Tool Tool (tiếp theo) Sau album Aenima, Tool đã trở thành một trong những band nhạc hàng đầu thế giới tại thời điểm bấy giờ. Cả 4 thành viên của nhóm đều trở thành những siêu sao và nhận được rất nhiều sự tôn trọng cả từ giới chuyên môn lẫn fan hâm mộ. Sự kỳ vọng vào họ trở nên cao hơn bao giờ hết, nhưng rất nhiều người hâm mộ mong muốn họ có thể ra album sớm hơn (khoảng cách giữa 2 album trước là 3 năm) nhưng điều này không thể thực hiện được. Sau những chuyến lưu diễn dài ngày, Tool lại gặp rắc rối với hãng đĩa của chính họ. Quan hệ của 2 bên căng thẳng tới mức cả 2 đã lôi nhau ra tòa. Sau khi giải quyết xong vấn đề với hãng đĩa, Tool tiếp tục gặp trục trặc với nhà quản lý của mình và sa thải ông này vào năm 2000. Tại thời điểm đầu những năm 2000, hầu như tất cả các thành viên của Tool đều tham gia vào nhiều dự án khác nhau làm rộ lên tin đồn Tool sắp tan rã. Tuy nhiên, năm 2001, đúng vào ngày Cá Tháng Tư, Tool tuyên bố họ sẽ tung ra album mới. Thông tin này tung ra vào một ngày khá nhạy cảm nên hầu hết fan hâm mộ không biết nó là thực hay giả. Đến tháng 5 năm 2011, Tool bất ngờ tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp của nhóm là Lateralus. Nếu có từ nào đó có thể diễn đạt âm nhạc trong album này của Tool thì đó là hoàn hảo. Album này thậm chí còn dài hơn album trước đó (hơn 78 phút) với những bài hát mang nặng tính triết học (album liên quan mật thiết với chuỗi số Fibonacci – chuỗi số có chữ số n = tổng hai số đứng ngay trước nó). Fibonacci được coi là chuỗi số dành cho nghệ thuật vì tỷ lệ trung bình giữa 2 số đứng liền nhau bằng khoảng 0,618 – đây là tỷ lệ vàng trong nghệ thuật và tự nhiên – hầu như những vật do tạo hóa tạo ra đều gắn với tỷ số này. Thậm chí bài hát Lateralus trong album này còn có số từ trong những câu hát trùng với chuỗi Fibonacci (ví dụ chuỗi Fibonacci là 1 1 2 3 5 8 13 thì câu 1, 2 trong bài hát có 1 từ, câu 3 có 2 từ…). Âm nhạc trong album rất phức tạp, kỹ năng chơi nhạc tuyệt vời nhất là kỹ năng chơi trống (trong bài Grudge, Ticks And Leeches) kỹ năng chơi bass (Schism). Ngay bản thân giọng ca Keenan cũng để lại dấu ấn khó quên với khả năng tuyệt vời trong bài hát Ticks And Leeches – bài hát mà gần như không ai có thể (kể cả Keenan) trình diễn live được. Sau khi ghi âm bài hát này, Keenan đã mất giọng trong 2 tuần. Dù không dễ nghe, album tiếp tục thành công rất lớn khi đứng đầu trên bảng xếp hạng của Mỹ và bán được hơn 2 triệu bản. Bài hát Schism sau đó giành giải thưởng Grammy lần thứ 2 cho Tool và biến Tool thành band nhạc thứ 3 trong lịch sự giành được ít nhất 2 lần giải thưởng này (cùng với Metallica và Nine Inch Nails). Schism Ticks & Leeches Phải 5 năm sau khi tung ra album Lateralus, Tool mới tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là 10 000 Days. Đây là một album concept với nội dung về Judith Keenan – mẹ của giọng ca chính Maynard Keenan, bà bị liệt toàn thân trong một thời gian rất dài. Âm nhạc trong album này gần như thay đổi hoàn toàn so với album trước là Lateralus, nó ít mang tính giận dữ hơn và mang nhiều tính Psychedelic. Sự thay đổi này ban đầu không thực sự được nhiều fan hâm mộ chấp nhận. Nhưng thời gian qua đi, album ngày càng nhận được nhiều sự khen ngợi. Rõ ràng cả 4 thành viên của Tool đã phải làm việc hết sức vất vả và sáng tạo với những bài hát tuyệt vời như: Vicarious, The Pot hoặc Right In Two. Album tiếp tục thành công về mặt thương mại khi đứng hạng 1 trên bảng xếp hạng của Mỹ và cũng bán được gần 2 triệu bản. Đã hơn 8 năm trôi qua kể từ khi tung ra 10 000 Days, Tool chưa ra thêm 1 album nào cả. Fan hâm mộ của họ đã đợi quá lâu. Hy vọng họ sẽ tiếp tục tung ra những album đầy chất lượng để không phụ công trông chờ của rất nhiều người hâm mộ âm nhạc của họ trên toàn thế giới. Right In Two The Pot
Clutch Clutch tiếp tục là một band nhạc rất khó để xếp vào một thể loại nhạc nhất định. Âm nhạc của họ khá đặc biệt và là sự pha trộn của nhiều thể loại như Avant Garde, Alternative và Hard Rock. Band thành lập năm 1991 tại Maryland, Mỹ. Năm 1993, nhóm tung ra album đầu tay Transnational Speedway League: Anthems, Anecdotes, And Undeniable Truths, một album tên quá dài và khó nhớ. Với một band nhạc trẻ mới thành lập, việc album đầu tay của họ có chất lượng thu âm kém là một điều dễ hiểu và Clutch cũng không phải ngoại lệ. Âm nhạc trong album này cũng không mấy đặc biệt khi nó chịu ảnh hưởng rất mạnh của Hardcore. Chính vì thế album này nghe cũng rất khác so với những album sau này của nhóm. Phải đến album thứ 2 là Clutch vào năm 95 thì âm nhạc của nhóm mới trở nên khá đặc biệt như hiện nay. Tại thời điểm này, những âm hưởng của Hardcore gần như không còn mà nhóm tích hợp thêm những âm thanh của Stoner Rock vào. Chất lượng thu âm của album này cũng tốt hơn album trước đó rất nhiều. Album gồm nhiều những bài hát hay và dựa nhiều trên sự ngẫu hứng của band nhạc (theo phong cách jamming). Với một số bài hát nổi tiếng như Animal Farm, Texan Book Of The Dead… Album được fan hâm mộ hết sức yêu mến. Đây cũng là một trong những album kinh điển trong lịch sử của nhóm. Năm 1998, Clutch tiếp tục tung ra album tiếp theo là The Elephant Riders. Album này tiếp tục chứng kiến sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm khi tích hợp thêm phong cách Experimental (Avant – Garde )và cả những ảnh hưởng của Jazz. Việc nhóm tích hợp thêm cả những nhạc cụ như Trumpets hay Saxophone vào càng khiến âm nhạc thêm phần lạ lùng. Hiển nhiên, album rất hay với những bài hát kinh điển như The Elephant Rider, The Yeti… và là một album không thể thiếu đối với fan hâm mộ của nhóm. Album cũng giúp cho nhóm lần đầu tiên có mặt trong những bảng xếp hạng của Mỹ (vị trí 104). Sau album Jam Room không mấy thành công vào năm 1999, Clutch tiếp tục quay trở lại với những album có chất lượng rất tốt và mang nhiều phong cách Hard Rock như Pure Rock Fury -2001 hay Blast Tyrant – 2004, Robot Hive/Exodus. Cả 2 album đều rất hay, đặc biệt là Blast Of Tyrant với những bài hát kinh điển (có sử dụng acoustic guitar) như The Mob Goes Wild, The Regulator. Những thành công của các album này khiến những album tiếp theo của nhóm trở nên rất thành công trên các bản xếp hạng. Tuy nhiên, 3 albums cuối cùng của nhóm là From Beale Street To Oblivion -2007, Strange Cousins From The West -2009, Earth Rocker – 2013 đều mang phong cách Hard Rock. Các album này đều khá hay và lần lượt chiếm được các thứ hạng 52, 38 và 15 trên bảng xếp hạng tại Mỹ. Clutch là một band nhạc lạ và đặc biệt dù không thực sự thành công về mặt thương mại (album thành công nhất của họ là Clutch chỉ bán được khoảng 200000 bản – kém xa so với những band nhạc Alternative Metal khác). Tuy nhiên âm nhạc của họ mang rất sáng tạo và khác biệt. Animal Farm The Elephant Riders Smoke Banshee La Curandera Electric Worry
Life Of Agony Life Of Agony Life Of Agony thành lập năm 1989 tại New York Mỹ. Tại đây, có rất nhiều band nhạc Hardcore nổi tiếng thế giới nên cũng không thật sự khó hiểu khi âm nhạc của nhóm lúc đầu chịu khá nhiều ảnh hưởng của Hardcore. Do trong đội hình của nhóm có tay trống Sal Abruscato của nhóm Gothic Metal huyền thoại Type O Negative nên nhóm nhanh chóng có được hợp đồng với hãng đĩa Roadrunner. Vào khoảng những năm đầu thập kỷ 90, tại New York mới xuất hiện một trào lưu Metal mới gồm những band như Biohazard và Type O Negative. Nếu như Type O Negative là band nhạc Gothic thì Biohazard chơi theo phong cách Crossover Thrash. Âm nhạc của Life Of Agony trong album đầu tiên là River Runs Red mang phong cách pha trộn giữa Type O Negative và Biohazard: tức là phong cách Hardcore/Thrash trộn lẫn với tính bi thảm của Gothic. Nhưng đến khi tung ra album thứ 2 là Ugly thì âm nhạc của Life Of Agony gần như thay đổi hoàn toàn. Lúc này nhóm không còn sử dụng trống với double bass nữa và cũng không sử dụng giọng ca khàn của Hardcore. Giọng hát của nhóm trở nên trong và dễ nghe hơn rất nhiều. Album này chứa đầy cảm xúc và mang nhiều tính Alternative hơn. Album thứ 3 của nhóm là Soul Searching Sun -97 tiếp tục phong cách của Ugly nhưng không thực sự thành công. Sau 2 album này, nhóm rơi vào bất ổn khi giọng ca nữ chính Caputo quyết định rời nhóm. Sau khi tìm kiếm một giọng ca mới nhưng bất thành, Life Of Agony buộc phải tan rã. Sau này nhóm có tái hợp lại và tung ra album Broken Valley vào năm 2005 nhưng cũng không thành công và sau đó lại tan rã tiếp một lần nữa. Âm nhạc của Life Of Agony khá đặc biệt và được không ít fan hâm mộ yêu thích. Nhất là 2 albums đầu tiên của nhóm. River runs Red Desire My Mind Is Dangerous
System Of A Down System Of A Down System Of A Down (SOAD) là một trong những band nhạc tiêu biểu của trào lưu Alternative Metal. Trước đây, band nhạc này thường bị nhầm là Nu Metal, nhưng thực chất âm nhạc của họ rất khác so với những band nhạc Nu Metal cùng thời (thường có những đoạn solo guitar). Đây cũng là một trong những band nhạc Metal được yêu mến nhất trong thập kỷ 2000s. Câu chuyện của SOAD bắt đầu từ khoảng năm 1992 khi giọng ca chính Serj Tankian gặp lại tay guitar Daron Malakian trong một phòng thu âm tại California, Mỹ. Tankian và Malakian vốn là những người bạn từ khi còn nhỏ nhưng do tính chất công việc họ không gặp nhau trong thời gian dài. Sau khi gặp gỡ, 2 người bạn quyết định thành lập 1 nhóm nhạc lấy tên là Soil. Tuy nhiên, sau 1 buổi biểu diễn duy nhất vào năm 1994, nhóm tan rã vì 2/5 thành viên còn lại không thấy triển vọng từ Soil. Cùng với tay guitar rymth Odadjian, Tankian và Malakian thành lập SOAD, Odadjian cũng chuyển từ chơi guitar sang chơi bass. Tay trống Andy Khachaturian được mời tham gia band nhạc sau đó và đội hình của SOAD hoàn thiện. Nghe qua cái tên (tận cùng bằng –ian) chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy cả 4 thành viên đều là người Mỹ gốc Armenia trốn chạy nạn diệt chủng của đế quốc Ottoman. Sau khi thành lập, SOAD chơi nhạc trong những câu lạc bộ nhỏ và tung ra những album demo để tìm kiếm hợp đồng với một hãng đĩa. Sau khi tung ra 3 album demo, đội hình của nhóm tiếp tục thay đổi với việc Khachaturian rời nhóm để thành lập một nhóm nhạc cũng khá nổi tiếng khác là The Apex Theory. Thay thế cho anh này là John Dolmayan. Sau khi tung ra album demo thứ 4, SOAD nhận được sự chú ý của nhà sản xuất Rick Rubin (Slayer, Metallica, Rage Against The Machine…) ông này liền ký hợp đồng với nhóm qua hãng đĩa riêng của mình là American (đây cũng là hãng đĩa của Slayer – một trong những thần tượng của SOAD). Cũng vì ký hợp đồng với hãng đĩa American, SOAD đã có thể đi lưu diễn với Slayer, điều này cũng giúp cho nhóm được biết đến rộng rãi hơn trong giới Metal. Năm 1998, SOAD tung ra album đầu tay System Of A Down. Đây là một trong những album rất hay của nhóm. Âm nhạc trong album khá mạnh (chịu nhiều ảnh hưởng của Groove và Thrash Metal) kết hợp với nhạc dân ca truyền thống của Armenia, quê hương của họ. Các bài hát trong album đều có giai điệu khá tốt với giọng hát nửa gào thét, nửa đọc (kiểu Rap) của Tankian. Hai singles chính của album là Sugar và Spiders đều có chất lượng rất tốt và được fan hâm mộ Metal yêu thích. Album đạt được một số thành công nhỏ (xếp hạng 124 trên bảng xếp hạng của Mỹ). Tuy nhiên, sau này khi album Toxicity đạt được những thành công rất lớn thì album này lập tức được chú ý và sau đó bán được tới hơn 1 triệu bản. Sugar Spiders Sau khi tung ra album đầu tay khá thành công (đến thời điểm năm 2000, album đầu tay của họ đã bán được hơn 500 000 bản). SOAD gặp một số rắc rối do fan hâm mộ của nhóm gây ra. Trong một buổi biểu diễn tại Hollywood, do số lượng fan hâm mộ quá đông (10 000 người) trong khi sức chứa của câu lạc bộ biểu diễn chỉ khoảng 3500 người. Với số lượng fan quá lớn, cảnh sát yêu cầu nhóm hủy buổi biểu diễn để đảm bảo an toàn, tuy nhiên cảnh sát lại không thông báo cho fan hâm mộ biết rằng nhóm đã hủy show diễn mà cứ để cho fan hâm mộ chờ hơn 1 h đồng hồ. Tới khi bảo vệ đến dỡ bỏ banner tên band nhạc thì fan hâm mộ nổi giận và tiến hành đập phá sân khấu và đánh cảnh sát. Nhưng có lẽ sự việc này chỉ làm tên tuổi SOAD trở nên nổi tiếng và giúp họ trở thành những siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới. Năm 2001, SOAD tung ra album thứ 2 trong lịch sử là Toxicity, một siêu album thực sự của thế giới Metal. Với những bài hát rất hay, dễ nhớ nhưng đồng thời mang rất nhiều tính nghệ thuật, album chinh phục cả những fan hâm mộ khó tính nhất, kể cả những người không thực sự yêu thích Alternative Metal. Những bài hát như Chop Suey, Toxicity, Atwa hay Aerials vừa tràn đầy cảm xúc, vừa thể hiện những kỹ năng chơi nhạc tuyệt vời của SOAD. Album hết sức thành công khi vươn lên hạng 1 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 3 triệu bản. 2 bài hát Chop Suey và Toxicity còn được đề cử giải thưởng Grammy. Tất nhiên, album này cũng biến SOAD trở thành những siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới. Chop Suey! Aerials (còn tiếp)
System Of A Down System Of A Down (tiếp theo) Đến cuối năm 2001, sau những thành công cực lớn của Toxicity, một số bài hát được sáng tác cùng thời gian (nhưng không được đưa vào Toxicity vì chất lượng kém hơn) bị phát tán trên internet. Một số fan hâm mộ còn gọi những bài hát này là album Toxicity II. Nhận thấy tiềm năng khá lớn của những bài hát này, band nhạc quyết định hoàn thiện lại các bài hát và tung ra album thứ 3 của nhóm là Steal This Albums vào năm 2012. Tuy album này cũng được coi là một album chính thức của nhóm, chất lượng của nó yếu hơn những album khác khà nhiều. Nó cũng không thực sự thành công về mặt thương mại khi chỉ vươn lên tới vị trí số 15 và bán được hơn 1 triệu bản. Boom! Trong khoảng thời gian giữa năm 2004-2005, SOAD dự định tiến hành ghi âm 1 album kép. Tuy nhiên, dự định này không nhận được sự hưởng ứng của hãng đĩa. Chính vì thế, nhóm quyết định tách album này thành 2 album riêng rẽ và tung ra trong cùng năm 2005, cách nhau 6 tháng – đó là 2 albums Mesmerize và Hypnotize. Mesmerize tung ra vào tháng 5 năm 2005 và là một album rất hay nữa của nhóm. Âm nhạc trong album không quá khác biệt (nghe qua là có thể nhận ra ngay đây là một album của SOAD) nhưng với những bài hát có giai điệu rất tốt, mạnh mẽ hơn và có phần chịu nhiều ảnh hưởng của Progressive. Album nhận được rất nhiều lời khen ngợi trên toàn thế giới và vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng của Mỹ và 12 quốc gia khác, album sau này cũng bán được trên 1 triệu bản. Bài hát B.Y.O.B thậm chí còn giành giải thưởng Grammy cho ca khúc Hard Rock hay nhất. B.Y.O.B. Question! Tháng 11 năm 2005, nhóm tung tiếp ra album thứ 2 trong chùm 2 albums là Hypnotize. Album này tiếp tục vươn lên dẫn đầu trên bảng xếp hạng của Mỹ và khiến SOAD trở thành một trong những band nhạc hiếm hoi có 2 albums đứng đầu trên bảng xếp hạng của Mỹ trong 1 năm. Chất lượng album không tệ, nhưng so với những album trước đó thì có vẻ nó không quá đặc biệt và có chất lượng thấp hơn. Tuy vậy album vẫn bán được hơn 1 triệu bản với những bài hát khá hay như Hypnotize hay Lonely Day. Hypnotize Lonely Day Âm nhạc của SOAD rất đặc biệt và là duy nhất. Nó là sự kết hợp tuyệt vời giữa Metal với nhạc Folk truyền thống của Armenia. Album Toxicity cũng là một trong những album kinh điển của Heavy Metal thế giới. Một band nhạc đặc biệt trong lịch sử của Heavy Metal.
Godsmack Godsmack Godsmack thành lập từ năm 1995 bởi tay trống Sully Erna. Sau hơn 20 năm chơi trống, Erna muốn trở thành một giọng ca chính và anh quyết định thành lập band nhạc Scam. Sau khi ghi âm album demo đầu tiên, Scam đổi tên thành Godsmack. Đến năm 1996, nhóm ghi âm album đầu tay All Wound Up trong vòng 3 ngày và chỉ mất khoảng 2, 600 USD. Trong những năm sau đó, nhóm tiếp tục đi lưu diễn tại vùng Boston và trở nên khá nổi tiếng với những bài hát như Keep Away hay Whatever. Đến giữa năm 1998, Godsmack có hợp đồng với hãng đĩa nổi tiếng Universal, band ghi âm lại album All Wound Up và ra lại với cái tên Godsmack. Album này hết sức thành công khi vươn lên hạng 22 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và sau này bán được tới hơn 4 triệu bản. Âm nhạc và giọng ca chính của Erna có khá nhiều điểm tương đồng với Alice In Chains. Keep Away Sau những thành công rất lớn với album đầu tay, Godsmack tham gia rất nhiều những chuyến lưu diễn dài ngày. Godsmack quay trở lại phòng thu âm để ghi âm album thứ 2. Album này gồm những bài hát được sáng tác chủ yếu trong những chuyến lưu diễn trước đó. Đến năm 2000, nhóm tung ra album thứ 2 là Awake. Album tiếp tục rất thành công khi tiến lên hạng 5 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 2 triệu bản. Bài hát Awake của nhóm trở thành một trong những bản Hit ăn khách nhất của nhóm. Awake Tiếp tục đà thành công, Godsmack tung ra album thứ 3 là Faceless vào năm 2003. Album này tiến thẳng lên dẫn đầu bảng xếp hạng của Mỹ. Sự thành công của album có sự trợ giúp rất lớn của một loạt những bài hát nổi tiếng như I Stand Alone (phim Scorpion King) và Straight Out Of Line, Re-Align, Serenity. Album này sau đó cũng bán được hơn 1 triệu bản. Cả 2 bài hát I Stand Alone và Straight Out Of Line đều giành được những đề cử giải thưởng Grammy trong năm. Năm 2004, nhóm tung ra album EP theo phong cách chơi Acoustic cũng rất thành công (xếp hạng 5 trên bảng xếp hạng Mỹ và bán được hơn 500 000 bản). I Stand Alone Straight Out Of Line Năm 2006, Godsmack tung ra album thứ 4 là IV. Album tiếp tục thành công khi vươn lên xếp hạng 1 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Một số bài hát trong album này cũng khá thành công như Speak hay Shine Down. Sau đó nhóm còn tiếp tục tung ra album The Oracle -2010 cũng rất thành công (hạng 1 tại Mỹ) và 1000hp (hạng 3 tại Mỹ). Speak Cryin' Like A Bitch!! Trải qua rất nhiều năm, phong cách của Godsmack không thay đổi nhiều. Nhóm rất tài năng với những bản nhạc rất hay và có chất lượng cao. Âm nhạc của nhóm có khá nhiều điểm tương đồng với Alice In Chains và khá hay. Hiện tại, Godsmack vẫn là một ngôi sao lớn trên bầu trời âm nhạc thế giới.
Chevelle Chevelle Chevelle là một band nhạc gia đình, nhóm thành lập năm 1995 tại Illinois, Mỹ bởi anh em Pete – vocal/guitar và Sam Loeffler - drum. Sau đó cậu em út Joe cũng gia nhập nhóm. Cả 3 thành viên của band nhạc đều tự học chơi nhạc và bắt đầu chơi tại các câu lạc bộ tại Chicago, Illinois khi Joe mới khoảng 14 tuổi. Sau đó, nhóm ghi âm 1 album demo vào năm 1997 nhưng không thực sự thành công. Mãi tới năm 1999 nhóm mới có hợp đồng ghi âm với hãng đĩa nhỏ Squint Entertainment và bắt tay vào ghi âm album đầu tiên Point #1. Tuy nhiên, album không thực sự thành công khi không xuất hiện trên bất kỳ một bảng xếp hạng nào. Sau đó Chevelle tham gia lưu diễn với một loạt những tên tuổi nổi tiếng như Sevendust, Machine Head, Filter và Powerman 5000 trước khi có hợp đồng với hãng đĩa lớn hơn là Epic vào năm 2002. Trong năm này, nhóm tung ra album thứ hai là Wonder What’s Next. Album này chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc của band nhạc với những bài hát khá hay như The Red – bài hát xếp hạng 3 trên bảng xếp hạng dành cho nhạc Rock và Send The Pain Below. Thành công của những bài hát này khiến album vươn lên hạng 14 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 1 triệu bản. Về mặt âm nhạc, album này chơi mạnh và có chất lượng cao hơn album trước đó. Giọng hát của Pete đầy cảm xúc (đôi khi khiến ta nhớ tới giọng hát của Maynard James Keenan của nhóm Tool). Năm 2004, Chevelle tung ra album thứ 3 là This Type Of Thinking (Could Do Us In). Album này lập tức vươn lên hạng 8 trên bảng xếp hạng của Mỹ và chỉ sau 6 tuần đã đạt chứng chỉ đĩa vàng (bán được hơn 500 000 bản). Một số bài hát như Vitamin R (Leading Us Along) và The Clincher khá thành công trên các bảng xếp hạng. Về mặt âm nhạc, album này khá giống với album trước đó là Wonder What’s Next. Tuy nhiên, đây lại là album cuối cùng của Joe với band nhạc. Sau album này, không hiểu lý do tại sao Joe lại rời khỏi nhóm nhạc. Thay thế cho anh này là tay bass Dean Bernardini, anh rể của những thành viên còn lại trong band. Phải đến năm 2007, Chevelle mới tung ra được album tiếp theo là Vena Sera nhưng đây không thực sự là một album mới. Đây thực chất là tổng hợp các bài hát được sáng tác từ trước đó nhưng không được lựa chọn vào những album chính thức. Album chỉ vươn lên tới hạng 12 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 350 000 bản). Một số bài hát trong album này cũng khá thành công, tiêu biểu là I Get IT và Well Enough Alone. Sau này Chevelle còn tung ra một số album như Sci Fi Crimes -2009, Hats Off To The Bull -2011 và La Gargola vào năm 2011. Các album này đều rất thành công về mặt thương mại khi lần lượt xếp hạng 6, 20 và 3 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Âm nhạc của Chevelle rất tốt với giọng hát đầy cảm xúc của Pete và là một trong những band nhạc tiêu biểu của Alternative Metal thế giới. Send the Pain Below Vitamin R (Leading Us Along) I Get It Jars Face to the Floor
A Perfect Circle A Perfect Circle A Perfect Circle là một trong những siêu nhóm đầu tiên của Alternative Metal. Nhóm thành lập từ năm 1999 bởi Billy Howerdel, người phụ trách về kỹ thuật guitar cho các nhóm như Tool, Nine Inch Nails, The Smashing Pumpkins…Trong quá trình làm việc với Tool, Howerdel quen và trở thành bạn của giọng ca huyền thoại Maynard James Keenan của nhóm nhạc này. Sau đó Howerdel đưa cho Keenan những bản nhạc demo của chính mình. Keenan rất ấn tượng với những bài hát của Howerdel và đề nghị mình sẽ trở thành giọng ca chính trong band nhạc của Howerdel. Lúc đầu, Howerdel định sẽ tìm một dọng ca nữ chính cho band nhạc nhưng nghe lời đề nghị của Keenan anh này lập tức đồng ý. (Keenan lúc này đã là một siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới với những thành công vang dội và một giọng hát siêu đẳng). Ngay sau đó, A Perfect Circle được thành lập. Cặp đôi này tiếp tục mời bassist nữ Paz Lenchantin, guitarist Troy Van Leeuwen và tay trống Tim Alexander (nhóm Primus) vào nhóm. Năm 2000, nhóm tung ra album đầu tay Mer De Noms. Album này nhảy ngay lên vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng của Billboard và lập một kỷ lục mới trong lịch sử của bảng xếp hạng này: đó là album đầu tay xếp hạng cao nhất của một band nhạc Rock trong lịch sử. Album hết sức thành công khi đứng trong bảng xếp hạng này trong 51 tuần liên tiếp (gần 1 năm ) và sau này bán được hơn 1 triệu bản. Một số bài hát trong album trở nên hết sức nổi tiếng như Judith, 3 Libras hay The Hollow. Âm nhạc trong album theo phong cách Alternative và khá dễ nghe. Giọng hát của Keenan và phong cách chơi guitar đầy sáng tạo của Howerdel là những điểm sáng trong album. Cũng như nhiều siêu nhóm khác, sau một album A Perfect Circle có sự thay đổi lớn trong đội hình với sự ra đi của Lenchantin và Van Leeuwwen. Thay thế cho họ là Jeordie White (Marilyn Manson) và James Iha (The Smashing Pumpkins). Năm 2003, nhóm tung ra album thứ 2 là Thirteenth Step. Album này chơi khá nhẹ hơn so với album trước. Album vươn lên hạng 2 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này cũng bán được hơn 1 triệu bản. 2 single chính của album là Weak And Powerless và The Outsider cũng rất thành công và được nhiều fan hâm mộ yêu mến. Năm 2004, nhóm tung ra album Emotive gồm tập hợp các bản cover những bài hát chống chiến tranh bởi rất nhiều nghệ sỹ như John Lennon, Joni Mitchell…Rồi rơi vào trạng thái ngừng hoạt động trong thời gian rất dài. Howerdel muốn tiếp tục sự nghiệp của mình với một band nhạc mới là Ashes Divide để chứng tỏ tài năng của mình mà không cần đến cái bóng quá lớn của Keenan. Tuy nhiên Ashes Divide, tuy có chất lượng âm nhạc khá tốt nhưng chất lượng vocal quá tệ và không thể thành công. Sau đó, cặp đôi này quyết định tái hợp và đang trong quá trình sáng tác cho 1 album mới. Chung ta sẽ tiếp tục chờ đợi album mới của nhóm trong tương lai không xa. Judith 3 Libras Weak and Powerless The Outsider
10 Years 10 Years 10 Years thành lập năm 1999 tại Tennessee, Mỹ. Năm 2001, nhóm tự tung ra album đầu tay Into The Half Moon nhưng không thực sự thành công. Năm 2004, nhóm tiếp tục tự tung ra album thứ 2 là Killing All That Holds You. Dù album có chất lượng tốt, nó vẫn không được bán ra một cách rộng rãi. Bản thân band nhạc thường bán album này trong những buổi trình diễn live của nhóm. Sau những nỗ lực không biết mệt mỏi, 10 Years giành được hợp đồng với một hãng đĩa lớn là Universal vào năm 2005. Album thứ 3 của họ là The Autumn Effect được tung ra vào năm 2005 và có một bước tiến lớn trên bảng xếp hạng của Mỹ với hạng 72. Một số bài hát trong album trở nên rất nổi tiếng như Wasteland hay Through The Iris. Thành công của Wasteland khiến album sau khi rời khỏi bảng xếp hạng của Mỹ lại quay trở lại bảng xếp hạng này một lần nữa. Sau khi khá thành công với The Autumn Effect, band nhạc có dịp đi lưu diễn với rất nhiều nhóm nhạc nổi tiếng như Korn, Deftones, Mudvayne hay Sevendust. Đến đầu năm 2006, single chính của nhóm là Wasteland thậm chí còn vươn lên hạng 1 trên bảng xếp hạng Alternative của Mỹ và đạt được đĩa vàng. Sau những thành công đầu tiên, 10 Years tiếp tục gặt hái những thành công lớn hơn với album thứ 4 là Division vào năm 2008. Album này vươn lên tới hạng 12 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Những album sau đó của nhóm là Feeding The Wolves -2010 và Minus The Machine -2012 tiếp tục gặt hái được những thành công khi xếp hạng 17 và 26 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Âm nhạc của 10 Years khá hay và chịu nhiều ảnh hưởng của những nhóm nhạc như Tool và Deftones tức là dạng Alternative/Progressive. Tuy nhiên, họ vẫn có những album hay và đáng nghe trong những năm gần đây. Wasteland Beautiful Fix Me Backlash
Audioslave Audioslave Hẳn nhiều người trong chúng ta còn nhớ tới hai ông lớn của Alt Metal là Soundgarden và Rage Against The Machine. Soundgarden là một trong những band nhạc sớm nhất chơi Grunge, tuy vậy âm nhạc của họ mang nhiều tính Metal. Rage Against The Machine là band nhạc khá kỳ lạ với những ảnh hưởng của Hip Hop và phong cách chơi guitar khác biệt của Tom Morello. Vào cuối thập niên 90, cả 2 nhóm nhạc trên đều lần lượt tan rã. Các thành viên của cả 2 nhóm đều muốn tiếp tục sự nghiệp âm nhạc và tham gia nhiều band khác nhau. Audioslave là sự kết hợp khó quên giữa 3 thành viên của RATM là Morello, Commerford, Wilk với giọng ca chính đầy tài năng của nhóm Soundgarden là Chris Cornell. Việc kết hợp này khiến Audioslave trở thành một trong những siêu nhóm hiếm hoi của Alt. Metal. Câu chuyện của Audioslave bắt đầu vào năm 2000 khi giọng ca chính Zack De La Rocha quyết định rời khỏi RATM dẫn tới việc band nhạc này tan rã. 3 thành viên còn lại của nhóm quyết định tiếp tục sự nghiệp và tìm kiếm một giọng ca chính mới. Một số giọng ca mang nhiều âm hưởng Rap được giới thiệu với 3 người nhưng họ không muốn trở thành cái bóng của RATM nên không đồng ý. Sau đó, nhà sản xuất Rick Rubin đề xuất Chris Cornell của nhóm Soundgarden. Với Cornell, bộ tứ hết sức hứng thú và cùng nhau viết tới 21 bài hát rong vòng 19 ngày. Năm 2002, sau rất nhiều những trục trặc và thương lượng giữa những bên tham gia, nhóm tung ra album đầu tay Audioslave. Âm nhạc trong album này hoàn toàn giống những gì mà người hâm mộ có thể tưởng tượng ra: nó là sự kết hợp giữa RATM với giọng hát của Soundgarden với nhiều ảnh hưởng của Hard Rock cổ. Dù không được giới chuyên môn đánh giá quá cao, album hết sức thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 7 trên bảng xếp hạng và sau này bán được hơn 3 triệu bản. Các bài hát nổi tiếng của album có thể kể đến Cochise, Show Me How To Live hay Like A Stone. Like A Stone Show Me How to Live Trong những năm tiếp theo, Audioslave liên tục tham gia những chuyến lưu diễn dài ngày với những band nhạc rất nổi tiếng như đại nhạc hội Lollapalooza hay chuyến lưu diễn lịch sử tại Cuba (họ cũng chính là band nhạc Rock đầu tiên của Mỹ trong lịch sử lưu diễn tại Cuba). Chính vì những lý do này, phải đến năm 2005, nhóm mới tung ra album tiếp theo là Out Of Exile. Album này lập tức vươn lên đứng đầu trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 1 triệu bản. Âm nhạc trong album này đã có rất nhiều sự thay đổi, chất Metal còn lại khá ít. Nó là sự kết hợp rất tốt giữa Hard Rock cổ với Alternative Rock. Rất nhiều bài hát trong album này được các fan hâm mộ Rock trên thế giới yêu mến như: Be Yourself hay Doesn’t Remind Me… Doesn't Remind Me Be Yourself Năm 2006, Audioslave tung ra album cuối cùng trong sự nghiệp của nhóm là Revelations. Album này không thực sự thành công về mặt thương mại như những album trước (chỉ bán được khoảng 500 000 bản tại Mỹ) dù vươn lên vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng. Âm nhạc trong album này chịu nhiều ảnh hưởng của Funk, Soul và R&B và cũng giống như album trước, album này không còn nhiều tính Metal. Album không thực sự quá nổi bật vì bản thân band nhạc lúc này cũng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Ngay sau khi tung ra album, Cornell rời khỏi band nhạc để theo đuổi sự nghiệp solo và Audioslave tan rã ngay sau đó. Cả 2 band nhạc RATM và Soundgarden sau này đều tái hợp nên tương lai của Audioslave là bất định. Revelations Audioslave là một hiện tượng của làng âm nhạc thế giới trong những năm 2000s, một band nhạc với nhiều bài hát cảm xúc và khó quên.
Stone Sour Stone Sour Stone Sour thường bị hiểu nhầm là 1 side project của band nhạc Nu Metal Slipknot vì 2 thành viên chính của band nhạc là giọng ca chính Corey Taylor và tay guitar James Root đều là thành viên của cả 2 nhóm nhạc nhưng câu chuyện không thực sự như những gì mọi người thường nghĩ. Lý do đơn giản là Stone Sour được thành lập trước cả Slipknot (từ năm 1992) bởi giọng ca chính Taylor và tay guitar Josh Rand. Sau khi ghi âm 1 số album demo và không thành công, nhóm tan rã vào năm 1997. Như ta đã biết, Taylor và Root tham gia vào band nhạc Nu Metal rất thành công Slipknot. Phải đến năm 2000 thì tay guitar Rand mới quyết định tái lập nhóm cùng với Taylor. Cặp đôi này sau đó cùng nhau viết khoảng 14 bài hát. Năm 2002, nhóm tung ra album đầu tay Stone Sour khi Slipknot đang rất nổi tiếng. Tất cả những người nghĩ rằng Stone Sour sẽ là một bản sao của Slipknot đã nhầm. Âm nhạc trong album này rất khác so với âm nhạc của Slipknot khi mang nhiều tính Melodic. Giọng ca chính Taylor gần như không sử dụng phong cách gào thét ở Slipknot. Giọng anh này vì thế, khá gần với những nhóm nhạc Grunge như Alice In Chains hay Soundgarden. Bài hát Bother trong album này (với âm hưởng acoustic) được sử dụng trong nhạc phim Spider Man và được khán giả rất yêu thích giúp album tiếp tục được quảng bá rộng rãi. Dù chỉ vươn lên hạng 46 trên bảng xếp hạng của Mỹ, album vẫn bán được trên 500 000 bản và đặt một dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp của band nhạc. Album cũng được giới chuyên môn đánh giá rất cao. 2 bài hát trong album này là Get Inside và Inhale thậm chí còn được đề cử giải thưởng Grammy cho trình diễn Metal xuất sắc nhất trong 2 năm 2003, 2004. Sau khi tung ra album đầu tay khá thành công, Stone Sour buộc phải ngừng hoạt động (vì Slipknot chuẩn bị tung ra album mới). Phải đến năm 2006, nhóm mới tung ra được album thứ 2 là Come What(ever) May. So với album trước, album này mang nhiều tính giai điệu hơn, các bài hát dễ nghe và hay hơn so với album trước đó. Khá nhiều bài hát trong album này rất được yêu mến như: 30/30-150, Sillyworld, Through Glass. Album này vươn lên hạng 4 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau đó cũng bán được hơn 500 000 bản. Đây cũng là album bán chạy nhất của nhóm. Album thứ 3 của nhóm là Audio Secrecy vào năm 2010 với rất nhiều lời khen ngợi với những bài hát mang nhiều tính trữ tình. Album cũng khá thành công và vươn lên vị trí số 6 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Trong 2 năm 2012, 2013 nhóm tung ra 2 phần của 1 album kép House Of Gold &Bones Part 1 và 2. Đây là 2 album có cốt truyện và cũng được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Về một mặt nào đó, Stone Sour thể hiện một gương mặt khác rất nhiều so với Slipknot và tránh việc trở thành cái bóng của band nhạc này. Âm nhạc cả họ mang chủ yếu mang tính Alternative Metal chứ không phải kiểu Nu Metal. Bother Through Glass Hesitate Absolute Zero Do Me A Favor
Disturbed Disturbed Disturbed là một band nhạc gây khá nhiều tranh cãi trong giới hâm mộ Metal. Không ít fan hâm mộ của Metal cho rằng Disturbed chơi nhạc chưa đủ mạnh để trở thành một band Metal thực sự. Âm nhạc của nhóm dường như quá nghiêng về mặt giai điệu. Tuy nhiên, họ rất thành công về mặt thương mại (với 4/5 album đứng đầu trên bảng xếp hạng của Mỹ và bán được hơn 20 triệu đĩa trên toàn thế giới. Những con số thống kế này cho thấy họ là một trong những band nhạc Metal/Rock thành công nhất trong những năm gần đây. Disturbed thành lập từ năm 1994, trải qua rất nhiều lần thay đổi thành viên và đổi tên, đến năm 1996, nhóm lấy tên thành Disturbed. Sau khi ghi âm 1 số album demo, nhóm có hợp đồng với hãng đĩa Giant Records. Năm 2000, nhóm tung ra album đầu tay là The Sickness. Tại thời điểm này, Nu Metal đang thống trị âm nhạc thế giới. Chính vì vậy, album này của nhóm chơi khá mạnh và chịu nhiều ảnh hưởng của Nu Metal (với sự xuất hiện của nhiều thiết bị điện tử). Album này bất ngờ thành công khi vươn lên hạng 29 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 4 triệu bản với một số bài hát rất khó quên như Down With The Sickness, Stupify, Voices… Thành công của album này biến Disturbed trở thành những siêu sao trên bầu trời âm nhạc. Down With The Sickness Tuy rất thành công với album đầu tay, album thứ hai của nhóm là Believe -2002 chứng kiến sự thay đổi hoàn toàn trong âm nhạc của nhóm. Lúc này, những ảnh hưởng của Nu Metal không còn nữa. Nhóm chuyển hẳn sang phong cách Alternative Metal với những đoạn solo guitar và các bài hát có giai điệu khá phức tạp. Album hết sức thành công khi vươn thẳng lên vị trí số 1 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 2 triệu bản. Một số singles chính trong album trở thành những bản hit của nhóm như: Prayer, Liberate hay Remember. Prayer Album thứ 3 của nhóm là Ten Thousand Fists tiếp tục được tung ra vào năm 2005. Album tiếp tục rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 1 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được gần 2 triệu bản tại Mỹ. Tuy thành công về mặt thương mại, album không thực sự được giới chuyên môn đánh giá quá cao. Âm nhạc trong album là sự kết hợp tính bạo lực của album đầu tay với tính giai điệu trong album thứ 2. Lời các bài hát cũng trở nên giận dữ và mang nhiều tính chính trị hơn so với những album khác của nhóm. Một số bài hát hay trong album có thể kể đến Ten Thousand Fists hay bản cover Land Of Confusion của nhóm Genesis. Ten Thousand Fists Năm 2007, Disturbed tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là Indestructible. Âm nhạc trong album này trở nên tối tăm, buồn bã hơn so với những album trước. Nguyên nhân chính là do các bài hát chủ yếu được sáng tác tại thời điểm giọng ca chính Drainman phải chịu đựng khá nhiều bất hạnh trong cuộc sống như gặp tai nạn xe máy, cháy nhà, các mối quan hệ đổ vỡ. Dù gây nhiều tranh cãi và chịu nhiều chỉ trích của giới chuyên môn. Album vẫn vươn lên đứng đầu trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này cũng bán được hơn 1 triệu bản. Inside the Fire Với 3 albums liên tiếp đứng đầu bảng xếp hạng của Mỹ, Disturbed không hề có dấu hiệu đi xuống và thực chất đã là một siêu sao trên bầu trời âm nhạc. Năm 2010, nhóm tung ra album thứ 5 và là album cuối cùng tính tới thời điểm hiện tại – album Asylum. Âm nhạc trong album này mạnh hơn nhiều so với 3 albums trước. Các bài hát chủ yếu hát về những trải nghiệm mới trong cuộc đời của giọng ca chính Drainman. Album này được giới chuyên môn đánh giá rất cao và cũng khá thành công về mặt thương mại khi đứng đầu trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau đó bán được hơn 500 000 bản. Tuy nhiên, dù đang trên đà thành công, Disturbed bất ngờ rơi vào trạng thái ngừng hoạt động do sự bất hòa giữa các thành viên trong nhóm. Sau đó, các thành viên của nhóm tham gia rất nhiều các dự án khác nhau. Another Way To Die Disturbed là một band nhạc để lại nhiều tranh cãi với fan hâm mộ Metal thế giới. Tuy nhiên âm nhạc của nhóm có chất lượng tốt với nhiều album hay. Họ cũng biết tận dụng rất tốt cơ hội của mình để trở thành những ngôi sao trên bầu trời âm nhạc thế giới.
Coheed And Cambria Coheed And Cambria Coheed And Cambria (CAC) là một trong những quái kiệt nữa của làng nhạc Metal thế giới trong những năm gần đây. Tuy vậy band này được thành lập từ khá sớm – vào năm 1995. Sau rất nhiều những lần thay đổi trong đội hình và đổi tên band nhạc, đến năm 1998, nhóm mới đổi tên thành Coheed And Cambria. Đây là 2 nhân vật chính trong câu chuyện The Amory Wars – 1 tác phẩm truyện tranh của giọng ca chính Claudio Sanchez. Từ đây, band nhạc cũng sử dụng cốt truyện của tác phẩm này trong những album chính thức của nhóm. Năm 2002, nhóm tung ra album đầu tay The Second Stage Turbine Blade. Nội dung của album này chính là phần 2 (trong 5 phần của câu chuyện Amory Wars). Âm nhạc trong album này mang nhiều chất Rock hơn là Metal với rất nhiều những ảnh hưởng từ các phong cách rock khác nhau như Emo, Noise, Post Punk, Progressive…Dĩ nhiên, album gây ra khá nhiều tranh cãi trong nội bộ fan hâm mộ band nhạc, tuy nhiên có một bộ phận không nhỏ vẫn yêu thích album này. Devil in Jersey City Năm 2003, CAC tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp. Nội dung album này là phần 3 trong 5 phần của câu chuyện The Amory Wars (phần 1 sẽ được ra sau cùng). Âm nhạc trong album này đã có nhiều biến đổi khi nhóm chịu nhiều sự ảnh hưởng của Progressive Rock hơn album trước (với những bài hát dài, có cấu trúc phức tạp). Một số bài hát trong album có chất lượng rất tốt như A Favor House Atlantic hay Blood Red Summer đưa tên tuổi của CAC trở nên khá nổi tiếng trên thế giới. Cùng với sự trợ giúp của những bài hát này, album vươn lên hạng 52 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bất ngờ bán được hơn 1 triệu bản. A Favor House Atlantic Năm 2005, CAC tung ra phần đầu tiên trong chương 4 của câu chuyện Good Apollo, I'm Burning Star IV, Volume One: From Fear Through the Eyes of Madness, đây là một trong những siêu album của nhóm. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của classic Rock với Progressive Rock với Alternative Metal. Hầu như những ảnh hưởng của emo đã không còn nữa. Với những bài hát rất nổi tiếng như Welcome Home, Ten Speed, Apollo, The Final Cut. Phản ứng của cả giới chuyên môn lẫn người hâm mộ đều rất tích cực. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 7 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được tới hơn 1 triệu bản trên toàn thế giới (500 000 bản tại Mỹ). Welcome Home Phần thứ 2 của chương IV là Good Apollo, I'm Burning Star IV, Volume Two: No World for Tomorrowchỉ được CAC tung ra vào năm 2007. Đây tiếp tục là một siêu phẩm của nhóm. Âm nhạc trong album này gần như đã chuyển hẳn sang phong cách Progressive/Alternative Metal. Âm nhạc trong album đánh mạnh mẽ và mang nhiều tính Metal hơn những album trước. Hầu hết các bài hát trong album đều có chất lượng rất tốt. Album tiếp tục vươn lên tới vị trí số 6 trên bảng xếp hạng của Mỹ. The Running Free Năm 2009, CAC tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp là Year Of The Black Rainbow. Album là chương đầu tiên trong câu chuyện về The Amory Wars. Với một số bài hát khá tốt như We Are Juggernaut, Broken, Far… Âm nhạc trong album vẫn tiếp tục là sự kết hợp của rất nhiều các thể loại như Metal, Progressive, Alternative…Album tiếp tục thành công khi vươn lên tới vị trí số 5 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Album này vẫn là một album có chất lượng rất tốt của nhóm. We Are The Juggernaut Năm 2011, CAC bắt tay vào viết 1 album kép The Afterman gồm 2 phần Ascension và Descension. 2 phần này lần lượt được tung ra vào năm 2012 và 2013. So với những album trước, 2 albums này có phần đơn giản hơn: với những bài hát ngắn, đơn giản. Tất nhiên cả 2 album này vì thế cũng dễ nghe hơn. Cả 2 đều khá thành công khi lần lượt xếp hạng 5 và 9 trên bảng xếp hạng của Mỹ và được giới chuyên môn khen ngợi. The Afterman Dark Side Of Me Trong lịch sử của nhóm CAC luôn tung ra những album có chất lượng tốt. Giọng ca của Sanchez có khá nhiều điểm tương đồng với Michael Jackson. Âm nhạc của nhóm là sự pha trộn của rất nhiều thể loại.CAC cũng là một trong những band nhạc rất đáng chú ý trong những năm gần đây.
Ra Ra Ra là một trong những band nhạc Alt Metal ít được biết đến của Mỹ. Nhóm thành lập từ năm 1996 tại California nhưng không hoạt động ổn định. Phải đến năm 2002 nhóm mới ổn định được đôi hình. Sau đó, nhóm tung ra 1 album EP One khá thành công và có được hợp đồng với hãng Universal Records. Trong năm 2002 nhóm tung ra album đầu tay From One với bản Hit nhỏ Do You Call My Name. Với sự trợ giúp của bản hit này, album vươn lên được hạng 154 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Album này mang nhiều tính Nu Metal. Sau album đầu tay khá thành công, Ra được cung cấp 400 000 USD để thực hiện album tiếp theo. Tuy nhiên, đến khi band nhạc hoàn thành album, hãng đĩa của họ là Universal lại không yên tâm nên lưỡng lự trong việc tung album này ra thị trường. Mãi đến mùa đông năm 2004, hãng Universal thuê Dave Downey, một nhà quản lý radio về để thẩm định lại album của nhóm. Sau khi nghe xong album này, Downey khuyên hãng đĩa nên tung ra thị trường. Đến giữa năm 2005, album Duality được tung ra mà gần như không được hỗ trợ và quảng cáo. Tuy nhiên album vẫn bán được hơn 80 000 bản. Âm nhạc trong album này thay đổi rất nhiều so với album trước khi chuyển sang dạng Hard Rock kết hợp với Alternative Metal và thêm một chút ảnh hưởng của nhạc Ả Rập. Album vươn lên hạng 137 trên bảng xếp hạng của Mỹ với bản hit Fallen Angels. Sau khi tung ra album thứ 2, Ra rời khỏi hãng Universal để ký hợp đồng với một hãng đĩa nhỏ hơn là Cement Shoes và tung ra 1 album live là Raw. Tuy nhiên, sau đó hãng không muốn ký tiếp hợp đồng và tương lai band nhạc trở nên rất mù mịt. Rất nhiều fan hâm mộ đã tưởng rằng band nhạc sẽ tan rã nhưng rồi Ticotin, tay guitar và vocal của nhóm quyết định mở một hãng đĩa mới và ký hợp đồng với nhóm. Năm 2008, nhóm tung ra album thứ 3 là Black Sun. Album không mấy thành công khi mang quá nhiều âm hưởng của Hard Rock, dù có một bài hát Broken Hearted Soul khá thành công. (Album chỉ leo lên được vị trí 193 trên bảng xếp hạng của Mỹ và bán được khoảng 20 000 bản). Do những khó khăn lớn về mặt kinh tế, phải đến năm 2013, Ra mới tung ra album thứ 5 là Critical Mass. Đây tiếp tục là một album có chất lượng tốt với những bài hát khá hay với lối chơi mạnh mẽ. Tuy vậy, nó không thực sự thành công về mặt thương mại. Tuy không mấy thành công về mặt thương mại, RA vẫn là một band nhạc khá đặc biệt trong lịch sử của Alt Metal với nhiều ảnh hưởng của Prog Metal và Heavy Metal cổ. Do You Call My Name Fallen Angels Broken Hearted Soul Supernova Supermegadubste
Evanescence Evanescence Evanescence được thành lập từ khá sớm khi giọng ca nữ chính/piano Amy Lee gặp gỡ với tay guitar Ben Moody. Cặp đôi này gặp nhau tại một trại hè thanh niên tại Little Rock, Mỹ và quyết định thành lập một band nhạc. Sau khi tham dự một số show diễn, band nhạc quyết định lấy tên là Evanescence và tung ra một số EPs. Những EPs này giúp nhóm có được hợp đồng với một hãng đĩa mới nổi Wind Up. Hãng đĩa này nhận thấy tiềm năng to lớn của band nhạc nên đầu tư rất nhiều thời gian và công sức để sản xuất album đầu tay của nhóm. Chính vì lý do này nên phải gần 2 năm sau, album này mới được ghi âm xong. Tuy vậy, sau khi ghi âm xong, hãng đĩa lại muốn có thêm một giọng ca nam hát bè với Lee nhưng nhóm nhạc không đồng ý. Sau đó hãng đĩa buộc phải nhượng bộ và chỉ yêu cầu có thêm giọng ca nam hát phụ trong bài hát Bring Me To Life. Dù không mấy hài lòng nhưng Lee cũng phải nhân nhượng đồng ý. Tháng 3 năm 2003, Evanescence tung ra album đầu tay Fallen. Album hết sức thành công khi vươn lên tới vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và sau này bán được tới hơn 7 triệu bản tại thị trường này và 17 triệu trên toàn thế giới. Album cũng được giới chuyên môn đánh giá rất cao khi nhận được tới 5 đề cử cho giải thưởng Grammy và chiến thắng 2 giải. Trong đó có giải thưởng Best New Artist là 1 trong 4 giải thưởng quan trọng nhất của Grammy. Album có rất nhiều bài hát đã trở nên quen thuộc với những người nghe nhạc trên toàn thế giới như: Going Under, Bring Me To Life, Everybody’s Fool hay My Immortal. Âm nhạc trong album là sự pha trộn giữa Nu Metal với Alt Metal và Gothic. Hiển nhiên album này cũng đưa Evanescence trở thành một siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới. Bring Me To Life My Immortal Tuy nhiên, ngay sau thành công lại là một mất mát lớn. Tháng 11 năm 2003, Moody rời nhóm vì những mâu thuẫn về đường hướng phát triển của band nhạc. Anh này muốn band nhạc phát triển theo hướng thị trường hóa còn Lee và các thành viên còn lại muốn tự do sáng tạo vị nghệ thuật. Năm 2006, nhóm tung ra album thứ 2 là The Open Door. Dĩ nhiên, album này rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 1 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 2 triệu bản. Tuy nhiên, chất lượng âm nhạc của album có phần thua sút so với album Fallen trước đó. Call Me When You're Sober Sau album này, đội hình của band nhạc tiếp tục thay đổi và phải đến năm 2011 nhóm mới có thể tung ra album thứ 3 là Evanescence. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của Gothic, Nu Metal với Hard Rock và Electronic trên nền của Alt Metal. Tuy vươn lên vị trí số 1 tại Mỹ nhưng album không thực sự thành công khi chỉ bán được khoảng hơn 400 000 bản tại thị trường này. Những thất bại này khiến hãng đĩa Wind Up quyết định bán bản quyền của Evanescence cho 1 hãng đĩa khác là Bicycle Music. Ngay sau đó, Lee đâm đơn kiện hãng đĩa Wind Up đòi trả 1,5 triệu USD tiền bản quyền. Sau đó, họ trở thành một band nhạc độc lập. What You Want Evanescence là một band nhạc rất lạ trong Alt Metal. Lý do chính không phải do họ có 1 giọng ca nữ chính đầy tài năng mà bởi vì âm nhạc của họ khá đa dạng và đặc biệt. Chúng ta có thể gọi là Gothic Metal, Nu Metal, Symphonic Metal và còn nhiều ảnh hưởng của Industrial, Alternative, Progressive, Hard Rock, Electronica, Grunge… Không phải ngẫu nhiên mà họ giành được giải thưởng Grammy vô cùng cao quý Best New Artist. Một band nhạc hay và lạ.
Three Days Grace Three Days Grace Three Days Grace (TDG) là một band nhạc đến từ Canada. Band nhạc thành lập từ năm 1992 dưới cái tên là Groundswell nhưng tan rã vào năm 1995 sau khi tung ra album duy nhất. Sau đó, năm 1997, nhóm tái hợp và đổi tên thành Three Days Grace. Với sự trợ giúp của bài hát I Hate Everything About You, TDG có hợp đồng với hãng đĩa Jive. Năm 2003, nhóm tung ra album đầu tay Three Days Grace. Âm nhạc trong album này của nhóm là phong cách Alt Metal, Post Grunge với những bài hát được đầu tư nhiều công sức (với những đoạn chorus rất hay và dễ nhớ). Tuy nhiên, vì dễ nghe, nó cũng khá đơn giản. Tuy nhiên, bản single chính trong album là I Hate Everything About You hết sức thành công và giúp album vượt lên vị trí số 69 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và sau này bán được hơn 1 triệu bản. I Hate Everything About You Năm 2006, TDG tung ra album thứ 2 là One-X. Âm nhạc của nhóm trong album này đã thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Âm nhạc lúc này của họ đã chuyển sang phong cách dựa vào những đoạn riff và solo guitar trên nền của Alt Metal và Post Grunge. Sự thay đổi này mang lại nhiều hiệu quả tích cực: band nhạc vừa được giới chuyên môn khen ngợi vừa được fan hâm mộ đón nhận nhiệt tình. Album vươn lên tới vị trí thứ 5 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này cũng bán được hơn 1 triệu bản. Một số bài hát trong album này cũng được đánh giá rất cao như Animal I Have Become, Pain hay Never Too Late. Never Too Late Animal I Have Become Album thứ 3 của nhóm là Life Starts Now được tung ra vào năm 2009. Âm nhạc trong album này khá giống với album One – X được tung ra trước đó. Tuy nhiên, lời các bài hát thì không còn tối tăm và giận dữ như những album trước đó. Có lẽ chính vì lý do này, album nghe có phần nhẹ hơn và nghiêng nhiều về Post Grunge và Hard Rock hơn so với những album trước. Album vẫn tiếp tục thành công khi vươn lên hạng 3 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này nhận chứng chỉ đĩa vàng. Break Năm 2012, nhóm tung ra album cuối cùng tính tới thời điểm hiện tại là Transit Of Venus. Âm nhạc trong album này tiếp tục là sự Alternative Metal kết hợp với những ảnh hưởng của Electronic. Album này không thực sự thành công bằng những album trước đó khi chỉ vươn lên được hạng 5 trên bảng xếp hạng của Mỹ và không đạt được đĩa vàng. Hiện tại nhóm đang trong quá trình ghi âm album thứ 5, dự kiến sẽ tung ra trong năm 2015. Chalk Outline
Chỉ còn 3 band nhạc nữa là phần viết về Alternative Metal sẽ kết thúc. Phần tiếp theo sẽ là về một dòng nhạc Extreme Metal mời các bác chú ý đón đọc.
Alter Bridge Alter Bridge Hẳn nhiều người trong chúng ta còn nhớ tới band nhạc Creed – một band nhạc Rock thành công nhất cuối thập niên 90s với những album kinh điển như My Own Prison, Human Clay hay Weathered. Những album này bán được hàng chục triệu bản tại Mỹ cũng như trên thế giới. Tuy nhiên, sau những thành công vang dội của 2 album đầu tay, rạn nứt trong band nhạc bắt đầu xuất hiện khi mâu thuẫn giữa tay guitar bass Brian Marshall và giọng ca chính Scott Stapp trở nên gay gắt. Trong album thứ 3, tay bass Marshall bị khai trừ khỏi nhóm và Creed chỉ còn lại 3 người. Sau album thứ 3 là Weathered, Creed tan rã. Tay guitar Mark Tremonti, tay trống Scott Phillips và tay bass Marshall kết hợp với một giọng ca chính mới là Myles Kennedy thành lập nên nhóm Alter Bridge (AB). Năm 2004, nhóm tung ra album đầu tay One Day Remain. Dù album này vươn lên hạng 5 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 700 000 bản, nó vẫn là một thất bại của nhóm so với hàng triệu bán bán được của Creed. Âm nhạc trong album khá giống với nhạc của Creed nhưng có phần mạnh mẽ hơn. Open Your Eyes Sau khi tung ra album đầu tay không mấy thành công, rạn nứt giữa Alter Bridge và hãng đĩa của họ Wind Up xuất hiện. Phải mãi đến năm 2006, rạn nứt này mới có thể giải quyết xong bằng việc chấm dứt hợp đồng sớm giữa 2 bên. Năm 2007, AB ký hợp đồng với hãng đĩa Universal và tung ra album thứ 2 là Blackbird. So với album trước, album này đánh mạnh hơn khá nhiều, ảnh hưởng của Creed vì thế cũng giảm đi. Một số bài hát trong album được fan hâm mộ đánh giá rất cao như Rise Today, Blackbird hay Watchover You, Tuy không mấy thành công về mặt thương mại khi chỉ vươn lên hạng 13 trên bảng xếp hạng và sau này bán được hơn 200 000 bản, album nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Rise Today Trong những năm sau đó, nhóm nhạc Creed tái hợp và rất nhiều người đã tưởng rằng AB sẽ tan rã. Tuy nhiên, đến năm 2010, AB bất ngờ tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là AB III. Đây là một trong những album rất hay của nhóm khi tiếp tục chơi theo phong cách Metal với sự đầu tư khá nhiều vào màn trình diễn guitar của Tremonti. 2 bản single chính trong album là Isolation và Ghost Of Days Gone By cũng rất thành công (isolation đứng đầu trên bảng xếp hạng Rock Song trong 7 tuần và là bài hát nổi tiếng nhất của nhóm). Album được giới chuyên môn trên thế giới đánh giá rất cao nhưng lại không thực sự thành công về mặt thương mại khi chỉ vươn lên được tới hạng 17 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Isolation Năm 2013, AB tung ra album thứ 4 của nhóm là Fortress và tiếp tục nhận được rất nhiều lời khen ngợi vì đây là một album khá hay và mạnh. Từ vị trí 1 band nhạc lấp chỗ trống cho Creed (do mâu thuẫn giữa các thành viên của nhóm này) AB đã vươn mình để trở thành một band nhạc riêng biệt và tràn đầy sức sống. Âm nhạc của họ mạnh hơn so với Creed khá nhiều. AB cũng là một trong những band nhạc Alt Metal rất đáng nghe trong những năm gần đây. Addicted To Pain
Karnivool Karnivool Karnivool là một trong những band nhạc mới nổi trong những năm gần đây. Nhóm thành lập tại Perth, Australia. Trong những năm sau đó, band nhạc thay đổi rất nhiều thành viên và phải đến năm 2004 thì nhóm mới ổn định được đội hình. Năm 2005, nhóm tung ra album đầu tay Themata. Về mặt âm nhạc, album này mang nhiều tính Alt Metal và Nu Metal cùng với một số ảnh hưởng nhỏ của Progressive Rock. Album này không thực sự gây được nhiều sự chú ý của fan hâm mộ. Phải đến năm 2008, khi nhóm tung ra album thứ 2 là Sound Awake thì âm nhạc của nhóm mới được chú ý. Âm nhạc của nhóm lúc này chịu rất nhiều ảnh hưởng của Progressive và Alt Metal (những nhóm ảnh hưởng chính tới band là Tool, Live và Soundgarden). Sự thay đổi lớn trong âm nhạc của nhóm được hoan nghênh nhiệt liệt cả từ giới chuyên môn lẫn fan hâm mộ. Album được đánh giá rất cao và vươn lên đứng thứ 2 trên bảng xếp hạng của Australia. Cùng với sự trợ giúp hết sức đắc lực của internet và một số trang mạng chuyên về Progressive, âm nhạc của Karnivool được biết đến rộng rãi qua single All I Know trên Youtube. Những thành công này khiến nhóm thậm chí còn tổ chức được cả một chuyến lưu diễn tại Mỹ, Canada và cả Ấn Độ. Sau những chuyến lưu diễn bận rộn, Karnivool trở lại phòng thu âm để ghi âm album thứ 3 trong lịch sử của nhóm. Năm 2013, nhóm tung ra album Asymetry. Album này có phần mạnh mẽ và chịu nhiều ảnh hưởng của Tool hơn so với album trước đó. Sự thành công của album trước cũng là bàn đạp để album này vươn lên vị trí dẫn đầu trên bảng xếp hạng của Úc. Tuy nhiên, cấu trúc các bài hát trong album chưa thực sự hợp lý như album trước đó nên nhận được nhiều ý kiến khen chê lẫn lộn từ fan hâm mộ. Karnivool chưa thực sự là một siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới nhưng những album của họ đều có chất lượng tốt. Đây cũng là một band nhạc rất đáng nghe và hứa hẹn sẽ còn tiếp tục phát triển mạnh trong những năm tiếp theo. Themata Set Fire To The Hive All I Know
Five Finger Death Punch Five Finger Death Punch Five Finger Death Punch (5FDP) là một band nhạc khá đặc biệt và gây nhiều tranh cãi trong những năm gần đây của Metal thế giới. Band được thành lập vào năm 2005 bởi tay bass Zoltan Bathory (cựu thành viên của nhóm Post Grunge U.P.O). Cuối năm 2006 nhóm tung ra album đầu tay The Way Of The Fist. Album này lúc đầu không thực sự thành công khi chỉ xuất hiện ở vị trí số 199 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Âm nhạc trong album cũng không thực sự đặc biệt: nó là sự kết hợp của Nu Metal với một chút âm hưởng của Groove và Metalcore – thể loại nhạc đang thịnh hành. Rõ ràng 5FDP chỉ dừng ở mức độ underground và có rất ít người nghĩ rằng band nhạc có thể thành công. Nhiều nhà chuyên môn còn cho rằng band nhạc chưa thực sự trưởng thành vì các bài hát đều có lời hát ngớ ngẩn, những đoạn riff vô hồn và kỹ năng sáng tác quá kém. Việc sản xuất album cũng có rất nhiều vấn đề vì quá kém. Tuy nhiên, không hiểu tại sao, album này sau đó bất ngờ giành được vị trí đĩa vàng tại Mỹ (với hơn 600 000 bản bán được). Cũng cần phải nói thêm rằng, tại thời điểm những năm cuối thập kỷ 2000s, việc bán được đĩa vàng gần như là mơ ước của nhiều band nhạc vì lúc này còn rất ít người chịu đi mua đĩa. Album thứ 2 của 5FDP tiếp tục hết sức thành công khi bán được tới hơn 700 000 bản và đứng vị trí thứ 7 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Âm nhạc trong album cũng không quá khác so với album đầu tay: vẫn là sự kết hợp của âm nhạc kiểu Metalcore với Alt Metal với những bài hát khá dễ nghe. Thành công liên tiếp của 2 albums đầu tay biến 5FDP bất ngờ trở thành một thế lực đáng kể của Metal thế giới trong những năm gần đây. Năm 2011, nhóm tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là American Capitalist. Một lần nữa, album tiếp tục hết sức thành công khi đạt danh hiệu đĩa vàng (bán được hơn 500 000 nghìn bản) và vươn lên đứng hạng 3 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Âm nhạc trong album vẫn là phong cách Alternative Metal với một số âm hưởng của Groove. Với những người không thích âm nhạc của nhóm, đây vẫn tiếp tục là một album không thể nghe nổi. Tuy nhiên, với những người yêu thích đây lại là một album rất đáng nghe. Như vậy cả 3 albums đầu tay của 5FDP đều đạt danh hiệu đĩa vàng. Đây thực sự là một điều rất ngạc nhiên trong thế giới của Metal trong những năm gần đây. Năm 2013, 5FDP tung ra liền 2 albums The Wrong Side of Heaven and the Righteous Side of Hell Vol 1 và Vol2. Cả 2 albums này đều rất thành công khi đều vươn lên vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Phần đầu của album này cũng đang trên đường để trở thành album đạt danh hiệu đĩa vàng thứ 4 của nhóm. Hiện tại 5FDP đang chuẩn bị tung ra album thứ 6 trong năm 2015. Trong lịch sử của Metal có khá nhiều band nhạc kỳ lạ và 5FDP là một trong số những band nhạc kỳ lạ này. Âm nhạc của band không quá đặc biệt nhưng nó lại bất ngờ thành công rất lớn về mặt thương mại. Dù là band nhạc gây nhiều tranh cãi, 5FDP là band nhạc không thể bỏ qua khi nhắc tới Metal trong những năm gần đây. Phần viết về 5FDP cũng đóng lại chương về Alternative Metal trong lịch sử Metal thế giới để chuyển sang chương khác. Từ phần sau, chúng ta sẽ đến với thể loại Extreme Metal thứ 6 – Grindcore. The Bleeding Hard To See Under And Over It Lift Me Up Wrong Side Of Heaven
Grindcore Grindcore Grindcore là thể loại Extreme Metal thứ 6 trong lịch sử của Heavy Metal. Dù ra đời từ khá sớm nhưng không thực sự có nhiều band nhạc chơi Grindcore nổi tiếng (dòng nhạc này rất nhỏ). Dòng nhạc này có nguồn gốc từ nước Anh và sau đó lan sang Mỹ và một số nước khác tại châu Âu. Napalm Death là band nhạc khởi đầu chơi theo phong cách này nên ta sẽ lấy mốc ra đời của Grindcore là tháng 7 năm 1987 khi nhóm tung ra album đầu tay Scum. Ngoài Napalm Death còn có một số band nhạc khởi đầu cho trào lưu này có Carcass, Bolt Thrower… Tất cả những band nhạc này sau đó chuyển dần sang chơi Death Metal khiến rất nhiều người nghĩ rằng Grindcore là một nhánh nhỏ của Death Metal nhưng sự thật không phải như vậy. Ban đầu Grindcore là sự kết hợp của một loạt những dòng nhạc Extreme như: Thrash Metal, Industrial Music, Noise Music và Hardcore Punk. Sau này, nhiều band nhạc mới tích hợp thêm cả ảnh hưởng của Death Metal vào Grindcore. Tuy nhiên, về mặt âm nhạc, Grindcore hoàn toàn khác so với Death Metal (về mặt cấu trúc bài hát – với việc sử dụng cấu trúc chorus – verses truyền thống). Do là sự kết hợp của nhiều dòng nhạc khác nhau, Grindcore có nhiều đặc điểm của những dòng nhạc này, dưới đây là một số đăc điểm tiêu biểu của dòng nhạc này: - Các bài hát thường rất ngắn, nhiều khi chỉ kéo dài vài dây. Thậm chí Napalm Death còn lập kỷ lục bài hát ngắn nhất thế giới với bài hát You Suffer chỉ kéo dài 1,3 giây. Đây là một đặc điểm thường thấy của Hardcore punk. - Âm nhạc của Grindcore có tiết tấu rất nhanh, lối chơi kỹ thuật và sử dụng tiếng trống double bass. Những đặc điểm thường thấy của Thrash Metal. - Tất cả những band nhạc Grindcore đều chơi một thứ âm nhạc hết sức trầm, ồn. Guitar thường lấy trầm xuống 2 nốt hoặc hơn kết hợp với hiệu ứng làm méo tiếng (distortion) rất mạnh. Đây là những đặc điểm phổ biến của Noise Rock. - Các bài hát có tiết tấu nhanh, sử dụng nhiều blast beats và nhiều lúc là âm thanh điện tử. Đây là các đặc điểm của Industrial Music, Death, Black. - Các band Grindcore thường sử dụng giọng khàn, đau đớn (Hardcore) kết hợp với gầm gừ (Death) và rít lên cao (Black). Các bài hát thường nói về những vấn đề xã hội hoặc máu me, chết chóc. Với những tính chất như được miêu tả ở trên, cũng không khó hiểu khi Grindcore chỉ dừng ở mức Underground và không có nhiều band nhạc theo đuổi dòng nhạc này. Tuy chỉ là một dòng nhạc nhỏ, nó vẫn có những ảnh hưởng khá mạnh mẽ tới Metal và Hardcore thế giới. Một số nhánh nhạc nhỏ hơn trong dòng nhạc này có thể kể tới goregrind (lời bài hát liên quan tới máu me, chết chóc), pornogrind (lời bài hát thường viết về tình dục) hay deathgrind là dòng nhạc kết hợp giữa Grindcore và Death… Chúng ta sẽ lần lượt đến với một số band nhạc tiêu biểu của Grindcore trong những bài viết tiếp theo.
Napalm Death Napalm Death Napalm Death là một trong những band nhạc huyền thoại của Metal thế giới. Tuy không quá thành công về mặt thương mại, đây vẫn là một trong những band nhạc nổi tiếng nhất của cả Death và Grindcore. Napalm Death là một trong những band nhạc tiên phong chơi Grindcore và có rất nhiều ảnh hưởng về sau này. Nhiều thành viên của nhóm sau này tách ra để tham gia một loạt những band nhạc Extreme Metal gạo cội của nước Anh như: Carcass, Cathedral hay Godflesh. Napalm thành lập năm 1981 tại ngôi làng nhỏ Meridan, Anh Quốc. Khởi đầu, nhóm chơi một thứ âm nhạc khá gần với Punk Rock nhưng không mấy thành công nên đến năm 83 thì nhóm ngừng hoạt động trong 2 năm. Đến năm 85, nhóm tái hoạt động trở lại và bắt đầu chơi một thứ âm nhạc khác: là sự tổng hợp của post punk (industrial), hardcore punk và Thrash Metal. Sau rất nhiều thay đổi trong đội hình, đến năm 87, Napalm Death tung ra album kinh điển Scum. Sự bất ổn của nhóm thể hiện rất rõ trong album khi side 1 và 2 của album này được chơi bằng 2 đội hình khác nhau (chỉ có 1 thành viên duy nhất là tay trống Mick Harris là chơi ở cả 2 sides của album. Đây chính là album grindcore đầu tiên của thế giới và nó có đầy đủ tính chất của 1 album grindcore: các bài hát ngắn, hỗn loạn, tiết tấu rất nhanh, ồn. Scum Sau khi ghi âm album đầu tiên với rất nhiều thành viên, Napalm Death bước vào ghi âm album thứ 2 là From Enslavement To Obliteration vào năm 88. Lúc này đội hình của band nhạc gồm Mick Harris ở vị trí trống, Bill Steer – guitar, Shane Embury – bass, Lee Dorian – vocals. Đây tiếp tục là một album kinh điển của Grindcore với các bài hát siêu ngắn (chỉ có 1 bài hơn 3 phút, những bài còn lại thường không quá 1phút 30 giây). Tuy nhiên, so với album Scum trước đó, chất lượng của album này có phần tốt hơn. From Enslavement To Obliteration Sau 2 albums kinh điển đầu tiên của Grindcore, đội hình của Napalm Death có sự thay đổi rất lớn khi chỉ còn lại Harris và Shane Embury. Steer rời nhóm để tập trung vào Carcass còn Dorrian thì thành lập Cathedral. Vào năm 1990, khi nhóm tung ra album Harmony Corruption, âm nhạc của nhóm gần như thay đổi hoàn toàn. Lúc này, nhóm không còn chơi quá nhanh nữa mà chuyển sang các bài hát có tiết tấu chậm, đều đều hơn và chuyển dần sang chơi Death Metal (Death Metal với những ảnh hưởng của Groove và Grindcore). Các bài hát cũng dài hơn (10 bài dài hơn 35 phút). Sự thay đổi này thậm chí đem lại khá nhiều điều tích cực khi âm nhạc của nhóm dần biết đến rộng rãi hơn và là một trong những album rất quan trọng của Death Metal thế giới. Suffer The Children Năm 92, nhóm tung ra album thứ 4 là Utopia Banished với rất nhiều lời khen ngợi từ giới hâm mộ Metal trên toàn thế giới. Âm nhạc trong album này tiếp tục là sự phát triển của album trước đó là Harmony Corruption – tức là phong cách Death Metal với những ảnh hưởng của Grindcore. Đây cũng là album đầu tiên với đội hình ổn định của nhóm với sự ra đi của Mick Harris (thay thế cho anh này là tay trống Danny Herrera. Các bài hát trong album có chất lượng khá tốt và được khá nhiều fan hâm mộ yêu mến như bài hát The World Keeps Turning. I Abstain Album thứ 5 của Napalm Death là Emptiness, Despair, Fear được tung ra vào năm 94 tiếp tục là một trong những album kinh điển của Death Metal thế giới. Âm nhạc trong album này có khá nhiều thay đổi với ảnh hưởng rất rõ nét của Groove Metal (những cú riff đều đều) và những thử nghiệm mới trong cấu trúc bài hát (mang hơi hướng Avant Garde). Tất nhiên, âm nhạc chủ đạo trong album vẫn là Death Metal pha lẫn với Grindcore. Dù chất lượng ghi âm không thực sự cao, đây vẫn là một rong những album rất nổi tiếng của Napalm Death với những bài hát như Hung hay Plaque Rages. Plague Rages (còn tiếp)
Napalm Death Napalm Death (tiếp theo và hết) Sau một loạt những album có chất lượng rất tốt, là quãng thời gian đi xuống trong sự nghiệp của Napalm Death. Cả 3 albums liên tiếp sau đó của nhóm đều chỉ có chất lượng ở mức độ trung bình. Nếu như Diatribes – 96, Inside The Torn Apart -97 chịu ảnh hưởng quá nhiều của Groove Metal (đặc biệt là phong cách của Machine Head) và gần như không còn tính Grindcore thì album Worlds From the Exit Wound -98 tuy có quay lại với Grindcore nhưng không thực sự gây nhiều ấn tương. Lúc này thì Death Metal cũng đang trên đà đi xuống trên toàn thế giới và Napalm Death cũng không phải là ngoại lệ. Greed Killing Sau những album đáng thất vọng, Napalm Death bất ngờ trở lại hết sức mạnh mẽ trong album thứ 9 của nhóm là Enemy Of The Music Business vào năm 2000. Lúc này, giữa band nhạc và hãng đĩa của họ phát sinh những mâu thuẫn rất lớn khiến họ phải chuyển sang một hãng đĩa khác. Có lẽ chính những mâu thuẫn này là niềm cảm hứng lớn lao khiến họ viết ra một trong những album đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm. Âm nhạc trong album trở lại là Grindcore với những bài hát ngắn, mạnh mẽ và đầy giận dữ. Album tiếp theo của họ là Order Of The Leech tiếp tục phong cách này với những bài hát thậm chí còn mạnh mẽ và giận dữ hơn so với những album trước. Necessary Evil Album thứ 11 của nhóm là The Code Is Red… Long Live The Code -2005 tiếp tục nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn trên thế giới. Âm nhạc trong album tiếp tục là sự kết hợp của Grindcore và Death với những bài hát ngắn. Tuy nhiên, so với những album trước đó, album này đánh rất kỹ thuật với sự xuất hiện của một loạt những khách mời danh tiếng trong thế giới Extreme Metal như: Jello Biafra (Dead Kennedy), Jeff Walker (Carcass) và Jamie Jasta (Hatebreed). Silence Is Deafening Sau chùm 3 albums hết sức thành công theo phong cách mới, không quá lạ lùng khi Napalm Death tiếp tục phát triển theo phong cách này. Những album tiếp theo của nhóm là Smear Campaign -06, Time Waits For No Slave -2009 tiếp tục là những album hay và được yêu mến. Tuy vậy, cả 2 album này khá giống với những album trước và mất đi nhiều tính đột phá, sáng tạo trong âm nhạc. When All Is Said And Done On The Brink Of Extinction Có lẽ cũng thấu hiểu sự mong đợi những album đột phá hơn của fan hâm mộ band nhạc, năm 2012 nhóm tung ra album Utilitarian. Đây cũng là một album mang nhiêu ftính thử nghiệm trong âm nhạc của nhóm với việc thử nghiệm thêm cả saxophone trong bài hát Everyday Pox, phong cách Industrial kiểu Fear Factory trong The Wolf I Feed. Một album chất lượng cao và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn trên toàn thế giới. The Wolf I Feed Napalm Death là một trong những huyền thoại của Metal thế giới với rất nhiều ảnh hưởng và những chùm album có chất lượng rất cao. Chùm 6 albums liên tiếp trong thập kỷ 2000s tiếp tục là những mốc son chói lọi trong lịch sử hào hùng của band nhạc này.
Terrorizer Terrorizer Terrorizer là một band nhạc có thời gian tồn tại không dài nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành và phát triển của Grindcore tại Mỹ. Đây cũng là một trong những nhóm tiên phong tích hợp thêm cả những ảnh hưởng của Death Metal vào Grindcore. Nhóm thành lập từ năm 1986 bởi bộ tứ Oscar Garcia – vocal, Jesse Pintado – guitar, David Vincent – bass, và Pete Sandoval – Drums. Năm 1989, nhóm tung ra album đầu tay là World Downfall, một trong những album kinh điển của Grindcore thế giới. Âm nhạc trong album này là phong cách Grindcore kiểu cổ có pha lẫn thêm một số ảnh hưởng của Death Metal với những bài hát ngắn, tiết tấu rất nhanh, blast beat kết hợp với giọng hát gầm gừ. Dù là một album ghi âm theo phong cách đánh live trong studio, chất lượng ghi âm của album khá tốt. Tuy nhiên, chỉ sau một album duy nhất, nhóm nhạc tan rã. Các thành viên của nhóm đều trở nên rất nổi tiếng trong thế giới của Extreme Metal sau này khi Jess Pintado gia nhập Napalm Death, Vincent và Sandoval tham gia nhóm nhạc huyền thoại Morbid Angel. (Tuy vậy nếu ai nghĩ âm nhạc của Terrorizer giống với âm nhạc của Morbid Angel thì người đó sẽ gặp nhiều bất ngờ khi nghe những album của họ). Phải mãi đến năm 2005, Terrorizer mới tái lập trở lại một lần nữa bởi Pintado và Sandoval. Năm 2006, nhóm tung ra album Darker Days Ahead với phong cách Deathgrind. Tuy nhiên, sau khi tung ra album này 5 ngày, Pintado qua đời do những biến chứng của bệnh tiểu đường. Cái chết của Pintado làm tương lai band nhạc trở nên bất ổn. Tuy nhiên, đến năm 2012, nhóm tung ra album thứ 3 là Hordes Of Zombies với sự trở lại của tay bass Vincent. Âm nhạc của album vẫn là phong cách Death Grind giống album trước. Tuy sự nghiệp không dài, Terrorizer vẫn là một trong những band nhạc có tầm ảnh hưởng lớn tới Grindcore và Death Metal trong giai đoạn các dòng nhạc này đang phát triển. Fear of Napalm Dead Shall Rise Ghost Train Hordes of Zombies
Brutal Truth Brutal Truth Brutal Truth là một trong những band nhạc Grindcore đầu tiên giành được những thành công trên trường Quốc tế (đặc biệt là tại Nhật và châu Âu). Nhóm thành lập năm 1990 tại New York, Mỹ bởi tay bass Dan Lilker. Hẳn nhiều người yêu Metal còn nhớ tới tay bass này vì anh là cựu thành viên của nhóm Thrash huyền thoại Anthrax. Sau khi rời khỏi Anthrax, Lilker còn thành lập một số nhóm nhạc huyền thoại khác như nhóm Thrash Metal Nuclear Assault hay nhóm Crossover Thrash – Stormtroopers Of Death. Sau khi thành lập, Brutal Truth có hợp đồng với hãng đĩa Earache của Anh và tung ra album kinh điển Extreme Conditions Demand Extreme Responses vào năm 92. Âm nhạc trong album này là Grindcore với những ảnh hưởng của Death và Black Metal (do giọng hát của vocalist Kevin Sharpe là sự kết hợp của cả Death – gầm gừ và Black – giọng rít cao). Cũng như nhiều album Grindcore khác, các bài hát trong album này rất ngắn và sử dụng nhiều Blast beat, tuy vậy album này vẫn có một số bài hát có tiết tấu trung bình và có nhịp điệu khá tốt. Tuy đây không hẳn là một album đột phá nhưng nó có chất lượng khá tốt và trở thành một album kinh điển của Grindcore thế giới. Thậm chí 2 bài hát trong album này còn được quay video clips , trong đó bài hát Collateral Damage chỉ kéo dài trong 4 giây và lập nên kỷ lục video clips nhạc ngắn nhất thế giới. Năm 1994, nhóm tung ra album thứ 2 là Need To Controll và tiếp tục nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Lúc này âm nhạc của họ đã trở nên phức tạp hơn với rất nhiều ảnh hưởng của noise rock, punk, doom…. Tất nhiên, đây cũng trở thành một trong những album kinh điển của Grindcore. Tuy nhiên, sau album này, nhóm nhạc nảy sinh mâu thuẫn với hãng đĩa và chuyển sang hãng Relapse. Phải tới năm 97, nhóm mới tung ra được album thứ 3 là Sounds Of The Animal Kingdom. Album này tiếp tục chứng kiến sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm khi tích hợp những ảnh hưởng của cả Hardcore và Avant Garde Rock vào trong âm nhạc của mình. Album này không mấy thành công và Brutal Truth tan rã vào năm 99. Các thành viên của band nhạc tiếp tục theo đuổi sự nghiệp âm nhạc với rất nhiều dự án khác nhau. Đến năm 2006, nhóm tái lập trở lại và tung ra 2 album Evolution Through Revolution -2009 và End Time -2011 nhưng cũng không thực sự thành công. Ill-Neglect Godplayer Dead Smart Sugar Daddy