Heavy Metal - Nửa thế kỷ nhìn lại.

Discussion in 'Âm nhạc' started by no1knows, 20/5/13.

  1. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Cavity

    Cavity​


    Chúng ta đã tìm hiểu một loạt những band Sludge Metal của New Orleans và bây giờ ta tiếp tục chứng kiến sự phát triển của Sludge Metal ra những phần tiếp theo của nước Mỹ. Cavity là một trong những band nhạc Sludge Metal của Florida. Nhóm thành lập năm 1992 tại một Nightclub có tên là Palm Trees. Tại thời điểm họ mới thành lập Punk đang là thể loại nhạc chiếm nhiều ưu thế. Tuy nhiên nhóm nhạc lại quyết định chơi theo phong cách mạnh mẽ hơn rất nhiều là Sludge. Cavity lại tích hợp thêm rất nhiều Noise Rock (một thứ âm nhạc ồn, khó nghe) vào Sludge Metal để tạo ra một thứ Sludge của riêng họ và theo đuổi một phong cách mang nhiều tính bạo lực. Sau khi ổn định đội hình Cavity bước vào ghi âm những album demos và liên tục tham gia những live show (dù có không nhiều khán giả). Năm 1995, họ tung ra album đầu tiên trong sự nghiệp là Human Abjection. Do những lý do về tài chính, chỉ có 500 bản của albums này được bán ra. Do số lượng quá ít, album này nhanh chóng bán hết. Tên tuổi của Cavity lúc này được Pushead, nghệ sỹ chịu trách nhiệm thiết kế bìa album , áo phông … cho những band nhạc vô cùng nổi tiếng như Metallica, Corrosion Of Conformity hay The Misfits chú ý. Pushead còn có hãng thu âm của riêng mình là Bacteria Sour nên Cavity lập tức có hợp đồng với hãng đĩa này. Năm 1996 band tung ra album thứ hai là Somewhere Between The Train Station And The Dumping Grounds.
    Phong cách của Cavity đặc biệt và không dễ nghe nhưng họ vẫn nhận được sự chú ý từ một hãng đĩa độc lập rất uy tín khác là Man’s ruin. Đây là một hãng đĩa chuyên về Stoner Rock, tuy nhiên âm nhạc của Cavity thì gần như không liên quan gì tới Stoner Rock cả. Cavity tung ra album thứ 3 của nhóm là Supercollider vào năm 1999, đây là album có chất lượng cao nhất trong sự nghiệp của nhóm. Dù album hay và được giới chuyên môn đánh giá rất cao, nhưng nó lại không thành công về mặt thương mại khi có rất ít người biết tới sự tồn tại của Cavity. Album cuối cùng của Cavity là On The Lam được tung ra vào năm 2001 tiếp tục là một album có chất lượng tốt. Sau album này, Cavity tan rã và các thành viên của nhóm tham gia rất nhiều các dự án khác nhau. Tuy rất ít người biết tới Cavity, đây vẫn là một band nhạc đáng chú ý với nhiều album có chất lượng tốt.

    Human Abjection

    Shake 'Em On Down

    Taint and Abandon

    On The Lam
     
  2. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Iron Monkey

    Iron Monkey​


    Từ nước Mỹ, Sludge Metal tiếp tục phát triển ra ngoài biên giới của đất nước này. Một trong những band nhạc đầu tiên chơi Sludge Metal tại châu Âu là nhóm nhạc Iron Monkey của Anh. Nhóm này thành lập vào năm 1994 và chơi một thứ âm nhạc chịu nhiều ảnh hưởng của EyeHateGod. Có lẽ cũng vì lý do này mà Iron Monkey còn được gọi là EyeHateGod của nước Anh. Một trong những điểm đặc biệt nhất của Iron Monkey là âm nhạc hết sức bạo lực với giọng hát gào thét, rên rỉ của vocalist Johnny Morrow. Trong những buổi trình diễn live của nhóm, Iron Monkey cũng thường xuyên uống rượu và đập phá những dụng cụ trình diễn . Điều này khiến nhóm trở nên nổi tiếng với những hành động rất bạo lực. Sau đó, nhóm ký hợp đồng với hãng đĩa Earache và tung ra 2 albums là Iron Monkey vào năm 97 và Our Problem vào năm 1998. Cả hai album đều có chất lượng tốt và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn, đặc biệt là album thứ hai Our Problem. Tuy nhiên, sau khi tung ra 2 albums liên tiếp, nhóm gặp nhiều trục trặc trong sự nghiệp khi các thành viên lần lượt bỏ đi do mâu thuẫn. Đến cuối năm 1999 nhóm chính thức tan rã để lại khá nhiều sự nuối tiếc cho những người hâm mộ.
    Sau khi tan rã, các thành viên của nhóm tiếp tục theo đuổi sự nghiệp với nhiều band nhạc khác nhau. Đến năm 2002, giọng ca chính Marrow qua đời do bệnh tim nên khả năng tái lập band nhạc là không còn. Dù sự nghiệp ngắn ngủi, Iron Monkey vẫn là tên tuổi khá được yêu mến của Sludge Metal thế giới.

    666 Pack

    Bad Year

    Arsonaut
     
  3. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    High On Fire​


    Hẳn không ít người trong chúng ta còn nhớ đến band nhạc huyền thoại Sleep trong phần viết về Stoner Metal. High On Fire là phần tiếp theo của band nhạc huyền thoại này. Bởi vì High On Fire được thành lập vào năm 1998 bởi tay guitar Matt Pike của nhóm Sleep, chỉ 6 tháng sau khi Sleep tan rã. Sleep đã tạo dựng được tên tuổi và được tôn thờ như một trong những band nhạc xuất sắc nhất của Stoner Metal (với album rất dài là Jerusalem – Dopesmoke dài tới hơn 60 phút). Chính vì lý do này, cũng dễ hiểu khi High On Fire là cái tên đáng chú ý ngay từ khi mới thành lập và âm nhạc của họ có nhiều điểm tương đồng với âm nhạc của Sleep (tức là Stoner Doom). 2 albums đầu tiên của họ The Art Of Self -2000 và Surrounded By Thieves -2002 gần như là những album Stoner Metal kiểu Sleep (nhưng có phần mạnh mẽ và bạo lực hơn).
    Tuy nhiên, đến khi tung ra album thứ 3 là Blessed Black Wings vào năm 2005, âm nhạc của nhóm bắt đầu thay đổi khi chuyển sang chơi Stoner/Sludge Metal với những ảnh hưởng của Thrash Metal. Album này hay, đặc biệt và nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn trên toàn thế giới. Nó góp phần rất lớn đưa High On Fire thoát ra khỏi cái bóng quá lớn của Sleep.
    Kể từ khi tung ra Blessed Black Wings, sự nghiệp của High On Fire lên như diều gặp gió. Album thứ 4 của nhóm Death Is This Communion -2007 với phong cách khá giống với album trước nhưng với những bài hát có chất lượng tốt hơn rất nhiều. Album này nhận được vô số lời khen ngợi và thậm chí còn được bầu là một trong những album xuất sắc nhất năm 2007 của nhiều tạp chí uy tín trên toàn thế giới.
    Các albums tiếp theo của nhóm là Snakes For The Divine -2010 và De Vermis Mysteriis -2012 đều là những album hay và góp phần đưa tên tuổi của High On Fire trở thành một trong những band nhạc triển vọng nhất của Metal thế giới trong những năm gần đây.

    Blessed Black Wings

    Rumors of War

    Snakes For The Divine

    Fertile Green
     
  4. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Superjoint Ritual

    Superjoint Ritual​


    Superjoint Ritual là một band nhạc nữa của giọng ca chính Phil Anselmo của nhóm Pantera. Nhóm thành lập năm 1993 tại NOLA, Mỹ bởi Anselmo và Jimmy Bower (nhóm EyeHateGod) trong vai trò guitar, Joe Fazzio ở vị trí trống, Hank Williams III (một nghệ sỹ country) ở vị trí bass và Kevin Bond ở vị trí tay guitar thứ hai. Dù thành lập từ rất sớm nhưng phải mãi đến tận năm 2002, tức là gần 10 năm sau khi chính thức ra đời, Superjoint Ritual mới có album đầu tiên là Use Once And Destroy. Ngay trong năm 2003, nhóm tung ra album thứ hai là A Lethal Dose Of American Hatred. Âm nhạc trong cả 2 albums này đều là sự kết hợp của phong cách Sludge Metal (kiểu EyeHateGod, Corrosion Of Conformity) với Groove Metal của Pantera và nhiều ảnh hưởng của Black Metal. Giọng hát của Anselmo trong Superjoint Ritual mạnh và bạo lực hơn rất nhiều so với những band anh từng tham gia trước đó. Trong những album này, Anselmo còn tham gia như một tay guitar thứ 3. Có lẽ do tính bạo lực nên các bài hát trong 2 album đều rất ngắn.
    Trong khá nhiều cuộc phỏng vấn, Anselmo khẳng định đây là band nhạc mà anh muốn theo đuổi dài lâu tuy nhiên sự thực thì không được tốt đẹp như vậy. Sau 2 albums chất lượng tốt và theo đuổi nhiều ý tưởng, những mâu thuẫn lớn phát sinh giữa Anselmo với các thành viên còn lại về đường hướng phát triển của band nhạc dẫn đến sự chấm dứt sự nghiệp của band nhạc vào cuối năm 2005, ngay trước khi album thứ 3 kịp hoàn thành. Cuối năm 2014 Anselmo và Jimmy Bower sẽ tái lập nhóm. Tuy nhiên, vì những lý do về bản quyền nhóm chỉ còn có tên là Superjoint. Sau khi tham gia lưu diễn, Anselmo tuyên bố cả anh và Bower đều quá bận với những dự án riêng nên band chưa có kế hoạch tung ra album mới trong thời gian gần.

    The Alcoholik

    Dress Like A Target

    Waiting For The Turning Point
     
  5. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Mastodon

    Mastodon​


    Như chúng ta đã điểm qua sự hình thành và phát triển của Sludge Metal, đến thập niên 2000s thì dòng nhạc này cũng đã có một vài tên tuổi đáng chú ý. Tuy nhiên, những nỗ lực của các band nhạc gạo cội kể trên vẫn chưa đủ để thuyết phục giới chuyên môn chính thức coi Sludge là một dòng nhạc Metal chính thức. Phải đến đầu những năm 2000s, sự xuất hiện của những tên tuổi siêu việt mới như Mastodon, Baroness hay Kylesa mới đưa tên tuổi của dòng nhạc này chính thức được thừa nhận. Và đây là thời điểm để chúng ta đến với một trong những tên tuổi nổi bật nhất của Metal thế giới trong những năm trở lại đây. Một trong những siêu sao, là niềm hy vọng và là tương lai của Heavy Metal thế giới trong những năm gần đây – Mastodon.
    Mastodon thành lập vào thời điểm cuối năm 1999, đầu năm 2000 khi tay trống Brann Dailor và tay guitar Bill Kelliher chuyển đến sống tại Atlanta. Trước đó Dailor và Kelliher chơi cho band Today Is The Day tại New York. Tại một buổi biểu diễn của High On Fire, cặp đôi Kelliher và Dailor gặp bassist Troy Sanders và guitarist Brent Hinds. Bộ tứ này cùng nhau nói chuyện thấy rất hợp vì cả 4 đều yêu thích Sludge Metal (Melvins), Post Metal (Neurosis) và một số band Hard Rock cổ như Thin Lizzy. Lúc này, band thiếu một giọng ca chính, nên ngay sau đó họ kết nạp thêm vocalist Eric Saner và bước vào ghi âm album demo đầu tiên vào năm 2000. Nhưng ngay sau khi ghi âm album này, Saner rời nhóm vì những lý do cá nhân.
    Sau đó, nhóm tung ra một album EP là Lifesblood rồi tung ra album đầu tay Remission. Các bài hát trong album này thực ra đều được sáng tác từ trước đó rất lâu. Chủ đề chính của album này dựa trên các yêu tố về lửa (một trong 4 nguyên tố theo quan niệm của châu Âu cổ gồm: lửa, nước, đất và không khí). Âm nhạc trong album khá mạnh và là sự kết hợp của Sludge với Progresive Metal với những đoạn riff mạnh mẽ và rất hay của cặp đôi guitar Kelliher/Hinds. Nhưng điểm sáng lớn nhất trong album chính là màn trình diễn siêu hạng của tay trống Dailor, một anh hùng trống mới của thế giới Heavy Metal. Album nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ khắp nơi trên thế giới và là tiền đề quan trọng cho Mastodon phát triển mạnh mẽ sau này.

    March of the Fire Ants


    Năm 2004, Mastodon tung ra album thứ 2 là Leviathan (album này có nội dung chuyên về nước, cũng là một trong những nguyên tố cổ). Đây là một album concept với nội dung chính là câu chuyện vô cùng nổi tiếng Moby Dick của nhà văn Herman Melville.Có lẽ cần phải nói thêm rằng Moby Dick là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của một nhà văn Mỹ. Với một cốt truyện nổi tiếng như vậy, việc viết một album concept là không hề đơn giản, nhưng đó là điều mà Mastodon đã làm được. Âm nhạc trong album lúc này đã mang nhiều tính giai điệu hơn so với Remission nhưng vẫn mang nhiều tính Extreme với việc sử dụng giọng ca khàn và mang nhiều tính bạo lực kiểu Hardcore. Album thành công trên phạm vi toàn cầu và được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Trong năm 2004, album được bầu là album Metal xuất sắc nhất của các tạp chí như Revolver, Kerrang!, Terrorizer đều là những tạp chí hàng đầu về Metal thế giới. Album cũng giúp cho Mastodon lần đầu tiên có mặt trên bảng xếp hạng của nước Mỹ ở vị trí 139.
    Seabeast

    Blood and Thunder


    Thành công của Leviathan khiến Mastodon dần được biết đến rộng rãi và trở thành niềm hy vọng lớn của Heavy Metal thế giới, lúc này đang rơi vào khủng hoảng vì thiếu những band nhạc có tầm ảnh hưởng lớn. Mastodon đem lại cho những fan của Heavy Metal sự tin tưởng vào một tương lai tươi sáng sẽ trở lại với dòng nhạc này. Năm 2006, Mastodon tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Blood Mountain. Cũng giống như album Leviathan trước đó, đây tiếp tục là một concept album với nội dung chủ yếu nói về nguyên tố đất. Lúc này, âm nhạc của nhóm đã trở nên dễ nghe hơn với việc sử dụng rất nhiều clean vocal. Đây là một album hay nhưng có lẽ nó chưa vươn tới tầm cỡ như Leviathan. Cùng với album này, Mastodon rất thành công về mặt thương mại khi album của họ vươn lên tới hạng 32 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Rất nhiều tạp chí danh tiếng về Metal và cả không Metal đều đánh giá rất cao album. Bài hát Colony Of Birchmen thậm chí còn được đề cử giải thưởng Grammy. Lúc này, tài năng của Mastodon đã được công nhận rộng rãi trên toàn thế giới.

    Colony Of Birchmen

    Sleeping Giant


    (còn tiếp)
     
  6. snel

    snel Advanced Member

    Joined:
    13/1/09
    Messages:
    902
    Likes Received:
    169
    Dethklok không tệ chút nào
    Phải công nhận nhạc Dethklok rất độc đáo
     
  7. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Mastodon

    Mastodon​


    (tiếp theo)

    Sau 3 albums hết sức thành công, Mastodon trở thành một biểu tượng mới của Heavy Metal thế giới với những album đầy sáng tạo, khác biệt. Tuy nhiên, đã từng có rất nhiều band Metal tung ra những album rất hay nhưng rồi sau đó nhanh chóng lụi tàn. Chính vì vậy, sự kỳ vọng dành cho Mastodon có thể tạo ra áp lực quá lớn cho bản thân để rồi không thể vượt lên trở thành những band nhạc hàng đầu thế giới. Năm 2009, Mastodon tung ra album thứ 4 là Crack The Skye trong sự mong chờ và thấp thỏm của người hâm mộ. Nhưng Mastodon đã không làm cho những fan hâm mộ Metal thế giới thất vọng, album này thậm chí có chất lượng vượt xa những album trước đó với những ảnh hưởng rõ nét của Progressive (với những bài hát dài và tempo thay đổi liên tục). Đây tiếp tục là một album concept với nội dung viết chủ yếu về không khí, linh hồn, cái chết (nguyên tử cuối cùng theo quan niệm châu Âu cổ). Album cũng mang nhiều tính giai điệu và ít sử dụng giọng hát khàn (cả Dailor, Sanders, Hinds chia sẻ nhiệm vụ hát chính). Album tiếp tục rất thành công cả về mặt nghệ thuật lẫn thương mại khi chiếm được vị trí số 11 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Đây có lẽ là một trong những album hay nhất thập kỷ 2000s của Metal thế giới.
    Crack the skye

    Oblivion


    Sau Crack The Skye, nội dung viết về các nguyên tử cổ đã hết, Mastodon cần phải thay đổi phong cách và điều đó thể hiện rất rõ trong album The Hunter vào năm 2011. Âm nhạc của nhóm thay đổi rất nhiều trong album này khi tính chất Progressive không còn nhiều, các bài hát ngắn và đơn giản hơn rất nhiều, nghiêng về phía Metal hơn là Progressive. Các bài hát vì thế cũng dễ nghe hơn nhiều so với những album trước đó. Do có sự thay đổi về phong cách nên cũng dễ hiểu là nó gây nhiều tranh cãi với các fan hâm mộ của Mastodon, tuy nhiên, phần lớn vẫn đánh giá đây là một album lạ và đặc biệt của nhóm. Album tiếp tục rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên xếp hạng 10 trên bảng xếp hạng của Mỹ (đây là lần đầu tiên Mastodon có mặt trong top 10 của Mỹ).
    Curl Of The Burl


    Album cuối cùng tính tới thời điểm hiện tại của Mastodon là Once More ‘Round The Sun được tung ra vào năm 2014 tiếp tục chứng kiến sự thay đổi của Mastodon theo phong cách đơn giản hóa các bài hát trong album the Hunter trước đó. Các bài hát trong album này chủ yếu dựa trên những đoạn riff dễ nhớ và những đoạn chorus đầy tính giai điệu. Album tiếp tục thành công khi vươn lên hạng 6 tại Mỹ và khá dễ nghe (tuy không hề đơn giản) và vẫn chơi với kỹ năng tuyệt vời.
    High Road


    Đã hơn 10 năm trôi qua kể từ khi Mastodon tung ra album đầu tay Remission, âm nhạc của họ trong những album đã qua đều rất khác biệt và không hề lặp lại chính mình dù vẫn có nhiều điểm đặc trưng riêng mà nghe qua sẽ nhận ra nó là của Mastodon. Trong khoảng thời gian 14 năm tồn tại, Mastodon, với tài năng của mình trở thành một trong những thế lực Metal rất lớn của thế giới. Tất cả những album của họ đều được mong chờ và đánh giá rất cao. Điểm yếu lớn nhất của Mastodon, có lẽ cũng là duy nhất của nhóm là thiếu một giọng ca thực sự đẳng cấp (mà ai nghe bài hát Crack The Skye ở trên sẽ thấy giọng ca tuyệt vời của vị khách mời Scott Kelly vượt xa các thành viên của Mastodon). Chắc chắn, Mastodon còn tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới trong những năm tới đây
     
  8. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Kylesa

    Kylesa​


    Trong những năm gần đây, Sludge Metal phát triển hết sức mạnh mẽ với những band nhạc trẻ đầy tài năng và Kylesa là một trong số những band nhạc tài năng nhất trong thế hệ Sludge Metal mới xuất hiện. Kylesa chơi một thứ Sludge Metal với nhiều ảnh hưởng của Psychedelic Rock (Stoner Rock) và một chút gì đó của Indie Rock. Nhóm thành lập năm 2001 tại Savannah, Georgia, Mỹ bởi thành viên là guitar/vocal Philip Cope, bassist Brian Duke và tay trống Christian Depken. Trước đó 3 thành viên này đã từng chơi chung trong band nhạc Damad nhưng sau khi kết nạp thêm tay guitar/vocal nữ Laura Pleasants thì nhóm đổi tên thành Kylesa như hiện tại. Vì chơi chung với nhau rất nhiều năm nên ngay trong năm 2001, nhóm đã sáng tác và ghi âm xong album đầu tiên (tên là Kylesa) và đi lưu diễn với một số tên tuổi lớn như Mastodon. Nhưng khi album còn chưa kịp tung ra thì nhóm đã mất thành viên là Duke do một căn bệnh thần kinh. Cái chết của Duke khiến album bị hoãn thời gian tung ra lại một năm.
    Sau khi tung ra album đầu tay, Kylesa tiếp tục sự nghiệp nhưng không thực sự thành công với những album To Walk A Middle Course -2005 và Time Will Fuse Its Worth -2006. Phải đến năm 2009, Kylesa mới thực sự cất cánh với album Static Tensions – lúc này nhóm sử dung 2 tay trống thay vì 1 như những album trước. Dù album này ghi âm khá thô nhưng chất lượng các bài hát đã được cải thiện hết sức rõ rệt với những giai điệu rõ ràng và lối chơi trống mạnh mẽ của 2 tay trống. Album này đưa tên tuổi Kylesa trở nên rất nổi tiếng trong giới Sludge, Stoner Metal thế giới.
    Sau những thành công đầu tiên với Static Tensions, năm 2010 Kylesa tung ra album thứ 5 là Spiral Shadow với khá nhiều sự thay đổi. Lối chơi nhạc rất ồn được thay thế bằng một phong cách mang âm hưởng atmospheric nhiều hơn, những bài hát dễ nghe hơn. Đây tiếp tục là một album hay và vì thế nó tiếp tục đưa tên tuổi của nhóm tới gần hơn với những người hâm mộ Metal trên toàn thế giới.
    Album cuối cùng của Kylesa tính tới thời điểm hiện tại là Ultraviolet -2013 tiếp tục là album có chất lượng rất tốt và là một điểm sáng trong sự nghiệp của nhóm (album này mạnh mẽ hơn so với album trước và giống với Static Tensions). Kylesa là một band nhạc mới nổi và có lẽ sẽ còn tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.

    Where The Horizon Unfolds

    Running Red

    Tired Climb

    Unspoken
     
  9. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Baroness

    Baroness​


    Baroness là đồng hương của band nhạc Kylesa. Nhóm thành lập từ năm 2003 tại Savannah, Georgia, Mỹ, mặc dù vậy các thành viên của nhóm đều lớn lên tại Lexington, Virginia. Âm nhạc của nhóm chơi khá phức tạp và là sự kết hợp của Sludge Metal với Progressive và Alternative Metal. Âm nhạc của Baroness mang nhiều tính giai điệu. Sau khi thành lập, nhóm tung ra một loạt 3 albums EPs và nhận được sự chú ý của hãng đĩa rất lớn chuyên về Metal là Relapse. Năm 2007, nhóm tung ra album đầu tay (album này không có tên và có màu đỏ nên có tên là The Red Album), album này nhận được rất nhiều lời khen ngợi của giới chuyên môn trên thế giới (được tạp chí rất uy tín Revolver bầu là album hay nhất năm 2007). Âm nhạc trong album là sự kết hợp của rất nhiều ý tưởng từ Sludge tới Progressive rồi Post Rock và sang cả Alternative …
    Trong những năm sau đó Baroness liên tiếp lưu diễn với rất nhiều band nổi tiếng như Opeth, Mastodon, Minsk, Hign On Fire… và trở thành một trong những band Metal lưu diễn nhiều nhất. Năm 2009, Baroness tung ra album thứ 2 là The Blue Record và tiếp tục nhận được rất nhiều lời khen ngợi trên toàn thế giới. Âm nhạc trong album vẫn là sự kết hợp phức tạp giữa Progressive với Sludge Metal cùng với rất nhiều ảnh hưởng của phong cách Hard Rock cổ (mang nhiều tính Melodic) của những band như Thin Lizzy hay Wishbone Ash (một trong những band nhạc Rock tiên phong sử dụng cặp đôi guitar). Lần này thì thế giới Metal đã biến đến nhóm dù vẫn còn rất nhiều tranh cãi khác nhau. Album này cũng khá thành công về mặt thương mại khi có mặt trên bảng xếp hạng của Mỹ (ở vị trí 117).
    Sau những chuyến lưu diễn dài ngay, Baroness quay trở lại phòng thu âm và tung ra một album kép vào năm 2012 (album Yellow & Green). Album này chứng kiến sự thay đổi lớn trong âm nhạc của Baroness khi bắt đầu viết những bài hát có cấu trúc đơn giản hơn (sử dụng verse/chorus). Giọng hát khàn kiểu Hardcore không còn nữa mà chỉ sử dụng clean vocal. Hiển nhiên với sự thay đổi này thì âm nhạc của nhóm trở nên dễ nghe hơn rất nhiều. Sự thay đổi này mang lại hiệu ứng tích cực về mặt thương mại khi vươn lên đứng hạng 30 trên bảng xếp hạng của Mỹ và đưa tên tuổi của Baroness trở thành một trong những band nhạc mainstream trên nền âm nhạc thế giới.
    Baroness là một band nhạc với rất nhiều những ý tưởng mới mẻ trong thế giới Metal hiện tại. Họ là một band nhạc đa tài (giọng ca chính Baizley còn là họa sỹ thiết kế bìa đĩa cho rất nhiều band nhạc khác nhau, bìa đĩa của Baroness đều do anh này vẽ). Baroness nhiều khả năng sẽ thành một trong những band nhạc Metal hàng đầu trong những năm tới đây.

    Wanderlust

    A Horse Called Golgotha

    Take My Bones Away

    March To The Sea
     
  10. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Sludge Metal là một dòng nhạc khá nhỏ nên không có quá nhiều những band nhạc. Do đó chỉ còn 1 band duy nhất nữa là chúng ta sẽ kết thúc phần viết về Sludge. Band nhạc đó là Kingdom Of Sorrow
     
  11. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Kingdom Of Sorrow

    Kingdom Of Sorrow​


    Chúng ta đã chứng kiến nhiều siêu nhóm trong dòng nhạc Sludge Metal như Down hay Superjoint Ritual, đến đây chúng ta tiếp tục gặp một siêu nhóm nữa của dòng nhạc này – đó chính là Kingdom Of Sorrow. Kingdom Of Sorrow (KOS) được thành lập từ năm 2005 bởi giọng ca chính Jamey Jasta của nhóm Metalcore Hatebreed và tay guitar/vocalist Kirk Windstein (Down/Crowbar). Cặp đôi Jasta và Windstein đã quen biết nhau từ trước đó rất lâu và Jasta là một trong những fan hâm mộ của Crowbar. Tuy nhiên, trong sự nghiệp âm nhạc thì Hatebreed lại thành công về mặt thương mại hơn rất nhiều so với Crowbar nên Jasta cũng giàu hơn so với Windstein. Chính vì thế sau một chuyến lưu diễn mà Jasta và Hatebreed mời Crowbar đi cùng tại nước Anh, 2 người bạn thân thiết quyết định thành lập một nhóm nhạc là sự kết hợp của Hatebreed với Crowbar.
    Sau đó, cặp đôi này trở về phòng thu âm và cùng với tay guitar Zeus (Hatebreed, Shadows Fall) bộ ba tiến hành sáng tác những bài hát đầu tiên cho KOS. Năm 2007, KOS có hợp đồng với hãng đĩa Relapse và tung ra album đầu tay Kingdom Of Sorrow vào năm 2008. Album rất mạnh và là sự kết hợp của Sludge với Metalcore và được fan hâm mộ Metal thế giới chào đón nhiệt liệt vì tính sáng tạo của nó. Album cũng khá thành công về mặt thương mại khi có mặt ở vị trí thứ 131 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Sau thành công của album đầu tay, năm 2010, KOS tung ra album tiếp theo là Behind The Blackest Tears với phong cách khá giống với album đầu tay: là sự kết hợp của phong cách Metalcore, Groove và Sludge Metal. Album này có chất lượng khá tốt nhưng hơi thiếu tính đột phá. Hy vọng trong tương lai không xa, KOS tiếp tục tung ra những album có chất lượng tốt hơn nữa.

    Lead the Ghosts Astray

    Lead Into Demise

    Enlightened To Extinction


    Bài viết về Kingdom Of Sorrow là bài viết cuối cùng về Sludge Metal, một dòng nhạc dù xuất hiện khá sớm nhưng mới đang trên đường trở lên lớn mạnh trong tương lai. Tuy là dòng nhạc nhỏ, những dòng nhạc này lại được khá nhiều những nghệ sỹ tài năng yêu mến. Đó cũng là lý do chính khiên dòng nhạc này có khá nhiều siêu nhóm.
     
  12. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Theo thứ tự xuất hiện , dòng nhạc tiếp theo sẽ là Alternative Metal, mời các bác đón đọc.
     
  13. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Alternative Metal

    Alternative Metal​


    Alternative Metal, đúng như cái tên của nó là sự kết hợp của Heavy Metal với Alternative Rock và một số dòng nhạc không có liên quan tới Metal. Alternative Rock thực chất là một dòng nhạc lớn với rất nhiều band chơi theo phong cách khác biệt so với những dòng nhạc chính thống (chủ yếu là những nghệ sỹ chơi theo phong cách post punk, new wave…). Dòng nhạc này đã có mầm mống phát triển từ rất lâu (Velvet Underground là một trong những band nhạc tiên phong và có nhiều ảnh hưởng tới Alternative Rock về sau). tuy nhiên phải đến những năm giữa thập kỷ 80 thì dòng nhạc này mới phát triển hết sức mạnh mẽ từ những hãng ghi âm nhỏ (độc lập). Trong những thời điểm khởi đầu, các nghệ sỹ Alternative đều không được thừa nhận mà chủ yếu hoạt động dưới dạng underground. Trong những cuối thập kỷ 80s, từ những band nhạc vô danh không tên tuổi, một số người khổng lồ của Alternative dần vươn dậy và có những thành công về mặt thương mại như R.E.M, They Might Be Giants, Sonic Youth, Pixies, Jane’s Addiction. Vào đầu những năm 90s, những tên tuổi lớn của Alternative dần thống trị thế giới âm nhạc (cùng với sự vươn lên mạnh mẽ của những nhánh nhỏ như Grunge, Shoegazing, Gothic, Industrial…).
    Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Alternative Rock, Alternative Metal cũng phát triển theo ngay sau chân của Alternative Rock. Hiện tại, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về thời gian và band nhạc thực sự bắt đầu trào lưu Alternative Metal (viết tắt là Alt Metal). Đa phần giới chuyên môn đều chấp nhận giả thiết là một số band funk rock như Red Hot Chili Peppers và Faith No More là những người tiên phong chơi Alt Metal. Một số bands Grunge gạo cội là Soundgarden hay Alice In Chains cũng được công nhận là những band nhạc có đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển của Alt Metal sau này. Ở đây cũng cần giải thích thêm một chút, Soundgarden và Alice In Chains là 2 trong số 4 tứ trụ của Grunge (2 bands còn lại là Pearl Jam và Nirvana). Tuy nhiên, âm nhạc của 4 band này rất khác biệt với Pearl Jam nghiêng về phía Blues và Hard Rock, Nirvana nghiêng về Alternative còn Soundgarden và Alice In Chains lại nghiêng về phía Metal. Do đó trong phần viết về Alt Metal chúng ta chỉ viết về 2 nhóm này mà thôi. Vì Alternative là một phạm trù rất rộng nên ta cũng có thể thấy Alt Metal cũng mang rất nhiều phong cách khác nhau. Rất nhiều dòng nhạc nhỏ trong Alt Metal sau này cũng được tách ra thành những nhánh nhạc độc lập như Industrial Metal hay Nu Metal. Việc phân tách rạch ròi band nào là Alt Metal, band nào là Nu Metal là không đơn giản nhưng không phải là việc không thể làm được. Có rất nhiều band (System Of A Down, Godsmack hay Disturbed sẽ được xếp ở Alt chứ không phải Nu Metal – dù nhiều người nghĩ rằng họ thuộc Nu Metal nhưng thực chất ra họ không thuộc nhánh nhạc này).Nhưng chúng ta sẽ không đi vào phân tích quá chi tiết trong bài viết này mà sẽ viết kỹ hơn ở phần về Nu Metal.
    Do nhiều lý do khác nhau, Red Hot Chili Peppers sẽ không được coi là một band Metal và chúng ta sẽ lấy mốc ra đời của Alt Metal là kể từ khi Faith No More tung ra album thứ 2 của họ vào tháng 4 năm 1987 (album Introduce Yourself). Sau đó, có rất nhiều band nhạc đã góp phần công sức rất lớn để đưa tên tuổi của Alternative Metal trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Nhiều band trong số này trở thành những siêu sao trên bầu trời âm nhạc. Chúng ta sẽ điểm qua tên tuổi của những band nhạc này trong những phần tiếp theo.
     
  14. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Faith No More

    Faith No More​


    Faith No More là một trong những tên tuổi đặc biệt nhất của Heavy Metal thế giới. Band được thành lập từ năm 1981 bởi bộ 3: Billy Gould – bass, Roddy Bottum – keyboards và Mike Bodin – drums sau khi 3 anh này rời khỏi nhóm Faith No Man. Sau đó giọng ca chính Chuck Mosley và tay guitar Jim Martin gia nhập nhóm vào năm 1983. Sau khi ổn định thành viên, nhóm tiến tới ghi âm album đầu tay trong sự nghiệp là We Care A Lot mà không hề có hợp đồng ghi âm. Sau khi ghi âm khoảng 5 bài hát, nhóm nhận được sự chú ý của một hãng đĩa mới thành lập là Mordam. Hãng đĩa giúp đỡ band nhạc hoàn thành album và tung ra vào năm 1985. Đây vừa là album đầu tiên của Faith No More vừa là album đầu tiên của hãng đĩa Mordam nên sự thiếu chuyên nghiệp của cả band nhạc lẫn hãng đĩa đều thể hiện rất rõ. Album thu âm rất kém, các bài hát quá đơn giản và non nớt. Âm nhạc trong album mang nặng tính Punk Rock và không có gì đặc biệt, nó gần như không mang tính Metal.
    Phải đến khi tung ra album thứ hai là Introducing Yourself, âm nhạc của nhóm mới có nhiều sự tiến bộ và gặt hái được môt số thành công nhỏ với bài hát We Care A Lot (bài hát này đã có trong album trước đó nhưng lần này ghi âm lại và phát hành dưới dạng đĩa đơn). Âm nhạc trong album này đã khá tốt với nhiều ảnh hưởng của Funk, Punk và mang tính Metal. Chính vì lý do này, chúng ta tạm lấy thời điểm tháng 4 năm 1987, khi album này được tung ra, là mốc cho sự ra đời của Alt Metal. Tuy nhiên, sau 2 albums đầu tay, giọng ca chính Mosley bị sa thải vào năm 1988 do những biểu hiện không bình thường trong những buổi biểu diễn (trong bữa tiệc ăn mừng việc tung ra album thứ hai, anh này thậm chí còn ngủ gật trên sàn diễn).

    Anne's Song


    Sau những thành công đầy hứa hẹn trong album Introducing Yourself, nhóm mời giọng ca chính Mike Patton vào thay thế Mosley. Patton lúc này đang là thành viên của nhóm Avant Garde Metal Mr. Bungle. Sau khi gia nhập Faith No More, trong vòng 2 tuần, Patton viết toàn bộ lời bài hát cho album thứ 3 của nhóm là The Real Thing vào năm 1989. Nếu có một từ nào đó để mô tả giọng hát của Patton thì đó là từ tuyệt vời. Giọng của anh này quá đặc biệt, anh này cũng là một trong những vocalist nổi tiếng nhất trong lịch sử của Heavy Metal nói chung. The Real Thing hết sức thành công cả về mặt chất lượng âm nhạc lẫn thương mại. Đây cũng chính là album kinh điển đầu tiên của Alt Metal toàn thế giới. Single “Epic” trong album này là một trong những bài hát nổi tiếng nhất của mọi thời đại. tất nhiên, ngoài nguyên nhân chính là do bài hát rất hay, thì phần giàn dựng video clip cho bài hát này gây nhiều tranh cãi khi nhóm hy sinh một con cá sống của nữ danh ca Bjork để làm video. Tuy nhiên sự “hy sinh vì nghệ thuật” này bị rất nhiều người yêu động vật phản ứng rất mạnh. Sự thành công của Epic (chiếm 1 vị trí trên top 10 single của Mỹ) khiến album The Real Thing nhận được nhiều chú ý và đến đầu năm 1990 thì nó có mặt trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 1 triệu bản (platinum). Album này cũng nhận được 2 đề cử Grammy trong 2 năm 1990, 1991 góp phần biến Faith No More thành một band nhạc mainstream trên toàn thế giới.

    Epic

    Falling To Pieces


    (còn tiếp)
     
  15. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Faith No More

    Faith No More​


    (tiếp theo)

    Sau thành công vang dội của The Real Thing, Faith No More đã trở thành một thế lực lớn của Metal thế giới. Và họ đã không làm những fan hâm mộ của Metal thất vọng khi tung ra album thứ 4 là Angel Dust vào năm 1991. Cũng cần phải nhắc lại rằng, với album The Real Thing, Patton không hề tham gia vào việc sáng tác nhạc cho các bài hát. Khi anh gia nhập nhóm thì các bài hát đều đã được viết xong và Patton chỉ tham gia vào việc viết lời hát (dù việc viết lời cũng hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất nhiều tới giai điệu của bài hát). Nhưng trong album Angel Dust, vai trò của Patton trở nên lớn hơn rất nhiều khi anh vừa tham gia viết nhạc vừa viết lời. Patton là một thiên tài của nền nhạc Metal thế giới với giọng hát tuyệt vời và những ý tưởng không giống ai (Avant Garde) nên âm nhạc của album Angel Dust khác hoàn toàn so với The Real Thing – khó nghe hơn rất nhiều và mang nặng tính nghệ thuật, không dành cho số đông khán giả. Đây có lẽ cũng là một trong những album Metal phức tạp nhất được một hãng đĩa chính thống tung ra. Có lẽ do album khó nghe hơn nên tại Mỹ nó chỉ bán được hơn 500.000 bản (tức là bằng ½ so với album The Real Thing), nhưng trên thế giới thì khác, album này được chào đón vô cùng nhiệt liệt tại rất nhiều quốc gia. Số lượng bán ra của album này tại phần còn lại của thế giới là lớn nhất trong sự nghiệp của Faith No More.
    Midlife Crisis

    A Small Victory


    Sau album Angel Dust, tay guitar Martin cảm thấy không hài lòng với sự thay đổi của band nhạc (anh này khá bảo thủ và thích phát triển âm nhạc của nhóm theo phong cách Metal và ít tính thử nghiệm, Avant Garde) nên quyết định rời nhóm. Một số tay guitar gạo cội như Justin Broadrick (Godflesh) hay Geordie Walker (Killing Joke) được mời tham gia nhóm nhưng họ đều không nhận lời. Sau đó, Trey Spruance – tay guitar của nhóm Mr. Bungle nhận lời tham gia cùng Faith No More. Năm 1995, tức là 4 năm sau khi tung ra Angel Dust, Faith No More tung ra album thứ 5 là King For A Day… Fool For A Lifetime. Cùng với sự ra đi của Metalhead Martin thì album này đã ít tính Metal hơn. Tuy vậy ,rất khó để có thể miêu tả âm nhạc trong album này chính xác là gì. Đơn giản vì các bài hát trong album quá khác biệt với rất nhiều phong cách như: punk, country, jazz, bossa nova, thrash, gospel… Chất lượng của album không tệ, nhưng nó không thành công về mặt thương mại như những album trước của Faith No More.
    Ricochet


    Năm 1997, Faith No More tung ra album cuối cùng của nhóm là Album Of The Year. Âm nhạc trong album này đánh mạnh hơn album trước đó rất nhiều, các bài hát cũng trở nên buồn và tối tăm hơn (có lẽ đó là tâm trạng thực sự của các thành viên khi biết sự nghiệp của Faith No More đang đi đến hồi kết thúc). Tuy vậy, album này lại khá thành công về mặt thương mại tại nhiều nước trên thế giới(bán được nhiều đĩa hơn so với album King For A Day). Sau album này, Faith No More tan rã và các thành viên của nhóm còn tham gia nhiều dự án khác nhau. Tất nhiên ta cũng còn gặp lại họ trong những bài viết tới đây, nhất là Mike Patton. Hiện nay Faith No More đã tái hợp nhưng chưa tung ra được album nào mới.

    Ashes to Ashes


    Faith No More là một band nhạc hết sức đặc biệt trong lịch sử của Alt Metal. Âm nhạc của họ hết sức phức tạp và là sự kết hợp của rất nhiều yếu tố từ funk tới hip hop, progressive, alternative, punk, jazz, bossa nova, pop, avant garde… Nhưng có một điều kỳ lạ là họ lại rất thành công về mặt thương mại dù âm nhạc không dễ nghe. Những siêu phẩm của họ như The Real Thing hay Angel Dust là những album không thể thiếu trong những bộ sưu tập về Alt Metal nào.
     
  16. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Living Colour

    Living Colour​


    Living Colour là một band nhạc gồm toàn các thành viên da màu (khá hiếm hoi trong lịch sử của Metal). Band thành lập năm 1984 tại thành phố New York, Mỹ bởi tay guitar Vernon Reid. Âm nhạc của nhóm là sự kết hợp của Heavy Metal với Jazz, Funk và một số ảnh hưởng từ Hip Hop. Đến năm 1986, sau khi ổn định đội hình band nhạc, nhóm bắt tay vào ghi âm album đầu tay, một trong những album rất hay của Alt Metal là album Vivid. Album này được tung ra từ tháng 5 năm 88 nhưng chưa nhận được nhiều sự chú ý của giới hâm mộ trên toàn thế giới. Phải đến cuối năm, khi MTV liên tục chiếu video clip Cult Of Personality thì album mới gặt hái được những thành công rực rỡ về mặt thương mại. Đến đầu năm 89, album vươn lên tới hạng 6 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và sau này bán được tới hơn 2 triệu bản.
    Sau thành công vang dội của Cult Of Personality – một trong những bài hát có phần solo guitar rất ấn tượng của Vernon Reid, Living Colour liên tục đi lưu diễn với những tên tuổi nổi tiếng như Guns N Roses hay Rolling Stone. Năm 1990, nhóm tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là Time’s Up với rất nhiều các bài hát theo những phong cách khác nhau từ Jazz Rock fusion tới punk, fuk, blues, hip hop, Thrash và cả Electronica nữa. Album này cũng rất thành công khi thắng 1 giải thưởng Grammy dành cho album Hard Rock xuất sắc nhất. Tuy nhiên, về mặt thương mại thì album này kém rất xa so với album Vivid khi chỉ bán được 500. 000 bản.
    Sau album Time’s Up thì Living Colour rơi vào bất ổn khi các thành viên lần lượt rời bỏ band nhạc. Chính vì thế album thứ 3 của nhóm là Stain -1993, không thành công cả về mặt thương mại lẫn chuyên môn. Ngay sau đó Living Colour tan rã. Đến khoảng những năm 2000s, Living Colour lại tái hợp một lần nữa và tung ra 2 album là Collideoscope -2003 và The Chair In The Doorway -2009, cả 2 album đều thất bại khá thảm hại (Collideoscope thậm chí không có mặt trên bảng xếp hạng tại Mỹ còn The Chair thì lên được vị trí 161). Album tiếp theo của nhóm dự định sẽ được tung ra vào năm 2015.
    Tuy chỉ có 2 albums đáng chú ý là Vivid và Time’s Up nhưng Living Colour vẫn là một band nhạc rất đáng nghe và là một trong những band đầu tiên chơi Alt Metal trên thế giới (đây là 1 band dạng One Hit Wonder - chỉ có 1 bài thành công - khi chỉ có 1bài hát duy nhất đáng chú ý là Cult Of Personality).

    Cult Of Personality

    Love Rears Its Ugly Head

    Nothingness

    Glamour Boys
     
  17. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Soundgarden

    Soundgarden​


    Soundgarden là một trong những tên tuổi hết sức quen thuộc của những người hâm mộ nhạc Rock trên toàn thế giới. Đây là một trong những nhóm nhạc đầu tiên chơi Grunge – một dòng nhạc pha trộn giữa punk với Metal/Hardrock cổ với những bài hát hết sức giận dữ, phá phách. Đây cũng là một trong những band nhạc đầu tiên ký hợp đồng với hãng đĩa độc lập Sup Pop – hãng đĩa góp phần rất lớn để thể phát triển Grunge Rock. Cùng với Pearl Jam, Nirvana, Alice In Chains, Soundgarden chính là một trong những band chủ lực (Big Four) của Grunge. Tuy nhiên, như trong phần đầu về Alternative Metal đã nói, âm nhạc của Soundgarden rất khác so với những nhóm nhạc như Pearl Jam, Mudhoney hay Nirvana và mang rất nhiều âm hưởng của Metal (đặc biệt chịu nhiều ảnh hưởng của Doom Metal - Black Sabbath). Những album đầu tay của Soundgarden đánh khá nhanh, mạnh. Những album sau đó của nhóm đánh nhẹ dần đi và ngày càng mang nhiều âm hưởng của Alternative Rock hơn. Nhóm nhạc cũng hết sức thành công về mặt thương mại với hàng chục triệu bản bán được trên toàn thế giới, 8 lần được đề cử Grammy và là band nhạc Grunge đầu tiên giành được giải thưởng uy tín này vào năm 1995 (giành cả 2 giải cho Hard Rock và Metal). Hiển nhiên, họ cũng là siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới.
    Trở lại với sự hình thành và phát triển của Soundgarden, band nhạc thành lập từ năm 1984 tại Seatle, Mỹ bởi bộ 3 Chris Cornell – vocal, guitar, Kim Thayil – guitar, Hiro Yamamoto – bass. Tay trống Matt Cameron trở thành thành viên chính thức vào năm 1986. Vì là bạn rất thân của Bruce Pavitt, chủ hãng đĩa Sub Pop, Soundgarden gần như ngay lập tức đã có hợp đồng với hãng đĩa mới thành lập này. Nhóm tung ra 2 album EP là Screaming Life vào năm 87 và Fopp vào năm 88 nhưng không mấy thành công. Sau đó, nhóm ký hợp đồng với hãng đĩa nhỏ SST và tung ra album đầu tay Ultramega OK vào năm 1988 (đây là một trong những album Grunge sớm nhất trong lịch sử). Âm nhạc trong album này mang khá nhiều chất Metal kết hợp với Psychedelic Rock và Punk với rất nhiều ảnh hưởng của những band Metal/Hard Rock cổ như Black Sabbath và Led Zeppelin. Tuy nhiên, do lúc này Grunge quá mới và chưa thực sự bùng nổ nên hãng đĩa đã để cho một nhà sản xuất không thực sự phù hợp với album này. Đó chính là nguyên nhân chính khiến cho âm nhạc của Soundgarden nghe rất lạ (theo nghĩa tiêu cực)so với những album sau. Tuy chưa thực sự hay, album vẫn khá thành công và thậm chí còn giành được 1 đề cử cho giải thưởng Grammy.

    Flower


    Những thành công ban đầu, dù không lớn của album đầu tay khiến Soundgarden có được hợp đồng với hãng đĩa A&M. Điều này khiến Soundgarden trở thành band nhạc Grunge đầu tiên có được hợp đồng với một hãng đĩa lớn. Nhóm tung ra album thứ 2 là Louder Than Love vào năm 1989. Đây là một bước tiến rất quan trọng của Soundgarden vì nó đã có cấu trúc khá giống với âm nhạc của Soundgarden sau này với các bài hát hay được rất nhiều fan hâm mộ yêu thích như Big Dumb Se.x, Loud Love, Hands All Over, Power Trip. Âm nhạc trong album này vẫn mang rất nhiều tính Metal với nhựng đoạn riff đều đều, mạnh và đục. Lời nhiều bài hát trong album rất giận dữ và mang hơi hướng hơi tục nên album cũng gặp một số trục trặc lúc mới tung ra. Việc có một hãng đĩa lớn chống lưng tạo nên hiệu quả rõ rệt khi album giúp Soundgarden lần đầu tiên có mặt trên bảng xếp hạng của Mỹ (vị trí 106).

    Loud Love


    Sau album Louder Than Love, Soundgarden mất đi tay bass Yamamoto do anh này cảm thấy không đóng góp được nhiều trong âm nhạc của nhóm trong album trước (các bài hát trong album này chủ yêu do Cornell sáng tác). Thay thế cho Yamamoto là tay bass Ben Shepherd nhóm bắt tay vào ghi âm album thứ 3 vào năm 1991. Sự có mặt của Shepherd khiến âm nhạc của Soundgarden thay đổi theo chiều hướng tích cực. Năm 1991, Soundgarden tung ra album kinh điển Badmotorfinger – một trong những album kinh điển của Metal thế giới. Cũng cần phải giải thích thêm rằng, vào thời điểm những năm 1991, các ông lớn của Grunge bắt đầu vươn tới đỉnh cao của mình (Nirvana tung ra Nevermind, Pearl Jam tung ra album Ten). Những band nhạc và album này đều hết sức thành công và có ảnh hưởng rất lớn tới Soundgarden trên cả khía cạnh tiêu cực lẫn tích cực. Về mặt tiêu cực, dù album Badmotorfinger rất hay, nó quá mạnh so với những album kể trên và vì thế nó bị sự thành công của những album trên che mờ. Về mặt tích cực, sự thành công của Grunge cũng khiến nhiều người chú ý hơn đến Soundgarden khiến album có thể vươn tới hạng 36 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 2 triệu bản. Album cũng giúp Soundgarden một lần nữa được đề cử giải thưởng Grammy nhưng không thành công.

    Jesus Christ Pose

    Rusty Cage


    (còn tiếp)
     
  18. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Soundgarden

    Soundgarden​

    (tiếp theo)

    Sau những thành công khá lớn của Badmotorfinger, Soundgarden liên tục đi lưu diễn và trong những chuyến lưu diễn đó, họ liên tục viết nhạc cho album tiếp theo. Năm 1994, nhóm tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là Superunknown. Lúc này âm nhạc của họ đã không còn mạnh mẽ và mang nhiều tính Metal như trước nữa mà chủ yếu là Hard Rock với những ảnh hưởng của Psychedelic và Alternative. Tuy vậy, các bài hát trong album đều rất đen tối và nghiêng nhiều về hướng giai điệu. Một loạt những bài hát trong albums này đã trở thành kinh điển như: Black Hole Sun, The Day I Tried To Live, Spoonman. Album này đã biến Soundgarden thành những siêu sao trên bầu trời âm nhạc khi vươn lên vị trí số 1 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và bán được tới hơn 5 triệu bản. 2 bài hát trong album này thậm chí còn giành giải thưởng Grammy giúp họ trở thành nhóm nhạc Grunge đầu tiên có thể giành được giải thưởng cao quý này.

    Black Hole Sun

    The Day I Tried To Live


    Sau thành công rất lớn với Superunknown, Soundgarden bắt tay vào ghi âm album cuối cùng trong thời kỳ vàng của nhóm vào năm 1996. Album Down On The Upside được tung ra trong cùng năm. Album này tiếp tục chơi nhẹ hơn những album trước rất nhiều với việc sử dụng khá nhiều acoustic guitar. Ngay cả chất Grunge cũng không còn nhiều mà nó mang nhiều tính Alternative Rock hơn. Tuy cũng nhận được nhiều lời khen ngợi nhưng album chỉ thành công ở mức độ vừa phải (xếp hạng 2 trên bảng xếp hạng và bán được hơn 2 triệu bản tại Mỹ). Tuy nhiên đây chưa phải là tin buồn nhất đối với Soundgarden, trong quá trình sáng tác và ghi âm album, mâu thuẫn lớn đã phát sinh giữa giọng ca chính Cornell và tay guitar Thayil vì đường hướng phát triển của band nhạc. Cornell muốn Soundgarden không tiếp tục chơi những đoạn riff kiểu Metal đã tạo nên thương hiệu của nhóm nữa mà chuyển sang một thứ nhạc nhẹ hơn và dễ nghe hơn. Đó là điều Thayil không thể chấp nhận. Mâu thuẫn giữa 2 thành viên quan trọng nhất trong nhóm đã dẫn tới sự tan rã của Soundgarden vào năm 1997.

    Burden In My Hand


    Phải đến tận năm 2010 thì Soundgarden mới tái lập và đến năm 2012 thì nhóm tung ra album thứ 6 trong sự nghiệp là King Animal. 16 năm kể từ ngày tung ra album Down On The Upside, Soundgarden mới tung ra album tiếp theo. Thế nhưng, thật đáng ngạc nhiên là âm nhạc trong album King Animal lại không khác nhiều so với những album Down On the Upside, vẫn là phong cách Alternative và ít tính Metal. Về một mặt nào đó, đây là tín hiệu tốt vì Soundgarden vẫn là chính họ. Nhưng mặt khác, đây lại là một thông tin không vui với những fan hâm mộ yêu thích những album chất lượng cao của Soundgarden vì việc giống Down On The Upside đồng nghĩa với việc đây chỉ là một album trung bình so với mặt bằng chung trong âm nhạc của nhóm.
    Black Rain


    Soundgarden là một trong những cha đẻ của dòng nhạc Grunge và hiển nhiên họ là một trong những siêu sao của nền âm nhạc thế giới. Âm nhạc của họ, dù đạt thành công rất lớn về mặt thương mại, đáng ngạc nhiên thay không hề dễ nghe. Những album như Badmotorfinger hay Superunknown là những siêu album không thể vắng mặt trong bất kỳ bộ sưu tập của những fan yêu thích Metal thế giới.
     
  19. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Alice In Chains

    Alice In Chains​


    Alice In Chains là một trong những band nhạc quan trọng nhất trong lịch sử của Grunge Rock và cũng là một trong những band thành công nhất trong thập kỷ 90s. Mặc dù nổi danh với Grunge, âm nhạc của Alice In Chains mang nhiều tính Heavy Metal kết hợp với những phần sử dụng Acoustic guitar. Band nhạc chỉ tung ra được 3 albums trong thời kỳ đỉnh cao của mình rồi tan rã nhưng những ảnh hưởng của họ với thế giới âm nhạc là rất to lớn. Một trong những đóng góp quan trọng nhất là giọng hát của Layne Staley – giọng ngâm nga kéo dài của anh này là duy nhất (tại thời điểm bấy giờ) và sau này có rất nhiều band nhạc đã học theo phong cách của anh. Tuy chỉ tung ra được 3 albums chính thức và 1 số EPs, live albums, số lượng đĩa bán được của Alice In Chains lên tới hơn 20 triệu bản trên toàn thế giới (14 triệu tại Mỹ) và lập nên nhiều kỷ lục khó quên khác.
    Trở lại với sự xuất hiện của band nhạc, Alice In Chains có lịch sử khởi đầu rất phức tạp với 2 nhân vật chính là giọng ca của Staley và tay guitar Jerry Cantrell. 2 anh này chỉ gặp gỡ khi đang là thành viên chính thức của những band nhạc khác nhau và cảm thấy khá ăn ý. Trong những năm giữa thập niên 80, khi Staley lăn lộn qua rất nhiều band nhạc thì Cantrell khá ổn định với band nhạc của riêng mình với các thành viên Sean Kinney – drum và Mike Starr – bass. Đến năm 87, Staley tham gia một band nhạc funk và mời Cantrell tham dự cùng dưới dạng một thành viên không chính thức (side – project). Cantrell đồng ý nhưng với điều kiện là Staley cũng phải tham gia band nhạc của anh này dưới dạng side project. Kết quả là cả Staley và Cantrell cùng chơi với nhau trong 2 band nhạc. Không lâu sau thì band nhạc funk của Staley tan rã, Staley trở thành thành viên chính thức của Alice In Chains.
    Sau khi tung ra 1 album demo, Alice In Chains có được hợp đồng với hãng đĩa khổng lồ Columbia và tung ra 1 album EP- We Die Young vào năm 90. EP này rất thành không với bài hát We Die Young khiến hãng đĩa gấp rút yêu cầu nhóm nhạc hoàn thành album đầu tay để tung ra trong cùng năm. Tháng 8 năm 1990, Alice In Chains tung ra album đầu tay Facelift. Tuy vậy, album này không thành công ngay lập tức, trong vòng 6 tháng kể từ khi tung ra, album chỉ bán được khoảng 40 000 bản – một con số khá nhỏ so với kỳ vọng của một hãng đĩa lớn. Tuy nhiên, sau khi những bài hát như Man In The Box và Sea Of Sorrow liên tục được phát sóng trên MTV thì album bắt đầu có những sự thành công rất lớn về mặt thương mại (trong 6 tuần bán được hơn 400 000 bản – gấp 10 lần so với 6 tháng đầu tiên) và vươn lên vị trí thứ 42 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Dĩ nhiên, đây là album khá hay với những bài hát chất lượng (tuy album chơi nhạc hơi nhẹ so với những album sau này). Đây cũng là album Grunge đầu tiên đạt danh hiệu đĩa bạch kim trong lịch sử của dòng nhạc này (tính tới hiện tại đã bán được hơn 2 triệu bản).
    Man in the Box

    Sea of Sorrow


    Sau thành công lớn của Facelift, năm 1992, Alice In Chains tung ra album thứ hai là Dirt. Album này thậm chí còn thành công hơn Facelift rất nhiều lần và là một trong những album kinh điển của Metal thế giới. Âm nhạc trong album tối, đục, mạnh hơn rất nhiều (mang nhiều âm hưởng của Doom Metal). Đa phần các bài hát trong album đều rất hay và thể hiện giọng ca tuyệt vời của Staley như Them Bones, Down In A Hole, Rooster, Dirt, Angry Chair hay Would?. Album này cũng hết sức thành công về mặt thương mại khi tiến lên tới vị trí số 6 trên bảng xếp hạng Mỹ (ở trên bảng xếp hạng trong hơn 2 năm) và sau này bán được tới hơn 4 triệu bản.
    Angry Chair

    Them Bones


    Sau album kinh điển Dirt, Alice In Chains đã có thể tự tổ chức một chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới vào năm 1993. Đến năm 1994, Alice In Chains tung ra album EP Jar Of Flies – 1 album chủ yếu chơi acoustic. Album này lúc đó chỉ được sáng tác và ghi âm trong vòng 1 tuần nhưng nó đem lại những thành công rất lớn cho Alice In Chains. Album này bất ngờ vươn lên vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng của Mỹ và trở thành album EP đầu tiên trong lịch sử âm nhạc vươn lên được vị trí này. Album này sau đó bán được hơn 3 triệu bản. Tuy nhiên, những thành công lớn về mặt thương mại lại khiến band nhạc rơi vào bất ổn vì Staley trở nên nghiện ma túy rất nặng.

    No Excuses

    I Stay Away


    (còn tiếp)
     
  20. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Alice In Chains

    Alice In Chains​


    (tiếp theo)

    Đến năm 1995, Alice In Chains tung ra album cuối cùng với Staley là Alice In Chains, đây là album chứng kiến khá nhiều sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm khi nghiêng nhiều về phía giai điệu và có tích hợp thêm cả những đoạn acoustic – tuy vẫn mang nhiều ảnh hưởng của Doom Metal. Trong album này, Cantrell đã thử nghiệm cả ở vị trí vocalist trong nhiều bài hát. Album này cũng khá thành công khi vươn lên đứng đầu bảng xếp hạng tại Mỹ và sau này bán được hơn 2 triệu bản. Trong năm 1996, Alice In Chains ghi âm một album Unplugged (chỉ sử dụng những nhạc cụ acoustic) mà sau này có thể coi là kinh điển của thể loại này trên toàn thế giới. Album này cũng hết sức thành công về mặt thương mại khi tiến lên tới hạng 3 trên bảng xếp hạng và bán được tới hơn 1 triệu bản. Nhưng đây là tất cả những gì mà Alice In Chains với giọng ca tuyệt vời của Staley làm được với thế giới âm nhạc. Sau album này, nhóm rơi vào tình trạng dừng hoạt động trong thời gian rất dài vì Staley nghiện ma túy quá nặng. Cantrell tham dự những dự án solo nhưng vẫn hy vọng Staley có thể cai nghiện để hồi sinh Alice In Chains một lần nữa. Nhưng mong ước tưởng như giản đơn này không bao giờ có thể trở thành hiện thực. Đến tháng 4 năm 2002, cả thế giới Metal bàng hoàng nhận tin Staley đã chết vì shock ma túy trong căn hộ của chính anh này. Khi người ta tìm thấy xác của Staley, anh đã chết được 2 tuần mà không ai biết. Cái chết của Staley đóng lại một chương huy hoàng nhưng cũng đầy đau khổ của nhóm nhạc.

    Grind

    Heaven Beside You


    Phải đến năm 2006, Alice In Chains mới tái hợp với giọng ca mới William DuVall và đến năm 2009 thì nhóm tung ra album Black Gives Way To Blue. Album này có phần làm bất ngờ rất nhiều fan hâm mộ của Alice In Chains, những người thực sự nghi ngờ khả năng DuVall có thể thay thế Staley. Rõ ràng giọng ca của Staley là duy nhất và không có bất kỳ ai có được giọng giống anh này, DuVall cũng vậy. Giọng DuVall nghe giống giọng của Cantrell hơn là Staley, tuy nhiên điều đó không thực sự quá quan trọng trong album này. Chất lượng âm nhạc của nhóm rất tuyệt vời và mang nhiều tính Metal (thậm chí hơn cả những album trước đó). Tuy nhiên, bất kỳ ai nghe album này ngay lập tức nhận ra đây thực sự là âm nhạc của Alice In Chains mà không lẫn đi đâu được. Sau 14 năm mới tung ra album và mất đi giọng ca chính, Alice In Chains vẫn làm cho những trái tim những người hâm mộ phải rung động. Album tiếp tục rất thành công khi vươn lên hạng 5 trên bảng xếp hạng của Mỹ và bán được hơn 500 000 bản (Ta nên nhớ đây đã là năm 2009 và lúc này số lượng người còn mua đĩa là không nhiều như những năm đầu thập niên 90s).

    Check My Brain

    Your Decision


    Sau thành công khá lớn của Black Gives Way To Blue, Alice in Chains tiếp tục gặp những mất mát lớn về mặt nhân lực. Năm 2011, tay bass của nhóm là Mike Starr qua đời do dùng nhầm thuốc. Chính vì lý do này, phải đến năm 2013, Alice In Chains mới tiếp tục tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp của nhóm là The Devil Put Dinosaurs Here. Album này là sự phát triển kế tiếp của album trước, với một chút gì đó nghiêng nhiều hơn về Grunge và Alternative (album trước nghiêng nhiều về Metal). Tuy nhiên, album vẫn có rất nhiều bài hát rất hay như Stone hay Voices hay The Devil Put Dinosaurs Here. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi lần vươn lên tới hạng 2 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Rõ ràng DuVall là sự thay thế hoàn toàn xứng đáng cho Staley.

    Stone

    The Devil Put Dinosaurs Here


    Dù sự nghiệp không có quá nhiều album, âm nhạc của Alice In Chains luôn nhận được rất nhiều sự ca ngợi của đông đảo fan hâm mộ Metal trên toàn thế giới. Trong số những fan hâm mộ của band nhạc có rất nhiều những tên tuổi nổi tiếng thế giới như Metallica, Godsmack, Queen Of The Stone Age, Opeth hay Dream Theater… nhiều band đã cover lại những bài hát nổi tiếng của nhóm. Alice In Chains thực sự là một band nhạc mà fan của Heavy Metal không thể bỏ qua.
     
  21. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Helmet

    Helmet​


    Helmet là một band nhạc rất đặc biệt trong lịch sử của Heavy Metal thế giới. Nhóm thành lập từ năm 1989 bởi tay guitar, vocal – Page Hamilton, đây cũng là thành viên cố định duy nhất của nhóm. Bản thân các thành viên band nhạc Helmet có lẽ cũng không coi chính họ là một band Metal thực sự. Các thành viên của band nhạc đều cắt tóc ngắn và mặc áo phông nên trông bề ngoài thì hoàn toàn không giống những nghệ sỹ Metal chút nào cả. Vào những năm đầu sự nghiệp, Helmet còn ký hợp đồng với hãng đĩa Amphetamine Reptile – một hãng đĩa chuyên về Noise Rock. Âm nhạc của nhóm hết sức đặc biệt và không dựa nhiều vào những đoạn riff guitar mà lại nghiêng về phong cách Wall Of Sound (sử dụng nhiều lớp guitar dày đặc). Helmet cũng là một trong những band nhạc tiên phong sử dụng phong cách ngắt âm (staccato). Âm nhạc của nhóm rất trầm (guitar thường được lấy trầm xuống) nhưng khá mạnh và mang nhiều tính Metal. Nhưng nó là một thứ Metal rất khác lạ. Nhóm tung ra album đầu tay Strap It On vào năm 1990. Album khá thành công khi nhận được rất nhiều lời khen ngợi và có tầm ảnh hưởng rất lớn về sau này (album này có ảnh hưởng rất lớn tới Nu Metal về sau khi lấy guitar trầm xuống một nốt).
    Sau những thành công ban đầu, nhóm ký hợp đồng với một hãng đĩa lớn là Interscope vào đầu năm 1992 và vươn tới đỉnh cao trong sự nghiệp của mình với album Meantime vào cùng năm (album này sau đó bán được tới hơn 500 000 bản tại Mỹ và 2 triệu bản trên toàn thế giới). Album này cũng vươn lên hạng thứ 68 trên bảng xếp hạng Billboard của Mỹ. Đây cũng chính là album thành công nhất trong sự nghiệp của nhóm và được rất nhiều fan hâm mộ tôn thờ với những bài hát nổi tiếng như Unsung, Give It và In The Meantime. Cũng như album trước, đây cũng là một trong những album kinh điển của Alternative Metal thế giới.
    Tuy nhiên, những album sau đó của nhóm là Betty -94 và Aftertaste -97 không thực sự thành công như Meantime về mặt thương mại mặc dù chất lượng âm nhạc không hề kém Meantime (với rất nhiều thử nghiệm khi tích hợp thêm Jazz và Blues). Thất bại của Aftertaste khiến Helmet tan rã vào năm 98. Tuy nhiên đến năm 2004, nhóm tái hợp và sau đó tung ra 3 albums nữa là Size Matter -2004, Monochrome -2006, Seeing Eye Dog -2010 nhưng không mấy thành công. Sự nghiệp của Helmet không thực sự quá thành công về mặt thương mại nhưng đây là một band nhạc hết sức quan trọng và có nhiều đóng góp cho sự hình thành và phát triển của các dòng nhạc Alternative Metal, Post Hardcore sau này.

    Bad Mood

    Unsung

    Wilma's Rainbow

    L1p1NlICSps

    Gone
     
  22. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Primus

    Primus​


    Primus là một trong những band nhạc kỳ lạ nhất trên thế giới. Âm nhạc của họ rất khó định nghĩa là thuộc dòng nhạc nào vì nó rất khác lạ và không giống bất kỳ band nhạc nào khác. Âm nhạc của họ có thể gọi là Funk, Thrash, Alternative, Progressive hoặc Avant Garde… nhưng có lẽ âm nhạc của họ gần nhất với Alternative Metal nên chúng ta sẽ xếp họ vào nhóm này. Tay guitar bass Les Claypool của nhóm là một trong những bassist tài năng nhất mà thế giới âm nhạc từng sản sinh ra.
    Primus bắt đầu sự nghiệp vào đầu những năm 84 bởi Claypool, nhưng không mấy thành công và đến năm 1989 thì band nhạc chính thức tan rã. Claypool quay trở lại band nhạc cũ của mình Blind Illusion – một band Progressive – Thrash Metal. Hẳn nhiều fan hâm mộ Death Metal còn nhớ tới band nhạc Possessed, những người sáng tạo ra dòng nhạc này. Tuy sáng tạo ra dòng nhạc, Possessed tan rã sau khi giọng ca chính Becerra bị tai nạn. Tay guitar Larry Lalonde của band nhạc này vẫn mong muốn tiếp tục sự nghiệp âm nhạc nên quyết định tham gia nhóm Blind Illusion. Cùng với Lalonde và Claypool, Blind Illusion tung ra 1 album khá hay là Blind Illusion vào năm 1989 rồi tan rã. Thấy rõ tài năng của Lalonde, Claypool mời anh này về và tái lập nhóm Primus cùng với tay trống Tim “Herb” Alexander. Bộ 3 ghi âm 1 album live là Suck On This, với sự trợ giúp tài chính của cha Claypool. Album này gồm nhiều bài hát rất hay mà sau này sẽ được ghi âm lại trong nhiều album tiếp theo của nhóm.Đây cũng là một album có rất nhiều ảnh hưởng tới Alt Metal sau này.
    Năm 1990, Primus tung ra album đầu tay Frizzle Fry. Đây là một album có chất lượng rất tốt. Âm nhạc trong album này là funk Metal với những ảnh hưởng của Rush, King Crimson và nhóm nhạc The Residents. Các bài hát trong album có giai điệu khá vui nhộn và được chơi với kỹ thuật rất cao. Chính vì thế nó cũng gặt hái được một số thành công nhỏ (vươn lên hạng 153 trên bảng xếp hạng của Mỹ) với những bài hát như John The Fisherman hay Too Many Puppies. Nó cũng tạo điều kiện rất tốt để Primus có những chuyến lưu diễn cùng nhóm nhạc Alternative Jane’s Addiction và Metallica (Claypool là bạn thân với Kirk Hammett – anh này xuất hiện trong video clip John The Fisherman).
    John THe Fisherman


    Sau thành công ban đầu, Primus có hợp đồng với hãng đĩa lớn là Interscope vào năm 1990. Năm 1991, Primus tung ra album kinh điển Sailing The Seas Of Cheese. Lúc này tài năng của Claypool, Lalonde và Alexander vươn lên tới đỉnh cao. Rất nhiều bài hát trong album này thể hiện kỹ năng chơi nhạc siêu việt của Claypool như: Jerry Was A Race Car Driver, Tommy The Cat, Fish On… Lalonde cũng thể hiện tài năng rất lớn của mình với những đoạn solo guitar quái dị, không có giai điệu rất đặc biệt. Album này vươn lên được vị trí 116 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 1 triệu bản. Nó góp sức lớn đưa tên tuổi của Primus trở nên phổ biến (mainstream) trên toàn thế giới.
    Jerry Was A Race Car Driver

    Tommy The Cat


    Năm 1993, thời điểm mà Primus tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Pork Soda, họ đạt được những thành công rất lớn về mặt thương mại trong sự nghiệp. Album vươn lên được tới hạng 7 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này cũng bán được hơn 1 triệu bản. Âm nhạc trong album này vẫn là những điểm đặc trưng của Primus như: funk, alternative, experimental… Tuy vậy, chủ đề của các bài hát trong album này thì không còn vui nhộn như những album trước mà lại nói về những chủ đề gai góc hơn như giết người phi tang, tự vẫn, hay người ngoài hành tinh. Một số bài hát trong album này trở nên rất nổi tiếng như My Name Is Mud, DMV hay Mr. Krinkle. Sau album này, Primus đã trở nên rất nổi tiếng và họ có tham gia rất nhiều những đại nhạc hội lớn của thế giới như Llollapalooza hay Woodstock.
    My Name Is Mud

    Mr. Krinkle


    (còn tiếp)
     
  23. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Primus

    Primus​


    (tiếp theo)

    Đến năm 1995, Primus tung ra album thứ 4 của nhóm là Tales From The Punchbowl. Âm nhạc trong album này tiếp tục thay đổi khi nhóm ít sử dụng âm nhạc kiểu Avant Garde hơn so với những album trước đó. Kết quả là album này dễ nghe hơn rất nhiều. Bài hát Wynona’s Big Brown Beaver của album này trở thành bài hát phổ biến nhất của nhóm và thậm chí còn được đề cử giải thưởng Grammy. Album tiếp tục thành công về mặt thương mại khi xuất hiện ở hạng 8 tại Mỹ và sau này đạt chứng chỉ đĩa vàng (bán được hơn 500 000 bản). Tuy nhiên, rất tiếc đây lại là album cuối của tay trống Alexander với nhóm. Anh này được thay thế bởi tay trống Bryan Mantia.

    Wynona's Big Brown Beaver


    Album đầu tiên của Mantia với band nhạc là Brown Album được tung ra vào năm 97. Sự vắng mặt của tay trống tài năng Alexander thể hiện rất rõ trong album này. Ghi âm trống của Mantia rất ồn và không tốt lắm. Dĩ nhiên nó cũng ảnh hưởng khá lớn tới chất lượng âm nhạc của album này. Rất nhiều fan hâm mộ của nhóm cho rằng chất lượng của album rất kém, thực tế không phải như vậy. Album vẫn có nhiều bài hát có chất lượng tốt như Over The Falls, Shake Hands With Beef. Các bài hát trong album này có phần mạnh mẽ và giận giữ hơn những album trước đó. Tuy nhiên, về mặt thương mại thì album lại là một bước lùi rất lớn trong sự nghiệp của nhóm khi chỉ đứng hạng 21.
    Shake Hands With Beef


    Sau khi tung ra 1 album EP gồm nhiều bài hát cover là Rhinoplasty vào năm 1998, Primus tung ra album thứ 6 trong sự nghiệp là Anti Pop vào năm 1999. Album này tiếp tục chứng kiến sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm khi Claypool mời một loạt những khách mời rất nổi tiếng tham gia ghi âm album này như: James Hetfield – Metallica, Tom Morello – Rage Against The Machine, Fred Durst – Limp Bizkit… Có lẽ chính vì việc xuất hiện nhiều khách mời nên âm nhạc của Primus gần như thay đổi hoàn toàn. Các bài hát trong album dễ nghe và có giai điệu hay hơn rất nhiều so với những album trước đó. Các bài hát trong album đánh khá mạnh nhưng ít tính thử nghiệm hơn. Dù chất lượng khá tốt, album vẫn không nhận được nhiều sự chú ý từ fan hâm mộ khi chỉ đứng hạng 44 trên bảng xếp hạng Mỹ. Đây cũng là album cuối cùng của tay trống Mantia với nhóm. Sau album này, Primus rơi vào tình trạng ngừng hoạt động một thời gian rất dài.
    Lacquer Head


    Phải đến tận năm 2011, nhóm mới tung ra album tiếp theo là Green Naugahyde với tay trống Jay Lane – tay trống đầu tiên trong sự nghiệp của nhóm. Album này mang phong cách khá giống với album đầu tay Frizzle Fry của nhóm. Album nhận được khá nhiều lời khen ngợi và là một trong những album khá tốt của nhóm. Album này khá thành công khi vươn lên hạng 15 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Album cuối cùng của Primus tính tới thời điểm hiện tại là Chocolate Factory with the Fungi Ensemble mới được tung ra vào cuối tháng 11 năm 2014.
    Tragedy's A' Comin


    Primus là một trong những tài năng đặc biệt của thế giới Heavy Metal. Âm nhạc của nhóm không hề giống bất kỳ nhóm nhạc nào và được chơi với kỹ năng chơi nhạc tuyệt vời của Lalonde, Alexander (Mantia) và đặc biệt là Claypool – một trong những tay bass guitar xuất sắc nhất của mọi thời đại. Một band nhạc dành cho những người yêu mến sự khác lạ trong âm nhạc.
     
  24. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Rage Against The Machine

    Rage Against The Machine​


    Rage Against The Machine (RATM) có lẽ không phải là band nhạc đầu tiên kết hợp Metal với nhạc Rap (vocals), cũng không phải là band nhạc duy nhất làm điều này nhưng có lẽ họ là một trong những band nhạc theo phong cách Rap Metal nổi tiếng nhất. Âm nhạc của RATM chủ yếu dựa trên lối chơi đầy kỹ thuật và sáng tạo của tay guitar huyền thoại Tom Morello với giọng hát Rap của vocalist Zack De La Rocha. Các bài hát của nhóm chuyên về những vấn đề chính trị phức tạp. Band nhạc này sau đó rất thành công với khoảng hơn 16 triệu albums bán được trên toàn thế giới.
    RATM thành lập từ năm 1991 sau khi Morello rời khỏi band nhạc Lock Up. Sau khi chứng kiến khả năng hát của Zack De La Rocha, Morello đề nghị anh này cùng mình thành lập một band nhạc mới. Morello giới thiệu thêm tay trống Brad Wilk (trước đây đã từng thử việc cho nhóm Lock Up, De La Rocha thì giới thiệu một người bạn của mình là Commerford ở vị trí bassist và sau đó nhóm nhạc ổn định đội hình. Sau khi ghi âm 1 album demo có chất lượng khá tốt, RATM nhận được sự chú ý của nhiều hãng đĩa lớn và cuối cùng họ chọn hãng đĩa khổng lồ Epic (Sony) để ký hợp đồng. Năm 1992, nhóm tung ra album đầu tay Rage Against The Machine. Tính chất nghiêng về chính trị của RATM thể hiện rất rõ tại bìa của album này. Bìa album là hình tự thiêu của Đại Đức Thích Quảng Đức để phản đối việc giết hại những người theo Phật Giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm vào năm 1963. Dù Rap và Metal là những phạm trù khá nhạy cảm, nhiều khi là đối lập cả trên phương diện âm nhạc lẫn văn hóa thì album đầu tay này của RATM vẫn đập tan tất cả những sự đối lập nêu trên. Đơn giản vì đây là một trong những album hay và quan trọng nhất của Heavy Metal thế giới trong những năm đầu thập kỷ 90s. Âm nhạc trong album gồm rất nhiều những cú riff đầy sức mạnh, khác lạ và đầy tính sáng tạo. Album rất thành công khi bán được tới hơn 3 triệu bản tại Mỹ (dù chỉ đứng ở vị trí thứ 45 trên bảng xếp hạng) với 1 loạt những bài hát sau này trở nên kinh điển như Killing In The Name, Wake Up hay Bombtrack.
    Killing In The Name

    Wake up


    Tuy nhiên, ngay sau những thành công vang dội đầu tiên, RATM lập tức rơi vào bất ổn khi liên tục xuất hiện những tin đồn về việc nhóm tan rã trong những năm sau đó. Mặc dù vậy, vào năm 1996, nhóm bất ngờ tung ra album thứ 2 là Evil Empire. Album này thậm chí còn thành công hơn cả album trước đó khi vươn thẳng lên vị trí số 1 tại bảng xếp hạng của Mỹ và sau này cũng bán được hơn 3 triệu bản. Về mặt âm nhạc, album này không quá khác biệt so với album trước đó, nhưng có khá nhiều bài hát trong album này có chất lượng rất cao, thậm chí vượt trội hơn so với album trước đó như: Bulls On Parade, Vietnow hay Year Of Tha Boomerang đều thể hiện khả năng chơi guitar siêu việt của Morello.
    Bulls on Parade

    Year Of Tha Boomerang


    Trong những năm tiếp theo của sự nghiệp RATM gặp khá nhiều rắc rối với cảnh sát vì lời bài hát và phong cách biểu diễn bạo lực, cổ súy cho những hành động chống chính phủ. Tuy nhiên đến năm 1999, RATM vẫn kịp tung ra album studio cuối cùng trong sự nghiệp của nhóm là The Battle Of Los Angeles. Album này tiếp tục thành công khi vươn lên hạng 1 tại Mỹ và sau này cũng bán được hơn 2 triệu bản. Album này cũng rất hay với những bài hát rất tốt như Calm Like A Bomb, Ashes In The Fall, Sleep Now In The Fire, Testify…
    Calm like a Bomb

    Sleep Now in the Fire


    Sau 3 albums với những thành công vang dội, sự nghiệp của RATM đi tới hồi kết vào năm 2000 khi De La Rocha rời nhóm. 3 thành viên còn lại tham gia nhóm Audioslave và chúng ta sẽ còn gặp lại họ sau này.
    Tuy sự nghiệp không kéo dài, RATM vẫn là một band nhạc có nhiều ảnh hưởng, nhất là tới Nu Metal sau này. Tay guitar Tom Morello của nhóm là một trong những anh hùng guitar của Metal thế giới.
     
  25. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Tool

    Tool​


    Tool là một trong những quái kiệt không chỉ của làng nhạc Heavy Metal mà còn của thế giới âm nhạc nói chung. Không có nhiều những band nhạc có những album hết sức phức tạp nhưng lại đạt được thành công rất lớn về mặt thương mại như Tool. Âm nhạc của Tool là một thứ Alternative đầy giận dữ trên nền những bài hát có cấu trúc rất phức tạp của Progressive. Tất cả các thành viên của Tool đều là những bậc thầy về kỹ năng chơi nhạc, đặc biệt là tay bass Justin Chacellor – một người chuyên sáng tạo những kỹ thuật chơi nhạc mới cho cây đàn bass guitar (chuyên sử dụng những kỹ năng của guitar chuyển sang bass). Tay trống Danny Carey vốn là một tay trống nhạc Jazz và kỹ năng cũng như sự sáng tạo của anh này cũng khiến mọi người phải ngả mũ kính phục. Maynard James Keenan là một trong những giọng ca đặc biệt và nổi tiếng nhất trong lịch sử của Heavy Metal thế giới hiện tại. Tay guitar Adam Jones cũng là một người có khả năng chơi nhạc rất tốt, tuy vậy trong một đội hình toàn siêu sao, anh lại trở thành người yếu thế nhất trong band nhạc. Âm nhạc của Tool là sự kết hợp hoàn hảo giữa tính nghệ thuật của những năm 70 (Progressive) và tính thời đại (những bài hát đầy căm phẫn và giận dữ) của những năm 90. Band nhạc cũng sử dụng rất nhiều những âm nhạc mới mẻ kiểu experimental (thử nghiệm) trong âm nhạc của mình. Chính vì vậy, dù có nhiều ảnh hưởng và được rất nhiều fan hâm mộ trên thế giới tôn thờ, âm nhạc của họ gần như không thể bắt chước theo được và là duy nhất.
    Trong sự nghiệp của mình, Tool không cho ra nhiều album, nhưng những album của họ đều rất hay, một số album có thể coi là đỉnh cao của Metal thế giới trong những năm được tung ra như Aenima hay Lateralus. Dù nhạc không dễ nghe, họ vẫn giành được những thành công kỳ lạ trên thế giới và bán được hàng triệu bản trên toàn thế giới. Band nhạc cũng thường xuyên tích hợp những hiệu ứng về ánh sáng trong những buổi trình diễn live của họ.
    Trở lại với lịch sử của band nhạc, trong những năm cuối thập kỷ 80s, các thành viên của Tool lần lượt chuyển từ nhiều nơi khác nhau về sống tại Los Angeles. Tay guitar Adam Jones ban đầu định theo đuổi sự nghiệp làm film chứ không phải âm nhạc. Sau đó, Jones và Keenan quen biết nhau qua một người bạn vào năm 89. Ấn tượng trước giọng ca sâu và đầy cảm xúc của Keenan, Jones quyết định thành lập band nhạc. Nhiệm vụ lúc này của họ là tìm kiếm một tay guitar bass và một tay trống. Tay guitar Jones vốn là bạn rất thân của Tom Morello (Rage Against The Machine) nên anh này giới thiệu với Jones tay trống Carey (Morello đang chơi cùng Carey trong band Electric Sheep). Carey đồng ý tham gia nhóm vì thấy quá tội nghiệp cho Jones và Keenan – khi họ mời mà không có tay trống nào thèm đến để thử việc. Sau đó, một người bạn của Jones giới thiệu với tay bass Paul D’Amour và đội hình của nhóm đã đủ các thành viên.

    Hush


    Sau 2 năm chơi nhạc tại những câu lạc bộ ở Los Angeles, Tool nhận được sự chú ý của hãng đĩa Zoo Entertainment và có hợp đồng với hãng đĩa này. Năm 1992, nhóm tung ra EP Opiate với bài hát video clip khá nổi tiếng của bài hát Hush. Đến năm 1993, thời điểm mà Alternative và Grunge đang thống trị thị trường âm nhạc thế giới, Tool tung ra album đầu tay Undertow. Trong album này, Tool chơi nhạc mạnh hơn rất nhiều so với EP trước đó. Tuy vậy, album này chưa thực sự quá đặc biệt như những album về sau, nó mang đậm phong cách Alternative rất ăn khách tại thời điểm bấy giờ. Album khá thành công khi vươn lên vị trí thứ 50 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được gần 3 triệu bản. Bài hát Sober trong album trở thành một bản hit và thậm chí còn nhận được giải thưởng Best Video By A New Artist của tạp chí Billboard. Một bài hát khác cũng nhận được nhiều lời khen ngợi trong album này là Prison Sex.

    Sober

    Prison Sex


    Tuy nhiên, sau album khá thành công Undertow, tay bass D’Armour rời nhóm để tiếp tục tham gia những dự án khác. Thay thế anh này chính là tay bass huyền thoại Chancellor. Cùng với anh này, nhóm bước vào ghi âm album kinh điển Aenima và tung ra vào năm 1996. So với Undertow, Aenima là một bước tiến vượt bậc của Tool, lúc này âm nhạc của nhóm đã trở nên rất phức tạp và chịu nhiều ảnh hưởng của Progressive về mặt cấu trúc. Tuy nhiên những ảnh hưởng của Grunge và Alternative vẫn còn rất nhiều. Các bài hát đầy cảm xúc nhưng đa phần là những cảm xúc tiêu cực, cay đắng, giận dữ, phá phách. Album phức tạp và rất dài (hơn 77 phút) nhưng điều kỳ lạ là nó lại rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên đứng thứ 2 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và sau đó bán được hơn 3 triệu bản. Năm 1998, Tool thậm chí còn giành cả giải Grammy cho trình diễn Metal xuất sắc nhất. Đây là một vinh dự không nhỏ cho nhóm vì lúc đó chỉ có Metallica, Nine Inch Nails, Ozzy Osbourne, Soundgarden và Rage Against The Machine giành được giải này trước Tool.
    Stinkfist

    Hooker With A Penis


    (còn tiếp)
     

Share This Page

Loading...