Lacuna Coil Lacuna Coil Lacuna Coil (LC) là một trong những tên tuổi nổi tiếng nhất của Heavy Metal Italia trên toàn thế giới. Nhóm theo đuổi phong cách Gothic kết hợp với Alternative và là một trong những band nhạc chủ lực của phong cách này. LC thành lập năm 1994 tại thành phố Milan, Italia dưới cái tên là Sleep Of Right (sau này đổi tiếp thành Ethereal). Sau khi tung ra 2 albums demo không thực sự thành công, nhóm mời Cristiana Scabbia tham gia nhóm để hát bè. Năm 1997, nhóm có hợp đồng với hãng đĩa Century Media và đổi tên thành Lacuna Coil. Sau khi tung ra album EP cùng tên với band nhạc, nhóm tiếp tục có sự thay đổi về nhân sự và tung ra album đầu tay là In A Reverie vào năm 1999. Đây là một album Gothic Metal dựa trên nền Doom (khá giống với phong cách của nhóm nhạc Hà Lan The Gathering). Tuy đây là album chịu nhiều ảnh hưởng của The Gathering, nó vẫn có chất lượng khá tốt với những điểm riêng biệt của Lacuna Coil như lời bài hát hay và mang nhiều chất thơ, những hiệu ứng atmospheric có chất lượng khá tốt (và đáng ngạc nhiên là những hiệu ứng này sử dụng khá nhiều guitar), giọng ca mang phong cách khá tốt –Beauty And The Beast của Scabbia và Ferro. Dù các bài hát trong album khá đơn giản, album vẫn được nhiều fan hâm mộ Gothic Metal rất yêu mến. Reverie Sau album đầu tay khá thành công, band nhạc liên tục lưu diễn với những band nhạc Metal châu Âu như Skyclad để giúp quảng bá tên tuổi trên toàn châu Âu. Năm 2001 nhóm tung ra album thứ 2 là Unleashed Memories. Đây cũng chính là album giúp tên tuổi của nhóm trở nên nổi tiếng trên bầu trời âm nhạc thế giới. Album này dễ nghe hơn album trước đó rất nhiều với việc sử dụng ít hơn giọng ca gầm gừ của nam. Các bài hát trong album đều có tiết tấu trung bình và mang nhiều tính giai điệu. Lần đầu tiên trong lịch sử của mình, LC có mặt trên một bảng xếp hạng, đó là tại nước Đức ở vị trí 72. Senzafine LC tiếp tục sự nghiệp thương mại hóa thành công với album thứ 3 là Comalies vào năm 2002. Âm nhạc trong album này tiếp tục có xu hướng dễ nghe hơn của album trước đó với việc tích hợp thêm những ảnh hưởng của Alternative vào trong Gothic. Album có chất lượng khá tốt và nhận được nhiều lời khen ngợi tại châu Âu. Nhưng điều bất ngờ hơn là tại Mỹ, lúc này band nhạc chơi theo phong cách Gothic, Alternative Metal là Evanessence đang làm mưa làm gió, bất ngờ phát hiện ra tài năng của nhóm nhạc LC. Trong một năm sau đó, single chính của album là Heaven’s A Lie của LC liên tục được phát trên sóng radio gây ra sự chú ý của giới truyền thông. Album này sau đó cũng bán được tới hơn 300 000 bản tại Mỹ và biến LC trở thành band nhạc có đĩa bán chạy nhất của hãng Century Media. Sau đó band nhạc trở nên nổi tiếng và còn có chân trong đại nhạc hội Ozzfest vào năm 2004. Heavens A Lie Swamped (còn tiếp)
Lacuna Coil Lacuna Coil (tiếp theo) Sau những thành công vang dội của album Comalies là những chuyến lưu diễn dài ngày tại châu Âu, châu Mỹ. Phải đến năm 2006, LC mới tung ra được album thứ 4 trong sự nghiệp là Karmacode. Lúc này, âm nhạc của LC đã thay đổi rất nhiều so với trước đây khi tính Gothic gần như không còn. Thay vào đó là phong cách Alternative và Industrial với một chút ảnh hưởng của nhạc truyền thống Trung Đông. Album này chơi có phần mạnh mẽ và mang nhiều tính Metal hơn album trước đó. Dù phong cách đã thay đổi rất nhiều, album vẫn có chất lượng khá tốt và nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn trên toàn thế giới. Lúc này, tên tuổi của LC cũng đã phổ biến trên thế giới nên album này có mặt trên hầu hết các bảng xếp hạng tại châu Âu và Mỹ. Tại Mỹ, album vươn lên vị trí 28 – đây cũng là kỷ lục của hãng đĩa Century Media. Tính tới thời điểm hiện tại, album này đã bán được khoảng 500 000 bản trên toàn thế giới. (Riêng tại Mỹ đã là 200 000 bản). Our Truth Enjoy the Silence Sau 2 albums thành công liên tiếp, sự nghiệp của LC tiếp tục xu hướng đi lên với việc tham gia vào những đại nhạc hội lớn trên thế giới như Ozzfest, Download Festival, Wacken Festival hay Loudpark Festival trong những năm sau đó. Với việc quảng bá tên tuổi rộng rãi tại những đại nhạc hội chuyên về nhạc Rock và đi lưu diễn cùng với những tên tuổi khổng lồ như Rob Zombie hoặc Megadeth, vào những năm cuối thập niên 2000s, tên tuổi của LC đã trở nên hết sức quen thuộc với những fan hâm mộ nhạc Rock trên toàn thế giới. Chính vì vậy, khi album thứ 5 của nhóm là Shallow Life được tung ra vào năm 2009, LC tiếp tục chinh phục những kỷ lục mới trên những bảng xếp hạng thế giới. Thậm chí tại Mỹ, nhóm đã vươn lên tới hạng 16. Tuy nhiên, dù xếp hạng cao chăng nữa, chất lượng của album không bằng được những album trước đó. Album không mang tính đột phá mà chỉ là sự pha trộn giữa phong cách Alternative, Gothic và Metal với những bài hát dễ nghe, đơn giản hơn. Vì lý do này, album không được giới chuyên môn đánh giá cao. Spellbound Album thứ 6 của LC là Dark Adrenaline được tung ra vào năm 2011 có phần tiến bộ hơn so với album trước. Lúc này thì âm nhạc của nhóm đã quay trở lại với phong cách Gothic Metal (trộn lẫn với một số ảnh hưởng của Nu Metal và Alternative Metal). Âm nhạc của album vì thế có phần u buồn và tối tăm hơn. Có lẽ vì những lý do kể trên, album được đánh giá cao hơn so với album trước. Về mặt thương mại, album tiếp tục đà thành công của những album trước khi có mặt tại bảng xếp hạng của Mỹ với vị trí số 15. Ngoài ra, album còn có mặt tại 14 bảng xếp hạng ngoài nước Mỹ. Trip The Darkness Album cuối cùng của LC tính tới thời điểm hiện tại là Broken Crown Halo được tung ra vào năm 2013. Album này có nhiều điểm tương đồng với album Karmacode (sử dụng guitar làm nhạc cụ chủ đạo) nhưng nghiêng nhiều hơn về phía giai điệu (Melodic). Album này cũng được giới chuyên môn đánh giá khá cao. Tuy vậy, sức hút của thương hiệu LC bắt đầu giảm khi album chỉ đứng thứ 27 trên bảng xếp hạng của Mỹ. I Forgive (But I Won't Forget Your Name) LC có lẽ là một trong những band nhạc phổ biến nhất của đất nước Italia (trong tất cả các thể loại chứ không chỉ riêng nhạc Rock). Âm nhạc của nhóm không quá đột phá nhưng dễ nghe và giọng hát của cả Scabbia và Ferro đều có chất lượng rất tốt. Hiển nhiên, đây cũng là một trong những biểu tượng của Gothic Metal thế giới.
To/Die/For To/Die/For Trong những năm gần đây, Gothic Metal phát triển hết sức mạnh mẽ tại Phần Lan. Tại đất nước Bắc Âu này, Gothic Metal đã trở thành một thứ âm nhạc hết sức phổ biến và được đông đảo người dân mến mộ. Rất nhiều band nhạc Gothic Metal đã gặt hái những thành công rất lớn tại đất nước này. Đồng thời, có rất nhiều band nhạc Gothic được thành lập và tạo thành một trào lưu khá lớn. Những band nhạc như HIM, Charon, Entwine, For My Pain, Lullacry, Poisonblack, Sentenced và cả To/Die/For đều có những albums chiếm được vị trí cao trên bảng xếp hạng của Phần Lan. Nó góp phần rất lớn biến đất nước này trở thành quốc gia hàng đầu về Gothic Metal trên thế giới. Do thời gian có hạn, chúng ta không thể giới thiệu hết những band nhạc Gothic Metal của Phần Lan nên chúng ta chỉ trích giới thiệu một số band tiêu biểu như Sentenced, HIM và To/Die/For. To/Die/For (TDF) là một band nhạc đến từ Kouvola, Phần Lan. Nhóm thành lập từ năm 1993 và khởi đầu lấy tên là Mary-Ann. Tại thời điểm mới thành lập, TDF chơi nhạc theo phong cách Hard Rock. Phải đến năm 1999, nhóm mới chuyển sang chơi Gothic Metal và đổi tên thành To/Die/For như hiện tại. Sau đó nhóm có hợp đồng với hãng đĩa huyền thoại của Phần Lan là Spinefarm và tung ra album đầu tay All Eternity vào cùng năm. Đây là một album nằm giữa HIM và Sentenced (mạnh hơn HIM nhưng nhẹ hơn Sentenced), nói một cách khác hơn, đây là một album Gothic Metal điển hình. Âm nhạc trong album này phụ thuộc khá nhiều vào keyboards với giọng ca clean, khá dễ nghe. Tuy dễ nghe, album có chất lượng khá tốt. Sau album đầu tay khá thành công, To/Die/For tiếp tục có bước phát triển vượt bậc với album thứ 2 là Epilogue. Âm nhạc trong album này vẫn tiếp tục là phong cách Gothic Metal sử dụng rất nhiều nhạc cụ điện tử và syntherizers. Trong khi nhiều band Gothic Metal Phần Lan chịu nhiều ảnh hưởng của những band nhạc huyền thoại như The Cult hay The Cure thì To/Die/For lại chịu ảnh hưởng nhiều từ band nhạc huyền thoại New Wave là Tears For Fears. Các bài hát trong album có chất lượng khá tốt, mặc dù đơn giản và dễ nghe. Đây có lẽ cũng là một trong những album hay nhất trong sự nghiệp của nhóm. TDF tiếp tục vươn lên đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm với album thứ 3 là Jaded vào năm 2003. Lúc này, âm nhạc chuyển từ phong cách Gothic Metal điển hình sang phong cách Gothic kết hợp với Doom Metal. Chuyển biến rõ nét nhất trong album chính là vai trò lớn hơn nhiều của tay guitar. Nếu như trong những album trước đó, keyboards là nhạc cụ chủ đạo và vai trò của guitar là khá mờ nhạt. Thì trong album thứ 3 này, guitar và keyboards chia sẻ vai trò làm nhạc cụ chủ đạo. Âm nhạc trong album vì thế có tiết tấu nhanh hơn và nghiêng nhiều về phần giai điệu hơn. Trong album, lần đầu tiên trong lịch sử của nhóm có sự xuất hiện của những đoạn solo guitar và solo keyboards. Album có chất lượng rất tốt và được rất nhiều fan hâm mộ tôn thờ, coi đây là đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm. Tuy nhiên, sau 3 albums chất lượng, nội bộ band nhạc xuất hiện sự chia rẽ. Vocalist Peratalo rời nhóm và thành lập nhóm nhạc Tiaga vào năm 2003. Tuy nhiên, tới năm 2004 thì nhóm Tiaga giành lại tên To/Die/For và tung ra liên tiếp 2 albums IV vào năm 2005 và Wounds Wide Open -2006. Tuy nhiên, chất lượng của 2 albums này khá tệ, và điều này cũng không khó để giải thích vì band nhạc lúc này chỉ còn là của riêng Penratalo. Sau 2 albums thất bại, band nhạc tuyên bố tan rã ngay sau đó, tức là vào năm 2007. Sau đó nhóm còn tái lập và ra tiếp album Samsara vào năm 2011 nhưng cũng không thực sự thành công. Dự kiến album mới của nhóm sẽ được tung ra vào năm 2015. One More Time Hollow Heart (I Just) Died In Your Arms Little Deaths Like Never Before
Virgin Black Virgin Black Virgin Black là một trong những tên tuổi tiêu biểu của Gothic Metal trong những năm đầu thập niên 2000s. Nhóm thành lập tại Adelaide, Australia bởi tay guitar nữ chính Samantha Escarbe và vocalist/keyboardist Rowan London. Sau khi ghi âm 1 album demo theo phong cách Doom/Death nhưng không thực sự gây được sự chú ý. Phải đến khi tung ra album EP Trance vào năm 1998, nhóm mới bắt đầu nhận được sự chú ý từ giới hâm mộ Metal trên toàn thế giới. Tuy vậy, phải đến năm 2001, nhóm mới tung ra được album đầu tay là Sombre Romantic. Đúng như tên gọi của album, các bài hát đầy đau khổ, buồn bã, trữ tình và lãng mạn. Tuy nhiên, về mặt âm nhạc , album là sự tổng hợp của rất nhiều các yếu tố: từ Gothic Metal tới Black Metal (giọng rít the thé) sang Doom Metal, kết hợp thêm một số đoạn acoustic và Symphonic keyboards, piano. Album này có chất lượng cực tốt và trở thành một trong những album hay nhất năm 2001. Tất nhiên, nó cũng là một album kinh điển của Gothic Metal. Sau thành công rất lớn với album đầu tay (album nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ khắp nơi trên thế giới), giới chuyên môn vừa ngóng chờ, vừa lo lắng khi album thứ hai của nhóm là Elegan… And Dying vào năm 2003. Tuy nhiên, sự lo lắng này là thừa vì album thứ 2 này cũng có chất lượng rất tốt. Trong album này, ảnh hưởng của nhạc cổ điển (phong cách Opera và giao hưởng) càng trở nên rõ nét. Giọng ca chính London thậm chí còn đi học một lớp Opera để tăng cường ảnh hưởng của phong cách Opera trong album. Ngoài ra, tay guitar Escarbe còn sử dụng thêm cả cello và sự xuất hiện của tay sáo Sonia Wilkie càng khiến cho album mang nhiều tính bác học. Tuy là một album rất dài (75 phút) album vẫn được đánh giá rất cao và tiếp tục trở thành một điểm sáng trong sự nghiệp của Virgin Black. Sau khởi đầu rất thành công với 2 albums đầu tay, năm 2006, Virgin Black tuyên bố họ chuẩn bị tung ra một chùm 3 albums dưới cái tên Requiem. 3 albums này dự kiến sẽ chơi theo 3 phong cách khác nhau: album đầu tiên là Pianissimo – theo phong cách cổ điển, chơi cùng dàn nhạc giao hưởng Adelaide với dàn hợp xướng và các giọng ca solo (kiểu Opera), album thứ 2 là Mezzo Forte theo phong cách Gothic Metal tương tự như 2 albums đầu tay và album thứ 3 là Fortissimo – theo phong cách Doom/Death. Dự án này dự định kéo dài trong 2 năm nhưng sau đó đã không thể diễn ra theo đúng kế hoạch vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Album đầu tiên được tung ra lại là album thứ 2 – Mezzo Forte – album theo phong cách Gothic và Symphonic Metal. Album có chất lượng rất tốt và được nhiều nhiều fan hâm mộ khen ngợi. Năm 2008, nhóm tung ra album thứ 3 là Fortissimo với phong cách Death Metal. Đây tiếp tục là một album có chất lượng khá tốt, tuy âm nhạc của nhóm lúc này gần như thay đổi hoàn toàn. Tuy vậy, album cuối cùng trong chùm 3 albums liên tục bị hoãn tung ra và nhóm ngừng hoạt động trong một thời gian khá dài, để lại rất nhiều sự nuối tiếc cho fan hâm mộ Gothic Metal thế giới. Cho tới thời điểm hiện tại, những fan hâm mộ của band nhạc vẫn tiếp tục chờ đợi một ngày nào đó, album này sẽ tiếp tục được tung ra. Museum Of Iscariots Our Wings Are Burning ...and I Am Suffering Silent
Sirenia Sirenia Hẳn nhiều người trong chúng ta còn nhớ tới band nhạc Gothic Metal huyền thoại Tristania của Na Uy với những album kinh điển như Beyond The Veil, World Of Glass hay Ashes…Sirenia là band nhạc được thành lập bởi tay guitar, nghệ sỹ sáng tác chính Morten Veland sau khi anh này rời nhóm Tristania sau album kinh điển Beyond The Veil. Nguyên nhân chính của việc Veland rời nhóm là do mâu thuẫn về đường hướng phát triển của band nhạc. Tuy nhiên, sau khi Veland rời nhóm, Tristania vẫn tiếp tục con đường thành công với những album kinh điển khác. Sirenia, về nhiều mặt, không thể có được những album kinh điển như Tristania nhưng vẫn là một trong những band nhạc hết sức quan trọng của Gothic Metal thế giới. Sirenia thành lập năm 2001 dưới cái tên là Masters Of Sirenia sau đó mới đổi thành Sirenia. Thứ âm nhạc mà Sirenia theo đuổi là phong cách Gothic Metal dựa trên keyboards và syntherizers. Tuy nhiên, vai trò của tay guitar là rất quan trọng. Nhóm sử dụng 2 giọng ca chính theo phong cách Beauty And The Beast và đôi khi sử dụng cả dàn hợp xướng. Việc sử dụng dàn hợp xướng và phong cách giao hưởng khiến âm nhạc của nhóm, đôi lúc, khá giống với nhóm nhạc huyền thoại Therion. Sirenia tung ra album đầu tay At Sixes And Sevens vào năm 2001. Album này chơi mạnh hơn rất nhiều so với những album của Tristania mà Veland góp mặt. Một phần nguyên nhân là do Veland là một tay guitar và trong album này anh chơi cả guitar cả bass nên sự hiện diện của guitar và bass là khá rõ nét. Album có chất lượng khá tốt và được nhiều fan hâm mộ yêu mến. Album thứ 2 của nhóm là An Elixir For Existence -2004, tuy có chơi nhẹ hơn so với album trước nhưng vẫn là một album có chất lượng rất tốt với những bài hát mang phong cách tối tăm, buồn bã. Các bài hát trong album vẫn có chất lượng khá cao và biến album trở thành một album rất đáng nghe của Gothic Metal trong những năm giữa thập niên 2000s. Tuy nhiên, sau 2 albums có chất lượng cao, âm nhạc của Sirenia dần đi xuống khi nhóm nhạc dần thương mại hóa (theo phong cách của HIM và Lacuna Coil) trong những album tiếp theo như Nine Destinies And A Downfall -2007, The 13th Floor -2009 hay The Enigma Of Life -2011. Album thứ 6 của nhóm là Perilss Of The Deep Blue -2013 có chất lượng tốt hơn khi quay trở về phong cách Gothic/Symphonic Metal. Album thứ 7 của nhóm là The Seventh Life Path được tung ra vào tháng 3 năm 2015. On the Wane Save Me From Myself The Other Side The Path To Decay The End Of It All Seven Widows Weep
The Vision Bleak The Vision Bleak The Vision Bleak (TVB) là một trong những ngôi sao mới nổi của Gothic Metal thế giới trong những năm gần đây. Nhóm thành lập năm 2000 tại Đức bởi cặp đôi Ulf Theodor Schwador (hay còn gọi là Markus Stock của nhóm Doom Metal Empyrium) – guitars, bass, keyboards và Allen B. Konstanz (hay còn gọi là Tobias Schonemann của nhóm Nox Mortis trong vai trò vocal, drums, keyboards. Cặp đôi này tự mình ghi âm những album studio và thuê thêm các nhạc sỹ khác khi đi biểu diễn Live. Âm nhạc của TVB, khác hoàn toàn với những nhóm Gothic Metal khác, dựa nhiều trên những câu chuyện kinh dị. Giọng ca chính của nhóm thường sử dụng giọng nam trung- trầm với phong cách nửa đọc – nửa hát thường thấy của Metal Đức kết hợp với giọng nữ chính mang phong cách Opera. Ngoài ra, nhóm cũng tích hợp thêm khá nhiều ảnh hưởng của Symphonic vào trong âm nhạc của mình. Với phong cách chơi nhạc khá đặc biệt, cả 5 albums của nhóm cho tới thời điểm hiện tại là The Deathship Has A New Captain -2004, Carpathia -2005, The Wolves Go Hunt Their Pray -2007, Set Sail To Mystery -2010 và Witching Hour -2013 đều có chất lượng rất tốt. Rất nhiều album trong số này được giới chuyên môn và hâm mộ đánh giá rất cao như The Deathship, The Wolves hay Set Sail To Mystery. Tuy mang phong cách Gothic, các bài hát của TVB thường có tiết tấu khá nhanh với guitar là nhạc cụ chủ đạo (những cú riff và solo). Do đó âm nhạc của nhóm trở nên đặc biệt và khác nhiều so với những nhóm Gothic khác. Một band nhạc rất đáng nghe trong những năm gần đây của Gothic Metal. Gothic Metal là một thể loại gây nhiều tranh cãi với cả những lời khen và tiếng chê. Tuy vậy, trên thực tế đây là một thể loại nhạc khá đặc biệt với nhiều phong cách khác biệt. Có không ít band nhạc theo đuổi trường phái Gothic Metal là những band nhạc có tài năng đặc biệt với những album kinh điển mà những fan hâm mộ của Metal không thể bỏ qua. Wolfmoon Kutulu! The Demon Of The Mire A Romance With The Grave The Wood Hag Bài viết về The Vision Bleak cũng là bài viết cuối cùng của Gothic Metal trước khi chuyển sang một dòng nhạc mới.
Dòng nhạc tiếp theo mà chúng ta sẽ gặp gỡ là dòng nhạc (có lẽ) gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử của Heavy Metal. Với những thử nghiệm rất lớn, dòng nhạc này đầy chất sáng tạo. Tuy nhiên, với đa phần fan hâm mộ Metal, những thử nghiệm này quá khó nghe nên chỉ có một lượng khán giả khiêm tốn yêu thích dòng nhạc này. Đó chính là Avant Garde Metal, mời các bác chú ý đón đọc.
Avant Garde Metal Avant Garde Metal Avant Garde Metal chắc chắn là một thể loại âm nhạc khó định nghĩa nhất của Heavy Metal. Thể loại nhạc này đặc trưng bởi những bài hát phá cách và có cấu trúc không hề giống với những thể loại nhạc thông thường. Những điểm tương đồng lớn nhất giữa những band Avant Garde Metal thường là những đặc điểm sau: - Thường sử dụng các dạng làm méo tiếng nhạc cụ hoặc không theo nhịp điệu thông thường - Các bài hát có cấu trúc phức tạp và không thể đoán trước. - Sử dụng rất nhiều các dạng nhạc cụ mới (không thường thấy đối với những band nhạc Metal) và các bài hát mang nhiều tính thử nghiệm (experimental) - Pha trộn giữa những dòng nhạc hoàn toàn khác biệt hoặc thậm chí trái ngược hẳn nhau. - Các bài hát thường có nhiều nhịp điệu và thường là nhịp rất phức tạp Thực ra, Avant Garde Metal là còn là một nhánh nhỏ của Avant Garde Music, một nhánh nhạc có nguồn gốc từ nhạc cổ điển. Những nhạc sỹ hàng đầu của nhạc cổ điển như Richard Wagner, Richard Strauss hay Igor Stravinsky là những người tiên phong của phong cách Avant Garde trong nhạc cổ điển (với những phong cách viết nhạc mới mẻ, bẻ gãy những cấu trúc cũ và sử dụng nhiều những nhạc cụ không có trong dàn nhạc giao hưởng). Dòng nhạc Avant Garde dần tạo được vị trí phát triển mạnh mẽ trong những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Một trong những trào lưu tiêu biểu và quan trọng của Avant Garde Music là Avant Garde Jazz, dòng nhạc này hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thập kỷ 50s và 60s của thế kỷ 20. Đến giữa thập niên 60s, Avant Garde Rock bắt đầu xuất hiện với những nghệ sỹ thiên tài như Frank Zappa hay Captain Beefheart. Những nghệ sỹ gạo cội này tạo ra những ảnh hưởng rất lớn tới nhạc Rock và sau này, sản sinh ra những nhánh nhạc nhỏ hơn chịu ảnh hưởng của Avant Garde như Zeuhl (với các đại diện tiêu biểu như Magma, Dun), Rock In Opposition (tiêu biểu là Henry Cow, Univers Zero) hay KrautRock (tiểu biểu là Can, Amon Duul II, Popol Vuh..) Những dòng nhạc này sau đó đều được xếp vào Progressive Rock vì có khá nhiều điểm tương đồng với Progressive. Avant Garde Metal ra đời muộn hơn khá nhiều so với Avant Garde Rock khi phải đến cuối thập niên 80s mới xuất hiện những band Avant Garde Metal đầu tiên. Một trong những band nhạc tiên phong chơi theo phong cách Avant Garde Metal chính là band nhạc huyền thoại Celtic Frost. Ngoài Celtic Frost, Naked City – band nhạc gồm nhiều nghệ sỹ Avant Garde như John Zorn, Mike Patton cũng là những nghệ sỹ tiên phong đưa Avant Garde vào Metal. Tuy nhiên, do Naked City là một band nhạc vừa mang tính Metal vừa mang tính Jazz, trong đó phần Jazz còn lớn hơn so với phần Metal nên chúng ta sẽ không coi họ là band nhạc Avant Garde Metal thực sự. Chính vì lý do này, chúng ta sẽ lấy mốc thời gian Avant Garde Metal thực sự ra đời là vào tháng 8 năm 1991, thời điểm band nhạc Avant Garde Metal đầu tiên tung ra album đầu tay. Band nhạc này không phải ai khác chính là Mr. Bungle. Tuy khởi đầu sớm, Avant Garde Metal phát triển rất chậm với rất ít band nhạc trong thập kỷ 90s (ngoại trừ nhưng nghệ sỹ Avant Garde Black đã được viết chi tiết ở phần Black Metal). Tuy nhiên, đến đầu thập niên 2000s dòng nhạc này bất ngờ phát triển hết sức mạnh mẽ với sự xuất hiện của hàng loạt những tên tuổi đầy tài năng như Maudlin Of The Well, Kayo Dot, Unexpected, Sleepytime Gorilla Museum, Diablo Swing Orchestra… Những band nhạc này tạo ra một làn sóng mới mẻ và đưa dòng nhạc này được công nhận trên toàn thế giới. Avant Garde Metal là một dòng nhạc đặc biệt với rất nhiều sự sáng tạo. Các band nhạc trong dòng nhạc này đều chơi những thứ âm nhạc kỳ quặc và đặc biệt, không thể lẫn so với bất kỳ band nhạc nào khác. Tuy nhiên, nhiều band nhạc đã đẩy sự thử nghiệm trong âm nhạc đi rất xa, vượt qua tưởng tượng của rất nhiều người hâm mộ. Luôn có những ranh giới mong manh giữa âm nhạc và tiếng ồn. Rất nhiều nghệ sỹ Avant Garde đã đẩy âm nhạc của họ vượt quá lằn ranh này nên với nhiều người hâm mộ âm nhạc, nó gần như là tiếng ồn chứ không còn là âm nhạc nữa. Có lẽ cũng vì lý do này, nhiều người hâm mộ không thể nghe được Avant Garde Metal. Tuy vậy, với những người yêu cái mới và sự sáng tạo, những band nhạc Avant Garde Metal là những band nhạc sáng tạo bậc nhất. Avant Garde Metal không dành cho tất cả mọi người, nhưng nó là phần không thể thiếu của Heavy Metal thế giới. Chúng ta sẽ đến với những đại diện tiêu biểu của dòng nhạc này trong những bài viết tiếp theo. Captain Beefheart - Ice Cream for Crow Henry Cow - Beautiful as the Moon Batman
Mr. Bungle Mr. Bungle Như đã giới thiệu ở phần trên, Avant Garde Metal thực tế đã bắt đầu vào những năm cuối thập kỷ 80s và Celtic Frost là nhóm nhạc có đĩa Avant Garde đầu tiên (album Into The Pandemonium vào năm 1987). Đến năm 1989, nhóm nhạc Naked City của John Zorn cũng tung ra một album theo phong cách Avant Garde Jazz Metal cùng tên band nhạc. Tuy nhiên, Celtic Frost chưa bao giờ là một band nhạc Avant Garde Metal thực thụ - khi chỉ có 1 đĩa nhạc duy nhất của nhóm mang phong cách này còn Naked City mang nhiều tính Jazz hơn Metal nên chúng ta chọn thời điểm band nhạc Mr. Bungle tung ra album đầu tay để làm mốc cho sự ra đời của Avant Garde Metal. Đó là vào tháng 8 năm 1991, khoảng 4 tháng sau khi Gothic Metal ra đời. Mr. Bungle thành lập năm 1985 bởi một nhóm bạn học phổ thông là Trevor Dunn – bass, Mike Patton – vocal, Trey Spruance – guitar, trumpet, Theo Lengyel – Saxophone và sau này là sự tham gia của Danny Heifetz với vai trò drummer. Danny Heifetz chính là cháu nội của nghệ sỹ violin tài năng Jascha Heifetz rất nổi tiếng của nhạc cổ điển. Ngay từ khi thành lập, đây vẫn là một band nhạc hết sức đặc biệt và là sự kết hợp của nhiều thể loại nhạc như Death, Thrash với Ska, Swing và Funk, Jazz. Năm 1989, Patton trở thành thành viên của band nhạc huyền thoại Faith No More nhưng vẫn duy trì vai trò của mình ở band nhạc Mr. Bungle. Sau khi Faith No More thành công với những album để đời như The Real Thing hay Angel Dust, Mr. Bungle có hợp đồng với hãng đĩa khổng lồ Warner Bros. Năm 1991, tháng 8, nhóm tung ra album đầu tay Mr. Bungle, đánh dấu sự ra đời của Avant Garde Metal. Âm nhạc trong album này hết sức đặc biệt và duy nhất, đồng thời cũng rất lạ vì là sự kết hợp của Metal, Funk, Progressive, Avant Garde, Jazz, Ska… Album này hết sức quan trọng và có tầm ảnh hưởng vô cùng rộng lớn tới Avant Garde Metal sau này, mặc dù chất lượng của nó chưa cao như những album sau này của nhóm. Dĩ nhiên, album cũng nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Sau album đầu tay có chất lượng khá tốt, phải đến 4 năm sau Mr. Bungle mới tung ra được album thứ 2 là Disco Volante. Nguyên nhân là do các thành viên band nhạc quá bận bịu với những dự án dạng side project. Tuy album trước đã là một album Avant Garde Metal với nhiều thử nghiệm, album này tính Avant Garde còn cao hơn rất nhiều. Lúc này, nhóm thậm chí còn tích hợp rất nhiều các thể loại âm nhạc khác nữa như Sludge, Techno, Folk, nhạc Trung Đông, nhạc giao hưởng… và rất nhiều thứ nữa vào âm nhạc đã có phần rất phức tạp của mình. Mike Patton, với giọng hát đầy tài năng của mình đã giúp cho album này trở thành một trong những siêu phẩm không chỉ của thế giới Metal, mà còn của Avant Garde Music. Rất nhiều fan hâm mộ của Avant Garde đã gọi album này là Trout Mask Replica của Metal (Trout Mask Replica có lẽ là album nổi tiếng nhất của Avant Garde Rock của Captain Beefheart). Đơn giản đây là một siêu album, một trong những album hay nhất của Mike Patton, một thiên tài của thế giới âm nhạc. Sau 4 năm nghỉ ngơi Mr. Bungle tung ra album cuối cùng trong sự nghiệp vào năm 1999 là California. Về mặt âm nhạc, album này gần như là sự kết hợp của 2 albums trước đó, tuy nhiên dễ nghe hơn và ít tính Metal hơn. Các bài hát rong album không có cấu trúc quá phức tạp và thậm chí mang nhiều tính Pop, mang nặng tính giai điệu (chứ không còn là thử nghiêm như những album trước) và hướng tới phần đông khán giả nghe nhạc. Tất nhiên phong cách đặc trưng Avant Garde và những ảnh hưởng của rất nhiều dòng nhạc khác nhau vẫn hiện rất rõ nét trong album này nhưng về mặt số lượng, những yếu tố này nhỏ hơn rất nhiều so với những album trước đó. Tuy nhiều thay đổi, album vẫn có chất lượng khá tốt và nhận được khá nhiều lời khen ngợi. Sau album này, mâu thuẫn nội bộ và việc quá bận rộn với những dự án khác nhau đã khiến Mr. Bungle tan rã, để lại rất nhiều sự nuối tiếc cho người hâm mộ Avant Garde Metal toàn thế giới. Có lẽ Mr. Bungle sẽ không còn ra tiếp những album để đời nhưng chúng ta sẽ còn gặp lại những thành viên của band nhạc huyền thoại này trong những bài viết tiếp theo, đặc biệt là giọng ca huyền thoại Mike Patton, một trong những vocalist nổi tiếng nhất trong lịch sử của Metal thế giới. Quote Unquote Desert search for Techno Allah Pink Cigarette
Meshuggah Meshuggah Một trong những band nhạc Avant Garde Metal nổi tiếng và có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử của dòng nhạc này là band nhạc Meshuggah. Band thành lập năm 1987 tại Umea, Thụy Điển và khởi đầu chơi theo phong cách Thrash Metal. Sau khi ghi âm 1 album EP, Meshuggah nhận được sự chú ý của hãng đĩa Nuclear Blast và đến năm 1990 thì ký hợp đồng với hãng đĩa này. Năm 1991, nhóm tung ra album đầu tay là Contradictions Collapse. Album này có chất lượng khá tốt và mang âm hưởng mạnh mẽ của Thrash Metal. Dù được giới chuyên môn đánh giá khá cao, album không thực sự đột phá và cũng không thành công lắm về mặt thương mại. Abnegating Cecity Sau khi tung ra album đầu tay khá tốt, các thành viên của band nhạc liên tục gặp những chấn thương khiến họ không thể chơi nhạc trong thời gian dài. Chính vì vậy, album thứ 2 của họ phải đến năm 1995 mới có thể hoàn thành và tung ra- album Destroy Erase Improve. Quãng thời gian chờ đợi 4 năm cho 1 album mới là khá dài, nhưng album này cho thấy sự chờ đợi của fan hâm mộ là không bị uổng phí. Đây là album đầu tiên mà Meshuggah chuyển từ Thrash Metal sang phong cách Avant Garde Thrash Metal. Tất nhiên, những ảnh hưởng của Thrash Metal vẫn còn rất rõ nét, nhưng lúc này Meshuggah đã tích hợp thêm những đoạn solo guitar phá cách kiểu Jazz vào âm nhạc của họ. Các bài hát trong album có cấu trúc phức tạp và gần như không còn tính giai điệu như album trước. Tay trống Haake trong album này tạo ra một thứ âm nhạc hết sức đặc biệt khiến người nghe phải choáng váng (tay trống này chơi như một người máy chơi nhạc vậy). Qua miêu tả ta thấy rằng đây là một album hết sức kỹ thuật, nó có ảnh hưởng rất lớn tới những dòng nhạc siêu kỹ thuật sau này như Mathcore hay Djent. Một trong những album kinh điển của Extreme Metal thế giới. Terminal Illusions Âm nhạc của Meshuggah tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong album thứ 3 của nhóm là Chaosphere -1998. Nếu như album trước của nhóm đã mang tính Avant Garde nhưng vẫn còn khá dễ nghe thì album này rất khó nghe. Những ảnh hưởng của phong cách solo kiểu Jazz đã giảm khá nhiều, âm nhạc trong album vẫn kiểu phá cách nhưng mạnh và ồn hơn rất nhiều giống như tên của đĩa nhạc. Tuy phần ảnh hưởng của Thrash vẫn còn rõ nét, album nghiêng nhiều về hướng của Groove Metal với những đoạn riff đều đều, lặp đi lặp lại. Tuy có mạnh mẽ hơn so với album trước, album vẫn được đánh giá rất cao. New Millenium Cyanide Christ Album thứ 4 của nhóm là Nothing vào năm 2002. Âm nhạc trong album này tiếp tục thay đổi khi bất ngờ nghiêng về phía giai điệu. Những ảnh hưởng của Jazz, đã ít đi khá nhiều trong album trước đó, lại quay lại hết sức mạnh mẽ trong những đoạn solo của tay guitar Thordendal. Ngoài ra, nhóm còn tích hợp thêm phong cách sử dụng âm thanh điện tử của Space Rock. Một điểm khác biệt quan trọng nữa của album này là tiết tấu các bài hát. Nếu như những album trước đó các bài hát thường có tiết tấu nhanh thì album này, nhiều bài hát có tiết tấu chậm hơn (dù vẫn mang nhiều tính Groove). Album tiếp tục được giới chuyên môn hoan nghênh nhiệt liệt và lần này, thậm chí còn mang tới những thành công về mặt thương mại cho nhóm khi có mặt trên bảng xếp hạng của Mỹ ở vị trí 165. Đây là album đầu tiên của hãng đĩa Nuclear Blast có mặt trên bảng xếp hạng của thị trường âm nhạc lớn nhất thế giới này. Nó cũng chính là album đầu tiên của hãng đĩa có được bài review trên tạp chí Rolling Stone. Tên tuổi của Meshuggah lúc này đã được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới. Rational Gaze (còn tiếp)
Meshuggah Meshuggah (tiếp theo) Sau album thứ 4, Meshuggah đã trở thành một thương hiệu có giá trị và band đã có thể tham gia những đại nhạc hội rất lớn như Ozzfest hay đi lưu diễn nước Mỹ cùng với những tên tuổi rất nổi tiếng như Tool. Phải đến năm 2005, nhóm mới tung ra album thứ 5 là Catch 33. Đây là một album concept với 13 bài hát (nhưng gần như liên tục, các bài gắn kết chặt chẽ với nhau). Đây cũng là lần đầu tiên, nhóm sử dụng trống điện tử để thay thế trống acoustic (sử dụng một phần mềm có tến gọi là Drumkit From Hell). Lúc này, những ảnh hưởng của Thrash Metal chỉ còn rất nhỏ, tuy nhiên những ảnh hưởng của Jazz Fusion thì vẫn còn nguyên vẹn. Âm nhạc trong album này cũng chịu nhiều ảnh hưởng của Progressive Rock. Những sự thay đổi mang nhiều tính thử nghiệm của Meshuggah trong album này gây ra nhiều ý kiến trái chiều, tuy vậy, album vẫn có chất lượng khá tốt. Về mặt thương mại, album tiếp tục hiện diện trên bảng xếp hạng của Mỹ tại vị trí 170. Shed Sau 5 albums, âm nhạc của Meshuggah thay đổi liên tục: từ phong cách Thrash Metal của album đầu tay chuyển dần sang phong cách Technical, Avant Garde Metal trong Destroy Erase Improve, rồi chuyển sang phong cách nhanh, mạnh mẽ kiểu Extreme hỗn loạn, không giai điệu trong album Chaosphere, rồi lại chơi nhạc một cách chậm rãi, sử dụng âm thanh trầm (bằng cách dùng guitar 7 dây) và mang nhiều tính giai điệu trong album Nothing rồi chuyển sang phong cách thử nghiệm rất mới mẻ trong album Catch -33. Nhưng có lẽ sau album thứ 5, sức sáng tạo của band nhạc bắt đầu giảm. Album obZen tung ra vào năm 2008 không thực sự đột biến như những album trước mà chỉ là sự tổng hợp tất cả những phong cách (đã kể ở trên) của nhóm trong những bài hát khác nhau. Tuy không thực sự sáng tạo, album vẫn có chất lượng ở dạng khá và tiếp tục đà thành công của nhóm khi vươn lên được hạng 59 trên bảng xếp hạng của Mỹ và kiếm cho nhóm 1 đề cử cho giải Grammy của Thụy Điển (nhưng thất bại). Bleed ObZen tuy không mang tính đột phá nhưng lại rất thành công về mặt thương mại nên tạo ra một lượng fan mới cho nhóm nhạc. Chính vì những lý do kể trên, không quá khó hiểu khi album thứ 7 của nhóm là Koloss tiếp tục phong cách pha trộn kể trên của obZen. Tuy nhiên, các bài hát trong album này chất lượng có phần cao hơn so với obZen nên vẫn khiến những fan hâm mộ của nhóm thỏa mãn và nhận được nhiều lời khen ngợi. Album tiếp tục rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên top 20 trên bảng xếp hạng của Mỹ (vị trí 17). Break Those Bones Whose Sinews Gave It Motion Dù sự nghiệp đã bắt đầu đi xuống với những album kém tính sáng tạo hơn so với 5 albums đầu tay, Meshuggah vẫn là một band nhạc nhận được nhiều sự tôn trọng của fan hâm mộ Metal toàn thế giới với phong cách chơi đặc biệt và rất kỹ thuật. Với những fan hâm mộ lối chơi kỹ thuật, họ không thể bỏ qua những album của Meshuggah. Đây cũng là một trong những band nhạc rất hiếm hoi ngoài 2 nước Anh, Mỹ sử dụng lối chơi rất kỹ thuật.
Maudlin of The Well Maudlin of The Well Năm 1999 là một năm có rất nhiều sự kiện với Avant Garde Metal thế giới. Chúng ta hẳn còn nhớ đây là năm mà band nhạc huyền thoại Mr. Bungle – band nhạc Avant Garde Metal đầu tiên – tan rã. Tất nhiên, đây là một sự kiện đáng buồn của dòng nhạc. Tuy nhiên, sự xuất hiện của một loạt những tài năng siêu việt, những gã khổng lồ khác của Avant Garde Metal khiến đây trở thành một năm có khá nhiều niềm vui. Trước tiên, chúng ta đến với một trong những huyền thoại khác của Avant Garde Metal – band nhạc Maudlin Of The Well (MOTW). Band nhạc được thành lập vào năm 1996 tại Boston Mỹ bởi một huyền thoại khác của dòng nhạc Avant Garde, một nghệ sỹ có thể chơi được rất nhiều nhạc cụ (Multi – Instrumentalist) – đó là Toby Driver. Nếu như vocalist Mike Patton là người được biết đến nhiều nhất trong dòng nhạc Avant Garde với giọng ca siêu việt thì rất có thể Driver là người nổi tiếng thứ hai trong dòng nhạc này. Âm nhạc của MOTW rất phức tạp, nó là sự kết hợp nhuần nhuyễn tới mức khó tin của rất nhiều các thể loại nhạc như Avant Garde Rock với Doom Metal, Jazz, Progressive Rock, Psychedelic Rock, Metal, Death, Gothic và sau này là cả Post Rock, nhạc thính phòng, ambient, New Age, Acoustic guitar, Folk, nhạc truyền thống của Phương Đông…. Và rất nhiều dòng nhạc khác nữa. MOTW khởi đầu sự nghiệp vào năm 1999 với album đầu tay có tên rất dài My Psychobells... A Seed Combustible. Đây là một album mang đầy tính thử nghiệm và là sự kết hợp của rất nhiều những dòng nhạc khác nhau và ta rất khó gọi album này thuộc thể loại gì. Một trong những điểm yếu nhất của album này là chất lượng ghi âm quá tồi (raw), so với một thể loại khó nghe, việc ghi âm quá thô là một điểm yếu và không thể hiện hết trình độ chơi nhạc của một band nhạc. Vì ghi âm kém nên dù chất lượng các bài hát cũng thuộc loại khá, album không thực sự được đánh giá cao. Blight of River-Systems Tuy album đầu tay không mấy thành công, Toby và đồng đội trở lại hết sức mạnh mẽ vào 2 năm sau với một cặp album đầy tham vọng Bath và Leaving Your Body Map vào năm 2001. Trong album Bath, MOTW các bài hát trong album gần như chia thành 2 phần: phần một gồm những bài hát khá nhẹ nhàng, mang âm hưởng Acoustic, phần 2 mạnh mẽ hơn với âm hưởng của Extrem Metal (âm hưởng của Death). Với những bài hát mang nhiều cảm xúc và được đầu tư ghi âm rất tốt. Album trở thành một trong những đỉnh cao của Avant Garde Metal. They Aren't All Beautiful Trong album Leaving Your Body Map, MOTW thể hiện một gương mặt khác, mạnh mẽ và giận dữ hơn album trước rất nhiều. Hiển nhiên, sự xuất hiện của Death Metal cũng nhiều hơn rất nhiều. Album thậm chí còn mang nhiều ảnh hưởng của Post Rock với rất nhiều lớp nhạc cụ chồng lên nhau. Nếu Bath đã là một album kinh điển thì Leaving Your Body Map còn được đánh giá cao hơn Bath một chút với những bài hát tràn ngập cảm xúc. Tất nhiên, đây cũng là một trong những album kinh điển của Avant Garde Metal. Bizarre Flowers, A Violent Mist Tuy được giới chuyên môn đánh giá rất cao, âm nhạc của MOTW không dành cho tất cả mọi người và rất khó nghe. Vì thế, số lượng album bán được của nhóm là không nhiều. Sau khi ghi âm 2 albums kinh điển vào năm 2001, nhóm bắt tay vào ghi âm album thứ 4. Tuy nhiên, trong quá trình sáng tác và ghi âm album này, một số thành viên trong band nhạc quyết định không tiếp tục theo đuổi sự nghiệp âm nhạc cùng với nhóm nữa. Band nhạc lúc này cũng mất hợp đồng với hãng đĩa nên nhóm tan rã. Các thành viên còn lại tiếp tục theo đuổi sự nghiệp với một band nhạc huyền thoại khác là Kayo Dot (mà chúng ta sẽ gặp ở sau này). Năm 2008, những fan hâm mộ của band nhạc quyết định quyên góp tiền để cho nhóm nhạc làm một album mới. Vào năm 2009, nhóm tung ra album thứ 4 là Part The Second và cho fan hâm mộ download miễn phí trên trang chủ của band mà không tung ra album dưới dạng CD hay LP. Tuy vậy, album này thậm chí còn có chất lượng tốt hơn cả những album trước với những bài hát hay, đầy cảm xúc và không hề sử dụng phong cách Death Metal. Excerpt from 6,000,000,000,000 Miles Before.... Dù sự nghiệp không kéo dài với chỉ 4 albums, MOTW vẫn là một trong những band nhạc quan trọng nhất của Avant Garde Metal. Với sự phát triển mạnh mẽ của Internet và các trang web chuyên về Progressive, Avant Garde, âm nhạc của nhóm ngày càng được biết đến rộng rãi và được nhiều fan hâm mộ yêu mến.
UneXpect UneXpect Một trong những band nhạc tài năng nhất của Avant Garde Metal cũng khởi đầu sự nghiệp vào năm 1999, đó là band nhạc uneXpect của Canada. Âm nhạc của nhóm là sự tổng hợp của rất nhiều thể loại nhạc như Progressive, Death, Black, Melodic, cổ điển, opera, Funk, Electronic, Ambient, Noise và Circus Music. Nghe miêu tả ta cũng thấy là âm nhạc của nhóm cũng có điểm tương đồng với Maudlin Of The Well, tuy nhiên nhóm nghiêng về phía Extreme Metal (âm nhạc rất mạnh) và ít chịu ảnh hưởng của Jazz (Maudlin Of The Well chịu rất nhiều ảnh hưởng của Jazz. . Unexpect thành lập năm 1996 bởi một nhóm những nghệ sỹ rất tài năng. Năm 1999, nhóm tự mình tung ra một album đầu tay là Utopia. Do là một album đầu tay, âm nhạc của nhóm lúc này nghiêng nhiều về Death, Black với sự kết hợp của rất nhiều những thể loại nhạc khác nhau. Ghi âm album này không thực sự tốt, tuy nhiên âm nhạc trong album thì khá dễ nghe vì chịu nhiều ảnh hưởng của Melodic Metal. Cũng như MOTW, album có chất lượng khá và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn nhưng không chinh phục được khán giả. Sau album này, tên tuổi của nhóm vẫn không được nhiều fan hâm mộ Metal biết tới. In Velvet Coffins We Slept Sau album Utopia, nhóm tiếp tục thay đổi rất nhiều thành viên, đến thời điểm chuẩn bị ghi âm album thứ 2, nhóm đã có 7 thành viên chính thức, trong đó có tay violin và tay bass siêu kỹ thuật ChaotH chơi bass 9 giây. Năm 2006, tức là 7 năm sau khi tung ra album đầu tay, Unexpect mới tung ra được album thứ 2 và cũng là siêu phẩm của nhóm – album In A Flesh Aquarium. Nếu như trong album trước, chất Avant Garde đã khá cao thì trong album này chất Avant Garde được đẩy lên tới cực điểm. Album là sự tổng hợp của Avant Garde với những đoạn chuyển tempo, sử dụng violin làm nhạc cụ chính và những ảnh hưởng của nhạc điện từ. Những bài hát như luôn bị phá thành những mảnh nhỏ vô cùng khác biệt, không kết nối với nhau trong một loạt những âm thanh ồn ào, hỗn loạn (phong cách thử nghiệm), mạnh mẽ với 3 giọng ca chính (giọng ca nữ hát theo phong cách Opera, giọng ca nam thì 1 khàn, một gầm gừ kiểu Death). Điều đặc biệt hơn nữa là album ngoài tính Avant GArde thì còn mang phong cách Extreme rất mạnh mẽ. Ngoài ra, còn rất nhiều những ảnh hưởng của các dòng nhạc khác nữa trong album và toàn bộ album dựa trên lối chơi rất kỹ thuật của các thành viên band nhạc. Album nhận được rất nhiều lời khen ngợi của giới chuyên môn và trở thành một hiện tượng trong năm … 2007. Rất nhiều fan hâm mộ đã bầu đây là album tiêu biểu của năm 2007 mà không hề biết rằng thực ra đây là một album của năm 2006. Những bài hát Desert Urbania hay Chromatic Chimera sẽ luôn là những bài hát phổ biến nhất của Avant Garde Metal. Hiển nhiên đây cũng là một trong những album kinh điển của dòng nhạc này. Desert Urbania Chromatic Chimera Phải 5 năm sau khi tung ra album kinh điển In A Flesh Aquarium, Unexpect mới tung ra được album thứ 3 trong sự nghiệp là Fables Of The Sleepless Empire. Lúc này, nhóm đã không còn hợp đồng với hãng đĩa mà tự mình tung ra album này. Về mặt âm nhạc, album là sự tiếp nối của album trước đó. Lần này, nó mang ít tính thử nghiệm hơn, và có một chút nghiêng về phía giai điệu (tức là dễ nghe hơn một chút). Tuy vậy, các bài hát trong album vẫn được chơi với một kỹ năng tuyệt vời. Các bài hát có chất lượng rất tốt và nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Đây cũng là một album kinh điển của Avant Garde Metal thế giới sau này. The Quantum Symphony Tuy mới chỉ có 3 albums trong sự nghiệp, Unexpect vẫn là một trong những band nhạc tài năng nhất trong lịch sử của Avant Garde Metal với 2 siêu album. Đây cũng là một trong những band nhạc kỹ thuật cao nhất trong lịch sử của dòng nhạc này. Với những fan hâm mộ Extreme Metal, những album của nhóm là không thể thiếu trong bộ sưu tập.
Fantomas Fantomas Trong những bài viết trước, chúng ta đã nhiều lần nhắc tới tài năng vượt trội của vocalist Mike Patton. Anh này chính là thành viên của 2 band nhạc huyền thoại Faith No More – band nhạc khởi đầu trào lưu Alternative Metal và Mr. Bungle – band nhạc khởi đầu trào lưu Avant Garde Metal. Trong cả 2 band nhạc kể trên, Patton có rất nhiều đóng góp quan trọng trong sự thành công của cả hai. Tuy nhiên, đến những năm cuối thập kỷ 90s, cả 2 band nhạc chính thức của Patton đều tan rã dù để lại rất nhiều nuối tiếc cho fan hâm mộ. Tuy nhiên, với sức sáng tạo “khủng khiếp” của mình, không quá lạ khi Patton vẫn là một trong những nhân vật bận rộn nhất của thế giới Metal trong giai đoạn này. Patton tham gia rất nhiều dự án khác nhau và Fantomas là một trong những dự án chủ chốt của Patton trong giai đoạn này. Fantomas thực chất là một siêu nhóm với những thành viên không còn xa lạ với những người yêu mến Metal trên toàn thế giới. Sau khi Mr. Bungle và Faith No More tan rã, Patton vẫn tiếp tục sáng tác những bài hát theo phong cách Avant Garde rồi gửi những sáng tác này cho tay guitar Buzz Osborne (nhóm nhạc huyền thoại khởi đầu trào lưu Sludge Metal - Melvins), tay bass Trevor Dunn (Mr Bungle) và tay trống Igor Cavalera (nhóm Thrash Sepultura) để thành lập một siêu nhóm. Cavalera từ chối tham gia dự án nhưng giới thiệu Dave Lombardo - một trong những tay trống được yêu mến nhất của Metal thế giới (nhóm Slayer) – tham gia nhóm. Với một đội hình toàn siêu sao, nhóm nhạc bắt tay, vào ghi âm album đầu tay Fantomas và tung ra vào năm 1999. Album này gây shock rất lớn cho toàn bộ fan hâm mộ Metal thế giới với những thử nghiệm lên tới cực điểm. Với một chuỗi những âm thanh kỳ quặc, chủ yếu là tiếng ồn, gào thét, tiếng cười, những đoạn giai điệu cực ngắn và không có lời (giọng hát của Patton lúc này không khác gì nhiều loại nhạc cụ khác nhau). Những thử nghiệm này biến Avant Garde Metal trở thành dòng nhạc khó nghe nhất thế giới. Nhiều fan hâm mộ từng ca thán rằng đây không phải âm nhạc, nó thực chất là những tiếng ồn cố tình được tạo ra một cách không chủ ý. Tuy nhiên, đây là nhận định hoàn toàn sai lầm vì Fantomas có thể biểu diễn live một cách hoàn toàn chính xác các bài hát và phải công nhận rằng cần có kỹ năng chơi nhạc cực tốt mới có thể chơi được các nhạc cụ ra âm thanh như vậy. Album có 30 bài hát và kéo dài hơn 40 phút. Mỗi bài hát diễn tả một trang truyện tranh Fantomas. Đây chắc chắn là một album kỳ quái bậc nhất (và cũng khó nghe bậc nhất) trong lịch sử âm nhạc thế giới. Dĩ nhiên, chỉ có rất ít người có thể hiểu và cảm nhận được tầm vóc to lớn của album này. Sau album đầu tay gây tranh cãi, 2 năm sau Fantomas tiếp tục ra album thứ 2 là Director’s Cut vào năm 2002. Tuy là một album chính thức, các bài hát trong album đều là những sáng tác trong những bộ phim kinh dị rất nổi tiếng. Tuy cover các bài hát nổi tiếng, hầu như không ai có thể nhận ra những bài hát này nữa vì lúc này nó chơi theo phong cách khác hẳn – phong cách phá bài hát kiểu Avant Garde. Có lẽ vì là một album covers, album vẫn có tính giai điệu nhất định và chính vì thế, nó trở nên dễ nghe hơn album trước rất nhiều. Vì vậy, để tránh shock, những ai chưa nghe nhạc của Fantomas có lẽ nên bắt đầu từ album này. Album thứ 3 của nhóm là Delirium Cordia được tung ra vào năm 2004 lập nên rất nhiều kỷ lục: album chỉ có 1 bài hát và kéo dài hơn 74 phút tạo ra kỷ lục bài hát dài nhất của Metal tại thời điểm bấy giờ, khoảng 20 phút cuối bài hát gần như chỉ là những tiếng ồn và tiếng đếm 1, 2, 3, 4 của Mike Patton. Album đầu tay của nhóm đã khó nghe, album này còn khó nghe hơn với sự thử nghiệm lên tới đỉnh điểm. Rất nhiều phần trong bài hát gần như không còn là âm nhạc mà chỉ là những tiếng ồn. Sự phức tạp và độ khó nghe của album này biến những album Avant Garde rất khó nghe trước đó (của Zappa, Beefheart trở nên quá đơn giản và dễ nghe. Tất nhiên, nó không dành cho đại bộ phận những người nghe nhạc thông thường. Album cuối cùng của Fantomas tính tới thời điểm hiện tại là Suspended Animation được tung ra vào năm 2005. Đây là một album concept với nội dung chủ đạo theo phong cách truyện tranh, phim hoạt hình Cartoons. Tuy nhiên, các bài hát trong album này dễ nghe và mang nhiều tính giai điệu hơn rất nhiều. Cùng với Director’s Cut, đây là album dễ nghe của nhóm. Có lẽ vì lý do dễ nghe, 2 album kể trên thường được yêu mến và đánh giá cao hơn album thứ nhất và thứ 3. Sau album này, Fantomas dừng hoạt động để các thành viên tham gia những dự án khác. Dù âm nhạc cực khó nghe, Fantomas vẫn là cái tên để lại nhiều sự yêu mến cho fan hâm mộ Metal thế giới. Nhất là với những người yêu mến những điều mới, lạ. Và tất nhiên, cả những người yêu mến Mike Patton vì anh là linh hồn và nghệ sỹ sáng tác chính của band nhạc này. Trong cả 4 albums, giọng hát của anh này luôn là một điểm sáng lớn trong âm nhạc của nhóm. Book 1 Pages 1-5 Godfather Delirium Cordia Suspended Animation 1 part
Sleepytime Gorilla Museum Sleepytime Gorilla Museum Bước sang thập kỷ 2000s, Avant Garde Metal tiếp tục có những tiến bộ vượt bậc với sự xuất hiện của rất nhiều ngôi sao mới. Nổi bật nhất trong số này có thể kể đến Sleepytime Gorilla Museum (SGM). Band nhạc này được giới chuyên môn và hâm mộ trên thế giới gọi là Avant Garde Modern Kings, một danh xưng chứng tỏ tầm quan trọng của họ với Avant Garde Music trên toàn thế giới. Band nhạc đến từ Mỹ này quan trọng không chỉ vì họ tích hợp cả những ảnh hưởng của nhạc cổ điển, industrial, Extreme Metal và Art Rock vào âm nhạc mà còn bởi tính sáng tạo của họ. Band nhạc thường xuyên tự chế tạo những nhạc cụ mới và đưa những nhạc cụ này vào trong những bài hát của họ. Năm 2001, SGM tung ra album đầu tay là Grand Opening And Closing. Đây là một album khá hay và là sự tổng hợp của rất nhiều thể loại nhạc như Industrial, Heavy Metal, Avant Garde, Jazz với những bài hát có cấu trúc quái dị và giọng ca không bình thường. Việc sử dụng những nhạc cụ tự tạo khiến âm nhạc trong album này hoàn toàn khác so với những band nhạc khác trên toàn thế giới. Album có chất lượng khá tốt và nhận được khá nhiều lời khen ngợi. Nhưng phải đến album thứ 2 là Of Natural History vào năm 2004, SGM mới thể hiện hết tài năng của mình. Âm nhạc trong album này, về cơ bản khá giống với album đầu tay. Tuy nhiên, nhóm đã tích hợp thêm những ảnh hưởng từ Dance, Funk, Progressive Rock, Post Metal, Country, Folk… vào âm nhạc của nhóm. Với các bài hát gần như liên tiếp và có kết nối với nhau, đây cũng là một dạng album concept. Với những bài hát đa dạng, có phần dễ nghe hơn và các nhạc cụ tự tạo được chơi một cách hợp lý và nhuần nhuyên hơn, album gần như ngay lập tức được giới chuyên môn trên toàn thế giới đánh giá rất cao và trở thành một trong những album kinh điển của Avant Garde Metal toàn thế giới. Sau album Of Natural History, tên tuổi SGM đã trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới và được rất nhiều người hâm mộ biết đến. Thậm chí Of Natural History còn được so sánh với những album nổi tiếng nhất của Avant Garde Metal như Disco Volante của Mr. Bungle. Chính vì lý do này, album thứ 3 của nhóm là In Glorious Times -2007 có phần phải chịu sự đánh giá khắt khe hơn của giới hâm mộ. Về mặt âm nhạc, album không quá khác biệt so với album trước đó là Avant Garde Metal. Thay đổi quan trọng nhất có lẽ là về cấu trúc các bài hát, so với album trước thì album này đơn giản hơn khá nhiều. Vì thế, nó ít tính hàn lâm, âm nhạc phần nào đó trở nên dễ nghe hơn. Sự thay đổi này cũng nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn và hâm mộ. Với việc chế tạo những nhạc cụ mới để tạo cho âm nhạc của mình những âm thanh khác biệt mà không band nhạc nào khác có thể có được, SGM biến mình trở thành một trong những band nhạc Avant Garde hàng đầu của Metal thế giới. Cả 3 albums của nhóm đều có chất lượng rất cao và đầy tính sáng tạo. Tuy nhiên, sau 3 albums này, nhóm bất ngờ tuyên bố giải tán vào năm 2011 để lại rất nhiều sự nuối tiếc cho fan hâm mộ và những người yêu mến Metal trên toàn thế giới. Sleep Is Wrong The Creature A Hymn to the Morning Star Helpless Corpses Enactment
Estradaphere Estradaphere Trong lịch sử hình thành và phát triển của Avant Garde Metal, vai trò của các hãng đĩa là hết sức quan trọng. Với dòng nhạc rất khó nghe nhu Avant Garde, nếu không có sự trợ giúp của hãng đĩa, các nghệ sỹ rất khó có thể quảng bá và thực hiện những album studio. Trong trường hợp của Avant Garde, 2 hãng đĩa đóng vai trò quyết định là Ipecac và The End. Nếu như Ipecac là hãng đĩa của Mike Patton huyền thoại của Metal thế giới thì The End là một hãng đĩa khá nhỏ. Trong những năm đầu thập kỷ 2000s, hãng đĩa này thu thập một loạt những band nhạc rất có tài và trở thành một trong những hãng đĩa rất uy tín về Metal của nước Mỹ. Trong những năm này, các band nhạc Metal của The End tung ra rất nhiều album Avant Garde với những đặc điểm riêng biệt như không có giai điệu, kết hợp rất nhiều những thể loại âm nhạc khác nhau vào trong những bài hát. Những band nhạc chúng ta đã gặp như Sleepytime Gorilla Museum hay Unexpect đều nằm trong số này. Và chúng ta sẽ còn gặp khá nhiều những band nhạc nữa sau này. Hôm nay, chúng ta gặp gỡ với một trong band nhạc tiêu biểu của hãng đĩa The End là Estradasphere. Band nhạc này thành lập từ năm 1998 tại Santa Cruz California. Sau nhiều thay đổi trong đội hình, band nhạc chốt danh sách với 6 thành viên đều là những Multi-Instrumentalist – những nghệ sỹ có thể chơi nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Cũng giống như nhiều band Avant Garde Metal khác, âm nhạc của Estradasphere rất phức tạp và là sự pha trộn của rất nhiều thể loại nhạc khác nhau từ Avant Garde tới Jazz, Funk, Techno, cổ điển, Pop, Metal, New Age và đặc biệt là những thể loại rất hiếm gặp như Latin, Balkan, Hy Lạp và Gypsy. Âm nhạc của Estradasphere chủ yếu là hòa tấu và có rất ít lời hát. So với những band nhạc Avant Garde Metal khác, Estradasphere tuy không kém phần phức tạp, có phần dễ nghe hơn vì không có những ảnh hưởng của Extreme Metal. Nhiều bài hát trong các album của họ khá dễ nghe, nghiêng về nhạc Rock hơn là Metal. Họ cũng sử dụng nhiều những nhạc cụ như Violin trong âm nhạc của mình. Nhưng có thể vì chơi nhạc ít tính Extreme, Estradasphere lại ít được biết đến trong thế giới của cả Avant Garde Metal và Metal nói chung. Sau khi tung ra 4 albums lần lượt là It’s Understood -2000, Buck Fever -2001, Quadropus -2003, Palace Of Mirrors -2006, nhóm rơi vào trạng thái ngừng hoạt động trong thời gian rất dài (từ năm 2010). Cả 4 albums của nhóm đều có chất lượng rất tốt và rất đáng nghe. It's Understood The Dapper Bandits Estradasphere Smuggled Mutation
Tomahawk Tomahawk Sau khi band nhạc Faith No More tan rã, Mike Patton tự mình thành lập hãng đĩa Ipecac và quay trở lại với Mr. Bungle. Tuy vậy, Mr. Bungle cũng không tồn tại được lâu và buộc phải giải tán vào năm 1999. Patton thành lập ra nhóm Avant Garde Metal Fantomas và gây ra rất nhiều tranh cãi vì âm thanh quá ồn ào và phá cách. Nhưng như thế vẫn là chưa đủ với mong muốn của Patton. Anh này tiếp tục gặp gỡ với những nghệ sỹ khác và trao đổi về âm nhạc với họ. Một trong số nghệ sỹ Patton trao đổi là Duane Denison của nhóm Alternative Rock huyền thoại The Jesus Lizard để thành lập nhóm Tomahawk vào năm 1999. Sau đó, nhóm kết nạp thêm thành viên mới là tay trống John Stanier của nhóm Helmet và tay bass Kevin Rutmanis của nhóm Melvins. Tới năm 2001, nhóm tung ra album đầu tay cùng tên nhóm. Âm nhạc trong album này khá dễ nghe và là sự kết hợp của phong cách Experimental, Avant Garde với Rock, Country và Hardcore.Album này khá lạ và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn, đặc biệt là giọng hát độc nhất vô nhị của Patton. SAu album đầu tay khá thành công, Tomahawk đi lưu diễn cùng nhóm nhạc huyền thoại Tool nhưng không thực sự được fan của Tool chấp nhận. Trong thời gian này, nhóm ghi âm album thứ 2 là Mit Gas và tung ra vào năm 2005. Album này chất lượng có cao hơn so với album trước với những ảnh hưởng lớn hơn từ Metal và Punk Rock. Album này khá thành công về mặt thương mại với việc xuất hiện trên bảng xếp hạng của Mỹ và một số nước châu Âu. Nhóm tiếp tục thử nghiệm thêm những phong cách mới trong những album tiếp theo. Trong album Anonymous vào năm 2007, nhóm tích hợp khá nhiều âm nhạc kiểu thổ dân da đỏ Mỹ vào trong album. Album này có chất lượng rất tốt và tiếp tục được giới chuyên môn đánh giá khá cao. Tuy nhiên, sau album này, nội bộ của Tomahawk bắt đầu rơi vào trục trặc khi tay bass Rutmanis quyết định rời nhóm mà không nói rõ nguyên nhân. Những năm sau đó, Tomahawk rơi vào trạng thái ngừng hoạt động trong một thời gian khá dài (từ năm 2008 tới 2011). Tuy nhiên đến năm 2012 nhóm tái lập lại và tung ra album thứ 4 là Oddellows vào năm 2013. So với những album trước, album này có phần dễ nghe hơn và mang nhiều tính Alternative với những ảnh hưởng của Jazz. Album này cũng có chất lượng khá tốt và được giới chuyên môn đánh giá khá cao. Do dễ nghe hơn, album rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên được tới hạng 69 tại Mỹ và 16 tại Anh – hai thị trường âm nhạc lớn nhất thế giới. Tuy cùng là band nhạc do Patton lãnh đạo, âm nhạc của Tomahawk rất khác so với Fantomas. Âm nhạc vẫn tiếp tục là sự kết hợp của nhiều thể loại khác nhau, tuy nhiên lần này dễ nghe hơn rất nhiều lần. Tính thử nghiệm trong Tomahawk ít hơn rất nhiều so với Fantomas, các bài hát mang nhiều tính giai điệu và phong cách World Music nhiều hơn. Tomahawk cũng thể hiện sự đa dạng trong phong cách chơi nhạc của Patton, giúp đưa tên tuổi của anh ngày càng trở nên nổi tiếng và được tôn trọng trong thế giới âm nhạc. God Hates a Coward Rape This Day Sun Dance Stone Letter
Kayo Dot Kayo Dot Trong mỗi dòng nhạc, luôn luôn có những đại diện tiêu biểu, những biểu tượng có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của dòng nhạc. Những biểu tượng này có thể là những cá nhân kiệt xuất nhưng cũng có thể là những band nhạc kiệt xuất. Trong trường hợp của Avant Garde Metal, có 2 người rất quan trọng, góp phần xây dựng nên diện mạo của dòng nhạc này. Người thứ nhất, chúng ta đã rất quen thuộc vì đã gặp anh này nhiều lần: đó là giọng ca chính Mike Patton của nhóm Mr Bungle, Fantomas và Tomahawk. Người thứ hai là một nghệ sỹ hết sức đa tài, có khả năng chơi nhiều loại nhạc cụ khác nhau – đó chính là Toby Driver của nhóm Maudlin Of The Well và cũng là thành viên của nhóm nhạc huyền thoại Kayo Dot. Chắc chúng ta vẫn còn nhớ tại thời điểm năm 2003, Maudlin Of The Well tan rã sau khi một số thành viên trụ cột của band nhạc rời đi. Lúc đó band nhạc đang chuẩn bị ghi âm album thứ 4. Do band nhạc tan rã nên dự án phải tạm dừng, tuy vậy, Toby Driver quyết định thành lập một band nhạc khác, có mời thêm các thành viên còn lại của Maudlin nhưng lần này, họ chỉ đóng vai trò như những vai diễn phụ để trợ giúp cho anh (sau này các thành viên của Kayo Dot liên tục thay đổi). Ta đã biết, âm nhạc của Maudlin rất phức tạp và là sự pha trộn của nhiều thể loại nhạc khác nhau như Black, Death, Jazz, Avant Garde… nhưng như thế chưa là gì với Kayo Dot. Âm nhạc của nhóm lúc này còn phức tạp hơn rất nhiều với mỗi album là một trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ, không thể đoán trước. Trong album đầu tiên của họ - Choirs Of The Eye -2003, âm nhạc của nhóm chuyển từ phong cách nghiêng về Metal của Maudlin sang nghiêng về nhạc cổ điển với những bài hát rất dài (hơn 10 phút) trên nền nhạc dày đặc các nhạc cụ và chủ yếu thể hiện kỹ năng chơi nhạc cụ (instrumental) với số lượng lời hát khá ít. Với những tính chất như kể trên (nhiều lớp nhạc cụ, bài hát chủ yếu là hòa tấu), âm nhạc của nhóm còn mang nhiều tính Post Rock/Metal. Với một album đầy mạnh mẽ và nhiều tính sáng tạo, album đã tạo ra một cơn shock lớn với giới Metal underground. Rất nhiều tạp chí và trang web uy tín đã bầu album này là một trong những album Metal xuất sắc nhất của thập kỷ 2000s. Marathon Sau album tuyệt phẩm đầu tay, rất nhiều con mắt tò mò đều chăm chú tập trung vào album tiếp theo của nhóm. Tuy nhiên, sau khi thay đổi đội hình, Kayo Dot chỉ tung ra album thứ 2 là Dowsing Anemone With Copper Tongue vào năm 2006 (3 năm sau khi tung ra album đầu tay). Lúc này âm nhạc của họ tiếp tục thay đổi khi nghiêng dần sang phía Metal. Album vẫn dài và mang nhiều âm hưởng của Jazz hơn là cổ điển, tất nhiên những ảnh hưởng của Post Rock/Metal vẫn còn khá đậm nét. Lúc này, nhiều trang web không chuyên về Avant Garde hay Progressive cũng đã bắt đầu biết đến tên tuổi của nhóm và đánh giá khá cao album như Pitchfork, Sputnik… Tại các trang nhạc chuyên về Progressive, Kayo Dot tiếp tục làm điên đảo fan hâm mộ và thậm chí còn được bầu là album hay nhất năm của một số trang web hàng đầu về dòng nhạc này. On Limpid Form Sau 2 albums và một chuyến lưu diễn khá thành công, tất cả những cựu thành viên của Maudlin Of The Well lần lượt rời khỏi Kayo Dot. Nhóm cũng liên tục chuyển hãng đĩa và tới lúc ký hợp đồng với hãng Hydra Head (hãng chuyên về Post Metal), Kayo Dot chỉ còn lại 2 thành viên là Toby Driver và tay violin Mia Matsumiya. Với một band nhạc chơi một thứ âm nhạc phức tạp như Kayo Dot, dĩ nhiên họ không thể ghi âm 1 albums chỉ với 2 thành viên. Chính vì vậy, một loạt khách đã được Driver mời vào chơi trong album thứ 3 của nhóm là Blue Lambency Downward vào năm 2008. Có lẽ do ảnh hưởng của những vị khách mời này, album chịu rất nhiều ảnh hưởng của nhạc thính phòng, nhạc giao hưởng và Jazz. Dĩ nhiên, với những ảnh hưởng kể trên, âm nhạc của nhóm không còn mạnh mẽ như album trước nữa mà trở nên khá nhẹ (ít tính Metal nếu như không muốn nói là không còn tính Metal). Album nhận được nhiều lời khen chê lẫn lộn. Có những người bi quan thậm chí đã cho rằng sau album này sự nghiệp của Kayo Dot sẽ đi xuống. Blue Lambency Downward (còn tiếp)
Kayo Dot Kayo Dot (tiếp theo) Sau album Blue Lambency Downward, rất nhiều fan hâm mộ không còn tin rằng Kayo Dot sẽ còn có thể tiếp tục tung ra những album đỉnh cao như 2 albums đầu tay nữa. Sau album này, Toby bắt đầu làm việc với một nghệ sỹ nữ tài danh là Yuko Sueta để sáng tác album tiếp theo. Tuy nhiên, trong quá trình ghi âm album, Sueta qua đời do bệnh bung thư. Album thứ 4 trong sự nghiệp của nhóm là Coyote được tung ra vào năm 2010. Album trước đã ít tính Metal, album này thậm chí còn không có tính Metal. Âm nhạc trong album là sự kết hợp của Avant Garde với những bài hát tối tăm, buồn bã của Gothich với những ảnh hưởng của cổ điển và Jazz (tuy nhiên tính cổ điển đã giảm đi nhiều). Dù album này đã không còn mang tính Metal, điều đặc biệt hơn là nó có chất lượng rất tốt và được rất nhiều fan hâm mộ nhạc Rock yêu thích. Calonyction Girl Cũng trong năm 2010, Kayo Dot còn tiếp tục tung ra một album EP là Stained Glass nhưng không mấy thành công. Vì hãng đĩa của nhóm là một hãng chuyên về Metal nên việc Kayo Dot loại bỏ tính Metal trong những album trước khiến hãng không thực sự hài lòng và do đó, Kayo Dot mất hợp đồng với hãng đĩa và trở thành một nhóm nhạc độc lập. Năm 2012, nhóm tung ra album thứ 5 là Gamma Knife theo một cách rất đặc biệt. Album là tập hợp một loạt những bài hát mới sáng tác nhưng lại chơi theo phong cách biểu diễn trực tiếp (live). Album này (đáng ngạc nhiên thay) lại chơi khá mạnh với những âm hưởng của Heavy Metal, Doom. Album này khá ngắn (chỉ khoảng 30 phút) với 5 bài hát. Tuy vậy, album vẫn được fan hâm mộ đánh giá là có chất lượng khá tốt. Gamma Knife Năm 2013, để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 10 của band nhạc, Driver quyết định thực hiện một dự án đầy táo bạo là một album kép với độ dài hơn 100 phút. Để giải quyết vấn đề tài chính, Driver quyết định lấy tiền từ việc đặt trước album của fan hâm mộ (pre order) để thực hiện album. Tháng 9 năm 2013, nhóm nhạc tung ra album Hubardo nhưng chỉ ở dạng số (digital) để download. Album này nhận được rất nhiều lời khen ngợi vì quay trở lại với tính Metal mạnh mẽ giống như trong những album đầu tay của nhóm. Cũng phải khá lâu rồi, chúng ta mới lại thấy những âm hưởng của Black, Death Metal trong âm nhạc của Kayo Dot. Sự thành công rất lớn của album khiến Toby quyết định tung ra album dưới dạng LP (3LP), những LP này bán hết gần như ngay lập tức. And He Built Him a Boat Sau thành công của Hubardo, Toby có hợp đồng với hãng đĩa The Flenser, nhưng không phải với Kayo Dot mà là với một dự án khác của anh này dưới cái tên Vaura. Sau khi tung ra 1 album, Toby đưa 4 bài hát mới sáng tác, sau khi thấy hãng đĩa có vẻ hài lòng, anh quyết định tung nó ra dưới cái tên Kayo Dot. Từ 4 bài hát ban đầu, band nhạc phát triển thành một album hoàn chỉnh. Vào năm 2014, nhóm tung ra album thứ 7 là Coffin On Io. Cũng không ngạc nhiên khi âm nhạc trong album này khác hẳn so với bất kỳ album nào của Kayo Dot trước đó. Âm nhạc trong album này chịu nhiều ảnh hưởng từ Dark Wave, Electronic và Gothic Rock. Lúc này âm nhạc của nhóm dựa nhiều trên giai điệu và có phần lặp lại nhiều lần – điều trái ngược hẳn với phong cách Avant Garde của những album trước đó. Dù phong cách thay đổi hoàn toàn, album vẫn nhận được nhiều lời khen ngợi của những fan yêu nhạc Rock trên toàn thế giới. Library Subterranean Với 7 albums và những phong cách rất riêng biệt, Kayo Dot dần tiến tới những vị trí trang trọng nhất trong lịch sử của Avant Garde Metal thế giới với rất nhiều những album hay. Nhiều trong số đó được coi là những album kinh điển không chỉ của Avant Garde Metal mà còn là của Heavy Metal thế giới nói chung. Dĩ nhiên, họ cũng là band nhạc mà chúng ta không thể không nhắc tới trong những năm gần đây.
Virus Virus Virus không thực sự là một band nhạc được biết đến rộng rãi trong thế giới của Avant Garde Metal nói riêng và Heavy Metal nói chung. Nhóm thành lập vào năm 2000 sau khi Czal rời khỏi nhóm nhạc Ved Buens Ende – một nhóm Avant Garde Black Metal chỉ mới tung ra được 1 album cho tới thời điểm hiện tại là Written In Waters vào năm 1995. Czal là một nghệ sỹ tự học chơi nhạc cụ với những ảnh hưởng hết sức phức tạp từ Voivod tới Talking Heads, từ Miles Davis tới Sodom, từ Tortoise tới Univers Zero… nên âm nhạc của nhóm cũng rất phức tạp. Năm 2003, nhóm tung ra album đầu tay là Carheart qua hãng đĩa Jester của band nhạc huyền thoại Ulver. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của rất nhiều dòng nhạc như Rock, Jazz, Pop, Electronic, Metal… Phong cách âm nhạc này khá giống với Ved Buens Ende chỉ có một khác biệt duy nhất là lúc này họ không còn chịu ảnh hưởng của Black Metal nữa. Giọng hát được sử dụng chính trong album là giọng buồn bã, đau khổ, tối tăm kiều Gothic Rock (Bauhaus hay Joy Division). Album này có chất lượng chuyên môn khá tốt và được khá nhiều fan hâm mộ yêu mến. Tuy nhiên trong những năm sau đó, có khá nhiều biến động xảy ra. Điển hình là việc band nhạc Ved Buens Ende được tái lập và chuẩn bị tung ra album mới. Tuy nhiên đến năm 2007, nhóm này một lần nữa lại tan rã vì những bất đồng giữa 2 thành viên chủ chốt là là Czral và Vicotnik về đường hướng phát triển tiếp theo của band nhạc. Sau khi Ved Buens Ende tan rã, Czal quay trở lại để tiếp tục sự nghiệp với nhóm Virus và đến năm 2008, nhóm tung ra album thứ 2 là The Black Flux. Đây thực chất là những bài hát đã được Czal sáng tác cho album thứ 2 của Ved Buens Ende nhưng do nhóm tan rã nên anh này giữ bản quyền và tung ra dưới cái tên Virus. Âm nhạc trong album không quá mạnh và vẫn là phong cách thử nghiệm (Experimental, Avant Garde) quen thuộc với nhiều ảnh hưởng của Voivod và Bauhaus. Cũng như album trước, album này có chất lượng khá tốt. Album cuối cùng tính tới thời điểm hiện tại của nhóm là The Agent That Shapes The Desert được tung ra vào năm 2011. Âm nhạc trong album này vẫn là sự tiếp nối của những âm thanh tối tăm theo phong cách nửa Rock nửa Metal và thậm chí có thêm những ảnh hưởng của Drone. Âm nhạc trong album chủ yếu dựa trên những nhạc cụ của Rock (guitar, bass, trống) và dựa nhiều vào những cú riff. Tuy nhiên, việc ghi âm một cách trong hơn và chơi guitar nhẹ hơn khiến cho âm nhạc của nhóm nghiêng nhiều về Rock hơn là Metal. Đây vẫn tiếp tục là một trong những album có chất lượng tốt của nhóm. Với chỉ 3 albums, Virus là một band nhạc có chất lượng chuyên môn khá tốt với kỹ năng chơi nhạc cao. Một trong những band nhạc đáng nghe của Avant Garde Metal thế giới. Carheart The Black Flux The Agent That Shapes The Desert
Subterranean Masquerade Subterranean Masquerade Khởi đầu là một dự án kiểu side project của tay guitar đầy tài năng Tomer Pink vào năm 1997. Sau rất nhiều những thay đổi trong đội hình band nhạc, Subterranean Masquerade (SM) có hợp đồng với hãng đĩa rất nổi tiếng là The End. Năm 2004, nhóm lần đầu tiên có mặt trên bản đồ âm nhạc thế giới với một album mini Temporary Psychotic State. Đây cũng là phần đầu tiên của một chuỗi album đầy tham vọng nhưng chỉ có một cái tên chung rất đơn giản là X. Dù chỉ có 2 bài hát, album này nhận được rất nhiều sự khen ngợi của giới chuyên môn trên thế giới vì sự sáng tạo trong âm nhạc của nhóm. Âm nhạc của nhóm rất phức tạp và là sự phối hợp thuần thục đến khó tin của Acoustic, Folk, Rock N Roll, Avant Garde, Doom, Death Metal. Giọng hát của Paul Kuhr (giọng ca chính của nhóm DoomDeath Metal Novembers Doom) kết hợp với tài năng sáng tác và chơi guitar tuyệt vời của Pink là những điểm sáng trong album EP này. Temporary Psychotic State Sau khởi đầu khá thuận lợi, cặp đôi Pink, Kuhr bắt tay ngay vào ghi âm album đầu tay, một siêu phẩm của Metal thế giới là Suspended Animation Dreams và tung ra vào năm 2005. Cũng như album trước, album này rất phức tạp với chỉ một phần nhỏ trong album mang tính Metal, còn lại là tập hợp những ảnh hưởng từ Folk, Progressive Rock, Jazz, cổ điển, World Music… Kỹ năng viết những bài hát tuyệt vời và khả năng solo guitar đỉnh cao của Pink khiến những bài hát trong album trở nên đầy cảm xúc. Cũng cần nhắc lại rằng rất khó để có thể diễn tả được chính xác âm nhạc của SM vì âm nhạc của họ không giống với bất kỳ một nhóm nhạc nào mà chúng ta từng nghe qua (nó quá đặc biệt). Tuy nhiên, nó không quá khó nghe như phần đông những band Avant Garde mà mang tính giai điệu rất rõ rệt. Album này rất hay và được nhiều nhà chuyên môn đánh giá rất cao. Wolf Among Sheep Six Strings to Cover Fear Sau album đầu tay rất thành công, SM bất ngờ rơi vào im lặng trong rất nhiều năm sau đó. Phải đến năm 2013, nhóm mới trở lại hoạt động bằng cách tung ra một album EP. Tiếp sau đó là một album mới – The Great Bazaar được tung ra vào đầu năm 2015. Đây cũng là một album có chất lượng rất tốt với âm nhạc tích hợp thêm rất nhiều âm hưởng của World Music và có phần dễ nghe hơn so với album trước. Tour Diary Tuy mới chỉ tung ra 2 albums, SM vẫn là cái tên ta không thể bỏ qua trong dòng nhạc Avant Garde Metal. Một band nhạc đặc biệt duy nhất, với những album đầy cảm xúc.
Diablo Swing Orchestra Diablo Swing Orchestra Trong những năm giữa thập niên 2000s, Avant Garde Metal phát triển hết sức mạnh mẽ. Chúng ta chắc cũng chưa quên những band nhạc theo phong cách Avant Garde Black Metal rất đặc biệt ở phần viết riêng về nhánh này. Trong dòng chính của Avant Garde Metal, đây cũng là lúc xuất hiện một loạt những anh tài hiếm có. Và Diablo Swing Orchestra (DSO) chính là một trong số này. Band nhạc này thành lập từ năm 2003 tại Thụy Điển và đang dần một trong những thế lực lớn của Avant Garde Metal trong những năm gần đây. Âm nhạc của DSO, cũng như nhiều band nhạc Avant Garde khác, là tổng hợp của rất nhiều thể loại nhạc khác nhau như: Jazz, Symphonic Metal, cổ điển, Opera, Avant Garde kết hợp với những điệu nhảy của Swing, Boogie, Flamenco thậm chí cả Valse. Với việc sử dụng khá nhiều ảnh hưởng của Symphonic Metal và sử dụng giọng ca nữ chính theo phong cách Opera, band nhạc này từng được ví như Therion của Avant Garde Metal. Giọng ca nam theo phong cách gầm gừ chỉ chiếm một vị trí rất nhỏ trong âm nhạc của nhóm. Âm nhạc của nhóm có khá nhiều điểm tương đồng với Unexpect, tuy nhiên dễ nghe hơn và ít tính Extreme Metal hơn. Kỹ năng chơi nhạc của nhóm có lẽ cũng không bằng so với Unexpect. DSO khởi đầu bằng album đầu tay The Butcher’s Ballroom vào năm 2006. Trong âm nhạc của DSO luôn chịu ảnh hưởng nhiều từ Symphonic và những điệu nhảy. Trong album này, nhóm kết hợp phong cách Symphonic này với Jazz, cổ điển, Folk, Rock và một số điệu nhảy như Twist, Boogie, Swing. Album này có chất lượng khá tốt và được cả giới chuyên môn lẫn người hâm mộ đánh giá rất cao. Nó tạo tiền đề đầu tiên cho nhóm nhạc phát triển trong những năm tiếp theo. Album thứ 2 của nhóm là Sing-Along Songs For The Damned & Delirious -2009 tiếp nối những thành công của album trước đó nhưng lần này có thêm những ảnh hưởng của Tây Ban Nha và Flamenco. Tất nhiên những ảnh hưởng của Jazz và Folk vẫn còn khá rõ nét. Đây vẫn tiếp tục là một trong những album có chất lượng cao của nhóm. Album cuối cùng của DSO tính tới thời điểm hiện tại là Pandora’s Pinata được tung ra vào năm 2012. Khác với những album trước, album này chịu thêm ảnh hưởng của nhạc Trung Đông rất rõ nét. Đây tiếp tục là một album có chất lượng tốt của nhóm. Âm nhạc của DSO có nhiều nét tương đồng với phong cách Avant Garde khá đặc biệt của những nhóm nhạc trong hãng đĩa The End. Tuy âm nhạc của DSO dễ nghe hơn nhưng nó cũng có những điểm đặc biệt như dựa vào các điệu nhạc nên âm nhạc của nhóm được đánh giá khá cao. Từ vị trí gần như vô danh, sau 3 albums chất lượng rất tốt, nhóm nhạc đã dần trở nên phổ biến trong thế giới của Metal. Ballrog Boogie A Tap Dancer's Dilemma Voodoo Mon Amour
Giant Squid Giant Squid Giant Squid là một trong những band nhạc điển hình của Avant Garde Metal với cái tên kỳ quặc (Giant Squid nghĩa là mực ống khổng lồ). Tên band nhạc đã rất lạ, tên các bài hát của nhóm còn có phần kỳ quặc hơn với những sinh vật quái dị trong đại dương. Đây cũng là một trong những band nhạc khá nổi tiếng của hãng đĩa The End. Tuy vậy, âm nhạc của Giant Squid rất khác biệt so với những nhóm nhạc khác trong cùng hãng đĩa. Nó là sự kết hợp của phong cách Post Metal với Avant Garde, Progressive, Doom Metal. Nhóm nhạc Giant Squid thành lập từ năm 2002 tại California, Mỹ. Với thứ âm nhạc có phần quái dị, nhóm không thể tìm cho mình một hãng đĩa mà phải tự mình tung ra 2 album là Metridium Field -2004 và Monster In The Creek -2005. 2 albums này nhận được sự chú ý của hãng đĩa The End và sau đó nhóm có hợp đồng với hãng đĩa này. Vào năm 2006, nhóm tung ra lại album đầu tay Metridium Field. Album này được giới hâm mộ Metal thế giới đánh giá rất cao. Album thứ 2 của nhóm là Ichthyologist được tung ra vào năm 2009 thậm chí còn được đánh giá cao hơn so với album đầu tay trước đó. Lúc này, âm nhạc của nhóm đã nghiêng khá nhiều về Post Metal (so với album trước chỉ mang tính Avant Garde). Tuy nhiên, việc thay đổi này không làm chất lượng album thấp đi mà thậm chí còn làm cho chất lượng của nó cao lên. Album tiếp tục nhận được rất nhiều lời khen ngợi và trở thành một trong những album đáng nghe nhất của Avant Garde Metal thế giới. Vào thời điểm những năm đầu thập niên 2010s, hãng đĩa The End bắt đầu thay đổi phương hướng kinh doanh và cắt hợp đồng với một loạt những band nhạc đầy tài năng của Avant Garde Metal. Giant Squid cũng không phải là ngoại lệ. Sau 2 albums chất lượng rất cao, nhóm mất hợp đồng và phải tung ra album thứ 3 là Cenotes thông qua hãng đĩa Translation Loss. Đây tiếp tục là một album có chất lượng cao. Tuy vậy, album này khá ngắn (chỉ 35 phút và gồm 5 bài hát nên một số người cho rằng đây chỉ là một album dạng EP – mini album). Album cuối cùng của nhóm tính tới thời điểm hiện tại là Minoans được tung ra vào năm 2014. Đây là một album dạng concept với nội dung chính kể về sự hủy diệt của một nhóm người tiền sử ở châu Âu có tên gọi là Minoans. Album này, tuy vậy, chất lượng có phần không bằng những album trước đó. So với những band nhạc Avant Garde khác, Giant Squid có lẽ ít nổi tiếng hơn. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chất lượng âm nhạc của nhóm kém hơn những band nhạc khác. Âm nhạc của nhóm khá đặc biệt và mang nhiều tính Doom Metal. Đây cũng là band nhạc có giọng hát rất hay và đặc biệt. Summit Dare We Ask the Widow Sevengill (Notorynchus Cepedianus) Tongue Stones (Megaptera megachasmacarcharias) Mycenaeans
Stolen Babies Stolen Babies Một lần nữa chúng ta lại phải nhắc đến hãng đĩa The End với một band nhạc khá nổi tiếng của Avant Garde Metal. Đó chính là Stolen Babies. Band nhạc thành lập từ năm 2004 tại Mỹ với trên 12 thành viên cùng học cấp 3 với nhau và lấy tên là Fratellis. Sau đó, nhóm nhạc tung ra một album demo. Âm nhạc của nhóm lúc này rất phức tạp và là sự pha trộn của horror punk, Ska, Avant Garde, New Wave, Industrial, Black Metal… Với việc sử dụng thường xuyên Accordion. Năm 2006, nhóm tung ra album đầu tay là There Be Squabbles Ahead. Album rất thành công và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn trên toàn thế giới. Chính vì lý do này, nhóm nhận được hợp đồng từ hãng đĩa The End và cuối năm 2006 thì ra lại album này thông qua hãng đĩa. Âm nhạc trong album này rất phức tạp, các bài hát thì ngắn và mang nhiều tính thử nghiệm và phá cách. Giọng hát nữ chính của Dominique Persi rất tốt và có âm vực rất rộng trải từ giọng trầm tới mức cao – kiểu gào thét. Các bài hát tuy ngắn, vẫn là sự pha trộn của rất nhiều những dòng nhạc khác nhau. Cùng với sự trợ giúp của nhóm nhạc huyền thoại Sleepytime Gorilla Museum, âm nhạc của nhóm càng mang nhiều tính Avant Garde hơn. Sau album đầu tay đình đám, nhóm nhạc có nhiều chuyến lưu diễn với những nhóm nổi tiếng như Lacuna Coil hay Within Temptation. Tuy nhiên, phải đến tận 6 năm sau, Stolen Babies mới có thể tung ra album thứ 2 là Naught do các thành viên còn mải tham gia những dự án kiểu side project. Lúc này đã là năm 2012 và dĩ nhiên nhóm cũng không còn hợp đồng với hãng đĩa The End nữa. Các bài hát trong album vẫn khá ngắn nhưng buồn bã và đen tối hơn album trước rất nhiều. Tuy vậy, chất lượng album vẫn rất cao và nhận được nhiều lời khen ngợi. Stolen Babies, tiếc thay, lại là band nhạc Avant Garde Metal tài năng cuối cùng của hãng đĩa huyền thoại The End. Sau này, vì nhiều lý do khác nhau, các tài năng của The End hoặc tan rã, hoặc chuyển sang hãng đĩa khác. Một số band nhạc vẫn thể hiện tài năng rất lớn của mình như Unexpect, Subterranean Masquerade, Giant Squid hay Stolen Babies, nhưng không thể nói rằng sự nghiệp của họ gặp nhiều thuận lợi. Các band nhạc chỉ có thể ra đĩa sau một thời gian rất dài rời hãng. Điều này phần nào cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp của các nhóm. Push Button Second Sleep Grubbery