Godhead Godhead Godhead là một band nhạc Industrial Metal đến từ thủ đô Washington DC, Mỹ. Nhóm thành lập từ năm 1994 dưới cái tên là Blind sau đó mới đổi tên thành Godhead. Từ một band nhạc vô danh không tên tuổi, nhóm tự gây dựng một lượng fan trung thành và tự mình tung ra 3 album lần lượt là Godhead -95, Nothingness -97 và Power Tool Stigmata -98. Những album này có chất lượng khá tốt và giúp cho nhóm có được sự chú ý của Marilyn Manson. Lúc này, Marilyn Manson đã trở nên rất nổi tiếng và anh này đang có ý định tiếp bước sự nghiệp theo chân của Trent Reznor – vừa là nghệ sỹ vừa trở thành nhà sản xuất và thu âm. Manson tự thành lập cho mình một hãng đĩa – Posthuman Records – tuy nhiên sự nghiệp thu âm của Manson không thực sự thành công. Godhead trở thành band nhạc đầu tiên và duy nhất ký hợp đồng với hãng đĩa này trước khi phá sản. Năm 2001, Godhead tung ra album đầu tay dưới sự bảo trợ của hãng đĩa là 2000 Years Of Human Error . Tuy vậy đây không phải là một album mới thực sự mà chỉ là một album tuyển chọn những bài hát đã sáng tác từ 3 albums trước đó. Âm nhạc trong album này chịu nhiều ảnh hưởng từ phong cách Gothic Industrial (Marilyn Manson) và Industrial Alternative (của Nine Inch Nails) với một chút ảnh hưởng của Nu Metal – thể loại âm nhạc đang thịnh hành ở thời điểm bấy giờ. Album khá thành công và bán được hơn 100 000 bản và giúp cho nhóm nhạc có 1 suất dự đại nhạc hội Ozzfest 2001 do bố già của Heavy Metal Ozzy Osbourne tổ chức thường niên. Mặc dù ngay sau đó thì hãng đĩa Posthuman ngừng hoạt động, sự nghiệp của Godhead tiếp tục phát triển với album thứ 2 là evolver thông qua hãng đĩa Reality. Album này cũng bán được trên 100 000 bản như album trước. Những album sau đó là The Shadow Line -2006 và At The Edge Of The World -2008 đều là những albums có chất lượng khá tốt và cũng khá thành công về mặt thương mại. Tuy không quá thành công về mặt thương mại, Godhead vẫn là một trong những band nhạc rất đáng chú ý trong lịch sử của Industrial Metal. The Reckoning The Hate In Me Hey You Hero To Heal
Mushroomhead Mushroomhead Mushroomhead là một trong những band nhạc khá hay nhưng kém nổi tiếng trong thế giới Metal. Nhóm thành lập năm 1993 tại Ohio, Mỹ. Ban đầu, nhóm chỉ là một dạng side project khi các thành viên của band nhạc muốn thử nghiệm một thứ âm nhạc mới mẻ hơn so với những band nhạc chính của họ. Chính vì vậy, để không lộ thân nhân của mình ra ngoài, các thành viên của nhóm đều ăn mặc rộng, đeo mặt nạ và dùng tên giả. Band nhạc rất đông (khởi đầu là 7 thành viên, sau đó tăng lên 8 người, trong đó 3 người là vocalist). Nghe qua miêu tả, chúng ta cũng thấy nhóm nhạc này khá giống với Slipknot – một band nhạc Nu Metal nổi tiếng trên toàn thế giới. Rất nhiều người thậm chí còn cho rằng Mushroomhead chỉ là một dạng Clone (bản copy) của Slipknot. Tuy nhiên, sự đánh giá này là không công bằng, nguyên nhân chính là vì Mushroomhead đã tham gia biểu diễn với phong cách như vậy từ trước khi nhóm nhạc Slipknot được thành lập khá lâu. Dù vậy do phong cách biểu diễn và ăn mặc rất giống nhau giữa 2 band nhạc đã gây ra phản ứng rất mạnh mẽ giữa fan hâm mộ của 2 nhóm nhạc này. Tuy vậy, về mặt âm nhạc, giữa Mushroomhead và Slipknot ít có liên hệ. Âm nhạc của nhóm là sự kết hợp của rất nhiều thể loạikhác nhau như Industrial, Techno, Hip Hop, Nu Metal, Ambient, Alternative và Avant Garde nữa… Với việc sử dụng rất nhiều keyboards và các bài hát theo phong cách Avant Garde, âm nhạc của họ nghe giống Faith No More hơn là Slipknot. Với phong cách chơi nhạc rất đặc biệt, nhóm nhạc được kỳ vọng sẽ là một band nhạc lớn của Heavy Metal thế giới (tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, sẽ là một điều thần kỳ nếu Mushroomhead trở thành những siêu sao trên bầu trời thế giới). Trong những năm đầu tiên của sự nghiệp, Mushroomhead tự tạo dựng tên tuổi bằng cách tham gia các buổi biểu diễn (cùng với nhóm Hatrix – một số thành viên của Mushroomhead có band nhạc chính thức là Hatrix sau đó cải trang để biến thành các thành viên của Mushroomhead mà fan hâm mộ không hề biết). Nhóm tung ra 3 albums độc lập là Mushroomhead -95, Superbuick -96 và M3-99. Đến năm 2001, nhóm tung ra albums tuyển chọn các bài hát hay của 3 album trước để thành 1 album mới là XX. Album này khá thành công trong giới underground khi bán được khoảng 40 000 bản trong vòng 2, 3 tháng. Thành công này khiến nhóm có hợp đồng với một hãng đĩa lớn là Universal và có suất tham dự đại nhạc hội Ozzfest vào năm 2002. Tới năm 2003, nhóm có album đầu tay với hãng đĩa lớn là XIII, album rất thành công khi vươn lên hạng 40 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và sau này bán được hơn 400 000 bản trên toàn thế giới. Sau đó, nhóm còn tiếp tục tung ra một số album như Savior Sorrow -06, Beautiful Stories For Ugly Children -2010, The Righteous&The Butterfly -2014 đều có chất lượng khá tốt. Tuy nhiên những album này chỉ thành công ở mức độ trung bình (đứng top 40-60 tại Mỹ). Tuy không thực sự thành công về mặt thương mại như kỳ vọng, Mushroomhead vẫn là một trong những band nhạc rất đáng nghe trong những năm gần đây. Solitaire Unraveling Sun Doesn't Rise Save Us Come On Qwerty
Powerman 5000 Powerman 5000 Powerman 5000, hay còn gọi là PM5K là một trong những nhóm nhạc Industrial Metal rất thành công trong lịch sử. Nhóm thành lập từ năm 91 bởi Spider One sau khi anh này bị đuổi khỏi một trường nghệ thuật. Spider tên thật là Mike Cummings và là em ruột của Robert Cummings. Hẳn nhiều người trong chúng ta đang tự hỏi vậy Robert Cummings là ai? Xin thưa rằng đây là một ngôi sao rất nổi tiếng trên bầu trời âm nhạc thế giới với nghệ danh là Rob Zombie. Anh này vừa có sự nghiệp âm nhạc thành công (với band nhạc White Zombie và dự án so lo) vừa là nhà sản xuất, đạo diễn và nhà viết kịch bản phim khá nổi tiếng. Rob Zombie là một tên tuổi rất nổi tiếng trong làng nhạc Rock và là một siêu sao nên rõ ràng việc thoát ra khỏi cái bóng quá lớn của anh trai mình đối với Spider là hết sức khó khăn. Sẽ luôn luôn có sự so sánh giữa 2 anh em dù họ có muốn hay không và đôi khi, áp lực dành lên những người thân của người nổi tiếng là rất lớn, đòi hỏi của giới hâm mộ thường cao hơn những người khác và những sự đánh giá, so sánh thường thiếu công bằng hơn. Tuy nhiên, với Powerman 5000, Spider cũng một phần nào đó chứng tỏ khả năng của bản thân. Trở lại với lịch sử band nhạc, sau khi thành lập, đến năm 94 thì PM5K tự tung ra album EP là True Force rồi tiếp tục tung ra album đầu tay The Blood – Splat Rating System. Cả 2 album trên đều rất thành công tại quê hương của nhóm nhạc là Boston. Những thành công ban đầu này khiến nhóm nhạc nhận được sự chú ý của một hãng đĩa lớn là Dreamworks nên sau đó có hợp đồng với hãng đĩa này. Đến năm 97, nhóm tung ra lại album The Blood – Splating Rating System dưới một tên mới là Mega!!! Kung Fu Radio. Âm nhạc trong album chưa thực sự là Industrial mà mang phong cách Funk , Alternative Metal. Sự thành công của album này khiến PM5K có suất tham dự đại nhạc hội Ozzfest vào những năm 96 và 97. Cùng với những chuyến lưu diễn rất thành công để quảng bá tên tuổi, PM5K vươn tới đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm với album kinh điển Tonight The Stars Revolt! Vào năm 99. Lúc này, âm nhạc của họ thay đổi rất nhiều khi chuyển hẳn sang phong cách Industrial Metal (tương tự như album Hellibilly Deluxe của người anh trai Rob Zombie trước đó 1 năm). Đây là một album dạng concept, tuy nhiên dưới dạng những bài hát trong album cùng nói về một chủ đề chứ không phải dạng có cốt truyện. Album có nhiều bài hát rất hay và sau này trở nên nổi tiếng như When Worlds Collide, Supernova, Tonight The Stars Revolt! Hay Nobodies Real… Dưới sự trợ giúp của những bài hát hay và những chuyến lưu diễn quảng bá tên tuổi trước đó, album rất thành công khi vươn lên hạng 29 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và sau này bán được hơn 1 triệu bản. Tuy nhiên, đúng lúc sự nghiệp đang tiến triển mạnh mẽ thì PM5K gặp vấn đề với album thứ 3 của họ là Anyone For Doomsday. Album này dự định tung ra vào năm 2001 nhưng sau khi nghe kỹ lại, Spider thấy nó không có gì tiến triển so với album cũ (quá giống album Tonight The Star Revolt!) nên quyết định làm lại. Lúc này, mâu thuẫn phát sinh giữa các thành viên nên chỉ còn 2 người ở lại band nhạc. Thất vọng với những gì diễn ra, Spider quyết đựng hủy việc tung ra album. Sau đó, còn rất nhiều rắc rối với band nhạc khi Spider quyết định tung ra album qua hãng đĩa riêng của mình nhưng lại bị hãng đĩa kiện và dừng phát hành. Sau những rắc rối rất lớn, sự nghiệp của PM5K dần đi xuống. Năm 2003, nhóm tung ra album Transform với âm nhạc mang nhiều tính Punk và ít tính Industrial. Dù vậy, album vẫn khá thành công khi vươn lên được hạng 27 tại Mỹ. Tuy nhiên, lúc này mâu thuẫn tiếp tục phát sinh rất lớn giữa band nhạc và hãng đĩa. Hãng Dreamworks bị mua lại bởi người khổng lồ Interscope nhưng hãng đĩa này lại không đề nghị ký hợp đồng với PM5K khiến nhóm nhạc phải tự xoay xở bằng hãng đĩa riêng của Spider. Sau album này, sự nghiệp của nhóm dần đi xuống với album Destroy What You Enjoy -2006 với phong cách Punk. Những album sau đó như Somewhere on the Other Side of Nowhere -2009, Builders of the Future -2014 đều không thành công dù đã quay trở lại chơi Industrial Metal. When Worlds Collide Nobody's Real Bombshell Free Super Villain
Strapping Young Lad Strapping Young Lad Chắc hẳn nhiều fan hâm mộ Metal còn nhớ tới cái tên Devin Townsend, một trong những band nhạc chủ đạo của Progressive Metal trong những năm gần đây. Đến đây ta gặp lại anh này trong dự án âm nhạc solo đầu tiên của anh này. Để hiểu rõ hơn về band nhạc ta cần quay về thời gian những năm đầu thập niên 90s, lúc này Townsend mới chỉ là một nghệ sỹ vô danh. Năm 1993, Townsend được mời đảm nhận vai trò hát chính trong album Se x & Religion của tay guitar huyền thoại Steve Vai. Sau đó, Townsend còn tham gia nhóm Hard Rock The Wildhearts của Anh Quốc một thời gian ngắn. Sau khi ghi âm một số album demo, Townsend nhận được sự chú ý của một số hãng đĩa nhưng rồi lại bị từ chối ký hợp đồng vì âm nhạc của anh này quá ồn và khó có thể thành công về mặt thương mại. Cuối cùng chỉ có hãng đĩa Century Media - một hãng độc lập chuyên về Extreme Metal đồng ý ký hợp đồng gồm 5 album với Townsend. Năm 1995, Townsend bắt tay vào ghi âm album đầu tay là Heavy As Really Heavy Thing, dưới tên Strapping Young Lad (SYL). Do không có nhiều tiền, album này chỉ ghi âm trong vòng 1 tuần. Đây chính xác là một album solo của Townsend khi anh chơi tất cả các nhạc cụ, hát và sử dụng một phần mềm để tạo ra tiếng trống điện. Âm nhạc trong album này chủ yếu mang tính Industrial có pha một chút ảnh hưởng của Thrash và Death Metal. Dù nhận được một số lời khen ngợi từ giới chuyên môn và các tạp chí chuyên môn về Metal, album gần như không thành công về mặt thương mại. Trong suốt 6 tháng, Strapping Young Lad chỉ bán được 143 đĩa. Chất lượng album không thực sự cao và bản thân Townsend cũng không hài lòng với album này (album này thực chất là tổng hợp các bài hát trong những album demo trước đó và được mixed lại với chất lượng không cao). SYL Tuy không thành công sau album đầu tay, Townsend vẫn quyết định thành lập một band nhạc thực sự bằng việc thuê thêm tay guitar Jed Simon, Byron Stroud – bass và tay trống huyền thoại Gene Hoglan. Năm 1997, nhóm tung ra album thứ 2 là City. Đây là một album hết sức mạnh mẽ và đầy giận dữ của nhóm nhạc. Một trong những đặc trưng trong âm nhạc của Townsend là phong cách ghi âm dầy đặc, nhiều lớp (wall of sound) thể hiện rất rõ nét trong album này. Âm nhạc trong album vẫn mang nặng phong cách Industrial. Dù đánh rất mạnh, album vẫn được giới chuyên môn đánh giá rất cao và xuất hiện trong top album của nhiều tạp chí danh tiếng như Kerrang! , Terrorizer, Revolver… Phong cách Extreme Industrial này khiến Strapping Young Lad trở nên khá nổi tiếng và tạo dựng được một lượng fan hâm mộ đông đảo cho Devin Townsend sau này. Detox Oh My F**king God Sau khi tung ra album kinh điển City, Townsend tạm dừng dự án SYL để theo đuổi sự nghiệp solo và đồng thời trở thành nhà sản xuất âm nhạc. Cùng lúc đó là sự rạn nứt mối quan hệ giữa anh này và hãng đĩa Century Media khiến cho sự nghiệp của nhóm. Phải đến năm 2002, SYL mới trở lại ghi âm album cùng tên Strapping Young Lad. Đây cũng là album đầu tiên mà các bài hát là sự phối hợp sáng tác của toàn bộ band nhạc. Album này được tung ra vào năm 2003. Âm nhạc trong album đã có sự biến đổi rất nhiều khi nghiêng hẳn về phía Death Metal và ít tính Industrial hơn. Album ghi âm thô và kém (đây là điểm khác biệt của album này so với những album khác của Devin Townsend thường được làm rất kỹ). Album chơi rất mạnh nhưng không thực sự thuyết phục được giới hâm mộ. Chất lượng album chỉ ở mức trung bình khá. Tuy vậy, sau thành công của City, album này lần đầu tiên có mặt trong bảng xếp hạng những album heatseeker của Mỹ ở vị trí 97 (bảng xếp hạng này dành cho những nghệ sỹ chưa bao giờ có album nào vào top 100 của Mỹ). Dù mâu thuẫn rất lớn với hãng đĩa Century Media, Townsend tuyên bố band nhạc thực hiện album này vì người hâm mộ âm nhạc của nhóm chứ không phải do hợp đồng với hãng đĩa. Sau album này, Townsend tuyên bố sự nghiệp của SYL đã kết thúc và band sẽ không còn tồn tại. Relentless (còn tiếp)
Strapping Young Lad Strapping Young Lad (tiếp theo) Tuy tuyên bố kết thúc sự nghiệp với band nhạc nhưng trong những năm tiếp theo, SYL liên tục đi lưu diễn với những band nhạc nổi tiếng như Fear Factory… và sau đó bất ngờ ký tiếp hợp đồng với hãng đĩa Century Media để tiếp tục ra thêm 2 albums nữa. Việc ký hợp đồng này gây shock cho rất nhiều fan hâm mộ và cũng chứng tỏ tính khí kỳ quặc của Devin Townsend. Do Simon và Stroud đang bận bịu với những dự án khác, Townsend và tay trống Hoglan bắt tay vào viết những bài hát cho album mới. Cặp đôi này cùng nhau sáng tác các bài hát trong vòng 6 tháng. Lúc này Townsend đang bị một bệnh hiếm gặp là bipolar disorder, để sáng tác và ghi âm album này, anh thậm chí còn dừng cả việc sử dụng thuốc chữa bệnh. Album Alien được tung ra vào năm 2005 tiếp tục là một đỉnh cao trong sự nghiệp của SYL. Album này, tuy vẫn chịu ảnh hưởng rất nặng của Extreme Metal, đã tích hợp thêm những ảnh hưởng của Progressive vào (cấu trúc phức tạp của các bài hát). Album cũng mang nhiều tính giai điệu hơn nhưng vẫn không phải là một album dễ nghe. Giới chuyên môn đánh giá album rất cao và thậm chí còn được chọn là album tiêu biểu của năm 2005 của một số tạp chí và nhà chuyên môn. Về mặt thương mại, album cũng có những bước tiến mới khi vươn lên hạng 32 trên bảng xếp hạng top Heatseekers của Mỹ. Love? Zen Giữa năm 2006, SYL bất ngờ tung ra album cuối cùng trong sự nghiệp của nhóm là The New Black. Đây tiếp tục là một album khá hay và dễ nghe hơn của nhóm khi nghiêng nhiều về phía giai điệu. Album tiếp tục khá thành công về mặt thương mại khi lần đầu tiên có mặt trong bảng xếp hạng chính thức của nước Mỹ, ở vị trí cuối cùng là 200 (hạng 8 trong top Heatseekers). Dù khá thành công, Townsend bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và giành nhiều thời gian hơn cho gia đình. Chính vì vậy, nhóm nhạc SYL rơi vào tình trạng ngừng hoạt động vô thời hạn. Có lẽ đây cũng là album cuối cùng trong sự nghiệp của nhóm. Sau album này, Devin Townsend tiếp tục theo đuổi sự nghiệp solo khá thành công (mà chúng ta đã biết trong phần viết về Progressive Metal). Wrongside Almost Again SYL là một band nhạc khá đặc biệt trong lịch sử Heavy Metal thế giới với việc tích hợp nhiều thể loại nhạc khác nhau như Death, Thrash, Black, Progressive, Avant Garde vào Industrial Metal. Townsend cũng là một nghệ sỹ kỳ lạ và đa tài hiếm có trong làng nhạc. Những người hâm mộ âm nhạc của anh này hẳn sẽ rất ngạc nhiên khi nghe nhạc của SYL vì nó rất giận dữ và mang nhiều tính Extreme (sự nghiệp solo của anh này các album thường mang tính giai điệu rất mạnh). Tuy chỉ có một sự nghiệp không dài, SYL vẫn là band nhạc được nhiều fan hâm mộ tôn thờ vì tính khác biệt và sáng tạo rất lớn trong âm nhạc của họ (dù âm nhạc không dễ nghe).
Orgy Orgy Orgy thành lập năm 1994 tại California, Mỹ bởi vocalist Jay Gordon, cặp guitarist Amir Derakh và Ryan Shuck, bassist Paige Haley và tay trống Bobby Hewitt. Trước khi thành lập band nhạc cặp đôi Gordon và Derakh đã tham gia thị trường âm nhạc với vai trò nhà sản xuất (đĩa nhạc Coal Chamber của band nhạc Nu Metal cùng tên do cặp đôi này sản xuất được đánh giá khá cao). Chính vì lý do này, sau khi Orgy thành lập, họ đã có nhiều thuận lợi khi quen biết nhiều nhân vật nổi tiếng trong thế giới âm nhạc. Một trong những người nổi tiếng này là Jonathan Davis – vocalist của band nhạc Nu Metal huyền thoại Korn. Nhận thấy tiềm năng của Orgy, Davis quyết định ký hợp đồng với hãng đĩa Elementree của anh này. Năm 1998, Orgy tung ra album đầu tay Candyass. Cùng với sự trợ giúp của Davis (anh này xuất hiện với tư cách khách mời trong bài hát Revival), album rất thành công khi vươn lên tới hạng 32 trên bảng xếp hạng của Mỹ và bán được hơn 1 triệu bản (đĩa bạch kim) tại nước này. Tại phần còn lại của thế giới, album cũng bán được số lượng gần tương đương với tại Mỹ. Tuy nhiên về mặt âm nhạc, album này mang gần như hoàn toàn tính Industrial chứ không phải phong cách Nu Metal đang nở rộ tại thời điểm bấy giờ. Ngay sau album đầu tay thành công, Orgy tiếp tục có sự trợ giúp rất lớn từ Korn (lúc này đang là những siêu sao trên bầu trời âm nhạc thế giới) khi tham gia chuyến lưu diễn rất nổi tiếng của band nhạc này là Family Values Tour cùng với Limp Bizkit, Incubus và Rammstein. Chuyến lưu diễn hết sức thành công và góp phần không nhỏ khiến tên tuổi của Orgy trở nên phổ biến rộng rãi trên bầu trời âm nhạc. Tiếp nối những thành công này, band nhạc tung ra album thứ 2 là Vapor Transmission vào năm 2000. Âm nhạc trong album này tiếp tục phong cách Industrial của album trước nhưng sử dụng rất nhiều những nhạc cụ điện tử syntherizer và nghiêng nhiều về phía giai điệu. Album này cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên đứng hạng 16 tại Mỹ và sau này đạt chứng chỉ đĩa vàng (hơn 500 000 bản bán được) tại Mỹ. Tuy nhiên, sau 2 album hết sức thành công, rạn nứt bắt đầu xuất hiện giữa band nhạc và hãng đĩa Elementree dẫn đến việc Orgy tự mình thành lập hãng đĩa riêng D1 để tung ra album cuối cùng trong sự nghiệp của nhóm là Punk Statik Paranoia vào năm 2004. Âm nhạc trong album này gần như thay đổi hoàn toàn khi chuyển từ Industrial sang Nu Metal giống phong cách của Korn và Linkin Park. Đây cũng là album đầu tiên của nhóm sử dụng giọng hát kiểu gào thét thường thấy của những band nhạc Nu Metal. Sự thay đổi này khiến Orgy bị chỉ trích dữ dội và fan hâm mộ phản đối. Album thất bại thảm hại và thậm chí còn không xuất hiện trên bảng xếp hạng của Mỹ. Thất bại này khiến band nhạc rơi vào tình trạng ngừng hoạt động rồi tan rã sau đó. Stitches Fiction Vague
Rob Zombie Rob Zombie Rob Zombie là một trong những nghệ sỹ đa tài nhất trong lịch sử của Heavy Metal thế giới. Anh này vừa là nhạc sỹ, vừa là đạo diễn kiêm nhà biên kịch, đồng thời là nhà sản xuất phim kinh dị có tiếng của Hollywood. Sau khi có một sự nghiệp khá hoành tráng với band nhạc White Zombie, Rob Zombie quyết định tiếp tục theo đuổi sự nghiệp solo sau khi White Zombie tan rã. Năm 1997, Rob quyết định mời thêm 1 số nghệ sỹ nữa để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc. Tới năm 1998, Rob tung ra album solo đầu tay là Hellibilly Deluxe với một loạt những bài hát mang âm hưởng Industrial Metal. Các bài hát trong album này lấy cảm hứng từ những bộ phim kinh dị - mà Rob rất yêu thích – trong lịch sử như Dracula, Lady Frankenstein… Với một loạt những bài hát rất hay như Dragula, Living Dead Girl hay Superbeast, album nhanh chóng nhận được rất nhiều sự chú ý của fan hâm mộ Metal trên thế giới. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên vị trí thứ 5 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được tới hơn 3 triệu bản (đây là album thành công nhất của Rob Zombie trong sự nghiệp). Sau khi rất thành công với album đầu tay, Rob liên tiếp thử sức trong lĩnh vực điện ảnh bằng cách tự mình đạo diễn một số bộ phim kinh dị. Khác với lĩnh vực âm nhạc, trong lĩnh vực điện ảnh Rob không thực sự thành công. Cũng chính vì những lý do này, phải đến cuối năm 2001 nhóm mới tung ra được album thứ 2 là Sinister Urge. Lúc này, âm nhạc trong album đã ít tính Industrial (sử dụng các nhạc cụ điện tử) hơn mà nghiêng dần về phía sử dụng các nhạc cụ thông thường. Dù nhận được nhiều lời khen chê lẫn lộn, album vẫn nhận được sự tán thưởng nhiệt liệt của fan hâm mộ. Do đó album tiếp tục thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 8 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được khoảng 2 triệu bản trên toàn thế giới. Tuy nhiên, sau 2 albums rất thành công, Rob lại quay trở lại phim trường để làm phim và lập gia đình. Bộ phim kinh dị House Of 1000 Corpses của anh, dù bị giới chuyên môn đánh giá thấp, vẫn rất thành công về mặt thương mại khi đem về lợi nhuận tới 7 triệu dollar và được fan hâm mộ đánh giá là một trong những bộ phim kinh dị hay nhất trong lịch sử. Sau những thành công lớn của House of 1000 Corpses, Rob tiếp tục thành công với phim kinh dị The Devils Reject và trở thành một ngôi sao trong làng phim kinh dị của Mỹ. Chính vì lý do này phải đến năm 2006 nhóm mới tiếp tục tung ra album thứ 3 là Educates Horse. Album chứng kiến sự thay đổi lớn trong âm nhạc của Rob Zombie khi chuyển từ Industrial sang dạng Metal truyền thống với những ảnh hưởng từ các nghệ sỹ Glam Rock như T Rex, Slade… Album này mang nặng tính thử nghiệm, tuy vậy vẫn khá thành công về mặt thương mại khi tiếp tục vươn lên vị trí thứ 5 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau khi hoàn thành album Educated Horse, Rob quay trở lại làm phim kinh dị và đều rất thành công với chùm 3 phim : Halloween 1, 2 và Tyrannosaurus Rex. Phải tới năm 2009, nhóm mới tung ra album thứ 4 là Hellbilly Deluxe 2. Album này tiếp tục thử nghiệm nhiều âm nhạc theo phong cách Alternative. Do không được PR một cách hợp lý, dù album có chất lượng khá tốt, nó cũng chỉ thành công ở mức độ khiêm tốn khi vươn lên vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Album cuối cùng cho tới thời điểm hiện tại của Rob là Venomous Rat Regeneration Vendor được tung ra vào năm 2013. Đây tiếp tục là một album có chất lượng khá tốt của Rob Zombie với việc quay trở lại phong cách Industrial Metal một cách mạnh mẽ. Album cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 7 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Dự kiến album tiếp theo của nhóm dự kiến sẽ được tung ra vào năm 2015. Rob Zombie là một nghệ sỹ đầy tài năng của Industrial Metal thế giới, những album của anh tung ra đều có chất lượng tốt và được nhiều fan hâm mộ Metal thế giới ưa thích. Một band nhạc mà những fan của Metal không nên bỏ qua. Dragula Never Gonna Stop (The Red Red Kroovy) Foxy, Foxy What Dead City Radio And The New Gods Of Supertown
Spineshank Spineshank Thành lập từ năm 1996 bởi một các cựu thành viên của nhóm nhạc Basic Enigma, Spineshank là một trong những fan hâm mộ của nhóm nhạc Industrial Metal huyền thoại Fear Factory. Sau đó, nhóm làm thân với tay guitar Dino Cazares của Fear Factory. Sau khi nghe một album demo của nhóm Cazares đồng ý để Spineshank chơi mở màn cho nhóm nhạc huyền thoại này. Fear Factory là một band nhạc lớn và sau khi được chơi mở màn cho band nhạc này, Spineshank nhận được sự chú ý của nhiều hãng đĩa và cuối cùng nhóm ký hợp đồng với hãng Roadrunner. Năm 1998, nhóm tung ra album đầu tay Strictly Diesel với sự trợ giúp của giọng ca chính Burton C. Bell của nhóm nhạc Fear Factory. Album này mang cả 2 phong cách: Industrial và Nu Metal lúc này đang rất thịnh hành. Tuy nhiên album này chỉ thành công ở mức độ vừa phải khi bán được khoảng 75 000 bản mà không xuất hiện trên bất kỳ bảng xếp hạng nào. Năm 2000, nhóm tung ra album thứ 2 là The Height Of Callousness, âm nhạc trong album này đã chuyển dần từ Nu Metal + Industrial sang Industrial Metal. Album đánh dấu một thành công nhỏ của nhóm khi đã vươn lên được tới hạng 183 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Những thành công này khiến nhóm có được vị trí trong đại nhạc hội Ozzyfest 2001 và tham gia lưu diễn cùng với một loạt những tên tuổi nổi tiếng như Disturbed, HedPe, Orgy hay Mudvayne. Năm 2003, nhóm tung ra album cuối cùng trong thời kỳ đỉnh cao là Self-Destructive Pattern. Vẫn với phong cách pha trộn Nu Metal và Industrial, album khá thành công khi vươn lên hạng 89 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Single chính của album là Smothered bất ngờ nhận được đề cử giải thưởng Grammy cho hạng mục trình diễn Metal xuất sắc nhất. Đây cũng là album thành công nhất cả về mặt thương mại lẫn chất lượng âm nhạc của nhóm. Sau thành công của album, nhóm còn tổ chức lưu diễn vòng quanh châu Âu với những band nhạc như Ill Nino và Chimaira. Tuy nhiên, ngay sau đó, nội bộ nhóm bất ổn và tan rã. Sau đó nhóm tái hợp lại và có tung ra 1 album nữa là Anger Denial Acceptance nhưng không thực sự thành công. Tuy không thành công về mặt thương mại, Spineshank vẫn là một trong những gương mặt tiêu biểu và rất đáng chú ý trong lịch sử của Industrial Metal. Stovebolt Synthetic Beginning of the end Nothing Left For Me
Static X Static X Static X là một trong những nhóm nhạc thành công nhất trong lịch sử của Industrial Metal vào cuối những năm 90s, đầu thập kỷ 2000s. Nhóm thành lập năm 1994 tại California, Mỹ bởi giọng ca chính Wayne Static. Wayne Static là một vocalist rất đặc biệt và dễ nhận ra trong thế giới của Metal bởi bộ tóc dài luôn dựng đứng lên trời. Trước khi thành lập Static X, Static chơi chung với Billy Corgan của nhóm nhạc Smashing Pumpkins trong band nhạc Deep Blue Dream. Sau này, khi Smashing Pumpkins dần trở nên nổi tiếng, Corgan quyết định rời bỏ Deep Blue Dream để tập trung vào nhóm nhạc Smashing Pumpkins. Điều này khiến Wayne Static phải tự lập 1 band nhạc mới để tiếp tục sự nghiệp và đó chính là band Static X. Năm 1998, Static X ký hợp đồng với hãng đĩa lớn Warner Bros và tung ra album đầu tay Wisconsin Death Trip. Đây là một album rất hay với âm nhạc là phong cách pha trộn giữa Rob Zombie và Fear Factory kết hợp thêm một chút ảnh hưởng của Nu Metal. Dù album chỉ vươn lên tới hạng 107 trên bảng xếp hạng của Mỹ, phong cách âm nhạc khá mạnh mẽ và mới mẻ của họ giúp cho họ có một lượng fan hâm mộ rất lớn. Album này sau đó thậm chí còn đạt đĩa bạch kim (với hơn 1 triệu bản bán được tại Mỹ). Thành công rất lớn của album đầu tay tạo ra áp lực lớn với nhóm nhạc để có thể viết một album có chất lượng như album trước. Wayne Static là một người cả nghĩ, anh này mong muốn các thành viên band nhạc tập trung viết nhạc cho album sau trong quá trình lưu diễn quảng bá cho album đầu tay. Tuy nhiên, các thành viên khác trong band không quá quan tâm tới vấn đề này và muốn kết thúc lưu diễn mới nên bắt tay vào làm việc với album tiếp theo. Không nhận sự hỗ trợ từ các bạn diễn, Wayne Static tự mình sáng tác tất cả các bài hát cho album tiếp theo trong 2 năm lưu diễn. Tuy nhiên, khi Static đưa ra các bài hát mới, các thành viên còn lại không hài lòng và tay guitar/keyboard Fukuda rời khỏi band nhạc. Với 3 thành viên, nhóm vẫn ghi âm album thứ 2 là Machine và tung ra vào năm 2001. Album này còn nghiêng nhiều về phía Industrial Metal hơn album trước đó và sử dụng khá nhiều giọng ca kiểu gào thét. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 11 trên bảng xếp hạng của Mỹ và đạt chứng chỉ đĩa vàng. Đây vẫn là một album rất hay với những bài hát nổi tiếng như Black And White, Cold… Sau 2 albums rất thành công, âm nhạc của Static X bắt đầu thay đổi kể từ album thứ 3 là Shadow Zone vào năm 2003. Lúc này âm nhạc của nhóm bắt đầu chuyển sang mang nhiều tính giai điệu hơn. Xu hướng này tiếp tục với album Start A War vào năm 2005 với phần âm nhạc mạnh mẽ hơn so với album trước. Cả 2 albums đều khá thành công khi xếp hạng 20 và 29 tại Mỹ tuy vậy không thể đạt được các chứng chỉ đĩa vàng hoặc bạch kim như 2 albums đầu tay. Tới album thứ 5 là Cannibal -2007, âm nhạc của nhóm tiếp tục thay đổi với sự tích hợp thêm cả những đoạn guitar solo vào. Tuy nhiên, album không thực sự thành công khi chỉ xếp hạng 36 tại Mỹ. Album cuối cùng của nhóm là Cult Of Static tiếp tục xu hướng này, tuy nhiên sử dụng nhiều âm thanh điện tử hơn. Album này thành công hơn album trước khi vươn lên tới hạng 16 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Tuy nhiên, sau album này, Wayne Static tuyên bố giải tán nhóm và 1 năm sau đó anh này qua đời ở tuổi 48. Cái chết của Static có lẽ sẽ đóng lại câu chuyện về band nhạc này. Push It Black And White So Dirthouse Cannibal Stingray
Một trong những yếu điểm của Industrial trong những năm gần đây là sự thiếu vắng của những band nhạc mới có chất lượng. Tuy nhiên, những band nhạc gạo cội thì không hề có dấu hiệu xuống sức. Static X là band nhạc cuối cùng đóng lại dòng nhạc này.
Dòng nhạc Industrial Metal là dòng nhạc hình thành cuối cùng trong thập niên 80s, trong những năm sau đó (89-90) không có thêm bất kỳ dòng nhạc nào được hình thành mà phải đợi đến năm 1991 nơi ta sẽ có Avant Garde và Gothic Metal. Cũng không còn nhiều những dòng nhạc lớn nữa (chỉ còn 7 dòng nhạc nữa là lịch sử của Heavy Metal sẽ khép lại). Nhưng trước khi đến với những dòng nhạc của thập kỷ 90s, chúng ta sẽ điểm qua 1 số band nhạc không nằm trong bất kỳ dòng nhạc nào từ năm 87 tới 91. Trước tiên là White Zombie.
White Zombie White Zombie White Zombie là một trong những huyền thoại của Heavy Metal thế giới. Nhóm thành lập từ năm 1995 bởi cặp đôi nổi tiếng: giọng ca chính Rob Zombie và tay guitar bass nữ huyền thoại Sean Yseult. Dù là một tay bass nữ, Yseult luôn được đánh giá rất cao và thậm chí còn được đánh giá là một trong những bassist xuất sắc nhất trong lịch sử Heavy Metal. Khi mới thành lập, cặp đôi Zombie và Yseult đang hẹn hò. Khởi đầu, White Zombie chơi nhạc theo phong cách Noise Rock và không nhận được nhiều sự quan tâm của giới hâm mộ. Bằng chứng là EP đầu tiên của họ - Gods On Voodoo Moon chỉ bán được khoảng 100 bản. Đến năm 87, nhóm tung ra album đầu tay Soul Crusher với phong cách Noise Rock. Dù album này không mấy thành công về mặt thương mại (chỉ có khoảng 4 ngàn bản được bán ra) nhưng nó lại được khá nhiều ngôi sao có tên tuổi trong làng âm nhạc như Kurt Cobain hay Iggy Pop yêu thích. Năm 1989, White Zombie tung ra album thứ hai là Make Them Die Slowly. Âm nhạc trong album này của nhóm thay đổi gần như hoàn toàn khi chuyển hẳn sang Metal với rất nhiều ảnh hưởng của Thrash. Ngoài ra phong cách Doom kiểu cổ của Black Sabbath cũng đóng vai trò rất lớn trong album này. Thử tưởng tượng Black Sabbath kết hợp với Metallica và Slayer thì ta sẽ có âm nhạc của White Zombie tại lúc này. Do không có nhiều tiền để thu âm, chất lượng thu âm của album rất kém. Nhiều bài hát – do hết tiền – đã không thể thu âm và bị cắt ra khỏi album. Dù được khá nhiều fan Metal yêu mến, album vẫn không thể thành công về mặt thương mại. Phải mãi đến sau này, khi White Zombie ký hợp đồng với một hãng đĩa lớn là Geffen thì họ mới thực sự cất cánh. Năm 1992, họ tung ra album thứ 3 là La Sexorcisto: Devil Music Volume One. Album này hết sức thành công khi kết hợp phong cách Groove Metal với Industrial và Alternative. Phong cách kết hợp Groove Metal với nhạc Dance này hoàn toàn mới mẻ và nhận được sự chào đón nhiệt liệt của giới hâm mộ và chuyên môn trên toàn thế giới. Trong hơn 2 năm sau đó, nhóm liên tục đi lưu diễn với những band nhạc có tên tuổi khiến tên tuổi của nhóm ngày càng trở nên phổ biến. Single chính trong album, bài hát Thunder Kiss 65 liên tục được phát trên MTV và việc chương trình TV nổi tiếng Beavis and Butt-head bắt đầu sử dụng những bài hát của họ khiến band hết sức thành công. Tuy được tung ra từ đầu năm 92 nhưng phải đến đầu năm 93, album mới có mặt trong bảng xếp hạng của Mỹ. Sau đó album còn vươn lên tới vị trí 26 và giành giải thưởng đĩa vàng vào cuối năm (bán được hơn 500 000 bản). Sau đó album này thậm chí còn bán được 2 triệu bản tại Mỹ. Năm 1995, nhóm tung ra album cuối cùng là Astro Creep: 2000. Album này mạnh hơn rất nhiều so với album trước đó và mang hoàn toàn tính Industrial (album trước mang nặng tính Groove Metal). Album này sau đó được giới chuyên môn và người hâm mộ chào đón nhiệt liệt. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 6 tại Mỹ và sau này bán được tới hơn 2, 6 triệu bản. Đây cũng là album thành công nhất về mặt thương mại của nhóm. Một số bài hát trong album cũng rất được yêu thích như More Human Than Human hay Supercharger Heaven. Tuy nhiên, sau những thành công lớn, quan hệ giữa cặp đôi Zombie và Yseult tan vỡ. Sau đó, họ cũng không còn duy trì được niềm đam mê trong âm nhạc. Vào năm 1998, band nhạc này tan rã để lại rất nhiều nuối tiếc cho fan hâm mộ. Rob Zombie tham gia sự nghiệp solo rất thành công như ta đã biết ở phần trước. Ratmouth Thunder Kiss '65 More Human Than Human I'm Your Boogie Man
Sanctuary Sanctuary Sanctuary là một band nhạc không được nhiều người biết đến, không phải vì âm nhạc của nhóm có vấn đề mà chủ yếu là do những đĩa nhạc của họ khá hiếm. Tuy vậy, những thành viên của band nhạc thì có lẽ không quá lạ lùng với những người yêu Metal trên toàn thế giới vì đây chính là nhóm nhạc tiền thân của band nhạc Power Metal rất được yêu mến Nevermore. Sanctuary thành lập năm 85 tại Seatle, Mỹ bởi Warrel Dane – giọng ca theo phong cách Opera rất được yêu mến của Nevermore, cặp đôi guitar Lenny Rutledge và Brad Hull, tay bass Jim Sheppard và tay trống Dave Budbill. Sau khi thành lập nhóm, tung ra album demo và nhận được hợp đồng với hãng đĩa lớn Epic. Năm 1987, nhóm tung ra album đầu tay Refuge Denied. Album này được thực hiện với sự giúp sức rất lớn của Dave Mustaine, giọng ca chính của Megadeth. Chính Mustaine là nhà sản xuất và thậm chí còn xuất hiện với tư cách khách mời trong album. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của phong cách Power Metal kiểu Mỹ với những cú riff theo phong cách Thrash Metal. Giọng ca của Dane là một điểm sáng trong album. Khác với phong cách hát nhiều tính giai điệu trong Nevermore, Dane thường sử dụng giọng gào thét ở những nốt cao (khiến ta gợi nhớ tới Rob Halford của nhóm nhạc huyền thoại Judas Priest). Album này khá thành công khi bán được tới hơn 200 000 bản tại Mỹ. Sau khi tung ra album đầu tay khá thành công, Sanctuary liên tục đi lưu diễn với Megadeth và Warlock. Năm 1989, nhóm tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là Into The Mirror Black. Lúc này Mustaine không còn là nhà sản xuất nữa và đó thực sự là điều đáng mừng với band nhạc. Mustaine là một nhạc sỹ tài năng nhưng chỉ là một nhà sản xuất tồi, do đó album đầu tiên của nhóm chất lượng ghi âm không cao. Album thứ 2 của nhóm được ghi âm tốt hơn, chất lượng các bài hát cao hơn khi mang tính giai điệu rõ nét. Giọng ca của Dane vẫn là một điểm sáng trong âm nhạc của nhóm. Sau 2 albums chất lượng tốt, có thể nói Sanctuary đã thổi một làn gió mới vào thế giới của thế giới Heavy Metal. Thế nhưng, đó không phải là điều mà những nhà lãnh đạo của hãng đĩa Epic suy nghĩ. Vào đầu thập niên 90s, dù chất âm nhạc của Sanctuary đặc biệt, hãng đĩa vẫn yêu cầu họ chuyển sang chơi Grunge, một thể loại âm nhạc rất thịnh hành tại thời điểm bấy giờ. Các thành viên của Sanctuary từ chối thay đổi phong cách và band nhạc tan rã vào năm 1992. Sau đó, Dane và Shepperd thành lập ra nhóm Metal huyền thoại Nevermore sau này. Phải đến năm 2010, Dane mới quyết định tái lập band nhạc và chuẩn bị ghi âm một album mới. Lúc đầu, tay guitar Jeff Loomis của nhóm Nevermore cũng tham gia band nhạc (Loomis cũng là thành viên của Sanctuary trước khi band nhạc tan rã, tuy nhiên lúc đó band nhạc này không còn ghi âm album nào thêm nữa cả). Đến năm 2011, biến cố lớn xảy ra khi Loomis rời bỏ Nevermore khiến band này tan rã. Do mâu thuẫn với Dane, Loomis cũng không quay trở lại Sanctuary nữa mà tham gia những dự án khác. Phải đến năm 2014 nhóm mới tung ra album thứ 3 là The Year The Sun Died. Đây là một album khá hay và là sự kết hợp giữa 2 phong cách Nevermore và Sanctuary (giọng hát gào thét ở những nốt rất cao). Dù sự nghiệp nhiều biến động Sanctuary vẫn là một trong những band nhạc có tài và rất đáng nghe của Metal thế giới. Die For My Sins The Mirror Black Frozen Arise and Purify
Impellitteri Impellitteri Trong lịch sử của nhạc Metal thế giới có không ít band nhạc được dẫn dắt bởi những anh hùng guitar. Nhiều anh hùng guitar trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới và được hàng ngàn, hàng vạn người tôn thờ. Tuy vậy, có không ít những anh hùng guitar ít được đông đảo fan hâm mộ biết đến hơn dù tài năng của họ không hề kém những anh hùng guitar nổi tiếng. Impelliteri là một trong những trường hợp anh hùng tài năng nhưng không mấy nổi tiếng. Nhóm thành lập năm 87 tại Mỹ bởi tay guitar Chris Impellitteri và giọng ca Bob Rock. Impelliteri là một tài năng guitar hiếm có và thường hay được so sánh với tay guitar huyền thoại Yngwie Malmsteen. Cả 2 có khá nhiều đặc điểm chung như: đều có tốc độ chơi nhạc rất cao (Malmsteen có phần chơi nhanh hơn 1 chút mà thôi), cả 2 đều chơi theo phong cách neoclassical – chuyển soạn nhiều nhạc cổ điển vào các bài hát và đều là những tay guitar shredding siêu hạng. Tuy tốc độ có phần chậm hơn so với Malmsteen, Impellitteri lại được đánh giá cao hơn Malmsteen về khả năng sáng tác các bài hát. Các bài hát của anh này thường ít có xu hướng khoe kỹ năng chơi nhạc hơn mà tập trung vào mặt giai điệu và cảm xúc. Các bài hát thường có tốc độ cao và phong cách Speed Metal cổ - rất phổ biến tại châu Âu vào thời điểm những năm 80s. Trong cả sự nghiệp của mình Impellitteri chỉ làm việc với 2 giọng ca chính. Ngoài Rob Rock là Graham Bonnet (nhóm Rainbow). Cả 2 giọng ca này đều có chất giọng tuyệt vời và có đóng góp không nhỏ vào trong sự nghiệp của band nhạc. Nhóm có khá nhiều album tuy nhiên phong cách chơi nhạc của nhóm gần như không thay đổi, tuy vậy các album đều có chất lượng khá tốt. Tuy nhiên, vẫn có một số album có chất lượng cao hơn những album khác như Stand In Line -1988, Screaming Symphony -96 hay Wicked Maiden -2009. Âm nhạc của band khá giống với những album Metal cổ của thập kỷ 80s (thiếu tính hiện đại) nhưng kỹ năng chơi nhạc rất tốt của Impellitteri luôn làm cho người hâm mộ cảm thấy sửng sốt và giữ cho âm nhạc của nhóm luôn mới mẻ. Tuy không có được danh tiếng như Malmsteen hay nhiều tay guitar khác Impellitteri vẫn là một tên tuổi nhận được nhiều sự yêu mến của những người yêu Metal thế giới, đặc biệt là những người thích phong cách chơi nhạc kỹ thuật của những anh hùng guitar. Stand In Line Hungry Days 17th Century Chicken Pickin' Wicked Maiden
Danzig Danzig Với những fan hâm mộ và yêu mến Thrash Metal, cái tên Misfits là cái tên khá quen thuộc. Misfits thực chất là band nhạc Punk được thành lập vào năm 77 và đến đầu thập kỷ 80, nhóm tung ra 2 albums kinh điển Walk Among Us -82 và Earth A.D./Wolfs Blood -83 trước khi tan rã. Tuy sự nghiệp ngắn ngủi, Misfits có ảnh hưởng rất lớn tới thế giới âm nhạc sau này, đặc biệt là tới sự hình thành và phát triển của Hardcore, Horror Punk và Thrash Metal. Hầu như tất cả những band Thrash Metal gạo cội đều là fan hâm mộ của band nhạc này (như Metallica, Megadeth, Anthrax, Slayer…). Tuy không mấy thành công về mặt thương mại (các album của họ bán được rất ít), nhóm vẫn được một bộ phận không nhỏ fan hâm mộ tôn thờ. Và Danzig không phải là ai xa lạ mà chính là giọng ca chính và người sáng lập ra band nhạc huyền thoại này. Sau khi band nhạc huyền thoại Misfits tan rã, Danzig thành lập ra một nhóm nhạc khác lấy tên là Samhain. Trong một buổi trình diễn tại khách sạn Ritz, New York, nhà sản xuất nhạc nổi tiếng Rick Rubin nhận thấy tiềm năng to lớn của Danzig nên đã thuyết phục ông này đầu quân cho hãng đĩa Def American của chính Rubin sáng lập. (Def American là hãng đĩa của band nhạc Slayer). Rubin lúc đó muốn Danzig trở thành giọng ca chính của một siêu nhóm (tập hợp các thành viên của những band nhạc nổi tiếng khác) trong hãng của ông này. Danzig không đồng ý rời bỏ band nhạc nên Rubin đành nhượng bộ và ký hợp đồng với band. Tuy nhiên, Rubin đề nghị đổi tên band thành Danzig và lần này đề nghị được chấp thuận. Năm 1988, Danzig tung ra album đầu tay là Danzig. Album này khởi đầu không mấy thành công về mặt thương mại khi chỉ vươn lên hạng 125 tại Mỹ. Tuy nhiên đến năm 93, Danzig bất ngờ tung ra bản Hit Mother hết sức được yêu mến và khiến album thành công trở lại khi nhận được chứng chỉ đĩa vàng (bán được hơn 500 000 bản). Cùng với hãng đĩa Def American, Danzig còn tung ra thêm 3 albums nữa là Danzig II: Lucifuge -90, Danzig III: How The Gods Kill – 92 và Danzig 4 -94. Cả 4 album này đều chơi theo phong cách Doom Metal cổ kết hợp với Blues Rock chứ không phải là Punk Rock. Giọng hát của Danzig rất mạnh mẽ và đặc biệt và là những điểm sáng trong âm nhạc của nhóm. Về mặt lyrics, nhóm luôn sử dụng phong cách Satanic. Các album này đều rất thành công khi vươn lên hạng 74, 29 và 24 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Tuy vậy, điều đáng buồn là Danzig không còn có những bản hit như Mother khiến số lượng đĩa bán dược không cao như album đầu tay. Sau 4 album khá thành công, nhóm gặp trục trặc với hãng đĩa Def American và Rubin nên quyết định chấm dứt hợp tác với hãng đĩa. Điều này chỉ là sự khởi đầu cho một loạt những vấn đề nội bộ của Danzig mà thôi. Trong những năm sau đó, tranh cãi gay gắt giữa những thành viên khiến band nhạc bất ổn khi các thành viên lần lượt rời nhóm và chỉ còn lại một mình Danzig. Đến năm 96, Danzig thuê thêm các nghệ sỹ khác và tung ra album thứ 5 là Blackacidevil. Đây thực ra là một album solo của Danzig với phong cách Industrial. Sự thay đổi trong phong cách chơi nhạc này không thuyết phục nổi fan hâm mộ với số lượng đĩa bán được khá thấp. Phong cách này tiếp tục với album thứ 6 là Satans Child vào năm 99. Album này thậm chí còn thất bại nặng nề hơn nữa khi chỉ đứng hạng 149 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau những thất bại liên tiếp, Danzig quyết định quay trở lại với phong cách Doom + Hard Rock cũ, lân này kết hợp thêm cả Gothic Metal trong 3 albums tiếp theo là I Luciferi -2002, Circle Of Snakes -2004 và Deth Red Sabaoth -2010. 3 albums này đều có chất lượng tốt, đặc biệt là album Deth Red Sabaoth. Hiện tại Danzig đang trong quá trình sáng tác cho album tiếp theo của nhóm. Danzig là một band nhạc khá hay, đặc biệt là với những fan hâm mộ của Heavy Metal và Hard Rock cổ. 4 albums đầu tay và album cuối cùng Deth Red Sabaoth là những album có chất lượng tốt nhất của nhóm. Mother I'm The one Dirty Black Summer I Don't Mind The Pain Ju Ju Bone
Gwar Gwar Gwar là một trong những band nhạc khá kỳ lạ trong lịch sử của Heavy Metal thế giới. Nhóm thành lập năm 1984 tại Virginia, Mỹ bởi giọng ca chính Dave Brockie – ông này cũng là thành viên ổn định duy nhất của band nhạc.Các thành viên trong band nhạc thường ăn mặc phóng túng, hóa trang thành rất nhiều những loại quái vật khác nhau trên sân khấu biểu diễn. Trong các buổi biểu diễn, họ thường sử dụng bạo lực, s ex và những trò đùa thô tục, trào phúng khác để biến những show diễn này trở nên rất đáng xem. Với phong cách đặc biệt có phần gây Shock này, họ còn được giới truyền thông xếp vào nhóm Shock Rock. Với phong cách gây nhiều tranh cãi, nhóm trở nên rất nổi tiếng vào những năm đầu thập kỷ 90s. Tuy vậy, mọi thứ đều có 2 mặt của nó: việc tạo ra một phong cách kỳ quặc gây nhiều tranh cãi giúp cho nhóm nhanh chóng nổi tiếng nhưng sự nổi tiếng này lại che phủ khả năng âm nhạc thực sự của nhóm. Âm nhạc của Gwar khá tốt và pha trộn nhiều phong cách khác nhau như: Hardcore Punk trong album đầu tay Hell-O, Heavy Metal cổ kết hợp với Glam, Thrash trong một số album như Scumdogs Of The Universe, America Must Be Destroyed, This Toilet Earth, Thrash Metal kết hợp với Punk như Ragnarok, phong cách thử nghiệm (Metal, Country, Jazz) trong Carnival Of Chaos, Punk Rock trong We Kill Everything hay Thrash Metal trong những album sau này. Khá nhiều album trong số những album kể trên có chất lượng khá tốt như Scumdogs Of The Universe -90, America Must Be Destroyed -92, This Toilet Earth -94 hay Carnival Of Chaos – 97. Đây là những album mà fan của Heavy Metal không nên bỏ qua vì có nhiều bài hát hay. Sự nghiệp của Gwar có nhiều thăng trầm, họ rất nổi tiếng trong những năm đầu thập niên 90s nhưng sau đó nhanh chóng rơi vào lãng quên. Tới năm 2014, giọng ca chính Dave Brockie của nhóm qua đời do dùng Heroin quá liều khiến tương lai của band nhạc trở nên u ám. Các thành viên còn lại vẫn mong muốn tiếp tục sự nghiệp bằng cách thuê một giọng ca nữ chính mới. Tuy vậy, có một điều chắc chắn là âm nhạc của band sẽ thay đổi rất nhiều, chúng ta sẽ cần chờ xem sự thay đổi này là tích cực hay tiêu cực trong những năm tới đây. The Road Behind Sick Of You Penguin Attack War Party Let Us Slay
Doro Doro Trong lịch sử của Heavy Metal thế giới, đến tận những năm cuối thập kỷ 80s, sự tham gia của nữ giới là rất khiêm tốn. Chỉ có một số lượng rất nhỏ nữ giới tạo dựng được tên tuổi trong làng nhạc Metal. Trong những thập niên 2000s và sau này, vai trò của giới nữ cũng lớn dần lên, đặc biệt là những vocalist. Một số vocalist nữ - sau khi rất thành công trong band nhạc chính của mình đã tham gia sự nghiệp solo và được đánh giá khá cao như Tarja của nhóm Nightwish. Tuy nhiên, những người đặt nền móng cho phong cách solo này phải kể đến những tên tuổi như Lita Ford hay Doro Pesch. Doro Pesch xuất thân là vocalist của nhóm nhạc Metal Warlock của Đức. Với ngoại hình bốc lửa và giọng ca khá đặc biệt của Doro, nhóm nhạc Warlock được đánh giá rất cao. Thứ âm nhạc mà Warlock theo đuổi là phong cách Metal cổ và những bản ballad có chất lượng rất tốt. Nhóm nhạc này dần tạo dựng được tên tuổi tại châu Âu vào những năm giữa và cuối thập niên 80s – thời điểm mà những band Metal chủ yếu có các giọng ca chính là nam giới. Chưa thỏa mãn với những gì đạt được, Doro quyết định phải chinh phục thị trường lớn nhất là nước Mỹ. Để đạt được mục đích này, Doro chuyển đến sống tại New York Mỹ. Nhóm sau đó tung ra 1 album khá thành công là Triumph And Agony và gây ra một tiếng vang nhỏ tại Mỹ (vươn lên được vị trí thứ 80s trên bảng xếp hạng của nước này. Tuy nhiên, những thành công này lại chính là mầm mống cho sự chia rẽ của band nhạc Warlock khi các thành viên còn lại của nhóm lần lượt bỏ đi chỉ còn lại một mình Doro. Do những vấn đề tranh cãi bản quyền, Doro không thể tiếp tục lấy tên Warlock mà phải chuyển sang một band nhạc mới là Doro. Đến năm 89, Doro tung ra album đầu tay là Force Majeure với phong cách nghiêng về những bản ballad dễ nghe. Tuy nhiên, album này không thực sự thành công khi không gây ra được tiếng vang tại Mỹ (chỉ xếp hạng 154). Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là album này lại rất thành công tại châu Âu, đặc biệt là tại Đức và Thụy Sỹ (album thu hoàn toàn tại Mỹ). Không nản chí, Doro tung tiếp ra album Doro vào năm 90. Cũng giống như những album trước, album này hoàn toàn thu âm tại Mỹ. Tuy vậy, tại thời điểm đầu những năm 90s, Alternative và Grunge đang thống trị thị trường nước Mỹ. Album thứ 2 của Doro thậm chí còn thất bại thảm hại hơn khi không xuất hiện trên các bảng xếp hạng của Mỹ. Sau thất bại này, hãng đĩa của Doro quyết định không bán đĩa của Doro trên thị trường Mỹ mà chỉ bán tại châu Âu. Mãi đến những thời điểm sau này, khi Metal cổ dần được yêu thích trở lại thì Doro mới quay trở lại lưu diễn và cô trở thành niềm cảm hứng của rất nhiều những nữ nghệ sỹ trong thế giới Metal. Trong suốt sự nghiệp kéo rất dài của mình, Doro luôn tung ra những album mới một cách khá đều đặn dù các thành viên của nhóm thay đổi rất nhiều. Hiện tại, cô đã có 16 album solo và là một biểu tượng của nữ quyền trong Metal. Doro còn được rất nhiều fan hâm mộ gọi là nữ hoàng của Metal châu Âu. Âm nhạc của Doro là phong cách Hard Rock/Metal cổ. Hard Times Unholy Love White Wedding Herzblut Raise Your Fist In The Air
Tourniquet Tourniquet Metal là một thế giới nhiều màu sắc với rất nhiều những luồng tư tưởng khác nhau cả về cuộc sống, tôn giáo. Ngay trong nội bộ của Metal cũng đã có những band nhạc theo những xu hướng chống đối nhau về mặt tôn giáo. Chúng ta đã biết Black Metal có tư tưởng chống lại Thiên Chúa giáo, tuy vậy cũng có không ít band nhạc mang tư tưởng Thiên Chúa (một trong những band tiêu biểu chúng ta đã gặp trong phần Glam Metal là Stryper). Cũng giống như Stryper, Tourniquet là một band nhạc Christian Metal (với các thành viên mang tư tưởng của Thiên Chúa Giáo, ca ngợi Thiên Chúa). Nhóm thành lập năm 1989 tại Mỹ bởi tay trống Ted Kirkpatrick – người đã từng có thời gian tham gia biểu diễn cùng nhóm nhạc Doom Metal huyền thoại Trouble. Năm 1990, nhóm tung ra album đầu tay là Stop The Bleeding. Dù đây là một album khó tìm (chỉ bán trong những cửa hàng dành cho dân theo đạo Thiên Chúa), album vẫn nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới hâm mộ Metal trên thế giới. Âm nhạc trong album này của nhóm là sự pha trộn giữa Thrash Metal với Speed và Heavy Metal cổ. Trong album này, nhóm sử dụng 2 giọng hát chính: 1 hát theo phong cách Melodic và 1 hát theo phong cách Thrash đầy giận dữ. Sau album đầu tay khá thành công, Tourniquet nhận được sự chú ý của hãng đĩa chuyên về Metal nổi tiếng là Metal Blade. Hãng này ký hợp đồng phân phối đĩa của band nhạc trong cộng đồng Metal nói chúng. Năm 1991, band nhạc tung ra album thứ 2 là Psycho Surgery. Lúc này âm nhạc của nhóm thay đổi khá nhiều khi những ảnh hưởng từ Metal cổ gần như không còn, thay vào đó họ tích hợp thêm ảnh hưởng của Neoclassical và Alternative Metal trên nền của Thrash. Album này thậm chí còn được đánh giá cao hơn rất nhiều so với album đầu tay vì âm nhạc khá lạ và sáng tạo. Album thứ 3 của nhóm là Pathogenic Ocular Dissonance tiếp tục là album rất hay với kỹ năng chơi nhạc cụ rất tốt (phong cách Technical Thrash) của các thành viên trong nhóm. Âm nhạc trong album này đánh mạnh, rất giận dữ và có tích hợp thêm cả những ảnh hưởng của Jazz, Blues, Progressive và cả nhạc cổ điển. Album này tiếp tục được giới chuyên môn đánh giá rất cao và có chất lượng tốt. Tuy nhiên đây là album cuối cùng với đội hình kinh điển của nhóm. Sau album này, vocalist Guy Ritter rời nhóm do không hài lòng với đường hướng phát triển của band nhạc. Kể từ đây thì âm nhạc của Tourniquet cũng thay đổi. Những album tiếp theo trong thập kỷ 90s của nhóm chuyển sang phong cách Metal cổ (Power, Melodic) nhưng không mấy thành công. Phải đến những năm 2000s, nhóm mới quay trở lại ghi âm những album mang nhiều phong cách Thrash Metal. Sự trở lại này được đánh dấu bằng album Microscopic View of a Telescopic Realm vào năm 2000. Âm nhạc trong album này theo phong cách Technical Thrash với những ảnh hưởng của Progressive. Album tiếp theo là Where Moth and Rust Destroy -2003, tiếp tục phong cách này với sự trợ giúp của tay guitar huyền thoại Marty Friedman và tay guitar Bruce Franklin của nhóm Trouble. Đây là một album khá hay và cũng nhận được khá nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn cũng như fan hâm mộ. Tuy vậy, sau album này là một thời kỳ nghỉ khá dài của nhóm nhạc. Phải đến năm 2012, nhóm mới tung ra album tiếp theo là Antiseptic Bloodbath. Album này có chất lượng khá tốt. Dù là một band nhạc với những bài hát mang nặng tính tôn giáo, các bài hát của Tourniquet không mang nhiều tính giáo điều, truyền đạo. Chính vì lý do này, âm nhạc của nhóm trở nên đáng nghe hơn và mang nhiều tính triết lý. Với một cách tiếp cận thông minh, đây là một band nhạc không nên bỏ qua với những fan hâm mộ Metal thế giới. Ark suffering A Dog's Breakfast Pathogenic Ocular Dissonance Microscopic View of a Telescopic Realm Where Moth and Rust Destroy The Maiden Who Slept in the Glass Coffin
Sau vài ngày nghỉ Tết, topic của chúng ta sẽ trở lại với chủ đề về Gothic Metal. Chúc mọi người một năm mới mạnh khỏe, hạnh phúc và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.
Gothic Metal Gothic Metal Dòng nhạc đầu tiên xuất hiện và trở nên lớn mạnh trong thập kỷ 90s chính là Gothic Metal. Về mặt âm nhạc, Gothic Metal là sự kết hợp của Doom Metal với Gothic Rock. Trong phần viết về Doom Metal, chúng ta đã biết đây là một dòng nhạc dựa trên tiết tấu chậm và tạo ra một bầu không khí (atmospheric) buồn thảm, chết chóc. Do phần viết về Doom Metal, chúng ta đã tìm hiểu rất kỹ về dòng nhạc này nên ở đây chúng ta không đi quá sâu về Doom Metal nữa mà sẽ viết chủ yếu về Gothic Rock. Gothic Rock thực chất là một nhánh trong rất nhiều những dòng nhạc phát sinh ở cuối thập kỷ 70s, đầu thập kỷ 80s và chịu ảnh hưởng của Punk Rock (trào lưu Post Punk). Sau đó, dòng nhạc này tách dần khỏi trào lưu Post Punk bằng cách sử dụng nhiều keyboards với những bài hát mang đậm tính giai điệu và u tối, buồn bã, nhiều khi mang tính thơ và theo phong cách lãng mạn. Những band nhạc tiêu biểu cho trào lưu này có thể kể đến những band như The Cure, The Mission, Siouxsie And The Banshees, Christian Death, Bauhaus. Trong những band nhạc kể trên, The Cure là band nhạc nổi tiếng và thành công nhất với rất nhiều những album chất lượng cao và trở thành những siêu sao trên bầu trời âm nhạc (đây cũng là band nhạc có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong thế giới âm nhạc, mặc dù vậy họ không thích các nhà chuyên môn xếp âm nhạc của họ vào Gothic Rock vì cho rằng những band nhạc Gothic Rock khác đều chơi thể loại nhạc nhàm chán không xứng để xếp cạnh họ). Nói và diễn tả thì phức tạp, để đơn giản thì ta hiểu là các band Gothic Rock thì sử dụng nhiều keyboards, syntherizers. Tất nhiên, trào lưu Gothic Metal thì phải xuất hiện sau Gothic Rock (tức là vào đầu thập niên 90s). Những band nhạc mở đầu cho trào lưu này chính là bộ 3 huyền thoại người Anh: Paradise Lost, My Dying Bride, Anathema. Cả 3 band nhạc kể trên đều có xuất phát điểm là Doom/Death sau đó họ chuyển dần sang phong cách Gothic Doom (sử dụng nhiều keyboards) với những bài hát có phần buồn bã. Band nhạc đầu tiên khởi đầu trào lưu này là Paradise Lost, album thứ 2 của họ vào năm 91 có tên là Gothic. Dù tên là Gothic, đây vẫn là một album mang nhiều tính Doom Death hơn là Gothic Metal. Tuy vậy trong album này đã xuất hiện rất nhiều những đặc tính của Gothic Metal sau này. Trong bài hát Gothic, Paradise Lost đã sử dụng giọng ca nữ kiểu Opera kết hợp với giọng ca nam gầm gừ (mà sau này rất phổ biến trong Gothic Metal với tên gọi Beauty And The Beast) sử dụng khá nhiều keyboards và phong cách buồn bã, tối tăm thường thấy ở Gothic Rock vào âm nhạc của họ. Đây cũng là album có ảnh hưởng lớn nhất tới Gothic Metal sau này. My Dying Bride tiếp tục phát triển thêm phong cách Gothic Metal với việc tích hợp thêm những âm thanh đau đớn xé lòng của violin vào dòng nhạc. Anathema giúp tạo ra phong cách Progressive Gothic bằng cách tích hợp những ảnh hưởng của Progressive Rock vào trong âm nhạc của họ. Dù bộ 3 người Anh kể trên chưa bao giờ được coi là những band Metal thực thụ, tầm ảnh hưởng của họ bao trùm lên cả dòng nhạc này. Một band nhạc tiên phong nữa của Gothic Metal là Type O Negative. Band nhạc này phát triển một thứ Gothic Metal dựa trên những bài hát dài, giọng hát nam trung và mang nhiều tính kịch của Peter Steele kết hợp với việc sử dụng rất nhiều keyboards tạo phong cách âm nhạc nhà thờ khá phổ biến của Gothic. Từ Anh và Mỹ, Gothic Metal lan sang các nước khác tại châu Âu như Hà Lan – (The Gathering – là 1 band Doom/Death chuyển dần sang Gothic) và Thụy Điển (Tiamat – xuất thân là 1 band Death Metal sau đó chuyển dần sang Gothic). Đến giữa thập niên 90s, Gothic Metal tiếp tục có bước tiến quan trọng khi những band nhạc Gothic Metal huyền thoại bắt đầu xuất hiện và có nhiều đóng góp rất quan trọng cho sự phát triển của dòng nhạc này. Band nhạc Theatre Of Tragedy đến từ Na Uy phát triển và hoàn thiện phong cách hát Beauty And The Beast. Phong cách này đã có từ trước đó (Paradise Lost – tuy nhiên họ chỉ sử dụng trong 1 vài bài hát của album) nhưng Theatre Of Tragedy là band đầu tiên sử dụng phong cách này trong tất cả các bài hát của nhóm. Những nhóm nhạc như Moonspell, Cradle Of Filth phát triển phong cách Gothic Black, Lake Of Tears phát triển phong cách Gothic Progressive, Within Temptation, Tristania phát triển phong cách Symphonic Gothic (tích hợp nhiều nhạc giao hưởng). Lacuna Coil, HIM, Evanescence… phát triển phong cách Alternative Gothic… Nhiều band nhạc trong số này khá thành công về mặt thương mại và giúp cho dòng nhạc này có chỗ đứng rộng rãi trong cộng đồng Metal thế giới. Chúng ta sẽ lần lượt đến với những band nhạc chính của dòng nhạc này trong những bài viết tiếp theo. Do bộ 3 người Anh đã được đề cập rất chi tiết ở phần viết về Doom/Death nên ở đây chúng ta sẽ không đề cập đến họ nữa. Chính vì lý do này, lịch sử của Gothic Metal sẽ được bắt đầu bằng band nhạc Mỹ Type O Negative. The Cure - Friday Im In Love Siouxsie & The Banshees - Cities In Dust Moonchild
Type O Negative Type O Negative Type O Negative (TON) được thành lập vào năm 1989 bởi giọng ca chính Peter Steele, tại New York, Mỹ. Trước khi thành lập nhóm TON, Steele đã tham gia 2 nhóm nhạc: nhóm Heavy Metal Fallout và nhóm Thrash Metal Carnivore. Sau khi 2 nhóm nhạc kể trên tan rã, Steele lập ra TON, lúc đầu lấy tên là Repulsion nhưng bị trùng tên với 1 band nhạc khác nên nhóm buộc phải đổi tên thành Subzero. Tuy nhiên, tên thứ 2 này cũng bị trùng và cuối cùng Steele buộc phải đổi tên nhóm thành TON. Sau khi thành lập, nhóm ký hợp đồng với hãng đĩa Roadrunner – lúc này mới chỉ là một hãng đĩa độc lập khá nhỏ - (khi ký hợp đồng, Steele sử dụng máu và tinh dịch của mình làm mực để dọa mọi người ). Năm 1991, TON tung ra album đầu tay là Slow, Deep and Hard. Đây là một album mang nhiều phong cách Thrash Metal của nhóm nhạc Carnivore. Tuy nhiên, nó đã có một số những điểm đặc trưng cho âm nhạc của TON khi nhóm tích hợp những cú riff khá chậm của Doom, sử dụng nhiều keyboards theo phong cách Gothic Rock, ngoài ra còn có một số bài có tiết tấu nhanh (chịu ảnh hưởng của Hardcore), New Wave và cả Industrial. Các bài hát trong album khá dài, gồm nhiều phần nhỏ và có dạng trường ca (epic). Lời hát trong album này chủ yếu viết về tâm trạng riêng của Steele lúc bấy giờ: giận dữ, thất tình, sự báo thù và cả ý định tự tử (lúc đó anh này vừa bị bạn gái đá). Cùng với album Gothic của Paradise Lost năm 1991, đây là một trong những album Gothic Metal sớm nhất trong lịch sử. Tuy vậy, album này không thực sự thành công về mặt thương mại tại Mỹ (không có mặt trong bất kỳ bảng xếp hạng nào). Tuy nhiên, band khá thành công tại châu Âu trong thế giới underground. Chính vì vậy, sau đó band tổ chức lưu diễn tại châu Âu và tung ra album Live (The Origin Of The Feces). Unsuccessfully Coping with the Natural Beauty of Infidelity Sau khởi đầu không mấy ấn tượng, TON bất ngờ vươn lên hết sức mạnh mẽ trong album thứ 2 là Bloody Kisses vào năm 1993. Cũng như album trước, lời bài hát trong album chủ yếu tập trung vào các mối quan hệ tình cảm lãng mạn, tình dục và cái chết. Âm nhạc trong album này vẫn là sự pha trộn giữa Gothic Rock và Metal. Với những bài hát có chất lượng rất tốt như Christian Woman, hay Black No. 1, album được cả giới chuyên môn lẫn fan hâm mộ chào đón nhiệt liệt. Về mặt thương mại, album khá thành công khi đạt chứng chỉ đĩa vàng ( bán được hơn 500 000 bản) và đĩa bạch kim (bán hơn 1 triệu bản) tại Mỹ (dù album chỉ vươn lên vị trí cao nhất là 166). 1 triệu bản cho 1 band nhạc mới là một con số khổng lồ. Nó giúp cho tên tuổi của TON trở nên phổ biến và có rất nhiều ảnh hưởng trong thế giới Metal sau này. Sự thành công của album cũng là tiền đề quan trọng giúp cho hãng đĩa Roadrunner cất cánh trở thành một hãng đĩa khổng lồ của thế giới (đây là album đầu tiên của hãng đĩa này đạt chứng chỉ đĩa vàng và bạch kim). Black No. 1 Christian Woman TON tiếp tục sự nghiệp huy hoàng của mình với album October Rust vào năm 1996. Âm nhạc trong album này được làm kỹ hơn so với những album trước rất nhiều (album được thu âm với rất nhiều lớp âm thanh chồng lên nhau) và với nhiều bản ballads (nghiêng về giai điệu. Album cũng có rất nhiều bài hát nổi tiếng của nhóm như Love You To Death hay My Girlfiend’s Girlfiend. Album tiếp tục rất thành công cả về mặt thương mại và nghệ thuật khi nhận được vô số lời khen ngợi của giới chuyên môn trên toàn thế giới. Album vươn lên vị trí 42 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này cũng đạt chứng chỉ đĩa vàng. 2 album kinh điển Bloody Kisses và October Rust đưa TON trở thành lá cờ đầu trong dòng nhạc Gothic Metal thế giới. Thành công của họ cũng góp phần rất lớn đưa dòng nhạc này tiếp tục phát triển hết sức mạnh mẽ. My Girlfriend's Girlfriend Love You To Death (còn tiếp)
@ no1knows : Ý kiến của em cũng đồng ý với bác - Black Sabbath mới là ban nhạc Metal đầu tiên. Led Zeppelin chơi một thứ nhạc tuy gần tương tự nhưng hoàn toàn không phải là Metal. Tầm vóc của Led Zep thì vĩ đại rồi, nhưng những ảnh hưởng của Led Zep với nhạc Metal thì không thể so sánh với Black Sabbath được. Quả là không có bất cứ dòng nhạc nào mà tín đồ lại đông đảo và cuồng nhiệt như là Heavy Metal. Em thật là ngưỡng mộ các metalheads biết bao.
Vâng, em đã phân tích khá rõ trường hợp của Led Zeppelin, họ là band nhạc tài năng hiếm có nhưng không quá đột phá. Âm nhạc của Led Zeppelin luôn dựa trên tiết tấu của Blues và sau này là Folk. Âm nhạc của Black Sabbath mang nhiều tính đột phá hơn khi họ cố gắng loại bỏ ảnh hưởng của Blues và Psychedelic ra khỏi Heavy Metal - điều mà sau này Judas Priest đã thực hiện ở mức triệt để. Em cũng không rõ em có phải là tín đồ của Metal không nữa nhưng em thích nghe Metal (dù có dòng nhạc khác em còn thích hơn).
Thật vinh dự vì được giao lưu với một chuyên gia về Rock như bác. Tầm hiểu biết của bác thật đáng kinh ngạc. Bác nói rất chí lý về âm nhạc của Led Zep và những cống hiến của Black Sabbath đối với dòng nhạc Metal. Nghe những bài của BS như "War Pig" thì thấy thật đúng như vậy. Cả về Lyrics của BS nữa chứ, mới thật đúng là Metal. Cảm ơn bác nhiều nhiều. Dạo này em ít nghe Metal nhưng em rất lưu ý về những phân tích của bác về âm nhạc của Judas Priest. Nếu có dịp em sẽ nghe ban này. hìhì. Metal thì có rất nhiều tên tuổi lừng danh, nhưng em lại thích nhất đĩa "Slow, Deep and Hard" của Type O' Negative. Nó có lẽ là sự thăng hoa của nỗi niềm tuyệt vọng. Em cũng thích một số tên tuổi khác mà nói ở đây ai cũng biết. Mà Kiss có phải chơi Metal không nhỉ. Em nhờ các bác chém hộ trường hợp này. Bác nói vậy em và nhiều Rock fans rất mừng vì chắc là lại tiếp tục được đọc những bài viết tâm huyết của bác về các dòng nhạc khác. hihi
Kiss là một band nhạc đa thể loại bác ạ. Âm nhạc của họ cũng thay đổi rất nhiều theo thời gian. Band nhạc này chơi theo phong cách Rock, Hard Rock, Metal cổ, Glam Metal... và tùy thuộc vào từng album. Tất nhiên họ cũng có những album kinh điển mà fan của Metal không thể bỏ qua như Destroyer.