2009 của tạp chí Metal Storm. Chính những thành công có phần bất ngờ khiến Be’lakor trở nên nổi tiếng và có dịp lưu diễn khắp nước Úc và tham gia nhiều nhạc hội âm nhạc lớn trên toàn thế giới. Năm 2012 Be’lakor tung ra album thứ 3 là Of Breath And Bone, album tiếp tục thành công và góp phần đưa band dần trở thành một trong những band nhạc trẻ Melodeath triển vọng nhất thế giới. Be’lakor cũng là một trong những band nhạc tiêu biểu cho sự lớn mạnh của Melodeath vì band xuất phát từ một xứ sở mà gần như không có bất kỳ một band Melodeath nào cả. Như vậy, sau khi xuất phát từ châu Âu, hiện tại Melodeath đã lan tới tận châu Úc với những band nhạc tài năng trẻ đầy triển vọng như Be’lakor. Chúng ta sẽ tiếp tục chờ đợi sự trưởng thành của nhóm nhạc này trong những năm tới đây. The Desolation Of Ares Countless Skies Abeyance
Dethklok Dethklok Dethklok là một band nhạc vô cùng đặc biệt không chỉ của Death Metal mà còn của âm nhạc thế giới. Band nhạc thành lập từ năm 2006 và ban đầu là một band nhạc ảo. Sau những thành công vô cùng lớn của band nhạc ảo này, một band nhạc thực được thành lập để biểu diễn live. Câu chuyện về Dethklok bắt đầu trong một series phim hoạt hình Metalocalypsse của Mỹ do của 2 nghệ sỹ Brendan Small và Tommy Blacha. Nội dung của phim hoạt hình này xoay quanh cuộc sống của một band nhạc Death Metal tên là Dethklok. Trong phim, Dethklok là một band nhạc hết sức thành công với hàng tỷ fan hâm mộ trên toàn thế giới (doanh thu của band nhạc đứng thứ 7 trong các nền kinh tế trên toàn bộ thế giới – tương đương với nền kinh tế của Canada). Metalocalypse đạt được thành công rất lớn và được rất nhiều fan hâm mộ yêu thích, đặc biệt là những người yêu thích Heavy Metal. Nhưng điều đáng ngạc nhiên hơn là âm nhạc trong bộ series truyền hình này lại rất hay. Các bài hát trong phim đều là những sáng tác mới và do bản thân band nhạc Dethklok trình diễn (band nhạc toàn những nhân vật hoạt hình). Dĩ nhiên, những nhân vật hoạt hình thì không thể tự sáng tác và chơi nhạc mà đứng đằng sau lưng họ phải là một người thật. Trong trường hợp của Dethklok thì đó chính là Brendan Small, anh này chính là người sáng tác chính và chơi tất cả các nhạc cụ (trừ trống) cho Dethklok. Vị trí tay trống, Small có sự trợ giúp của một nhân vật huyền thoại – Gene Hoglan. Dĩ nhiên, là một band nhạc Death Metal thì âm nhạc của Dethklok chủ yếu dựa trên Death nhưng nó không phải về mặt âm nhạc mà về việc sử dụng giọng hát gầm gừ của Small. Âm nhạc của nhóm, lại có nhiều điểm tương đồng với Metal cổ hơn là Death. Vì thế, âm nhạc của Dethklok mang rất nhiều tính Melodic nhưng lại không thực sự giống bất kỳ band nhạc Melodic Death nào. Để dễ miêu tả ta có thế hình dung nếu Iron Maiden với tốc độ nhanh hơn và sử dụng giọng hát đầy bạo lực và gầm gừ của Death Metal thì sẽ có Dethklok. Tuy là band Death Metal nhưng âm nhạc của Dethklok dựa rất nhiều vào sự ăn ý của 2 tay guitar Skwisgaar Skwigelf vàToki Wartooth (cả 2 đều do Small chơi nên chắc chắn là hết sức ăn ý) và giọng hát tuyệt vời, bạo lực, mạnh mẽ nhưng cũng đầy tính giai điệu của Nathan Explosion (cũng là của Small). Tháng 9 năm 2007, Dethklok tung ra album đầu tiên là Dethalbum và album này tiến thẳng lên vị trí số 21 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Tại thời điểm năm 2007, đây là album Death Metal chiếm được vị trí cao nhất trong lịch sử của Mỹ. Thành công quá lớn khiến Small buộc phải biến band nhạc từ trong phim hoạt hình này thành một band nhạc thực sự với việc thuê những nhạc sỹ chuyên nghiệp khác để đi lưu diễn. Năm 2009, nhóm tung ra album thứ 2 là The Dethalbum II và tiếp tục hết sức thành công. Album vươn lên vị trí 15 trên bảng xếp hạng của Mỹ và phá vỡ kỷ lục trên bảng xếp hạng của album trước vào năm 2007. Âm nhạc trong album tiếp tục là một phong cách Melodic Death riêng biệt với sự kết hợp của những bài hát đơn giản với những bản nhạc khá phức tạp. Sự tiến bộ của Dethklok tiếp tục với Dethalbum III vào năm 2012, album này thậm chí còn lọt vào top 10 của bảng xếp hạng Mỹ và hiện tại đang giữ kỷ lục là album Death Metal chiếm được vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng này. Năm 2013 trên đà thành công, Dethklok tung tiếp ra album thứ 4 với rất nhiều sự thay đổi. Album này sử dụng rất nhiều nhạc giao hưởng và cổ điển. Trong album chỉ có duy nhất 1 bài của Dethklok và phần còn lại là những đoạn giao hưởng nhỏ và opera trong bộ phim hoạt hình Metalocalypsse. Có lẽ vì những lý do nêu trên, album không được nhiều fan hâm mộ coi là album chính thức của nhóm. Dethklok là một band nhạc hết sức đặc biệt trong lịch sử của Death Metal. Tuy là một band nhạc ảo nhưng sức sống của họ thì không hề ảo. Âm nhạc của nhóm hết sức đặc biệt và hứa hẹn sẽ là một thế lực mới của Metal thế giới. Bloodrocuted Laser Cannon Deth Sentence The Galaxy Blazing Star Bài viết về quái kiệt Dethklok cũng là bài viết cuối cùng về Death Metal, một dòng nhạc hết sức mạnh mẽ và được rất nhiều fan hâm mộ yêu thích. Death Metal cũng là dòng nhạc Extreme xuất hiện sau cùng trong số 4 cái tên Extreme đầu tiên nhưng lại là dòng nhạc phát triển mạnh mẽ nhất. Death Metal cũng là cái tên cuối cùng đóng lại một chương hết sức quan trọng trong lịch sử của Metal thế giới, đó là thời kỳ phát triển bùng nổ của Heavy Metal. Những dòng nhạc sau này phần nhiều đều có một lịch sử phát triển dài. Trong đó nhiều dòng nhạc phải trải qua quá trình phát triển lên tới cả hơn 10 năm mới có được tên riêng cho mình. Những dòng nhạc này, vì thế có thể coi là hiện đại và cũng ít người biết tới hơn. Tuy nhiên, điều đó hoàn toàn không có nghĩa là những band nhạc của các dòng nhạc này kém tài năng hơn các đàn anh của họ mà có vì nhiều lý do họ chưa được nổi tiếng mà thôi. Nhưng chính bản thân những dòng nhạc này góp phần rất lớn đưa Heavy Metal trở thành một trong những dòng nhạc nhiều màu sắc như hiện nay.
King Diamond Trước khi bước sang thể loại nhạc tiếp theo là Sludge Metal, chúng ta sẽ điểm qua một số tên tuổi nổi tiếng của Metal thế giới trong dòng nhạc Traditional Metal. Trước tiên là King Diamond King Diamond Chắc hẳn nhiều fan của Metal chưa quên tên tuổi huyền thoại King Diamond. Ông chính là giọng ca chính của band nhạc Extreme Metal Mercyful Fate với 2 siêu phẩm Melissa và Don’t Break The Oath rất nổi tiếng ở thập kỷ 80s. Phong cách vẽ mặt của và trình diễn bằng những giọng ca cao đến chói tai của ông ảnh hưởng rất lớn tới Black Metal sau này. Tuy nhiên, sự nghiệp của Mercyful Fate không kéo dài được lâu do mâu thuẫn giữa 2 người lãnh đạo của nhóm là Diamond và tay guitar Hank Shermann. Mâu thuẫn này chủ yếu do phong cách viết lời theo Satanic của Diamond. Đến năm 1985 thì Mercyful Fate tan rã và King Diamond ra thành lập band nhạc riêng cùng với tay guitar Denner và tay bass Timi Hansen (cả 3 đều là cựu thành viên của Mercyful Fate). 3 thành viên này kết nạp thêm tay guitar Andy LaRoque và tay trống Mikkey Dee và lập ra nhóm King Diamond. Cái tên King Diamond được lựa chọn vì lúc này giọng ca của Diamond đã trở nên rất nổi tiếng trong thế giới của Metal nên band nhạc dễ kiếm được hợp đồng thu âm hơn. Hiển nhiên là với những cựu thành viên của Mercyful Fate, âm nhạc của 2 nhóm có rất nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên âm nhạc của King Diamond nghiêng nhiều về phía thể hiện giọng hát và có phần chơi ít bạo lực hơn (chủ yếu mang chơi theo kiểu Metal cổ, nghiêng về giai điệu). Ngoài ra, Diamond cũng từ bỏ phong cách viết lời theo Satanic và chuyển sang viết về những câu chuyện kinh dị với rất nhiều album có cốt truyện (concept). King Diamond khởi đầu sự nghiệp hết sức thành công với những album kinh điển như Fatal Portrait -86, Abigail -87, Them -88 và Conspiracy -89. Cả 4 albums này đều là những album kinh điển và hết sức thành công và đều được fan hâm mộ của Metal thế giới đánh giá rất cao. Nhưng sau khi tung ra một loạt những album kinh điển thì sự nghiệp của King Diamond bắt đầu đi xuống kể từ album The Eye vào năm 1990 khi nhóm bắt đầu thử nghiệm những thứ hơi kỳ lạ (sử dụng trống điện tử thay vì dùng trống bình thường). Sau đó, Diamond quay trở lại tái lập Mercyful Fate và King Diamond gần như tan rã. Tuy nhiên, sau một thời gian ghi âm và lưu diễn cùng Mercyful Fate, Diamond tái lập lại nhóm King Diamond và tung ra một số album xen kẽ với những album của Mercyful Fate (vì ông là thành viên chính thức của cả 2 nhóm). Nhưng có lẽ lúc này King Diamond không còn là một band nhạc chính thức nữa mà chỉ có dạng side project và các album chất lượng dần đi xuống, không thể so sánh chất lượng với những album đầu tiên nữa. Sau album cuối cùng của nhóm (tính tới thời điểm hiện tại) là Give Me Your Soul… Please khá thành công về mặt thương mại (bài hát Never Ending Hill thậm chí còn được đề cử giải Grammy) vào năm 2007, King Diamond gặp vấn đề lớn về sức khỏe và phải nghỉ để chữa trị trong thời gian rất dài. Phải đến năm 2012, sức khỏe của Diamond mới hồi phục và band một lần nữa tiến hành lưu diễn. King Diamond là một quái kiệt và là một trong những vocalist xuất sắc nhất trong lịch sử của Heavy Metal. Âm nhạc của King Diamond rất hay và nhiều tính giai điệu với giọng hát tuyệt vời. Một band nhạc mà những fan của Metal không thể bỏ qua. Halloween The Family Ghost Sleepless Nights The Invisible Guests Give Me Your Soul
Joe Satriani Joe Satriani Nhiều fan hâm mộ tại Việt Nam chắc cũng không quá lạ lẫm với tên tuổi của tay guitar lừng danh này của nhạc Rock. Ngoài việc là một tay guitar có tài, Joe còn là thày dạy guitar cho một loạt những anh hùng guitar của thế giới như Steve Vai, Larry LaLond (Possessed, Primus), Kirk Hammett (Metallica), Alex Skolnick (Testament) hay Rick Hunolt (Exodus). Tuy nhiên, so với rất nhiều học trò của mình, Joe khởi đầu sự nghiệp khá chậm và ít thành công hơn rất nhiều. Phải mãi đến năm 1986, Joe mới tung ra được album đầu tiên trong sự nghiệp là Not Of This Earth. Album khá hay nhưng không thực sự thành công về mặt thương mại. Phải đến album thứ 2 là Surfing With The Alien vào năm 1987, Joe mới vươn tới đỉnh cao trong sự nghiệp của mình. Dù đây là một album hoàn toàn không có lời nhưng nó vươn lên tới hạng 29 trên bảng xếp hạng của Mỹ và nằm trong bảng xếp hạng này trong 75 tuần. Đây là một kỷ lục với một album nhạc rock không lời và đây cũng chính là album rock không lời đầu tiên trong lịch sử lọt vào top 40 của bảng xếp hạng Mỹ. Sau đó là được đề cử 2 giải Grammy (nhưng không thành công). Với những bài hát tuyệt vời như Satch Boogie hay Surfing With The Alien, đây thực sự là một album kinh điển của nhạc Heavy Metal thế giới. Trong album này, Joe sử dụng rất nhiều kỹ năng chơi guitar mà sau này trở nên rất nổi tiếng như Shred hay two handed tapping – bấm phím bằng 2 tay. Sau đó, Satriani tung ra một loạt những album đều có chất lượng rất tốt như Flying In A Blue Dream -98, The Extremmist -1992, Time Machine -93, Joe Satriani -95. Tuy nhiên chất lượng của những album này chưa thể so sánh được với album Surfing With The Alien. Do có kỹ năng chơi nhạc rất tốt, các album của Joe đều được yêu mến góp phần giúp âm nhạc của ông được biết đến trên toàn thế giới. Sau đó Joe còn tham gia vào những show diễn như G3 – live gồm 3 tay guitar cự phách và đi lưu diễn vòng quanh thế giới. Những chuyến lưu diễn này rất thành công và được fan hâm mộ yêu mến. Với tài năng siêu phàm, Joe Satriani là một trong những tay guitar được yêu mến và kính nể nhất trong thế giới âm nhạc hiện nay. Ngoài sự nghiệp solo ông còn tham gia cả một số side project và có lúc là thành viên của Deep Purple. Năm 2008, Joe còn khởi kiện cả band nhạc Pop Cold play vì đạo nhạc của mình nhưng vụ kiện còn chưa có kết quá. Trong đó những album đầu tay của ông không thể thiếu trong bất kỳ một bộ sưu tập về Metal nào. Surfing With The Alien Satch Boogie Crying Midnight Love Thing
Michael Schenker Group MSG Hẳn trong chúng ta nhiều người chưa thể quên được tên tuổi của Michael Schenker, tay guitar huyền thoại của nhóm nhạc Scorpions và UFO. Trong những band nhạc kể trên, vai trò của Schenker đều rất lớn, đôi khi mang tính quyết định như tại UFO. Tại UFO, dù Schenker không thể nói được tiếng Anh nhưng ông viết phần lớn nhạc cho các bài hát và tung ra một loạt những album kinh điển như Phenomenon, Force It No Heavy Petting, Light Out hay Obsession. Đến năm 1978, do mâu thuẫn với Phil Mogg – giọng ca chính của UFO nên ông này rời nhóm và ra solo lấy tên là MSG – Michael Schenker Group. Tuy nhiên những album solo của Schenker đều gặp những vấn đề với những giọng ca chính và phải đến giữa thập kỷ 80, khi Schenker gặp Robin McAuley và đổi tên nhóm thành McAuley Schenker Group thì nhóm mới tung ra được 3 albums tuyệt vời mà nhiều fan hâm mộ trên toàn thế giới tôn thờ lần lượt là Perfect Timing -87, Save Yourself -89, MSG -91. Tại Việt Nam, cũng có khá nhiều fan hâm mộ những bản ballad tuyệt với của nhóm như Gimme Your Love, Anytime, This Is My Heart hoặc What Happens To Me, Never Ending Nightmare. Tuy nhiên, sau 3 albums rất hay này, McAuley rời nhóm và Schenker tiếp tục sự nghiệp solo khá thành công. Ngoài ra ông còn tham gia lại những nhóm như UFO và xuất hiện trong nhiều album khác nhau. Schenker là một trong những tay guitar tài năng và có nhiều ảnh hưởng trong thế giới âm nhạc. Rock Will Never Die Gimme Your Love Anytime When I'm Gone (Never Ending) Nightmare What Happens To Me Từ bài viết sau, chúng ta sẽ quay trở lại với một trong những dòng nhạc mới được thừa nhận trong những năm gần đây là Sludge Metal. Mời các bác chú ý đón đọc
Sludge Metal Sludge Metal Theo định nghĩa của một số tác giả có uy tín trên thế giới, Sludge Metal là một nhánh nhỏ (subgenre) của Heavy Metal. Sludge là sự kết hợp những tính chất của Doom Metal như tiết tấu chậm, những đoạn riff guitar nặng nề, bầu không khí tối tăm, bi thảm kết hợp với giọng hát mạnh mẽ, giận dữ và hơi khàn (theo phong cách quát tháo hoặc gào thét) của Hardcore Punk. Một số band nhạc của dòng nhạc này còn tích hợp thêm những ảnh hưởng của Blue Rock thêm vào nữa. Như vậy để dễ tưởng tượng ta có thể hình dung Sludge Metal là âm nhạc kiểu Black Sabbath (Doom) kết hợp với giọng hát của Black Flag (Hardcore). Hay nói một cách đơn giản hơn nữa Sludge Metal là Hardcore Doom. Chúng ta cũng đã biết rằng, Doom + Psychedelic + Heavy Metal cổ = Stonner Metal nên Sludge có khá nhiều điểm tương đồng với dòng nhạc Stonner và có nhiều band trong dòng nhạc này thường nhảy sang dòng Sludge và ngược lại. Vì vậy, để phân biệt được chính xác band nhạc nào là Stonner, band nhạc nào là Sludge là rất khó khăn, nhiều khi chỉ do ý chí chủ quan của người phân loại. Tuy nhiên, sự phức tạp còn chưa dừng lại ở đây, rất nhiều band Sludge Metal sau này còn tích hợp thêm những ảnh hưởng của ambient rồi progressive và post rock vào trong âm nhạc của mình khiến việc phân loại càng khó khăn hơn. Chúng ta cũng rất dễ nhầm một số band Sludge Metal với Post Metal và Progressive Metal và ngược lại. Vì vậy, mọi sự phân loại ở đây đều chỉ mang tính tương đối mà thôi. Trở lại với lịch sử hình thành của dòng nhạc, do Sludge chỉ mới được công nhận trong một vài năm trở lại đây nên thực sự chưa có nhiều những nghiên cứu sâu về dòng nhạc này. Cũng không có band nào thực sự nổi trội để làm gương cho những band nhạc khác như trong những dòng nhạc đã viết qua. Nhưng có lẽ những nhà chuyên môn đều thống nhất chung một quan điểm là Sludge Metal hình thành từ rất sớm và Melvins là band nhạc đầu tiên chơi dòng nhạc này. Album đầu tiên của Sludge Metal là Gluey Porch Treatment của Melvins được tung ra vào cuối năm 86, đầu năm 87. Sau đó, một loạt những band nhạc như Alice In Chains, Neurosis, Corrosion Of Conformity bắt đầu phát triển Sludge Metal theo những hướng khác nhau và dẫn tới việc phát sinh một loạt những band Sludge tại New Orleans như EyeHateGod, Crowbar, Acid Bath… rồi lan ra toàn bộ nước Mỹ, đặc biệt tai khu vực miền Đông và Nam. Những năm gần đây, dòng nhạc này có những bước phát triển vô cùng mạnh mẽ khiến nó dần được công nhận như một dòng nhac chính thống của thế giới với những tên tuổi như Kylesa, Baroness và đặc biệt là Mastodon. Chúng ta sẽ lần lượt đến với những tên tuổi đình đám của Sludge Metal thế giới, trước tiên là Melvins.
Melvins Melvins Melvins là một band nhạc đến từ nước Mỹ và thành lập năm 1983 tại bang Washington bởi giọng ca, guitar chính Buzz Osbourne và tay trống Mike Dillard. Band nhạc khởi đầu chỉ chơi cover những bài hát của Cream và Jimi Hendrix sau đó chuyển dần sang Hardcore Punk. Sau đó một thời gian thì Dale Crover thay thế vị trí của Mike Dillard và band nhạc kết nạp thêm thành viên mới là tay bass Matt Lukin và bắt đầu chơi một thứ âm nhạc chậm rãi hơn. Cũng cần phải nhắc lại là tại thời điểm những năm giữa thập kỷ 80, các band nhạc có xu hướng chơi càng ngày càng nhanh và càng mạnh hơn nữa trong khi đó Melvins lại muốn chơi ngược với xu hướng của thời đại và đó là điểm đặc biệt của nhóm nhạc này. Các bài hát trong những album của Melvins thường không có cấu trúc, mang nhiều tính Sludge, punk rock và cả grunge nữa (band nhạc cũng rất thân với Kurt Cobain của nhóm nhạc Nirvana). Phần viết lời cho các ca khúc cũng khá tưng tửng và đặc biệt (nếu ta chú ý tới các tên bài hát). Phần lớn trong sự nghiệp của nhóm Melvins trung thành với một hãng đĩa độc lập khá nhỏ là Ipecac nhưng họ cũng có những lúc được nếm trải hương vị của một hãng đĩa lớn (chủ yếu là do tác động của Kurt Cobain lăng xê band nhạc nên band có hợp đồng với hãng đĩa Atlantic và tung ra 3 album là Houdini -93, Stoner Witch -94 và Stag -96). Tuy vậy, band nhạc không bao giờ được biết đến rộng rãi và luôn là một band underground theo đúng nghĩa đen chính xác nhất của từ này. Tuy nhiên, dù không được đại đa số công chúng biết tới, họ vẫn có một phong cách đặc biệt và lôi cuốn khá nhiều fan trung thành – những fan tôn thờ họ như một trong những tài năng lớn nhất của thế giới âm nhạc bị lãng quên. Trong cả sự nghiệp, Melvins ra albums một cách liên tục (đến hết năm 2014 họ đã có tới 22 albums studio tất cả, một con số không nhỏ với bất kỳ band Metal nào) và với chất lượng không suy giảm nhiều. Những album như Bullhead, Lysol hay Houdini đều là những siêu phẩm của nhóm này. Một band nhạc kỳ quái và tài năng bậc nhất trong thế giới Metal. It's Shoved Lizzy Revolve The Bit The Talking Horse
Corrosion of Conformity Corrosion of Conformity Corrosion of Conformity hay (COC) là một band nhạc Heavy Metal thành lập tại Bắc Carolina , Mỹ vào năm 1982 bởi bassist/vocalist Mike Dean, guitarist Woody Weatherman và tay trống Reed Mullin và khởi đầu chơi theo phong cách Hardcore Punk. Album đầu tay của nhóm Eye For An Eye - 84thể hiện rất rõ nét tính chất Hardcore với 20 bài hát rất ngắn. Lúc này thì vocalist chính của nhóm là Eric Eycke chứ chưa phải là Dean. Sau album đầu tay, Eycke rời khỏi nhóm và Dean với Mullin chia sẻ vai trò hát chính trong album thứ 2 là Animosity. So với album trước thì album này mang thêm tính Thrash Metal và xứng đáng được xếp vào hàng Crossover Thrash (chính vì vậy trong phần viết về Thrash Metal chúng ta cũng có nhắc tới band nhạc này và đến bây giờ thì chúng ta mới gặp lại họ). Sau năm 85, nhóm tiếp tục thuê giọng ca chính Bob Sinister để tung ra tiếp một album EP mang đậm tính Crossover khác là Technocracy rồi bước vào một khoảng lặng dài trong sự nghiệp. Năm 1987, cả Dean và Sinister đều lần lượt rời nhóm trong vài năm. Các thành viên còn lại vẫn tiếp tục theo đuổi sự nghiệp và tìm kiếm giọng ca chính mới. Sau rất nhiều thời gian tìm kiếm, đến năm 1991 thì nhóm ổn định lại đội hình với việc thuê thêm tay guitar thứ 2 là Pepper Keenan, Phil Swisher ở vị trí bass và Karl Agell ở vị trí vocal. Lúc này, âm nhạc của họ thay đổi hoàn toàn, và theo một ý nghĩa tích cực, âm nhạc của họ chuyển sang Sludge Metal. Animosity Album thứ 3 của nhóm là Blind được tung ra vào năm 91 cũng là album đầu tiên nhận được sự chú ý của người hâm mộ trên toàn thế giới. Album này không chỉ rũ bỏ phong cách Crossover Thrash mà còn chuyển sang chơi Heavy Metal dạng cổ và Sludge Metal – một dòng nhạc chưa thực sự phổ biến tại thời điểm những năm 91. Album cũng rất thành công về mặt thương mại và được khi xuất hiện trên các bảng xếp hạng của Mỹ và lần đầu tiên, COC quay video clip cho một bài hát (Vote With A Bullet). Nó cũng góp phần rất lớn đưa tên tuổi của COC ra ánh sáng, album này hiện tại đã bán được hơn 200.000 bản trên toàn nước Mỹ. Vote with a Bullet Thành công có phần bất ngờ của Blind khiến COC tiếp tục theo đuổi con đường Sludge Metal mặc dù trong nội bộ có nhiều sự thay đổi. Sau Blind lần lượt giọng ca chính Agell và tay bass Swisher lần lượt rời nhóm. Tuy vậy, band nhạc lại có một tin mừng khác là Mike Dean đã quay trở lại và lần này tay guitar thứ 2 Keenan đảm nhận luôn vai trò hát chính. Thực ra Keenan không phải là một tay mơ trong khi anh là người hát chính trong bài hát Vote With A Bullet rất thành công trong album trước đó. Năm 1994, COC tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là Deliverence với khá nhiều sự thay đổi. COC lúc này chịu ảnh hưởng rất nhiều từ phong cách Doom của Black Sabbath và những ảnh hưởng từ cả Southern Rock (Blues Rock) của nước Mỹ. Album rất hay với những bản hit như Albatross hay Clean My Wounds liên tục được phát sóng trên MTV giúp cho album xuất hiện tại vị trí thứ 155 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán trên 400.000 bản. Đây cũng là album thành công nhất về mặt thương mại của nhóm. Thành công đến không chỉ bởi sự thay đổi phong cách mà còn từ chất lượng những bài hát (hay và rất dễ nhớ) và là một trong những album hay nhất trong sự nghiệp của nhóm Clean My Wounds Albatross (còn tiếp)
Corrosion Of Conformity Corrosion Of Conformity Năm 1996, COC tung ra album thứ 2 với giọng ca chính của Keenan (và là album thứ 5 của nhóm) là Wiseblood. Cũng như album trước, album này tiếp tục là một siêu phẩm của Metal thế giới và rất nhiều nhà chuyên môn đã dự báo là COC có thể trở thành những siêu sao của làng nhạc Metal thế giới tiếp bước Metallica. Album thậm chí còn được đề cử giải thưởng cao quý Grammy và band nhạc còn được mời đến để chơi trong lễ trao giải thưởng lần thứ 40 này. Album tiếp tục vươn lên hạng 105 trên bảng xếp hạng của Mỹ nhưng có một sự thật là COC sẽ không thể vươn lên tầm siêu sao như Metallica được mặc dù đây là một album rất hay nhưng nó chỉ bán được 1/3 lượng đĩa của album Deliverence (150.000 bản). Drowning in a Daydream Redemption City Do số lượng đĩa bán được có phần giảm nên COC mất hợp đồng với hãng Columbia và quay trở về hãng Sanctuary và tung ra album America’s Volume Dealer vào năm 2000. Tuy nhiên, album này chất lượng kém xa 2 albums trước đó và trở thành một thảm họa trong sự nghiệp của COC vì thậm chí còn không có mặt trong bảng xếp hạng của nước Mỹ và là một album đáng quên nhất trong sự nghiệp của band nhạc. Sau album này, tay trống Mullin rời nhóm một lần nữa. Phải đến năm 2005, COC mới tung ra album thứ 7 trong sự nghiệp của mình là In The Arms Of God. Trái với album trước không thành công, đây là một trong những album đỉnh cao của năm 2005 và nhận được rất nhiều lời khen ngợi trên toàn thế giới. Lúc này âm nhạc của COC kết hợp thêm cả Alternative Metal với Sludge và Stoner Metal. Dù đã tưởng COC qua thời kỳ đỉnh cao từ lâu những album vẫn được biết đến rộng rãi và lần này xếp hạng 108 trên bảng xếp hạng của Mỹ, vị trí mà America’s Volume Dealer đánh mất. Tuy nhiên đây cũng là album cuối cùng của giọng ca chính Keenan với band nhạc. Zippo Stonebreaker Trong những năm sau đó, COC rơi vào tình trạng nghỉ ngơi, không phải giải thể nhưng cũng không phải tồn tại. Phải mãi tới năm 2010, nhóm mới tái lập trở lại một lần nữa và đến năm 2012, nhóm tung ra album thứ 8 trong sự nghiệp là Corrosion Of Conformity. Lúc này vai trò hát chính chia đều cho tay guitarWeatherman và tay bass Dean. Album này khác nhiều so với album trước đó với nhiều ảnh hưởng của Metal truyền thống. Tuy có phần hơi thô ráp, đây vẫn là một album có chất lượng tốt. The Doom Album cuối cùng của nhóm cho tới thời điểm hiện tại là IX được tung ra vào năm 2014 và tiếp tục chứng kiến sự thay đổi để trở về một thứ âm nhạc gần gũi hơn với Hardcore Punk và tiếp tục là một album đáng nghe. On Your Way COC có thể không phải là một band nhạc quá nổi tiếng trên bầu trời âm nhạc thế giới nhưng những album của họ đều lạ và đặc biệt đối với những người yêu nhạc Metal trên toàn thế giới. Phong cách của họ cũng góp phần không nhỏ để phát triển dòng nhạc Sludge Metal về sau. Một band nhạc rất hay với những siêu phẩm như Blind, Deliverence hay Wiseblood.
Crowbar Crowbar Chúng ta đã điểm qua sự hình thành của Sludge Metal với những tên tuổi lớn như Melvins hay Corrosion Of Conformity, những band nhạc không đến từ New Orleans. Cả Melvins và COC đều là những band nhạc lớn và có nhiều ảnh hưởng tới Sludge Metal, dòng nhạc sau này phát triển hết sức mạnh mẽ tại New Orleans. Tuy nhiên cả Melvins và COC đều phát triển một thứ Sludge ít tính bạo lực và Extreme mà nghiêng về mainstream nhiều hơn (dễ nghe hơn). Các band nhạc của New Orleans thì khác, họ phát triển Sludge Metal theo xu hướng bạo lực và mang nặng tính Extreme hơn rất nhiều, chủ yếu là dựa trên việc sử dụng giọng hát đầy đau đớn, khổ sở và căm phẫn. Chính vì phong cách bạo lực này mà nhiều nhà chuyên môn xếp Sludge vào dòng Extreme thứ 5 của Metal (sau Black, Thrash, Doom và Death). Đại diện đầu tiên của New Orleans Sludge là Crowbar. Crowbar phát triển một thứ âm nhạc chậm (Doom) với những cú riff nặng, trầm, ồn và các bài hát thì thường miêu tả sự đau đớn, tuyệt vọng. Tuy nhiên, đôi lúc họ cũng sử dụng những đoạn có thiết tấu khá nhanh của hardcore. Phong cách Sludge của Crowbar có ảnh hưởng bao trùm tới hầu hết các band của New Orleans sau này. Trở lại với sự hình thành của Crowbar, nhóm bắt đầu hình thành từ năm 1988 khi giọng ca chính, guitarist Kirk Windstein tham gia vào nhóm nhạc Hardcore Shell Shock. Tuy nhiên, cuối năm này thì Shell Shock buộc phải giải tán vì tay guitar của họ tự vẫn. Sau đó, nhóm tiếp tục tái lập rồi giải tán rất nhiều lần nữa trước khi tay Windstein quyết định tái lập nhóm một lần nữa và đổi tên thành Crowbar vào năm 1991. Năm 1991, Crowbar tung ra album đầu tay Obedience Thru Suffering nhưng không nhận được nhiều sự chú ý mà phải đến album thứ 2 là Crowbar -1993 thì họ mới được đông đảo fan hâm mộ Metal biết tới. Nguyên nhân chính không phải do chất lượng của album (album có chất lượng rất tốt) mà do sự lăng xê của Phil Anselmo, giọng ca chính của nhóm Pantera, đồng thời cũng là nhà sản xuất chính của album này. Sau thành công rất lớn của album cùng tên Crowbar là những bước tiến vững chắc của Crowbar, band nhạc với những thành viên rất nặng ký (nghĩa đen), với hàng loạt những album có chất lượng rất tốt như Time Heals Nothing -95, Broken Glass -96, Odd Fellows Rest -98, Equilibrium -2000. Cùng với thời gian, band nhạc cũng dần mất các trụ cột và nhiều khi phải mượn các thành viên của nhóm nhạc khác để tiếp tục sự nghiệp, ghi âm và ra đĩa như các album Sonic Excess In Its Purest Form -2001. Lifesblood For The Downtrodden -2005. Sau đó là một thời gian nghỉ khá dài trong sự nghiệp của Crowbar trước khi tiếp tục trở lại với một đội hình mới và tung ra album Sever The Wicked Hand vào năm 2011. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là album này có chất lượng rất tốt và nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ cả những nhà chuyên môn cũng như fan hâm mộ trên toàn thế giới. Album cuối cùng của Crowbar tới thời điểm hiện tại là Symmetry In Black được tung ra vào giữa năm 2014. Crowbar là band nhạc có tầm ảnh hưởng rất lớn tới Sludge Metal thế giới, các thành viên band nhạc này còn tham gia rất nhiều những nhóm Sludge Metal khác nhau mà chúng ta sẽ còn gặp lại họ trong những phần tiếp theo. Có thể nói nếu ai muốn tìm hiểu sâu hơn hoặc làm quen với Sludge thì nên tìm nghe band nhạc này. Existence Is Punishment Like Broken Glass I Feel The Burning Sun The Cemetery Angels Walk With Knowledge Wisely
EyeHateGod EyeHateGod EyeHateGod (EHG) tiếp tục là một trong những band hết sức quan trọng của New Orleans (NOLA) Sludge Metal. Nhóm thành lập từ năm 1988 bởi tay guitar Jimmy Bower. Bower là một nghệ sỹ đa tài, anh này còn tham gia với vai trò guitarist và drummer cho rất nhiều band như Corrosion Of Conformity, Crowbar, Down… Có lẽ đây cũng là một phần lý do khiến sự nghiệp của EHG trở nên khá bất ổn. Cứ mỗi lần ra album, lại có thông tin nhóm sắp tan rã vì các thành viên của nhóm tham gia chính thức vào band nhạc khác. Tuy nhiên, trên thực tế, band nhạc khá ổn định và có khá ít sự thay đổi thành viên trong toàn bộ sự nghiệp của mình. Về mặt âm nhạc, EHG chơi nhạc theo phong cách Sludge khá bạo lực với giọng hát mang nhiều tính gào thét (dạng bị tra tấn) và tích hợp thêm rất nhiều những cú riff của Blues Rock (mang phong cách Blues của nước Mỹ, Southern Rock). Năm 1992, nhóm tung ra album đầu tay In The Name Of Suffering, album này thu âm rất kém do các thành viên band nhạc chưa có kinh nghiệm. Đây cũng là một album mang nặng tính Hardcore và chưa thực sự nổi bật. Phải đến album thứ 2 là Take As Needed For Pain vào năm 1993 thì nhóm mới nhận được sự chú ý khi chuyển dần sang chơi Sludge với những ảnh hưởng của Blues, xu hướng âm nhạc mà nhóm sẽ còn tiếp tục theo đuổi về sau này. Tuy nhiên, ngay sau album khá ân tượng, nhóm rơi vào bất ổn khi Bower nhảy sang chơi trống cho Crowbar và Down, giọng ca chính Williams chuyển sang làm báo còn tay guitar Brian Patton thì chơi cho nhóm Soilent Green. Chính vì lý do này, phải đến năm 1996 nhóm mới tung ra album thứ 3 là Dopesick, một trong những album kinh điển của Sludge Metal thế giới. Âm nhạc trong album vẫn là sự kết hợp của Doom với Hardcore nhưng mạnh và dày hơn rất nhiều. Các bài hát trong album đều có chất lượng rất tốt. Tuy nhiên, khi tên tuổi đang trở nên nổi tiếng thì nhóm tiếp tục rơi vào trạng thái ngừng hoạt động trong một thời gian khá dài do mâu thuẫn giữa các thành viên. Phải đến năm 2000 nhóm mới tung ra album thứ 4 là Confederacy Of Ruined Lives, một album khá giống album Take As Needed For Pain rồi tiếp tục rơi vào trạng thái tan rã. Phải đến năm 2014 nhóm mới ra tiếp album thứ 5 là EyeHateGod, một album được tung ra sau cái chết của tay trống Joe LaCaze. EHG là một trong những band nhạc Sludge gạo cội và rất nhiều ảnh hưởng tuy sự nghiệp rất nhiều thăng trầm. Cũng như Crowbar, âm nhạc của nhóm hay và mang nhiều tính bạo lực, phong cách này góp phần rất lớn đưa Sludge trở thành một dòng nhac Extreme. Take as needed for pain Anxiety Hangover SOUTHERN DISCOMFORT Medicine Noose
Acid Bath Acid Bath Acid Bath là một trong những tên tuổi lớn nữa của Sludge Metal tại vùng New Orleans, Mỹ. Nhóm thành lập năm 1991 trên cơ sở là sự sáp nhập của 2 band nhạc Dark Karnival và Golgotha. Âm nhạc của Acid Bath có phần lạ và đặc biệt hơn rất nhiều so với các band nhạc Sludge Metal khác. Bởi vì, ngoài những đặc trưng của Sludge như giọng hát, tốc độ của Hardcore, tiết tấu chậm của Doom, nhóm còn tích hợp thêm rất nhiều ảnh hưởng của Thrash, Black, Death, Gothic, Blues, Folk, Psychedelic và thậm chí là cả Country. Sau khi thành lập, nhóm ghi âm một album demo, album này khá tốt nên sau đó nhóm có hợp đồng với một hãng đĩa nhỏ là Rotten. Năm 1994, Acid Bath tung ra album đầu tay là When The Kite String Pops. Album của đầu tay này của họ rất hay và là một trong những album kinh điển của Metal underground thế giới. Album thứ 2 của nhóm là Paegan Terrorism Tactics -1996 tiếp tục là một album rất hay của nhóm khi chơi mạnh mẽ, tập trung hơn. Tuy cả 2 albums kể trên đều không nhận được sự chú ý quá nhiều của giới hâm mộ Metal thế giới nhưng nó đều là những album có chất lượng rất tốt. Nhưng đây lại là nỗ lực duy nhất của Acid Bath. Năm 1997, tay bass Audie Pitre của nhóm chết vì tai nạn giao thông (cùng với cha mẹ của anh này). Cái chết của Pitre khiến sự nghiệp của Acid Bath kết thúc đầy đáng tiếc chỉ với 2 album. Sự nghiệp của Acid Bath không quá dài, chỉ trong 6 năm với 2 albums nhưng những gì họ làm được cho Sludge Metal là không nhỏ. Họ cũng là một trong những nhóm nhạc Sludge Metal đầu tiên tích hợp thêm rất nhiều các yếu tố đặc trưng của các dòng nhạc Extreme khác vào Sludge (như grindcore, death, gothic…). Ngoài ra họ còn tích hợp thêm cả nhiều yếu tố của Grunge, acoustic guitar, và đọc cả thơ vào trong các bài hát của mình. Bleed Me An Ocean Scream of the Butterfly
Soilent Green Soilent Green Sau Acid Bath, Soilent Green là một trong những nhóm nhạc tiếp tục tích hợp những ảnh hưởng của Grindcore vào Sludge Metal. Soilent Green thành lập năm 1988 tại New Orleans, Mỹ nhưng phải mãi đến năm 1995 nhóm mới tung ra album đầu tay là Pussysoul. Âm nhạc của nhóm là sự kết hợp của Hardcore với Sludge Doom (phong cách Crowbar, Acid Bath…) với giọng hát có pha lẫn phong cách gầm gừ của Death Metal. Âm nhạc của nhóm cũng thường xuyên thay đổi phong cách từ grindcore sang Sludge rồi lại chuyển ngược lại. Cũng chính vì chuyển phong cách nhiều (Grindcore sang Doom là 2 thái cực hoàn toàn tách biệt – một nhanh, một chậm và sử dụng nhiều các thiết bị làm méo tiếng) nên trong một bài hát thì band nhạc này cũng thường xuyên chuyển đổi nhạc cụ. Kết quả cuối cùng của sự phức tạp này là một thứ âm thanh khá hỗn loạn, tuy nhiên phong cách này khá lạ và sáng tạo, có sức thuyết phục người nghe. Tất nhiên, âm nhạc kiểu như vậy không dành cho số đông người nghe nhưng nó cũng rất khác biệt và mạnh mẽ, tao nên những sự khác biệt trong âm nhạc của Soilent Green. Sự nghiệp của Soilent Green cũng không thực sự có nhiều albums, ngoài Pussysoul, họ chỉ tung ra được thêm 4 albums nữa là Sewn Mouth Secrets -98, A Deleted Symphony for The Beaten Down -2001, Confrontation -2005 và Inevitable Collapse In The Presence Of Conviction -2008. Trong thập niên 2000s band nhạc chịu rất nhiều mất mát khi tay bass của nhóm là Scott Williams bị bạn cùng phòng giết (rồi tự sát) vào năm 2004. Âm nhạc của Soilent Green không dành cho tất cả mọi người, nhưng cũng vẫn rất đáng nghe, nhất là những fan của phong cách Extreme Metal. Slapfuck Sewn Mouth Secrets Leaves of Three Antioxidant
Down Down Down là một siêu nhóm gồm tập hợp rất nhiều tên tuổi nổi tiếng của thế giới Metal. Band thành lập vào năm 91 bởi giọng ca chính Phil Anselmo (Pantera), tay guitar Pepper Keenan (Corrosion Of Conformity), guitarist Kirk Windstein và bassist Todd Strange của nhóm Crowbar và Jimmy Bower – tay guitar của EyeHateGod lúc này đảm nhận vai trò drummer. Tất cả các thành viên của band nhạc đều quen biết nhau từ lâu năm và đều yêu thích Doom Metal. Hẳn ta còn nhớ, các band nhạc kể trên (ngoại trừ Pantera) đều là những band Sludge Metal gạo cội. Tuy là một siêu nhóm với những tên tuổi rất nổi tiếng nhưng nhóm không sử dụng tên tuổi của mình để tìm một hợp đồng ghi âm mà đều muốn giấu đi danh tiếng để phát triển sự nghiệp của mình. Sau khi ghi âm một số bài hát demo và chơi một số live show nhỏ, nhóm nhận được sự chú ý của hãng đĩa khổng lồ Elektra (dù hãng này không hề biết nhân thân các thành viên band nhạc). Elektra nhận thấy tiềm năng của nhóm nên cử một nhân viên theo dõi các buổi trình diễn của nhóm và khi nhận ra các thành viên band nhạc là ai, họ lập tức ký hợp đồng với band nhạc. Down tung ra album kinh điển đầu tay NOLA vào năm 1995 và album này sau đó tiến lên thẳng vị trí số 57 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Âm nhạc trong album hiển nhiên là Sludge Metal với rất nhiều ảnh hưởng của Southern Rock (nhạc Blues của Mỹ), Stoner Rock (Psychedelic Doom) và Grunge. Đây là một album rất hay với những bài hát được yêu thích nhất của Down như Lifer, Bury Me In Smoke, Hail To The Leaf, Stone The Crow, Temptation’s Wing… Album hết sức thành công về mặt thương mại khi đứng trên bảng xếp hạng của Mỹ trong 6 tuần và bán được hơn 1 triệu bản (platinum). Sau khởi đầu như mơ, lại là một thời gian nghỉ rất dài của nhóm. Nguyên nhân chủ yếu là do các thành viên đều quá bận rộn với những band nhạc chính của mình. Stone The Crow Phải 7 năm sau khi tung ra album Nola, Down mới quay trở lại để tung ra album thứ 2 là Down II – A Bustle In Your Hedgerow vào năm 2002 với một sự thay đổi duy nhất trong đội hình là tay bass Rex Brown (thành viên kém nổi tiếng nhất của Pantera) thay thế Strange. So với album Nola trước đó, album này chất lượng không bằng với nhiều bài hát mang phong cách jam (các thành viên chơi ngẫu hứng và kéo dài bài hát hơn so với thông thường, cấu trúc bài hát không chặt chẽ). Phong cách jam cũng chính là một trong những đặc trưng của Southern Rock. Album này khởi đầu tại vị trí thứ 44 trên bảng xếp hạng của Mỹ nhưng số lượng đĩa bán được kém rất xa so với album đầu tay Nola. Sau album này, Phil Anselmo quyết định sẽ không tiếp tục sự nghiệp với Down nữa mà tập trung chơi cho Super Joint Ritual (Pantera lúc này đã sắp tan rã hoàn toàn). Beautifully Depressed Tuy nhiên, đến năm 2006, Down bất ngờ tái hợp một lần nữa và ghi âm album thứ 3 của nhóm. Album Down III – Over The Under được tung ra vào năm 2007. Album này chứng kiến sự thay đổi khá nhiều trong âm nhạc của Down khi họ bắt đầu chơi với tiết tấu nhanh và mạnh hơn so với những album trước đó (nghiêng nhiều về phía Heavy Metal hơn so với những album tiết tấu chậm trước đó). Sự thay đổi này mang nhiều ý nghĩa tích cực, giọng hát của Anselmo lúc này dễ nghe hơn rất nhiều so với trước và là một điểm sáng trong album. Lời các bài hát trong album cũng hết sức có ý nghĩa khi chủ yếu nói về cái chết của Dimebag Darrell , tay guitar chính của Pantera và hậu quả của cơn bão Katrina tàn phá những band miền Nam nước Mỹ. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn tới vị trí số 26 trên bảng xếp hạng của Mỹ (vị trí cao nhất trong lịch sử của band nhạc Downtính tới thời điểm năm 2007). On Mảrch The Saints Trong giai đoạn sau năm 2011, Down tiếp tục tập trung vào để ghi âm dù có nhiều thay đổi trong đội hình. Năm 2012 họ tung ra album EP Down IV – Part I với âm nhạc trở về thời kỳ album Nola (album này dài 34 phút với nhiều bài hát được Anselmo sáng tác trong dự án Nodferatu’s lair của anh này). Ngay sau khi album EP này được tung ra, rộ lên tin đồn về việc Down sẽ liên tục tung ra 4 albums EP thay cho 1 album chính thức. Dù Anselmo sau đó phủ nhận việc này nhưng có vẻ như mọi việc đang diễn ra theo đúng những tin đồn. Vào năm 2014, Down tiếp tục tung ra EP thứ hai là Down IV-Part II, album này, tuy là EP nhưng hoàn toàn là những bài hát mới và kéo dài tới hơn 37 phút (không kém gì một album bình thường). Âm nhạc trong album này khá mạnh và với tiết tấu trung bình. Album rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 23 tại Mỹ (vị trí cao nhất của Down trong lịch sử). Witchtripper We Knew Him Well Down là một siêu nhóm, một trong những band nhạc Sludge Metal thành công và nổi tiếng nhất. Âm nhạc của nhóm hay với những album chất lượng tốt. Những fan yêu mến của Pantera chắc chắn không thể bỏ qua Down.
Vâng, có thể nói em là một fan của âm nhạc, nhạc Rock là một trong những thể loại em yêu thích nhât bác ạ.