Mortician Mortician Mortician là một trong những hiện tượng khá đặc biệt của cả Grindcore và Death Metal thế giới. Band nhạc thành lập năm 1989 tại New York, Mỹ với chỉ 2 thành viên Will Rahmer – bass/vocals và Roger Beaujard – drums/guitars. Thứ âm nhạc mà họ theo đuổi là phong cách Grindcore với những ảnh hưởng của Death Metal. Các bài hát trong sự nghiệp của nhóm thường theo cấu trúc thông dụng Chorus Verse và đây là đặc tính của Grindcore chứ không phải Death Metal. Điểm đặc biệt trong phong cách của nhóm là họ là thường lấy cảm hứng từ những bộ phim, câu chuyện kinh dị. Họ cũng là một trong những band nhạc Death, Grindcore hiếm hoi thường sử dụng trống điện tử (và các thiết bị điện tử trong âm nhạc của mình). Nguyên nhân chính cho sự kỳ lạ này là do band nhạc không thể tìm được người thay thế xứng đáng cho tay trống Matt Sicher sau khi anh này rời nhóm vào năm 1991. Năm 1996, nhóm tung ra album đầu tay là Hacked Up For Barbecue và nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn trên toàn thế giới. Âm nhạc trong album là phong cách Grindcore, Brutal Death với những bài hát có phần trống sử dụng âm thanh điện tử. Phong cách âm nhạc khá mới mẻ này nhận được cả sự ủng hộ lẫn phản đối từ giới hâm mộ trên toàn thế giới. Album tiếp theo của nhóm là Chainsaw Dismemberment -99 tiếp tục phong cách như album trước và có chất lượng khá tốt. Tuy vậy, nó không mang nhiều bất ngờ như album trước đó. Trong album này đã có một số bài hát có tiết tấu chậm hơn. Các album sau đó của nhóm như Domain Of Death -2001, Darkest Day Of Horror -2003 và Re-Animated Dead Flesh -2004 không có nhiều sự thay đổi trong phong cách chơi nhạc và cũng không thực sự thành công như 2 album đầu tay. Với một phong cách chơi nhạc khác biệt, Mortician tìm kiếm được một lượng fan hâm mộ khá đông đảo trong thế giới Extreme Metal và là một band nhạc rất đáng nghe của Grindcore. Necrocannibal Chainsaw Dismemberment Domain of Death Ghost House
Exhumed Exhumed Exhumed thành lập từ năm 1990 khi vocalist/guitarist Matt Harvey mới chỉ 15 tuổi. Sau khi tung ra một số album demos, EPs cuối cùng nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa Relapse, lúc này đã là cuối thập kỷ 90s. Tại thời điểm này, Death Metal thế giới đã có rất nhiều sự thay đổi: các band nhạc Death Metal gạo cội lúc hày hoặc tan rã, hoặc chuyển sang phong cách mới (còn rất ít chất Death Metal). Những band nhạc mới hơn như Nile, Decapitated chuyển sang chơi theo phong cách Technical Death. Harvey có lẽ là một người hoài cổ, chính vì lý do này mà anh không chạy theo phong cách mới mà chơi theo kiểu Oldschool Death kết hợp với Grindcore (thần tượng của anh này là Entombed và Carcass). Một điểm đặc biệt nữa của band nhạc là chỉ sử dụng những lời hát về giết chóc, máu me. Năm 1998, nhóm tung ra album đầu tay Gore Metal. Mặc dù Harvey nói rằng âm nhạc của họ là Gore Metal nhưng thực chất âm nhạc trong album này là sự kết hợp của Death Metal và Grindcore. Tuy không thực sự được biết đến rộng rãi, band nhạc vẫn được tôn thờ trong giới underground. Sau khi tung ra album thứ nhất thành công ở mức độ vừa phải, nhóm tung ra album thứ 2 là Slaughtercult vào năm 2000. Album này tiếp tục phong cách Death Grind với những bài hát ngắn. Tuy vẫn rất bạo lực, album này lại sử dụng rất ít tiếng trống double bass – điều này hoàn toàn trái ngược so với những band nhạc Death Metal cùng thời. Album cũng không sử dụng nhiều những hiệu ứng âm thanh trong album trước. Album thứ 3 của nhóm là Anatomy Is Destiny -2003 tiếp tục nhận được nhiều lời khen ngợi của giới chuyên môn trên thế giới với những bài hát được đầu tư nhiều hơn cả về trong sáng tác lẫn phong cách chơi nhạc và thu âm. Tuy nhiên, sau album này, nhóm buộc phải ngừng hoạt động do các thành viên lần lượt bỏ đi. Sau này, nhóm có tái hợp lại vào năm 2010 và tung ra 2 album là All Guts, No Glory -2011 và Necrocracy -2013 nhưng không thực sự thành công. Deadest Of The Dead Decrepit Crescendo The Matter of Splatter As Hammer To Anvil Coins Upon The Eyes
Nasum Nasum Nasum là một band nhạc Grincore của Thụy Điển. Nhóm thành lập năm 1992 và đến năm 1995 thì nhóm bắt đầu ổn định đội hình và tung ra một loạt những albums split và EPs. Đến năm 1998, nhóm có hợp đồng với hãng đĩa Relapse và tung ra album đầu tay Inhale/Exhale. Đây là một trong những album Grindcore rất hay trong lịch sử với phong cách Oldschool Grindcore với một loạt những bài hát hết sức ấn tượng như Time To Act, Shapesshifter… Các bài hát trong album rất tốt với kỹ năng chơi nhạc ấn tượng. Album giúp cho tên tuổi của Nasum được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới. Sau những chuyến lưu diễn dài ngày để quảng bá tên tuối, năm 2000, Nasum tung ra album thứ 2 là Human 2.0. Album này chơi nhạc có phần mạnh mẽ hơn so với album đầu tay và có lẽ cũng vì lý do này, nó được rất nhiều fan hâm mộ yêu thích. Tuy vậy, một trong những yếu điểm của album này là các bài hát dường như quá ngắn. Album thứ 3 của nhóm là Helvete được tung ra vào năm 2003 chứng kiến sự thay đổi khá lớn trong âm nhạc của Nasum. Album này được thu âm tốt hơn, các bài hát nghiêng nhiều về phía giai điệu. Groove Metal cũng có rất nhiều ảnh hưởng tới album với những đoạn riff đều đều. Giọng hát cũng chuyển sang phong cách gần với Hardcore hơn và các bài hát bắt đầu dài hơn. Sự thay đổi phong cách này cũng gây ra nhiều ý kiến trái chiều trong nội bộ fan hâm mộ của nhóm. Album cuối cùng của nhóm là Shift được tung ra vào cuối năm 2004 với khá nhiều điểm tương đồng với album Helvete trước đó. Cuối năm 2004 – đầu năm 2005, giọng ca chính Talarzyk qua đời do sóng thần khi đang du lịch tại Thailand và Nasum tan rã ngay sau đó. Dù có sự nghiệp không dài và theo đuổi một dòng nhạc không có nhiều khán giả, Nasum đã làm rất tốt những điều họ có thể làm với một chuỗi những album có chất lượng rất cao. Một band nhạc rất đáng nghe của Grindcore thế giới. Inhale/Exhale Resistance Scoop Wrath
Pig Destroyer Pig Destroyer Pig Destroyer thành lập từ năm 1997 tại Virginia, Mỹ. Âm nhạc của nhóm là sự kết hợp của Grindcore với những ảnh hưởng của Doom và Thrash Metal. Chính vì những lý do này, âm nhạc của họ nghe rất khác biệt so với âm nhạc của các band nhạc khác. Band nhạc cũng không sử dụng guitar bass trong những bản ghi âm studio của mình. Ngay sau khi thành lập, Pig Destroyer đã có hợp đồng với hãng đĩa Relapse và sau đó tung ra album đầu tay Explosions In Ward 6. Album này dù có chất lượng khá nhưng không thực sự gây được nhiều ấn tượng. Phải đến khi tung ra album thứ 2 là Prowler In The Yard vào năm 2001, nhóm mới nhận được nhiều sự chú ý trong giới hâm mộ Metal thế giới. Một phần thành công là do nhóm được các tạp chí về Metal như Kerrang và Terrorizer đánh giá rất cao. Mặt khác đây là một album rất hay và lạ của Grindcore với việc tích hợp những cú riff của Groove Metal, một chút Ambient và cả những ảnh hưởng của Death Metal nữa. Với những bài hát đầy chất lượng, album trở thành một trong những album kinh điển của Grindcore trong thập niên 2000s. Tiếp theo sự thành công của Prowler, Pig Destroyer tung ra 1 albums rất hay nữa là Terrifyer vào năm 2004. Dù chơi rất mạnh, ghi âm không thực sự tốt, album vẫn nhận được rất nhiều lời khen ngợi của fan hâm mộ Metal trên thế giới. Tuy nhiên, 2 album sau đó của nhóm là Phantom Limb -2007 và Book Burner -2012 không thực sự đạt tới đẳng cấp như những album trước đó. Tuy sự nghiệp có phần chững lại, Pig Destroyer vẫn là một band nhạc rất đáng chú ý trong những năm gần đây của Grindcore. Piss Angel Gravedancer Loathsome The Diplomat
Nails Nails Nails là một trong những tên tuổi rất đáng chú ý của Extreme Metal trong những năm gần đây. Nhóm thành lập năm 2008 tại California, Mỹ. Năm 2010, nhóm tung ra album đầu tay Unsilent Death. So với những album thông thường khác, album này quá ngắn – chỉ dài có gần 14 phút. Tuy rất ngắn, album lại nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới hâm mộ Extreme Metal trên thế giới vì chất lượng âm nhạc rất tốt. Âm nhạc trong album là sự kết hợp của Grindcore với Brutal Hardcore với giọng hát hết sức giận dữ của Todd Jones. Tuy rất ngắn, không quá khó khăn để phân biệt những bài hát với nhau. Sau album đầu tay ấn tượng, Nails trở thành một trong những tên tuổi hết sức được chú ý của Grindcore. Năm 2013 nhóm tung ra album thứ 2 là Abandon All Life. So với album trước, album này có dài hơn (hơn 17 phút). Âm nhạc trong album nghiêng dần về phía Grindcore hơn là Brutal Hardcore của album trước đó. Việc ghi âm của album này cũng được đầu tư nhiều hơn nên chất lượng ghi âm được cải thiện rõ rệt. Dù chỉ mới tung ra được 2 albums rất ngắn, Nails nhanh chóng được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới và trở thành một thế lực của Extreme Metal và trở thành một trong những hiện tượng của dòng nhạc này trong những năm gần đây. Rất có thể trong những năm tới đây, nhóm nhạc này sẽ tiếp tục phát triển để trở thành một band nhạc được biết tới rộng rãi trong dòng nhạc này. Phần viết về Nails cũng đóng lại chương viết về Grindcore, một dòng nhạc khá đơn giản nhưng lại khó nghe của thế giới. Trong những bài viết tiếp theo, chúng ta sẽ chuyển sang Industrial Metal. Unsilent Dead Wide Open Wound
Industrial Metal Industrial Metal Industrial Metal là sự kết hợp của Heavy Metal với Industrial Music (trong đó có Industrial Rock). Trong những bài viết trước, chúng ta đã tìm hiểu khá rõ về Heavy Metal và lịch sử hình thành phát triển của dòng nhạc này. Do đó, tại bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về dòng nhạc Industrial và những đặc tính của nó. Để tìm hiểu những đặc tính của dòng nhạc này trước tiên chúng ta cần quay ngược dòng lịch sử trở về những năm đầu thập niên 70. Tại thời điểm này, âm nhạc thế giới đang phát triển hết sức mạnh mẽ sau trào lưu của Beatles, Rolling Stones, The Kinks hay The Who… Cùng với sự phát triển của âm nhạc, các nhạc cụ điện tử cũng phát triển hết sức mạnh mẽ. Có một số band nhạc đã tiên phong sử dụng các thiết bị điện tử như Organ, Syntherizer, Sampler, Sequencer… vào trong âm nhạc của mình như Pink Floyd, Yes, ELP… Sau đó, có cả một trào lưu nhạc điện tử (Electronica) mà khởi đầu là những band nhạc đến từ Đức như Kraftwerk hay Tangerine Dream và những band Krautrock như Can, Amon Dull… Các band nhạc này đã đưa những nhạc cụ tái tạo âm thanh của các nhạc cụ khác (guitar, trống, sáo…) làm nhạc cụ chủ đạo trong âm nhạc của mình. Phong cách chơi nhạc này về sau ảnh hưởng rất lớn tới các dòng nhạc Disco, Dance. Do phần lớn những band nhạc chơi theo phong cách này đều ký hợp đồng với hãng đĩa Industrial nên dòng nhạc này có tên là Industrial Music. Như vậy ta cũng có thể hiểu Industrial nghe gần giống nhạc Dance (sử dụng trống điện và các thiết bị điện tử). Đến cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80, một số nhóm nhạc tiên phong như Killing Joke, Big Black, Swans kết hợp Industrial Music (trống điện, keyboards, syntherizer, sequencer, sampler…) với nhạc Rock để tạo ra dòng nhạc Industrial Rock. Hầu hết các band nhạc Industrial Rock này không được biết đến rộng rãi (mainstream) mà chỉ dừng ở dạng underground. Trong những nhóm nhạc này, chỉ có Killing Joke là được biết đến khá rộng rãi và gần vươn lên tới gần với mainstream. Phải đến cuối thập niên 80s, một số nhóm nhạc Metal mới kết hợp những ảnh hưởng của Industrial Rock vào Heavy Metal và tạo ra dòng nhạc Industrial Metal. Nhóm nhạc tiên phong theo đuổi dòng nhạc này là Ministry, sau đó là Nine Inch Nails… Cả 2 nhóm nhạc này đều vươn lên mạnh mẽ và trở thành những siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới với hàng chục triệu bản bán được. Sự thành công của 2 nhóm nhạc này góp phần rất lớn vào việc tạo ra một trào lưu Metal rất mạnh mẽ sau này với những tên tuổi khổng lồ như Marilyn Manson, Static X, Rammstein, Fear Factory hay Strapping Young Lad… Ngay cả những nhóm nhạc có ảnh hưởng rất lớn như Killing Joke cũng chuyển dần sang Industrial Metal. Chúng ta sẽ đến với những band nhạc chủ chốt của dòng nhạc này trong những bài viết tiếp theo.
Ministry Ministry Ministry là band nhạc đầu tiên chơi Industrial Metal. Band nhạc này thành lập năm 1981 bởi giọng ca chính Al Jourgensen. Lúc đầu, âm nhạc của nhóm không liên quan một chút gì tới Metal. Điều này thể hiện rất rõ nét trong album đầu tay With Sympathy -1983 của nhóm. Âm nhạc trong album này hoàn toàn là phong cách Synthpop. Album này khá thành công khi vươn được lên hạng 96 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Năm 1986, Ministry tung ra album thứ 2 là Twitch với sự thay đổi trong phong cách chơi nhạc khi chuyển sang Industrial Rock dạng cổ. Sau khi tung ra album Twitch, Jourgensen quyết định thay đổi hoàn toàn phong cách chơi nhạc của nhóm khi kết nạp thêm tay tay guitar bass Paul Barker và chú tâm rất nhiều vào việc chơi guitar. Tháng 11 năm 1988, Ministry tung ra album thứ 3 là The Land Of Rape And Honey và đây chính là album Industrial Metal đầu tiên trong lịch sử. Âm nhạc trong album thay đổi rất lớn với những đoạn riff đầy mạnh mẽ, giận dữ của Metal với Industrial Rock. Tuy đây chưa thực sự là một album có chất lượng cao nhất của nhóm, album vẫn nhận được nhiều lời khen ngợi và sau này bán được hơn 500 000 bản tại Mỹ (đạt chứng chỉ đĩa vàng). Stigmata Sau khởi đầu mới đầy ấn tượng, Ministry không có dấu hiệu dừng lại, album tiếp theo của nhóm là The Mind Is A Terrible Thing To Taste -89 là một trong những album kinh điển đầu tiên của Industrial Metal toàn thế giới. Âm nhạc trong album này chịu khá nhiều ảnh hưởng của Hardcore (mang tính nhịp điệu với những cú riff đều đều ở tốc độ trung bình). Album cũng mang nhiều tính Metal hơn rất nhiều và biến band nhạc trở thành một trong những biểu tượng của Industrial Metal. Dù chỉ vươn lên xếp hạng 163 trên bảng xếp hạng của Mỹ nhưng album này sau đó vẫn đạt chứng chỉ đĩa vàng. Burning Inside Ministry vươn lên đỉnh cao trong sự nghiệp của của mình với album kinh điển Psalm 69 vào năm 1992. Về mặt âm nhạc, album này vẫn tiếp tục phong cách Industrial Metal với những bài hát đả phá phong cách lãnh đạo của tổng thống Mỹ lúc đó là George Bush. Album rất hay với nhiều bài hát nổi tiếng như Jesus Built My Hotrod, Just One Fix hay N.W.O được chào đón rộng rãi trên toàn thế giới. Album vươn lên xếp hạng 27 tại Mỹ và sau này bán được hơn 1 triệu bản (đĩa bạch kim). Sự thành công của album còn được tiếp tục với việc bài hát N.W.O nhận được đề cử giải thưởng Grammy cho bài hát Metal xuất sắc nhất vào năm 93. Những thành công này góp phần rất lớn đưa Ministry trở thành một siêu sao trên bầu trời Metal thế giới. Jesus Built My Hot Rod Just One Fix (còn tiếp)
Ministry Ministry Phải đến năm 1996, sau những chuyến lưu diễn dài ngày và rất nhiều rắc rối như bị bắt vào tù, cai nghiện ma túy.. thì Ministry mới tung ra được album tiếp theo là Filth Pig. Dù vươn lên được hạng 19 trên bảng xếp hạng của Mỹ (hạng cao nhất trong lịch sử band nhạc), album vẫn phải chịu rất nhiều chỉ trích từ giới chuyên môn trên toàn thế giới và đánh dấu sự đi xuống trong sự nghiệp của band nhạc. Trong album này, Ministry gần như đã loại bỏ hoàn toàn syntherizer và sampler để sử dụng toàn bộ guitar, bass và trống thường để ghi âm album (album mang ít tính Industrial mà nghiêng về alternative và Metal). Các bài hát trong album có tiết tấu khá chậm và nhiều khi nghe như Doom Metal. Lay Lady Lay Album tiếp theo của họ là Dark Side Of The Spoon -98 thậm chí còn tệ hơn nữa với chỉ duy nhất 1 bài hát có chất lượng cao là Bad Blood. Âm nhạc trong album này tuy mang nhiều tính giai điệu và ảnh hưởng của Jazz nhưng không thực sự thuyết phục người nghe nhạc. Dù bài hát hay nhất trong album này sau đó xuất hiện trong bộ phim đình đám Matrix và nhận được đề cử cho giải thưởng Grammy, album vẫn thất bại thảm hại khi chỉ vươn lên hạng 92 trên bảng xếp hạng của Mỹ và bán được khoảng 80 000 bản (so với con số vài trăm ngàn tới hơn 1 triêu bản của những album trước đó). Bad Blood Thất bại của Dark Side Of The Spoon khiến Ministry mất đi hợp đồng với hãng đĩa khổng lồ Warner Bros. Những năm đầu thập kỷ 2000s là những năm đầy biến động với band nhạc với rất nhiều sự kiện xảy ra như: Jourgensen suýt chút nữa mất cánh tay do bị nhện độc cắn và sau đó là vật lộn với việc cai nghiện. Nhóm rơi vào trạng thái ngừng hoạt động trong thời gian khá dài. Phải đến năm 2003, nhóm mới tung ra được album tiếp theo là Animositisomina. Album này bắt đầu chứng kiến sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm khi mang rất nhiều âm hưởng của Heavy Metal. Dù chất lượng âm nhạc có tốt hơn, album tiếp tục không thành công về mặt thương mại. Đây cũng là album cuối cùng của tay bass Baker – người quan trọng thứ hai trong Ministry. Animosity Sau khá nhiều thất bại, Jourgensen quay lại đầy mạnh mẽ với một dự án táo bạo gồm 3 albums với các chủ đề chống đối tổng thống Mỹ Bush. Album đầu tiên trong chùm 3 albums là House Of The Mole được tung ra năm 2004. Album này chứng kiến sự thay đổi rất lớn trong âm nhạc của Ministry với việc tích hợp những ảnh hưởng của Thrash Metal vào Industrial. Sự thay đổi này được giới chuyên môn trên toàn thế giới đánh giá rất cao nhưng lại không được fan hâm mộ chấp nhận. Tuy được bầu là album tiêu biểu của năm 2004 của nhiều tạp chí, album không xuất hiện trên bảng xếp hạng của Mỹ. No W (còn tiếp)
Ministry Ministry (tiếp theo và hết) Album thứ 2 trong chùm 3 album là Rio Grand Blood – 2006 tiếp tục phong cách nghiêng dần về Thrash Metal của album trước đó với một chút ảnh hưởng của Hardcore. Tuy vậy, vẫn có những bài hát sử dụng trống điện tử để tạo cảm giác Industrial. Album tiếp tục được giới chuyên môn đánh giá rất cao và là một trong những album hay nhất trong năm. Lies, Lies, Lies Album cuối cùng trong chùm 3 album là The Last Sucker được tung ra vào cuối năm 2007 tiếp tục là một album hay với những bài hát là sự pha trộn của Thrash và Industrial. Sau album này Ministry tuyên bố tan rã và không tiếp tục tung ra những album với các bài hát mới nữa. The Last Sucker Tuy nhiên, sau khi tan rã 3 năm, đến năm 2011, Ministry bất ngờ tái thành lập và tiếp tục tung ra 2 album là Relapse -2012 và From Beer To Eternity -2013. Cả 2 album đều có chất lượng rất tốt với nhiều bài hát chất lượng mang nhiều phong cách khác nhau như: Industrial Rock, Industrial Metal, Thrash Metal, Hardcore. Cả 2 albums đều nhận được rất nhiều lời khen ngợi trên toàn thế giới. Tuy nhiên sau 2 albums này, Jourgensen một lần nữa tuyên bố Ministry sẽ không tiếp tục viết những album mới nữa mà chỉ tham gia lưu diễn. Double Tap PermaWar Ministry là một trong những band nhạc đầu tiên và góp phần rất lớn để đưa Industrial Metal trở thành một dòng nhạc lớn mạnh và được yêu thích trên toàn thế giới. Band nhạc có rất nhiều ảnh hưởng và tất nhiên không thể thiếu trong bất kỳ bộ sưu tập về Metal nào.
Nine Inch Nails Nine Inch Nails Nine Inch Nails (NIN) là một trong những band nhạc có phần đóng góp lớn nhất đưa Industrial Metal trở thành một dòng nhạc nổi danh toàn thế giới ở thời điểm hiện tại. Khác với nhiều band nhạc khác, NIN thực chất chỉ là một dự án solo của Trent Reznor, một quái kiệt của làng âm nhạc thế giới. Hầu hết tất cả các bài hát của NIN đều do anh này sáng tác và chơi tất cả các nhạc cụ (và chỉ mời thêm một số người đánh giúp khi cần thiết). Chỉ đến khi trình diễn live thì Reznor mới thường setup một band nhạc thực thụ. NIN chính thức thành lập từ năm 1988 tại Ohio, Mỹ. Năm 1989, NIN tung ra album đầu tay Pretty Hate Machine với tất cả các bài hát và nhạc cụ được chơi bởi Reznor. Đây chính là một trong những album Industrial sớm nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, tại thời điểm này, âm nhạc của NIN khá đơn giản, dễ nhớ kết hợp với sự giận dữ, căm hận thường thấy của những band Alternative. Các bài hát trong album có giai điệu hay như Head Like A Hole, Sin, Down In It hay Something I Can Never Have. Album nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn trên toàn thế giới và cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 75 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và có mặt trong 115 tuần trên bảng xếp hạng này. Album sau này bán được hơn 3 triệu bản tại Mỹ. Đây cũng là một trong những album đầu tiên trong lịch sử do các hãng đĩa độc lập phát hành nhận danh hiệu đĩa bạch kim (bán hơn 1 triệu bản) tại Mỹ. Head Like A Hole Sau thành công vang dội của Pretty Hate Machine, những đòi hỏi được xem những live show của NIN là rất lớn. Reznor sau đó thành lập một band nhạc để lưu diễn vòng quanh Bắc Mỹ. Dù rất thành công ở Bắc Mỹ, NIN chưa có được những thành công tại châu Âu, sau một chuyến lưu diễn thất bại tại lục địa già, Reznor quay trở lại Mỹ và rất bất bình khi hãng đĩa TVT yêu cầu anh này phải ghi âm một album tương tự như Pretty Hate Machine. Những mâu thuẫn phát sinh khiến Reznor đề nghị chấm dứt hợp đồng với hãng đĩa nhưng không được TVT đồng ý. Để chống lại sự can thiệp của hãng đĩa này, Reznor bí mật liên hệ với hãng đĩa Interscope và sau đó tự thành lập một hãng đĩa của riêng mình – hãng Nothing, để tung ra những album của chính mình. Năm 1992, nhóm tung ra album EP là Broken với toàn bộ các bài hát mới. Tuy chỉ là 1 album không chính thức, album hết sức thành công khi vươn tới hạng 7 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 1 triệu bản. 2 bài hát trong albums là Wish và Happiness in Slavery còn giúp NIN giành được 2 giải thương Grammy vào năm 93 và 95 biến band nhạc trở thành band thứ 2 sau Metallica giành được 2 lần giải thưởng này. Về mặt âm nhạc, album này mang nhiều tính Metal hơn so với album Pretty Hate Machine. Sau khi tung ra album này, NIN thực sự trở thành những siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới. Wish Năm 1994, NIN tung ra album chính thức thứ 2 và cũng là album thành công nhất về mặt thương mại của nhóm – album The Downward Spiral. Đây là một album concept với nội dung kể về sự hủy diệt của một người đàn ông từ khi thất vọng tới tuyệt vọng tới mức tự kết liễu cuộc đời mình. Đây cũng là những cảm xúc mà Reznor trải qua trong chuyến lưu diễn Lollapalooza trước đó. Cũng như EP Broken trước đó, album này mang nhiều tính Metal hơn so với album đầu tay. Các bài hát khá ồn, bị làm méo tiếng và không tuân theo cấu trúc chorus- verse như album trước. Album hết sức thành công, cả về mặt nghệ thuật lẫn thương mại. Rất nhiều tạp chí có danh tiếng đã chọn album này là một trong những album xuất sắc nhất trong năm. Về mặt thương mại, album vươn lên hạng 2 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được tới hơn 4 triệu bản. Nhiều bài hát trong album trở nên hết sức nổi tiếng như Mr. Self Destruct, Piggy, March Of The Pigs, Closer và đặc biệt là Hurt, bản ballad mà ngay cả những nghệ sỹ gạo cội như Johnny Cash cũng phải cover lại. Cash thậm chí còn nói rằng đây là bản nhạc viết về ma túy hay nhất mà ông từng biết. Thành công quá lớn của 3 albums đầu tay khiến tên tuổi của NIN trở nên nổi tiếng. Thành công của album này khiến Reznor nảy ra ý định tung ra album remixed Further Down The Spiral. Dù là 1 album remixed nó vẫn vươn lên xếp hạng 23 trên bảng xếp hạng của Mỹ và giành được đĩa vàng. Sau này, hầu hết các album chính thức của NIN đều có bản remixed. Hurt Piggy (còn tiếp)
Nine Inch Nails Nine Inch Nails (tiếp theo) Sau rất nhiều năm bận rộn với những chuyến lưu diễn và tham gia các dự án làm nhạc phim. Đến năm 1999, NIN tung ra album kép Fragile. So với album trước, âm nhạc trong album này nhẹ nhàng, nghiêng về phía giai điệu và dễ nghe hơn. Album phức tạp và chịu ảnh hưởng của rất nhiều các thể loại nhạc khác nhua như: Progressive, Classical, Electronica, Art Rock… Album này nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn trên toàn thế giới vì tầm vóc nghệ thuật của nó (nhiều bài hát trong album này không có lời mà chỉ chơi hòa tấu). Tuy nhiên, nó không đạt được thành công về mặt thương mại như The Downward Spiral. Dù vươn lên đứng đầu bảng xếp hạng của Mỹ, album chỉ bán được hơn 2 triệu bản (tức là chỉ bằng một nửa so với album trước đó). Into The Void Phải 6 năm sau khi tung ra album Fragile, NIN mới tung ra album tiếp theo là With Teeth vào năm 2005. So với 2 albums trước, album này đơn giản hơn với những bài hát dễ nghe hơn. Album cũng không mang tính Concept mà là tập hợp những bài hát. Nhiều bài hát trong album rất được yêu mến như The Hand That Feeds, Everyday Is Exactly The Same, All The Love In The World và Only. Album cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng của Mỹ và sau này đạt đĩa vàng. The Hand That Feeds Chỉ 2 năm sau khi tung ra album With Teeth, NIN tung ra tiếp album album thứ 5 là Year Zero vào năm 2007. Đây tiếp tục là 1 album concept với nội dung chỉ trích những chính sách của chính quyền Mỹ. Những chính sách này dẫn tới những hỗn loạn của thế giới khi nước Mỹ bị 2 cuộc tấn công khủng bố liên tục và khởi động chiến tranh hạt nhân với Iran. Với một nội dung khá u tối và bạo lực, album có phần mạnh hơn so với album trước. Dù được một bộ phận không nhỏ giới chuyên môn khen ngợi và khởi đầu ở vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng của Mỹ, album không đạt được những thành công lớn như những album trước. Một số bài hát trong album cũng khá được yêu mến như Survivalism hay Capital G. Survivalism (còn tiếp)
Nine Inch Nails Nine Inch Nails (tiếp theo và hết) Sau khi tung ra album Year Zero, mâu thuẫn lớn phát sinh giữa Reznor với hãng đĩa Interscope. Nguyên nhân chính của mâu thuẫn này phát sinh tại nước Úc. Qua những thông tin ở fan club, Reznor biết rằng hãng đĩa của Universal (công ty mẹ của Interscope) – công ty phân phối đĩa tại Úc bán đĩa của NIN cao hơn 50% so với các band nhạc khác tại đây (đĩa của NIN bán với giá 29$ trong khi các đĩa nhạc khác chỉ bán với giá 18$). Reznor lập tức liên lạc với hãng đĩa để tìm hiểu lý do. Nhưng đáng tiếc câu trả lời của hãng Universal là hết sức thiếu trách nhiệm. Hãng này cho rằng, NIN là một band nhạc tên tuổi và có nhiều fan hết sức trung thành, họ sẽ mua đĩa của band mà không quan tâm tới giá cả. Còn những band nhạc khác nếu bán giá cao sẽ ít người mua. Reznor cay đắng nhận ra rằng thay vì cảm ơn người hâm mộ đã yêu mến và trung thành với band nhạc, hãng đĩa lại bóc lột họ một cách tàn nhẫn. Reznor sau đó đã chỉ trích cả hãng đĩa lẫn nền công nghiệp âm nhạc của Mỹ và gây ra rất nhiều chú ý của giới truyền thông. Đến tháng 9 năm 2007, mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm khi Reznor tổ chức lưu diễn tại Úc để tri ân fan hâm mộ. Trong chuyến lưu diễn này, Reznor còn tấn công hãng đĩa Universal bằng cách cổ vũ fan hâm mộ download trộm nhạc trên mạng và chia sẻ cho nhau chứ đừng mua đĩa. Đến tháng 10, NIN kết thúc hợp đồng và trở thành 1 band nhạc tự do. Sau khi trở thành 1 band nhạc độc lập và quyết định tự tung ra những album trên trang web và bán trực tiếp theo kiểu download. Đầu năm 2008, nhóm bất ngờ tung ra 1 album mang nhiều tính thử nghiệm và nghệ thuật – đó là album Ghost. Đây là một album kép, các bài hát không có tên mà chỉ đánh số. Âm nhạc trong album này gần như không có lời (chỉ chơi hòa tấu) và cũng không còn tính Metal. Đây thực chất là một dự án liên kết giữa Reznor và Atticus Ross, một nhạc sĩ khá nổi tiếng người Anh. Cặp đôi này sáng tác bài hát và ghi âm trực tiếp trong phòng thu mà không cần nghe lại. Vì thế nhiều bài hát chỉ được sáng tác và ghi âm trong thời gian rất ngắn – chỉ tầm 10 phút. Tuy vậy, album rất hay và lạ. Giới chuyên môn đánh giá album này rất cao và chắc chắn là album kỳ lạ nhất trong sự nghiệp của NIN. Ghost 34 Ngay trong năm 2008, NIN tiếp tục tung ra album thứ 7 là The Slip. Album này thậm chí còn cho download miễn phí trên trang web. Album này được ghi âm trong vòng 3 tuần và như một sự tập hợp những bài hát tri ân khán giả của Reznor. Tuy nhiên, về mặt âm nhạc, đây là một album Industrial Metal theo đúng phong cách của NIN với những bài hát có lời và mang nhiều tính Metal chứ không giống như album Ghost trước đó. 2 tháng sau khi cho download miễn phí, album mới được tung ra dưới dạng đĩa CD và bán ra trên toàn thế giới (bản CD này không miễn phí). Lúc này, dù đã có khoảng 2 triệu lượt download miễn phí trên mạng, album vẫn có thể vươn lên vị trí thứ 13 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Điều này chứng tỏ sức hút của NIN vẫn còn rất lớn. Album này cũng có chất lượng khá tốt. Discipline Album cuối cùng của NIN tính tới thời điểm hiện tại là Hesitation Marks được tung ra vào năm 2013. Đây là một album mang tính Industrial Metal của những album đầu tiên nhưng mang nhiều tính nghệ thuật hơn (Reznor mời thêm một số nghệ sỹ gạo cội như Adrian Belew của King Crimson, hay Lindsey Buckingham của Fleetwood Mac). Có lẽ chính vì những lý do này, album mang khá nhiều tính Art –Rock. Album này cũng được giới chuyên môn đánh giá khá cao. Everything Copy of A NIN (hay Trent Reznor) thực sự là một quái kiệt của nền âm nhạc thế giới. Đây cũng là band nhạc Industrial đầu tiên bước lên hàng siêu sao trong nền âm nhạc thế giới. NIN không chỉ là band nhạc có nhiều ảnh hưởng tới thế giới Metal về sau mà còn được rất nhiều những nhạc sỹ gạo cội như David Bowie, Johnny Cash… yêu mến và đánh giá rất cao. Tất nhiên, NIN cũng là một trong những band nhạc quan trọng và thành công nhất trong lịch sử của Industrial Metal nói riêng và Industrial Music nói chung. Band cũng góp phần rất lớn đưa âm nhạc Industrial trở nên phổ biến trên toàn thế giới.
Godflesh Godflesh Godflesh là một trong những band nhạc Industrial đầu tiên và có ảnh hưởng rất lớn tới dòng nhạc này về sau. Nhóm thành lập năm 88 tại Birmingham, Anh Quốc bởi G.C. Green – bass và Justin Broadrick (guitar, vocals, programming). Hẳn một số fan hâm mộ của Grindcore và Death Metal còn nhớ tới band nhạc huyền thoại Napalm Death của Anh, Broadrick chính là cựu thành viên của nhóm nhạc này. Tuy chính thức thành lập từ năm 88, nhưng lịch sử của nhóm đã bắt đầu từ năm 82 với cái tên Fall Of Because – đây là tên một bài hát của nhóm nhạc huyền thoại Killing Joke. Tuy nhiên, nhóm nhạc này tan rã sau đó mà không ghi âm được bất kỳ album nào ngoài một album demo. Nhưng sau đó, Broadrick và Green tái lập nhóm nhạc huyền thoại này và đổi tên thành Godflesh vào năm 88. Năm 89, nhóm tung ra album đầu tay kinh điển Streetcleaner. Trong album này nhóm không có một tay trống chính thức mà chỉ sử dụng trống điện. Album này ghi âm thô, ồn, với những bài hát rất mạnh, những đoan riff chậm, giọng hát nhiều khi gầm gừ kiểu Death kết hợp với trống điện từ. Nói một cách khác hơn, âm nhạc trong album là sự kết hợp giữa phong cách Industrial với Grindcore và mang rất nhiều tính thử nghiệm Avant Garde. So với những album đầu tay của những nhóm Industrial gạo cội khác như NIN hay Ministry, album đầu tay của Godflesh mang nhiều tính Metal hơn rất nhiều. Họ cũng chính là band nhạc đầu tiên mang những ảnh hưởng của Extreme Metal vào Industrial. Hiển nhiên đây là một album kinh điển và có tầm ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới thế giới Metal sau này. Album tiếp theo của nhóm là Pure vào năm 92 cũng không khác nhiều so với album đầu tay khi vẫn sử dụng phong cách ghi âm Low Fi và âm nhạc kiểu Industrial kết hợp với Grindcore. Đây vẫn tiếp tục là một album hay của Industrial Metal và nó đưa tên tuổi của Godflesh được biết đến rất rộng rãi trên toàn thế giới. Chính vì những thành công ban đầu này, nhóm đã có được hợp đồng ghi âm với một hãng đĩa lớn là Columbia. Tuy nhiên, album thứ 3 của nhóm là Selfless lại thất bại thảm hại khi chuyển sang phong cách ghi âm sạch sẽ hơn (HiFi). Những năm sau đó, sự nghiệp của Godflesh dần đi xuống với 2 album chất lượng không tốt là Songs Of Love And Hate – chịu ảnh hưởng nhiều của Sludge Metal và Hip Hop và Us And Them – thử nghiệm phong cách Electronic với việc sử dụng trống và bass mà ít sử dụng guitar. Đến năm 2001, Godflesh tung ra album cuối cùng trước khi tan ra là Hymns. Đây là một trong những album hay nhất trong sự nghiệp của nhóm với việc sử dụng những bài hát chậm với những cú riff mạnh mẽ làm chủ đạo. Sau album này, Green quyết định rời khỏi Godflesh và nhóm tan rã ngay sau đó. Phải đến năm 2010 thì nhóm mới tái lập trở lại và tung ra album A World Lit Only By Fire vào năm 2014. Âm nhạc trong album này khá giống với 2 albums đầu tiên của nhóm và cũng được đánh giá khá cao. Streetcleaner Pure Crush My Soul Anthem New Dark Ages
Killing Joke Killing Joke Có thể nói Killing Joke là nhóm nhạc thành công nhất và (có lẽ) cũng có tầm ảnh hưởng lớn nhất của Industrial Rock (Rock chứ không phải Metal) trong lịch sử. Chính vì vậy rất nhiều album trong sự nghiệp của nhóm gần như không có liên quan tới Metal, tuy nhiên trong khá nhiều bài hát, âm nhạc của nhóm rất gần với Metal. Nhóm thành lập từ năm 1979 và sử dụng rất nhiều phong cách chơi nhạc khác nhau và ban đầu nhóm được xếp vào thể loại Post Punk. Tuy vậy, âm nhạc của nhóm rất phức tạp với những bài hát mang nặng tính nhịp điệu, những đoạn riff guitar mạnh mẽ. sử dụng nhiều syntherizer và tiếng trống kiểu thổ dân… Những album kinh điển của nhóm như Killing Joke -80, Fire Dances -83, Night Time -85 đều là những album kinh điển và có tầm ảnh hưởng vô cùng rộng lớn tới thế giới âm nhạc sau này. Tất cả những band nhạc Industrial Metal về sau có lẽ đều chịu ảnh hưởng rất lớn từ Killing Joke, trong đó có Ministry, NIN và Godflesh. Đến đầu những năm 90, khi Industrial Metal dần lớn mạnh, Killing Joke cũng chuyển sang chơi dòng nhạc này (tuy vậy, những album của họ thường không quá mạnh mẽ như những band Industrial Metal khác) vào năm 1990. Đó là lý do chính khiến họ có mặt ở trong phần viết về Industrial Metal. Trong thời kỳ chơi Metal, họ cũng tung ra được rất nhiều những album kinh điển như Pandemonium -94 hoặc Hosannas From The Basements of Hell -2006. Cũng như Godflesh, Killing Joke không thực sự thành công về mặt thương mại. Tuy nhiên, đây là một nhóm nhạc có tầm ảnh hưởng vô cùng rộng lớn tới âm nhạc thế giới, kể cả những siêu sao như Nirvana. Eighties Love Like Blood Millenium Hosannas from the Basements of Hell In Cythera
Fear Factory Fear Factory Fear Factory là một cái tên không mấy xa lạ với những người yêu Metal trên toàn thế giới. Đây có lẽ cũng là một trong những band nhạc Industrial Metal chơi nhạc với phong cách mạnh mẽ nhất vì họ kết hợp những ảnh hưởng của Death Metal vào Industrial. Band nhạc rất thành công và được hầu như toàn bộ thế giới tôn trọng vì những đóng góp rất lớn của họ tới sự phát triển của Metal. Giọng hát của vocalist Burton C. Bell rất đặc biệt và anh này có lẽ chính là người đầu tiên sử dụng phong cách hát kết hợp giọng gầm gừ và giọng trong (clean vocal). Phong cách này sau đó được vô số band nhạc Extreme học theo (mà ta cũng không thể tính được có bao nhiêu band đã sử dụng phong cách này). Trở lại với lịch sử của band nhạc, nhóm thành lập năm 1989 tại Los Angeles, Mỹ bởi tay guitar Dino Cazares và tay trống Raymond Herrera. Sau đó, vocalist Burton C. Bell được Cazares mời tham gia vì giọng hát rất ấn tượng. Trong những album đầu tiên, Cazares đảm nhận luôn vai trò của 1 tay bass. Ở thời điểm band đầu, Fear Factory chơi một thứ âm nhạc chịu nhiều ảnh hưởng của Napalm Death và Godflesh – tức là Industrial kết hợp với Grindcore. Sau đó, Bell tích hợp thêm những ảnh hưởng của Death Metal bằng cách sử dụng giọng ca gầm gừ của Death vào âm nhạc của nhóm. Năm 1991, nhóm ghi âm xong album đầu tay Concrete và dự kiến tung ra album đầu tay này, nhưng rồi nhóm không thực sự với hài lòng với cách sản xuất và hợp đồng với hãng đĩa nên quyết định không tung ra album này nữa. Phải đến năm 2001, sau khi Fear Factory tan rã, do yêu cầu bắt buộc với hãng đĩa, band mới tung ra album này. Phải 1 năm sau, tức là năm 1992, nhóm mới tung ra album đầu tay là Soul Of A New Machine. Đây là một album concept kể một câu chuyện về sự phát triển của robot (đến mức thống trị cả con người) – cốt truyện mà sau này ta sẽ còn gặp lại trong nhiều album của nhóm. Âm nhạc trong album này rất mạnh và chịu ảnh hưởng rất nhiều của Death Metal và Grindcore. Vì thế nó cũng khó nghe và ít phổ biến. Nó cũng khác xa so với những album về sau này của Fear Factory (giảm dần ảnh hưởng của Death và Grindcore). Tuy vậy, nó lại có một ý nghĩa rất quan trọng trong lịch sử của Heavy Metal vì là album đầu tiên sử dụng kết hợp giọng ca gầm gừ và giọng clean trong cùng một bài hát. Scapegoat Album thứ 2 của nhóm – Demanufacture được tung ra vào năm 1995 là một trong những album đỉnh cao của Metal thế giới trong thập kỷ 90s. Đây tiếp tục là một album concept với nội dung kể về cuộc sống của một người đàn ông chống lại chính phủ do robot điều hành. Âm nhạc trong album này đã giảm tính Extreme, tăng thêm phần Industrial và chịu thêm ảnh hưởng của Thrash với những cú riff đặc trưng. Giọng hát trong album này mang nhiều tính giai điệu và biến âm nhạc của nhóm trở nên dễ nghe (dù âm nhạc khá đơn điệu, giọng hát của C. Bell vẫn luôn là điểm sáng trong âm nhạc của nhóm). Với rất nhiều những bản nhạc kinh điển như: Demanufacture, Self Bias Resistor, Replica… album trở thành kinh điển và được fan hâm mộ Metal toàn thế giới yêu thích. Demanufacture Self Bias Resistor Năm 1998, Fear Factory tung ra album thứ 3 là Obsolete với khá nhiều điểm tương đồng với Demanufacture. Tuy nhiên, album này có tích hợp thêm một số ảnh hưởng của Progressive Metal và Alternative Metal. Chính vì thế nó cũng dễ nghe hơn. Đây tiếp tục là một album concept album kể về cuộc chiến của con người chống lại máy móc. Cũng như album trước, album này rất hay và thậm chí còn rất thành công về mặt thương mại khi bán được tới hơn 750 000 bản trên toàn nước Mỹ (xếp hạng 77). Đây cũng là album bán chạy nhất trong lịch sử của nhóm. Descent Album cuối cùng trong thời kỳ huy hoàng của Fear Factory là Digimortal được tung ra vào năm 2001. Đây tiếp tục là một album concept với nội dung chủ yếu nói về con người – lúc này đã bị kết hợp với máy móc và trở thành những thực thể không thể tách rời. Âm nhạc trong album này đơn giản với những bài hát dễ nghe và ít tính Extreme hơn. Album chịu nhiều ảnh hưởng của Alternative và Nu Metal với các bài hát nghiêng về giai điệu và giọng hát hơn là kỹ năng chơi nhạc. Tuy vậy album này là một sự thất bại thảm hại so với album trước đó (chỉ bán được hơn 100 000 bản). Sự thất bại này khiến nội bộ band nhạc phát sinh mâu thuẫn (C. Bell và Cazares thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau) và band nhạc tan rã. Linchpin (còn tiếp)
Fear Factory Fear Factory (tiếp theo và hết) Tuy nhiên sự phức tạp trong tình hình nội bộ của Fear Factory chưa dừng lại. Ngay sau khi nhóm tuyên bố tan rã, 3 thành viên là Herrera, C. Bell và tay bass Wolbers tái lập Fear Factory mà không có Cazares. Việc Fear Factory tan rã rồi ngay sau đó tái lập từng là một chủ đề gây xôn xao thế giới Metal trong năm 2002. Sau khi tái lập Wolbers chuyển sang chơi guitar và nhóm kết nạp thêm tay bass Byron Stroud của nhóm Strapping Young Lad vào làm thành viên thứ 4. Năm 2004, nhóm tung ra album Archetype trong sự nghi ngờ của giới hâm mộ. Tuy vậy, rất bất ngờ rằng đây là một album rất hay với những bài hát đầy chất lượng, gợi nhớ tới những năm tháng đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm. Album được giới chuyên môn chào đón nhiệt liệt với những bài hát rất hay như: Archetype, Cyberwaste, Bite The Hand That Bleeds. Archetype Cyberwaste Chỉ 1 năm sau, tức là năm 2005, Fear Factory tung ra album tiếp theo là Transgression theo yêu cầu của hãng đĩa. Do album này làm quá vội và có xu hướng lại nghiêng về Alternative với những bài hát dễ nghe hơn nhưng không thực sự gây ân tượng và là một thất bại trong sự nghiệp của band nhạc. Thất bại này khiến band nhạc cảm thấy chán nản và rời bỏ hãng đĩa. Sau đó, band nhạc ngừng hoạt động trong khoảng thời gian khá dài và các thành viên tham dự nhiều dự án khác nhau. Empire Năm 2009, khi Fear Factory chưa thực sự tan rã bất ngờ lại diễn ra. Cặp đôi C. Bell và Cazares bất ngờ tái hợp và thành lập lại Fear Factory với sự có mặt của tay bass Stroud và tay trống huyền thoại Gene Hoglan. Cặp đôi Wolbers và Herrera bị đẩy ra khỏi nhóm mà không hề biết về chuyện này. Như vậy, 4 thành viên của Fear Factory trong thời kỳ đỉnh cao chia thành 2 phe với 2 band khác nhau và tất cả đều tuyên bố họ vẫn ở trong band nhạc Fear Factory. Chưa biết câu chuyện này sẽ chấm dứt như thế nào nhưng band nhạc Fear Factory tiếp tục tung ra những album mới. Album đầu tiên của cặp đội Bell, Cazares là Mechanize được tung ra vào năm 2010. Album này đánh khá mạnh và có chất lượng tốt. Album thứ 2 của nhóm mới này là The Industrialist được tung ra vào ănm 2012. Lúc này Fear Factory chỉ còn 3 thành viên và không còn tay trống huyền thoại Hoglan nữa. Âm nhạc trong album vẫn là phong cách Industrial Death theo kiểu truyền thống của Fear Factory nhưng không thực sự có nhiều đột biến. Powershifter Industrialist Fear Factory là band nhạc huyền thoại và có rất nhiều ảnh hưởng tới thế giới Metal sau này. Đây cũng là band nhạc được nhiều fan hâm mộ ở Việt Nam yêu mến với những album đầy chất lượng như Demanufacture, Obsolete, Archetype hay gần đây là Mechanize.
Oomph! Oomph! Ta đã chứng kiến Industrial Metal hình thành và phát triển tại Mỹ và Anh, sau đó dòng nhạc này lan sang Đức, quê hương của những band nhạc Electronica nổi tiếng như Kraftwerk hay Tangerine Dream. Oomph! Là một trong những band nhạc tiên phong của Đức trong dòng nhạc Industrial Metal. Nhóm thành lập năm 1989 tại Wolfsburg, Đức bởi 3 thành viên Dero Goi (vocals, drums), Robert Flux (guitar) và Andreas Crap (guitar, keyboard). Đội hình này ổn định trong suốt sự nghiệp của band nhạc. Cùng với những nhóm nhạc như KMFDM và Die Krupps, Oomph! Tiên phong trong việc kết hợp Heavy Metal với Industrial. Năm 1992 nhóm tung ra album đầu tay là Oomph! Nhưng album này mang nhiều tính Electronic và Industrial Rock hơn là Metal với nhạc cụ chủ đạo là syntherizer. Phải đến album thứ 2 là Sperm thì âm nhạc của nhóm mới chuyển hẳn sang phong cách Industrial Metal với việc sử dụng guitar làm nhạc cụ chủ đạo. Album này là một trong những album quan trọng nhất trong lịch sử của Industrial Metal của Đức. Trong những năm sau đó, Oomph! Tung ra khá nhiều album có chất lượng khá tốt nhưng không thể vươn tới những thành công về mặt thương mại mặc dù đã có hợp đồng với hãng đĩa khá nổi tiếng là Virgin Records. Phải đến năm 2004, khi tung ra album Wahrheit oder Pflicht nhóm mới trở nên nổi tiếng và giành được những thành công quan trọng với singles Augen Auf! Vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng của Đức và biến tên tuổi của nhóm trở nên hết sức nổi tiếng tại Đức. Dù là một band nhạc có tầm ảnh hưởng khá rộng rãi tại Đức, Oomph! Gần như không tạo dựng được tên tuổi tại Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới. S E X Supernova Augen auf Träumst du ft. Marta Jandová Sandmann
KMFDM KMFDM Cùng với Oomph!, KMFDM là một trong những band nhạc đầu tiên đưa cả Industrial Rock và Metal đến với nước Đức. Nhóm cũng là một trong những band nhạc hát tiếng Đức đầu tiên thành công tại Mỹ. KMFDM thành lập từ năm 1984 bởi nghệ sỹ tài năng Sascha Konietzko, anh này có thể chơi được rất nhiều loại nhạc cụ. Trong 5 năm đầu tiên của sự nghiệp, nhóm tung ra 4 albums Industrial Rock và chủ yếu hoạt động tại Đức và gần như không ai biết đến bên ngoài nước này. Tuy nhiên đến năm 89, nhóm bắt đầu chuyển hướng hoạt động tại Mỹ bằng cách đi lưu diễn với nhóm nhạc Industrial Metal huyền thoại Ministry. Những năm sau đó, KMFDM dần tạo dựng được tên tuổi tại Mỹ với những album Naïve -1990 và Money -1992. (Cả 2 album này vẫn mang nhiều tính Industrial Rock hơn là Metal). Phải đến năm 1993, nhóm mới chuyển dần sang chơi Industrial Metal với album Angst. Album này cũng rất thành công với hàng trăm nghìn bản bán được tại Mỹ. Trong những năm tiếp theo, KMFDM hết sức thành công với những album kinh điển như Nihil -95với bài hát kinh điển Juke Joint Jezebel – hay Xtort -96 – là album thành công nhất về mặt thương mại trong lịch sử band nhạc khi bán được trên 200 000 bản và vươn lên hạng 92 trên bảng xếp hạng tại Mỹ hay Symbols -97, vươn lên hạng 137 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Tuy nhiên, sau những thành công khá lớn với một band nhạc chỉ hát tiếng Đức trên đất Mỹ, câu chuyện của KMFDM đi đến hồi kết vào năm 1999 – sau khi tung ra album Adios. 3 tháng trước khi tung ra album này, nhóm tuyên bố tan rã. Đến năm 2002, KMFDM lại tái lập lại và tiếp tục ra những album studio. Tuy nhiên, họ không bao giờ còn có những thành công to lớn như trong thập niên 90 nữa. A Drug Against War Juke Joint Jezebel Megalomaniac Krank Amnesia
Stabbing Westward Stabbing Westward Stabbing Westward thành lập năm 1985 tại Illinois, Mỹ. Sau khi ghi âm một số album demo, nhóm có được hợp đồng với một hãng đĩa lớn là Columbia. Album đầu tiên của nhóm là Ungod được tung ra vào năm 1994 với rất nhiều ảnh hưởng của nhóm nhạc Industrial Metal huyền thoại NIN. Tuy nhiên âm nhạc của nhóm mang nhiều tính giai điệu và dễ nghe hơn khá nhiều so với NIN. Ngoài ra, họ còn chịu ảnh hưởng của Gothic Rock. Tuy nhiên, ngay sau khi hoàn thành chuyến lưu diễn quảng bá đĩa nhạc Ungod, nhóm nhạc mất đi tay guitar/bass Zechman, người sáng tác nhạc chính của nhóm. Tay trống Kubiszewski trở thành người sáng tác chính và sự nghiệp của band lại cất cánh từ đây. Năm 1996, nhóm tung ra album thứ 2 là Wither Blister Burn & Peel. Âm nhạc trong album tiếp tục là phong cách Industrial Metal với một số bài hát rất hay như What Do I Have To Do? Và Shame khiến album trở nên được yêu mến và giành được đĩa vàng tại Mỹ. Năm 1998, Stabbing Westward tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp và có lẽ cũng là album hay nhất của nhóm. Đây là một album concept với những bài hát đầy cảm xúc. Tất nhiên những ảnh hưởng của NIN vẫn còn. Tuy nhiên, vấn đề của Stabbing Westward phát sinh khi nhóm nhạc không thể tiếp tục đạt được những thành công lớn về mặt thương mại như album trước đó. Điều này khiến nhóm mất hợp đồng với hãng đĩa Columbia. Sau đó, nhóm loại bỏ dần những ảnh hưởng của Industrial và chuyển sang Alternative Metal trong album thứ tư là Stabbing Westward, nhưng thất bại thảm hại và nhóm tan rã ngay sau đó. Tuy là một nhóm nhạc nhỏ, Stabbing Westward vẫn là một band nhạc có nhiều album hay trong lịch sử của Industrial Metal. Lies Shame Save Yourself Sometimes It Hurts
Marilyn Manson Marilyn Manson Marilyn Manson là một cái tên gây nhiều tranh cãi trong lịch sử của Heavy Metal thế giới với ngoại hình và tên gọi kỳ quặc của các thành viên. Tên của các thành viên band nhạc thường được lấy từ họ của một kẻ giết người hàng loạt nổi tiếng trong lịch sử thế giới kết hợp với tên của một biểu tượng về S ex nổi tiếng. Marilyn Manson là sự kết hợp của Marilyn Monroe và tên giết người hàng loạt nổi tiếng nhất trong lịch sử của Mỹ là Charles Manson. Các thành viên của nhóm cũng thường giả gái và trang điểm hết sức lòe loẹt. Marilyn Manson – giọng ca chính của nhóm- tên thật là Brian Warner – thậm chí còn dùng nhiều phấn trang điểm hơn bất kỳ ngôi sao nữ nào. Tuy chơi nhạc theo phong cách Industrial, và chịu ảnh hưởng của Nine Inch Nails, nhưng Marilyn Manson (MM) lại lựa chọn phong cách Shock Rock trong biểu diễn với rất nhiều màn trình diễn gây shock trên sàn diễn. Chính vì phong cách biểu diễn shock và nhiều khi là báng bổ (chống lại tôn giáo, Chúa Trời…) nên không ít lần nhóm nhạc bị cấm biểu diễn. Tuy vậy, những tranh cãi này chỉ khiến nhóm trở nên nổi tiếng và vươn mình trở thành những siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới với hàng chục triệu đĩa bán được. Long Hard Road Out Of Hell Trở lại với lịch sử band nhạc, nhóm thành lập từ năm 89 bởi Warner (từ đây sẽ gọi là Manson). Tại thời điểm này, Warner chỉ là một sinh viên ngành du lịch và tập tành viết nhạc cho 1 số tạp chí. Tuy vậy, việc làm ngoài giờ này lại giúp cho Manson có dịp gặp gỡ với một số nhạc sỹ rất nổi tiếng và sau này có ảnh hưởng rất lớn tới sự nghiệp của anh này. Một trong số đó là Trent Reznor của nhóm nhạc huyền thoại Nine Inch Nails. Sau đó Manson thành lập band nhạc, lấy tên là The Spooky Kids và lấy nghệ danh theo phong cách đã mô tả ở trên. Trong những năm đầu tiên, nhóm nhạc đã làm tất cả những gì có thể để nổi tiếng: từ ăn mặc giống nữ, dùng những biểu tượng tôn giáo (Manson thường đóng giả Chúa bị đóng đinh trên thập tự), xác động vật… Sau đó nhóm đổi tên thành MM. Đến năm 1993, nhận thấy tiềm năng to lớn của Marilyn Manson, Reznor ký hợp đồng với band nhạc thông qua hãng đĩa Nothing của anh này. Sau khi ký hợp đồng với hãng Nothing, Marilyn Manson được Reznor mời đi lưu diễn cũng và dần trở nên nổi tiếng. Năm 94, nhóm hoàn thành album đầu tay Portrait Of An American Family, tuy nhiên phần ghi âm quá thô khiến cả nhóm nhạc lẫn Reznor không hài lòng và đích thân Reznor – cũng là một nhà sản xuất âm nhạc- đứng ra làm lại album này. Reznor là một nhà sản xuất có tài và album được làm rất kỹ. Sau khi hoàn thành, album được hãng đĩa Interscope quan tâm và tung ra trên toàn thế giới. Âm nhạc trong album này là sự tổng hợp của Industrial Metal (NIN) với Alternative Rock (Jane’s Addiction) và Heavy Metal truyền thống (W.A.S.P). Chất lượng album tốt và khá thành công (đạt đĩa vàng với hơn 600 000 bản bán được ) và một bản hit là Get Your Gunn. Get Your Gunn Sự nghiệp của MM chỉ thực sự cất cánh vào cuối năm 95, sau khi nhóm tung ra 1 album EP là Smell Like Children. Tuy là một album EP nhưng album này dài tới gần 60 phút với những bài hát remixed và cover. Thành công lớn nhất của album này là bản cover Sweet Dreams của nhóm nhạc Eurythmics. Bản cover với phong cách kỳ quái của band nhạc trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới và giúp MM trở thành những siêu sao bất ngờ trên bầu trời âm nhạc. Dù là bản EP, album vẫn bán được tới hơn 1,6 triệu bản (gấp gần 3 lần so với album trước) và đạt chứng chỉ đĩa bạch kim tại Mỹ. Sau album này, tên tuổi MM tràn ngập trên những tạp chí về âm nhạc. Sweet Dreams Trên đà thành công vang dội, MM tung ra album thứ 2 là Antichrist Superstar vào năm 1996. Đây là album mang phong cách Rock Opera dưới dạng concept. Đây cũng là phần đầu tiên trong bộ 3 albums concept liên tiếp trong lịch sử của MM (Tuy vậy, đây lại là phần cuối trong câu chuyện vì 3 albums này tung ra với cốt truyện ngược – phần đầu tung ra cuối cùng, phần cuối câu truyện tung ra trước). Nội dung cốt truyện khá đen tối với việc đả kích tôn giáo, lợi dụng tôn giáo để lừa bịp các đệ tử, con chiên của chính mình. Album hết sức thành công cả về mặt thương mại lẫn chuyên môn khi vươn lên hạng 3 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và bán được hơn 7 triệu bản trên toàn thế giới (tại Mỹ bán được gần 2 triệu bản). Nhiều bài hát trong album trở nên nổi tiếng và được rất nhiều fan hâm mộ yêu thích như The Beautiful People, Tourniquet, Antichrist Superstar… Ngay sau album rất thành công này, MM trở thành những siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới. The Beautiful People Tourniquet (còn tiếp)
Marilyn Manson Marilyn Manson (tiếp theo) Vào năm 1998, MM tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là The Mechanical Animals. Đây tiếp tục là một album concept và có chất lượng rất cao của nhóm. Nội dung câu chuyện kể về 2 nhân vật chính là Omega và Alpha, đều do Manson thủ vai. Omega là một người ngoài hành tinh rơi xuống trái đất, không rõ là nam hay nữ, sau đó bị bắt và trở thành một siêu sao nhạc Rock trong một band nhạc có tên là The Mechanical Animals. Nhân vật này sau đó lạm dụng ma túy và gần như trở nên vô dụng. Nhân vật thứ 2 là Alpha, chính là hiện thân của Manson, cũng có một cuộc sống giống Omega và là một siêu sao nhạc Rock. Alpha luôn cảm thấy thất vọng vì thấy những người xung quanh mình có quá ít cảm xúc và coi họ như là những con thú máy (Mechanical Animals). Cả 2 nhân vật đều mong muốn trở lại với thế giới bình an (trong album gọi là Coma White – tuy vậy không rõ cảm giác này là thật hay chỉ ảo giác do ma túy mang lại). Album có 14 bài hát, trong đó 7 bài của Alpha và 7 bài của Omega. Album rất hay với những bài hát nổi tiếng thế giới như The Dope Show, Rock Is Dead, I Don’t Like The Drugs (But The Drugs Like Me, Coma White). Hẳn những người yêu nhạc Rock tinh ý đều nhận ra rằng các album của Marilyn Manson có hơi hướng của những album nổi tiếng trong lịch sử nhạc Rock. Nếu album Antichrist Superstar ảnh hưởng của Andrew Lloyd Webber (Jesu Christ Superstar) thì The Mechanical Animals chịu ảnh hưởng nhiều của David Bowie – Ziggy Stardust. Chính vì lý do này, album The Mechanical Animals chịu nhiều ảnh hưởng của Rock cổ như Glam, Gothic Rock hay cả Space Rock nữa. Âm nhạc trong album vì thế nhẹ nhàng hơn so với những album trước đó. Album được giới chuyên môn đánh giá rất cao và cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên đứng đầu trên bảng xếp hạng tại Mỹ và bán được khoảng 1,6 triệu bản tại nước này. The Dope Show I Don't Like The Drugs (But The Drugs Like Me) Sau khi trở thành nhưng siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới, những rắc rối liên tiếp đến với MM. Những hành động bạo lực, báng bổ trong những buổi biểu diễn của họ liên tiếp bị chỉ trích bởi những nhóm chính trị gia, tổ chức nhân quyền và tôn giáo. Rắc rối còn tiếp tục khi xảy ra vụ thảm sát thảm khốc ở trường cấp Columbine High School. 2 kẻ thực hiện vụ thảm sát này đã giết 13 người, làm bị thương 24 người, sau đó tự sát. Cả 2 kẻ sát nhân này đều là học sinh và đều là fan hâm mộ của nhóm MM. Rất nhiều chỉ trích đã diễn ra với nhóm, thậm chí nhóm phải hủy chuyến lưu diễn tại bang Colorado, là nơi diễn ra vụ thảm sát. Trong gần 1 năm rưỡi sau đó, MM gần như không hoạt động mà tập trung vào sáng tác và ghi âm album. Đến cuối năm 2000, nhóm tung ra album concept cuối cùng trong chùm album concept là Holy Wood. So với album trước đó, album này mang nhiều tính Industrial và Alternative Metal chứ không mang phong cách Rock thập kỷ 70s như The Mechanical Animals. Tuy album có chất lượng rất tốt với nhiều bài hát hay như The Love Song, The Fight Song, The Nobodies hay The Death Song, nó vẫn không mấy thành công về mặt thương mại tại Mỹ khi chỉ vươn lên hạng 13 trên bảng xếp hạng và sau này giành đĩa vàng (bán hơn 500 000 bản). Tuy nhiên, khi thời gian qua đi, số lượng album bán được trên toàn thế giới của đĩa này rất cao (lên tới hơn 9 triệu bản và trở thành một trong những album bán chạy nhất trong lịch sử của nhóm). The Fight Song Disposable Teens (còn tiếp)
Marilyn Manson Marilyn Manson (tiếp theo và hết) Năm 2003, MM tung ra album cuối cùng dưới hình thức là một band nhạc là The Golden Age Of Grotesque. Như đã miêu tả ở trên, album Holy Wood là album cuối cùng trong chùm 3 albums concept nên ở album này, nhóm nhạc đã có nhiều đất để thể hiện hơn. Album này rất khác so với những album trướ đó khi chủ yếu sử dụng các beat và âm thanh điện tử kiểu electronica. Chính vì vậy nó nghiêng về phong cách Industrial Rock hơn là Metal, guitar chỉ đóng vai trò phụ trong album này. Album này khá thàn công khi vươn lên hạng 1 trên bảng xếp hạng của Mỹ, tuy vậy đây là album hạng nhất bán được ít nhất rong năm 2003. Ở các nước châu Âu, nó cũng rất thành công khi vươn lên hạng 1 tại 4 quốc gia và sau này bán được trên 4 triệu bản trên toàn thế giới. Sau album này, MM tuyên bố giải tán. This Is The New Shit Tuy nhiên, đến năm 2006, Manson tái lập band nhạc một lần nữa và năm sau đó thì tung ra album Eat Me, Drink Me. Lúc này âm nhạc của MM đã thay đổi rất nhiều khi mang tính Gothic Rock hơn là Metal. Dù thay đổi phong cách, album vẫn nhận được rất nhiều lời khen ngợi với những bài hát chất chứa đầy cảm xúc của Marilyn Manson sau những năm nghỉ lưu diễn như: Heart Shaped Glasses, If I Was Your Vampire, Putting Holes In Happiness. Dù được giới chuyên môn đánh giá cao, album không mấy thành công về mặt thương mại khi chỉ vươn lên đượ hạng 8 trên bảng xếp hạng của Mỹ. If I Was Your Vampire Năm 2009, MM tung ra album thứ 7 của nhóm là The Hign End Of Low. Âm nhạc trong album này có tiết tấu nhanh và mạnh hơn so với album trước đó. Tuy vậy album vẫn mang nhiều tính Glam Rock. Chất lượng album không quá tệ nhưng album quá dài (72 phút) với việc sắp xếp những bài hát chưa thực sự hợp lý là lý do khiến album không được đánh giá cao. Dù album vươn lên được hạng 4 trên bảng xếp hạng của Mỹ nhưng số lượng đĩa bán được chỉ bằng hơn 1 nửa so với album trước là Eat Me, Drink Me. Putting Holes In Happiness Album thứ 8 của MM là Born Villain được tung ra vào năm 2012. So với những album trước đó, âm nhạc trong album này có phần mạnh mẽ hơn và có lẽ chất lượng cũng cao hơn. MM cố gắng pha trộn giữa những phong cách mới và phong cách cổ điển của band nhạc. Dù Manson tuyên bố rằng Slayer là band nhạc có ảnh hưởng lớn tới album này, thì album vẫn mang nhiều tính Industrial và Alternative hơn là Thrash và Death Metal. Tuy vậy, một số bài hát trong album có sử dụng tiếng trống double bass của Thrash. Album không thực sự thành công về mặt thương mại khi chỉ chiếm được hạng 10 trên bảng xếp hạng của Mỹ. No Reflection Album cuối cùng của của MM tới thời điểm hiện tại là Pale Emperor tung ra vào đầu năm 2015 với khá nhiều lời khen ngợi. Album là sự kết hợp của rất nhiều phong cách nhạc khác nhau như Industrial, Alternative, Gothic, Hard Rock và cả Dance. Deep Six Với một sự nghiệp dài, gây nhiều tranh cãi, Marilyn Manson vẫn là một tên tuổi được nhiều fan hâm mộ Metal thế giới yêu mến với những bài hát rất hay. Chùm 3 albums concept Triptych là những album không thể bỏ qua với những fan của Metal.
Rammstein Rammstein Năm 1995 là một năm đặc biệt trong lịch sử của Industrial Metal. Trong năm này, rất nhiều band nhạc mới được thành lập và nhiều trong số đó góp phần rất lớn vào việc phát triển của dòng nhạc này trên thế giới. Rammstein là band nhạc đầu tiên mà chúng ta nhắc tới trong năm 95. Rammstein được thành lập bởi tay guitar Richard Z. Kruspe – một người có nguồn gốc ở Đông Đức nhưng chạy sạng Tây Đức vào năm 89. Đến năm 91, sau khi nước Đức thống nhất, anh này trở lại Berlin và kết hợp với giọng ca chính Till Lindermann để thành lập ra nhóm Rammstein. Đến năm 94, nhóm nhạc tham gia một cuộc thi âm nhạc và giành chiến thắng. Nhờ thắng giải này, nhóm có cơ hội ghi âm một album demo với 4 bài hát, đồng thời nhận được sự chú ý từ một hãng đĩa là Motor Records. Năm 95, Rammstein tung ra album đầu tay là Herzeleid. Đây là một album có chất lượng tốt. Âm nhạc trong album là sự kết hợp giữa Industrial Metal với Groove Metal (những cú riff) và nhạc Electronic, Dance. Giọng hát của Till Linderman khá đặc biệt với phong cách nửa đọc nửa hát đặc trưng. Với bản hit Du riechst so gut album nhận được nhiều lời khen ngợi và thậm chí vươn lên hạng 6 trên bảng xếp hạng của Đức. Nó là tiền đề rất quan trọng cho những thành công to lớn của Rammstein sau này. Du Riechst So Gut Sau album đầu tay khá thành công, năm 1996 Rammstein tung ra album kinh điển Sehnsucht. So với album trước, album này là một sự phát triển vượt bậc với những bài hát có chất lượng rất cao, những cú riff đầy uy lực và những giai điệu mang nhiều phong cách Dance. Với một loạt những bài hát kinh điển như Engel, Du Hast hay Klavier… album không chỉ thành công tại Đức, khi vươn lên hạng 1 trên bảng xếp hạng của nước này, mà còn thành công trên toàn bộ thế giới. Dù hát hoàn toàn bằng tiếng Đức, album vẫn vươn lên hạng 45 tại Mỹ và thậm chí còn giành đĩa bạch kim (bán được hơn 1 triệu bản) tại thị trường âm nhạc lớn nhất thế giới này. Tính tới thời điểm hiện tại, đây vẫn là album tiếng Đức duy nhất có thể giành được đĩa bạch kim tại Mỹ. Bài hát Du Hast trong album này, sau đó còn được đề cử cho giải thưởng Grammy và có mặt trong bộ phim đình đám The Matrix. Sau album này, Rammstein đã trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới. Engel Du Hast Sau những chuyến lưu diễn dài ngày tại Mỹ với KFMDM, phải đến năm 2001, Rammstein mới có thể tung ra album thứ 3 là Mutter. So với album trước, album này thậm chí còn có vẻ xuất sắc hơn. Các bài hát trong album mạnh mẽ, dài hơn, và cũng chứa nhiều cảm xúc hơn. Rất nhiều bài hát trong album này được fan hâm mộ vô cùng yêu thích như Mein Herz Brennt, Links 2-3-4, Sonne, Ich Will hay bản ballads Mutter… Tuy không thành công tại Mỹ (chỉ xếp hạng 77) như album Sehnsucht nhưng album hết sức thành công tại châu Âu khi có mặt trên top 10 tại hầu hết các nước của châu lục này. Mutter Ich Will (còn tiêp)
Rammstein Rammstein Album thứ 4 của Rammstein là Reise, Reies được tung ra vào năm 2004, tiếp tục là 1 albums rất hay trong sự nghiệp của nhóm. Nếu như trong album trước là Mutter, Rammstein thử nghiệm phong cách mới với những bài hát dài, nhiều cảm xúc, cấu trúc phức tạp thì album Reise, Reise lại đơn giản hơn khá nhiều. Các bài hát ngắn và cấu trúc đơn giản với guitar làm nhạc cụ chủ đạo và tính Dance đã giảm đáng kể. Âm nhạc trong album vẫn mang tính Industrial Metal nhưng đã tích hợp thêm rất nhiều những ảnh hưởng của các dòng nhạc khác như Groove, Alternative Metal… Nhiều bài hát trong album cũng trở nên nổi tiếng và được rất nhiều người yêu nhạc hâm mộ như Mein Teil, Moskau hay Ohne Dich. Album tiếp tục thành công rất lớn tại châu Âu khi đứng đầu trên bảng xếp hạng của 5 nước và đứng trong tóp 10 của các nước còn lại. Riêng tại Mỹ, album vươn lên được hạng 61. Mein Teil 9pkLDEEs20U Năm 2005, Rammstein tiếp tục tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp là Rosenrot. Tuy nhiên trong 11 bài hát của albums này thì đã có 6 bài hát bị tách ra khỏi album trước là Reise, Reise. Thậm chí, album này lúc đầu còn được lấy tên là Reise, Reise Volume Two, nhưng sau đó đổi lại tên thành Rosenrot. Dù phần trang trí và bìa album làm rất đẹp nhưng chất lượng âm nhạc thì lại không cao. Band nhạc Rammstein còn không quảng bá cho album này. Dù tiếp tục đứng hạng 1 trên nhiều bảng xếp hạng trên nhiều nước tại châu Âu, album không thành công về mặt thương mại như những album trước đó. Rosenrot Sau khi tung ra 1 album live là Volkerball với những buổi trình diễn tại Anh, Pháp, Nhật và Nga, Rammstein ngừng hoạt động trong năm 2006 và chỉ bắt đầu quay lại lưu diễn vào năm 2007. Đến năm 2009, nhóm tung ra album thứ 6 là Liebe Ist Fur Alle Da. Band nhạc tiếp tục gây rất nhiều tranh cãi khi thuê những diễn viên đóng phim khiêu dâm để quay video clips cho bài hát quảng bá cho album. Album này có chất lượng khá tốt và nó cũng rất thành công về mặt thương mại khi đứng đầu bảng xếp hạng tại 6 nước châu Âu và vươn lên vị trí số 13 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Dự kiến Rammstein sẽ quay lại phòng thu âm trong năm 2015 để chuẩn bị sáng tác cho album mới. Haifisch Trong lịch sử của âm nhạc thế giới, Đức là một quốc gia rất mạnh về âm nhạc điện tử. Rất nhiều band Industrial chịu ảnh hưởng từ phong cách chơi nhạc của các band nhạc Đức. Về mặt Industrial Metal, nước Đức cũng dần trở thành một cường quốc được biết tới trên toàn thế giới. Và band nhạc góp công rất lớn để Industrial Metal Đức trở nên nổi tiếng không phải là KMFDM, Oomph! Mà chính là Rammstein với rất nhiều những bài hát để đời. Đây cũng là band nhạc hát tiếng Đức thành công nhất trong lịch sử của âm nhạc thế giới. Đặc biệt hơn, phần lớn fan hâm mộ của band nhạc không hiểu band hát về vấn đề gì (vì không mấy người biết tiếng Đức). Rammstein là một biểu tượng hùng hồn cho sức mạnh to lớn của âm nhạc (có thể vượt qua những rào cản về ngôn ngữ). Rammstein hiện tại không chỉ nổi tiếng trong làng nhạc Rock mà còn được biết đến như những siêu sao âm nhạc tai châu Âu. Hiển nhiên, đây là band nhạc mà những fan yêu thích Metal không thể bỏ qua.
Filter Filter Filter là một trong những nhóm nhạc khá nổi tiếng của Mỹ trong những năm cuối thập niên 90s. Nhóm được thành lập năm 1993 bởi giọng ca chính Richard Patrick và tay guitar Brian Liesegang. Patrick vốn là tay guitar đánh trong band nhạc huyền thoại NIN trong những chuyến lưu diễn. Sau đó anh này quyết định thành lập 1 nhóm nhạc riêng nên thành lập ra nhóm Filter và đảm nhận luôn vai trò hát chính. Filter tung ra album đầu tay Short Bus vào năm 95. Dù là một band nhạc mới nổi, Filter nhanh chóng trở nên nổi tiếng với bản Hit: Hey Man Nice Shot – một bài hát viết về cái chết của chính trị gia Budd Dwyer – người tự dùng súng kết liễu cuộc đời mình trước mặt khá nhiều nhà báo. Dĩ nhiên, bài hát này gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, nó giúp cho Filter được biết đến rộng rãi và album đầu tay bán được hơn 1 triệu bản tại Mỹ dù album chỉ vươn lên hạng 59 trên bảng xếp hạng. Sau khi khá nổi tiếng với album đầu tay, Filter tham gia rất nhiều các dự án dành cho nhạc phim như The X-Files, City Of Angels, Spawn. Sau khi tham gia các dự án phim này, Liesegang quyết định rời nhóm vì những mâu thuẫn với Patrick. Tuy gặp mất mát lớn về mặt nhân sự, Patrick vẫn quyết định dự án với Filter. Đến năm 99, nhóm tung ra album Tittle Of Record. Âm nhạc trong album này thậm chí còn mạnh mẽ và mang tính Metal hơn album Short Bus khá nhiều. Bản ballad Take A Picture trở thành một bản hit và giúp cho album tiếp tục đạt thứ hạng cao (hạng 30) và sau đó cũng bán được hơn 1 triệu bản tại Mỹ. Sau khi tung ra 2 albums đầu tay hết sức thành công, sự nghiệp của Filter dần đi xuống. Khi nhóm tung ra album thứ 3 là Amalgamut vào năm 2002, Patrick đang bị nghiện rất nặng. Dù album này có phần nghiêng về phía Alternative Metal và có 1 bản hit là Where Do We Go From Here thì nó chỉ bán được một lượng đĩa rất nhỏ ( khoảng 100 000 bản – tức chỉ bằng 1/10 so với 2 albums trước). Ngay sau album này, nhóm ngừng hoạt động vô thời hạn vì Patrick phải nhập viện để cai nghiện ma túy. Sau khi cai nghiện, Patrick tham gia nhóm Damning Well và Filter gần như tan rã hoàn toàn. Sau này nhóm có tái lập và tung ra một số album như Anthems For The Damned -2008, The Trouble With Angels -2010, The Sun Comes Out Tonight -2013. Dù các album này đều có chất lượng khá và vẫn chiếm được vị trí khá cao trên bảng xếp hạng của Mỹ (lần lượt là 60, 64 và 52) nhưng Filter không còn có được thành công và gây ra tiếng vang lớn như những album đầu tay nữa. Tuy vậy 3 albums đầu tiên của nhóm là những album rất hay trong những năm cuối thập kỷ 90s. Hey Man Nice Shot Take A Picture Where Do We Go From Here Soldiers of Misfortune