Deftones Deftones (tiếp theo) Sau album đình đám White Pony vào năm 2000, Deftones đã thực sự trở thành một trong những thế lực của Heavy Metal thế giới. Những album của họ, tuy không quá thành công về mặt thương mại như một số band nhạc mới thành lập, lại được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Tuy nhiên, ngược lại sự kỳ vọng đặt vào họ là rất lớn. Phải đến năm 2003 nhóm mới tung ra được album thứ 4 trong sự nghiệp là Deftones. Cũng cần phải nhắc lại rằng, tại thời điểm này Nu Metal đang trên đà đi xuống. Nhưng Deftones đã không làm cho những fan hâm mộ họ thất vọng. Album này gần như thay đổi hoàn toàn so với những album trước khi band tích hợp rất nhiều những ảnh hưởng của các dòng nhạc khác nhau vào âm nhạc của nhóm. Lúc này DJ Delgado đã chuyển sang chơi keyboards và Syntherizers nên những ảnh hưởng của Trip Hop và Nu Metal cũng giảm theo. Âm nhạc của album cũng trở nên mạnh mẽ và hoành tráng hơn so với những album trước đó (đây có lẽ là album chơi mạnh nhất trong sự nghiệp của nhóm). Giọng ca của Moreno cũng đầy giận dữ khi anh sử dụng rất nhiều phong cách gào thét. Dù âm nhạc thay đổi nhiều nhưng album có chất lượng rất tốt và được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Album cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 2 trên bảng xếp hạng của Mỹ (vị trí cao nhất trong lịch sử của band nhạc) và sau này cũng giành được đĩa vàng. Album một lần nữa chứng tỏ khả năng và sức sáng tạo rất lớn của band nhạc ngay cả khi dòng nhạc Nu Metal đang bắt đầu rơi xuống đáy vực. Một nỗ lực phi thường của Deftones. Minerva Hexagram Album Deftones có chất lượng rất tốt, nhưng về mặt thương mại nó không thành công bằng 3 albums trước đó. Điều này khiến hãng đĩa Maverick muốn Deftones nhanh chóng bước vào phòng thu âm để thực hiện album tiếp theo. Sau nhiều năm cộng tác với nhà sản xuất Terry Date, Deftones thấy cần phải thay đổi và họ quyết định chọn một nhà sản xuất khác là Bob Ezrin, nhà sản xuất của Pink Floyd, để thực hiện album tiếp theo. Nhưng đây lại là một sai lầm của họ khi quan hệ giữa nhóm và Ezrin không tốt và khiến ông này phải bỏ dở công việc giữa chừng. Ngoài ra, trong nội bộ band nhạc cũng bắt đầu phát sinh những mâu thuẫn. Bản thân các thành viên band nhạc cũng vướng vào những chuyện gia đình phức tạp. Chính vì thế, có những lúc Moreno không còn muốn làm việc với những thành viên còn lại và tự mình thuê nhà sản xuất riêng để ghi âm phần lời cho album. Mâu thuẫn dần lên tới đỉnh điểm khi Moreno bỏ sang nhóm Team Sleep để thực hiện album đầu tay và để mặc các thành viên còn lại hoàn thiện phần nhạc của album. Lúc này, band nhạc gần như đã tan rã và việc ghi âm album bì đình lại vô thời hạn. Phải đến đầu năm 2006, dưới sự giúp đỡ của Date, công việc hoàn tất album mới được tiếp tục thực hiện. Album thứ 5 trong sự nghiệp của Deftones là Saturday Night Wrist được tung ra vào cuối năm 2006. Dù quá trình ghi âm phức tạp, album có chất lượng khá tốt với nhiều ảnh hưởng của các dòng nhạc khác nhau. Tuy nhiên, về mặt thương mại, album không thực sự thành công khi chỉ có thể vươn lên hạng 9 trên bảng xếp hạng của Mỹ và là album đầu tiên của nhóm không thể giành được đĩa vàng. Hole In The Earth Ngay trong năm 2007, Deftones tiến hành ghi âm album tiếp theo trong sự nghiệp và dự định đặt tên là Eros. Tuy nhiên trong quá trình ghi âm, một sự kiện rất buồn nữa lại xảy ra với band nhạc. Năm 2008, tay guitar bass Cheng bị thương nặng trong một tai nạn ô tô. Anh này sau đó rơi vào tình trạng hôn mê rồi qua đời vào tháng 4 năm 2013. Việc Cheng rơi vào hôn mê đã khiến cho album Eros bị hoãn vô thời hạn dù sắp hoàn thiện. Các thành viên band nhạc sau đó quyết định tạm dừng không tung ra album này nữa mà bắt tay vào viết một album khác. Năm 2010, band nhạc tung ra album thứ 6 trong sự nghiệp là Diamond Eyes. Lúc này thì tay bass Sergio Vega của nhóm Quicksand thay thế cho vị trí của Cheng. Một trong những thay đổi quan trọng trong âm nhạc của album là việc sử dụng guitar 8 dây thay cho 7 dây như trước đây. Điều này khiến âm nhạc trong album nghe có phần mạnh hơn so với album trước. Với những bài hát có chất lượng, mang chút ảnh hưởng của nhiều dòng nhạc trong đó có Shoegaze, Dreampop và cả Nu Metal, album được giới chuyên môn đánh giá rất cao và cũng khá thành công về mặt thương mại khi xuất hiện trên 20 bảng xếp hạng trên toàn thế giới. Riêng tại Mỹ, album giành được hạng 6. Diamond Eyes Năm 2012, Deftones bất ngờ tung ra album thứ 7 trong sự nghiệp là Koi No Yokan. Tuy thời gian giữa album này với album trước là không dài, âm nhạc trong album này hoàn toàn khác biệt so với album trước. Lần này Deftones tiếp tục thử nghiệm một phong cách hoàn toàn mới là Post Metal vào trong âm nhạc của họ. Hẳn chúng ta còn nhớ, Post Metal là dòng nhạc nghiêng nhiều về phong cách Atmospheric với những bài hát dài và những phong cách phát triển nhẹ nhàng rồi lên tới cao trào bằng việc sử dụng các nhạc cụ là chính. Tất nhiên, một số bài hát trong album này vì thế cũng khá dài, tiếng guitar nhẹ nhàng và dễ nghe hơn. Giọng hát của Moreno trong album này cũng mang nhiều tính giai điệu hơn. Nhưng, cũng giống như album trước, nó còn chịu ảnh hưởng của Alternative, Nu Metal, Shoegaze và một số dòng nhạc khác nữa. Album này cũng được chào đón nhiệt liệt từ giới chuyên môn nhưng không thực sự thành công về mặt thương mại như album trước khi chỉ vươn lên được hạng 11 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Hiện tại, Deftones chuẩn bị tung ra album thứ 8 trong sự nghiệp trong năm 2015. Ngoài ra, band cũng đang có kế hoạch tung ra album Eros sau cái chết của Cheng. Sextape Tempest Deftones là một band nhạc rất đặc biệt và âm nhạc của họ luôn thay đổi theo từng album. Đây cũng là một trong những nhóm nhạc tài năng và sáng tạo bậc nhất trong dòng nhạc Nu Metal. Dù về mặt thương mại, nhóm không thành công bằng nhiều band nhạc khác trong dòng nhạc Nu Metal, band vẫn nhận được rất nhiều sự tôn trọng của cả giới chuyên môn lẫn fan hâm mộ Heavy Metal thế giới. Dĩ nhiên, đây cũng là band nhạc mà những fan hâm mộ của Metal không nên bỏ qua.
Staind Staind Staind là một band nhạc thành lập khá muộn nhưng nhóm lại tung ra một album rất sớm. Đó là lý do chính biến Staind trở thành band nhạc thứ 3 sau Korn và Deftones chơi Nu Metal. Staind thành lập năm 1995 bởi giọng ca chính Aaron Lewis, guitarist Mike Mushok, bassist Johnny April và tay trống Jon Wysocki. Lúc đầu band chỉ chơi những bản nhạc cover của Korn, Rage Against The Machine, Pearl Jam, Tool và Alice In Chains (những band nhạc có ảnh hưởng rất lớn tới âm nhạc của nhóm sau này). Không có nhiều khán giả (Nu Metal lúc này chưa thực sự được biết đến rộng rãi), không có hợp đồng ghi âm, nhóm tự tung ra album đầu tay là Tormented vào năm 1996. Do tình hình tài chính hạn chế, chỉ có 4000 bản của album đầu tay được bán ra và nó biến album này trở thành một trong những album được săn lùng nhiều nhất sau khi band nhạc trở nên rất nổi tiếng. Sau này, do yêu cầu của fan hâm mộ, album này có được tái bản một số lần nhưng không bao giờ được bán một cách chính thức mà chủ yếu tại các buổi hòa nhạc hoặc trên trang web của band nhạc. Về mặt âm nhạc, đây là album chơi mạnh nhất của band nhạc trong toàn bộ lịch sử tồn tại. Âm nhạc trong album là Nu Metal (với ảnh hưởng lớn của Korn) kết hợp với phong cách Groove và Hardcore. Nó rất khác so với âm nhạc của Staind sau những album sau này khi nhóm tích hợp thêm những âm hưởng của Post Grunge (dễ nghe hơn) vào âm nhạc của nhóm. Lewis cũng sử dụng giọng hát khàn, nhiều khi gào thét chứ không sử dụng giọng clean như những album sau này. Tolerate Album đầu tay của Staind không thực sự thành công và Staind vẫn chật vật để tồn tại. Vào thời điểm năm 1997, Staind vẫn là một band nhạc vô danh. Lúc này, do em họ của Lewis là người tổ chức biểu diễn cho band nhạc đang lên Limp Bizkit, Staind xin được một xuất biểu diễn mở màn cho nhóm nhạc này. Tuy nhiên, ngay trước buổi biểu diễn, giọng ca chính Fred Durst của Limp Bizkit nhìn thấy bìa album đầu tay có phần kỳ quái của Staind, cảm thấy không hài lòng và quyết định loại Staind ra khỏi lịch biểu diễn. Rất may mắn cho Staind là do tờ rơi quảng bá chương trình trước đó đã có tên band nhạc này ở trên nên cuối cùng họ được giữ lại theo đúng hợp đồng. Và đó thực sự là một bước ngoặt trong lịch sử của Staind bởi vì sau khi xem Staind trình diễn 4 bài hát của nhóm, Durst nhận thấy tiềm năng to lớn của band nhạc nên đề nghị hãng đĩa của mình là Flip ký hợp đồng với Staind. Mặc dù lúc này chưa có tên tuổi nên việc ghi âm album thứ 2 của Staind chịu rất nhiều bất công từ hãng đĩa, nhóm vẫn cảm thấy khá hài lòng khi tung ra album Dysfunction vào năm 1999. Âm nhạc trong album này thay đổi rất đáng kể khi nhóm chơi nghiêng về giai điệu và bắt đầu tích hợp những ảnh hưởng của Post Grunge vào âm nhạc. Lewis cũng bắt đầu chuyển sang sử dụng giọng clean vocal. Album này đạt được những thành công nhỏ khi vươn lên hạng 76 tại Mỹ và single chính trong album, bản nhạc Mudshovel bắt đầu được phát sóng rộng rãi trên các kênh quảng bá. Tuy nhiên, điều bất ngờ là dù chỉ có thứ hạng khá thấp, Dysfunction bất ngờ dành giành danh hiệu đĩa vàng sau đó là bạch kim vào năm 2000. Hãng đĩa Flip, trước đó chỉ ký hợp đồng với Staind để làm hài lòng Durst, ngay lập tức thay đổi thái độ và yêu cầu nhóm nhanh chóng ghi âm album thứ 3. Album Dysfunction sau đó còn bán thêm hơn 1 triệu bản và nhận 2 lần đĩa bạch kim vào năm 2004. Mudshovel Sau album rất thành công Dysfunction, Staind có dịp đi lưu diễn với rất nhiều band nhạc nổi tiếng trong Tour diễn Family Values của nhóm Korn tổ chức vào năm 1999. Đây là một Tour diễn rất có uy tín nhằm quảng bá cho Nu Metal và nhóm đã tận dụng rất tốt cơ hội này. Những bản nhạc mới sáng tác của nhóm dành cho album thứ 3 được trình diễn và mang lại những hiệu quả tích cực như Outside hay It’s Been Awhile. Năm 2001, Staind tung ra album thứ 3 là Break The Cycle. Album này, vượt ngoài sự tưởng tượng của cả band nhạc, vươn lên đứng đầu bảng xếp hạng của Mỹ trong 3 tuần liên tiếp và bán được hơn 1 triệu bản (chỉ trong 3 tuần). Đây cũng là album thành công nhất của nhóm về mặt thương mại khi bán được hơn 5 triệu bản tại Mỹ (khoảng 8 triệu trên toàn thế giới). Thậm chí single It’s Been Awhile còn có mặt trong top 10 của Billboard – điều không nhiều những band nhạc Metal có thể làm được. Đó là về mặt thương mại, về mặt âm nhạc đây thực chất vẫn là một album Nu Metal giống Dysfunction nhưng tích hợp nhiều hơn phong cách Post Grunge với những bản ballads nhẹ nhàng, tình cảm hơn. Staind lúc này đã trở thành những siêu sao thực thụ trên bầu trời nhạc Rock. It's Been Awhile Outside (còn tiếp)
Staind Staind (tiếp theo) Sau thành công rất lớn của Break The Cycle, Staind đã tìm ra một hướng đi mới cho âm nhạc của họ. Đầu năm 2003, Staind tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là 14 Shades Of Grey. Âm nhạc trong album này thay đổi rất nhiều khi nghiêng hẳn về phía Post Grunge. Các bài hát trong album chơi khá nhẹ nhàng theo phong cách Melodic. Trong 2 albums trước, Staind đã có tích hợp những ảnh hưởng của Post Grunge nhưng âm nhạc của họ chủ yếu vẫn dựa trên phong cách Nu Metal. Tới album này, phong cách Nu Metal chỉ còn lại rất ít. Tuy thay đổi, album khá thành công về mặt thương mại khi tiếp tục vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng của Mỹ. Tuy nhiên, số lượng album bán được thì kém xa so với album trước (tính tới thời điểm hiện tại, album mới chỉ giành được đĩa bạch kim tại Mỹ - tức là bán được hơn 1 triệu bản). So Far Away Năm 2005, Staind tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp là Chapter V. Album này được đầu tư khá lớn với những chuyến lưu diễn quảng bá dài ngày. Single chính trong album Right Here cũng đạt được những thành công rất lớn nên giúp cho album này tiếp tục vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng của Mỹ một lần nữa. Đây đã là album thứ 3 liên tiếp của nhóm nhạc đứng đầu bảng xếp hạng Mỹ. Album sau đó cũng đạt được chứng chỉ đĩa bạch kim và bán được khoảng 1,2 triệu bản. Dù khá thành công về mặt thương mại (tại thời điểm này Nu Metal đã gần như chết lâm sàng), đây là một bước lùi trong sự nghiệp của Staind. Điều đó có nghĩa là album này gần như không có gì đặc biệt, vẫn là phong cách Post Grunge với chỉ một bài hát có chất lượng cao. Những bài hát còn lại chỉ có chất lượng trung bình. Right Here Năm 2008, Staind tung ra album thứ 6 trong sự nghiệp là The Illusion Of Progress. Âm nhạc trong album tiếp tục thay đổi khi phong cách mạnh mẽ còn rất ít. Album chủ yếu là các bài hát nhẹ nhàng tình cảm và mang phong cách Rock ballad chứ không còn tính Metal. Tuy vậy, các bài hát trong album có chất lượng khá cao (cao hơn so với Chapter V). Album cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên vị trí số 3 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và sau này cũng bán được hơn 500 000 bản (lúc này lượng người mua đĩa đã giảm rất nhiều so với những năm đầu thập kỷ nên việc bán được đĩa vàng đã là thành công lớn đối với nhiều band nhạc). Believe Năm 2011, Staind tung ra album cùng tên cuối cùng của band nhạc (tính tới thời điểm hiện tại). Âm nhạc trong album này một lần nữa lại thay đổi khi chơi nhanh, mạnh, giận dữ và xuất hiện thêm cả những đoạn guitar solo. Phong cách này khá giống với 3 albums đầu tay của nhóm, tức là mang nhiều tính Nu metal. Tuy quay lại với phong cách cũ, album vẫn khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên tới hạng 5 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Ngay trước khi album này được tung ra, Staind bắt đầu có những dấu hiệu rạn nứt sau khi tay trống Wysocki rời nhóm và chuyển sang chơi cho band Hard Rock Soil. Dù band nhạc ngay lập tức kiếm được người thay thế nhưng hậu quả của việc này rõ ràng là rất lớn vì đến năm 2012 thì nhóm rơi vào tình trạng ngừng hoạt động. Các thành viên trụ cột của nhóm lần lượt tham gia nhiều dự án khác nhau. Đến năm 2014, Staind mới hoạt động trở lại bằng cách đi tham gia lưu diễn tại Welcome To Rockville Festival với những band nhạc nổi tiếng như Korn, Rob Zombie…Tuy nhiên sau khi kết thúc lưu diễn, nhóm tiếp tục ngừng hoạt động khi các thành viên lại tham gia những dự án khác. Tuy chưa chính thức tuyên bố tan rã, chắc phải còn rất lâu nữa chúng ta mới có thể nghe những thông tin về album tiếp theo của Staind. Eyes Wide Open
P.O.D P.O.D P.O.D là từ viết tắt của Payable On Death. Đây là một trong số ít những band nhạc Nu Metal có hơi hướng Christian – tức là có lời bài hát ca ngợi chúa Trời. Band nhạc thành lập vào năm 1992 tại California, Mỹ. Sau khi ghi âm một số bài hát demo, POD có hợp đồng với hãng đĩa Rescue và tung ra album đầu tay Snuff The Punk vào đầu năm 1994. Tuy nhiên, lúc này âm nhạc của nhóm không phải là Nu Metal mà mang phong cách Rapcore, Rap Metal (lai giữa Rap và Hardcore) và không mấy thành công. Phải đến năm 1996, khi nhóm tung ra album thứ 2 là Brown thì nhóm mới chuyển sang chơi Nu Metal với những ảnh hưởng rất rõ nét của Korn. Tất nhiên, nhóm vẫn còn giữ những ảnh hưởng của phong cách Rap trước đó. Album này được thu âm khá tệ nhưng nhanh chóng được bán hết do số lượng hạn chế. Tuy không xuất hiện tại bất kỳ bảng xếp hạng nào, album này sau đó được giới hâm mộ săn lùng vì hiếm gặp. Tới năm 2000, sau khi band nhạc khá thành công về mặt thương mại, album này được tung ra lại với phần sản xuất và mix tốt hơn. Selah Sau khi tung ra một album live , POD hoàn thành hợp đồng với hãng đĩa Rescue và trở thành band nhạc tự do. Lúc này, tên tuổi họ cũng chưa được biết tới rộng rãi. Ngay sau đó, hãng đĩa Essential đề xuất một hợp đồng trị giá 100 nghìn USD với band nhạc nhưng band nhạc từ chối vì tin rằng họ xứng đáng có một hợp đồng tốt hơn. Và quả thực band nhạc đã chính xác, vào năm 1998, hãng đĩa khổng lồ Atlantic ký hợp đồng với band nhạc sau khu chứng kiến band nhạc trình diễn live. Năm 1999, POD tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là The Fundamental Elements of Southtown. Âm nhạc trong album lúc này đã chuyển sang phong cách Nu Metal với nhiều ảnh hưởng của Rap. Với những thành công của các single Southtown và Rock The Party, album khá thành công khi vươn lên được hạng 51 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Tuy nhiên, dù chỉ chiếm hạng không cao, album vẫn giành được danh hiệu đĩa bạch kim với hơn 1 triệu bản bán được. Southtown Thành công của The Fundamental khiến POD nhanh chóng bước vào ghi âm album tiếp theo trong sự nghiệp. Năm 2001, nhóm tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là Satellite. So với những album trước, album này còn thành công hơn rất nhiều khi vươn lên hạng 6 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sự thành công của những singles như Alive, Youth Of The Nation, Satellite khiến cho album nhanh chóng bán được hơn 3 triệu bản tại Mỹ. Nó còn giúp cho band nhạc giành được 2 đề cử giải thưởng Grammy trong hạng mục trình diễn Hard Rock và Metal xuất sắc nhất (nhưng đều thất bại). Âm nhạc trong album vẫn là phong cách Nu Metal với giọng ca Rap, nhưng với những bài hát có chất lượng cao hơn rất nhiều. Youth Of Nation Alive Sau những thành công khá lớn với 2 albums liên tiếp, âm nhạc của POD có nhiều thay đổi trong album thứ 4 cùng tên band nhạc vào năm 2003. Lúc này, sức nóng của Nu Metal đã giảm rất nhiều nên âm nhạc của nhóm cũng chuyển hướng sang phong cách Melodic Rock, Metal với một chút ảnh hưởng của Reggae. Phong cách hát Rap trong những album trước gần như không tồn tại trong album này dù những ảnh hưởng của nhạc Hip Hop thì vẫn có. Phong cách mới này không thực sự thành công khi album chỉ vươn lên được hạng 9 trên bảng xếp hạng của Mỹ và đạt được đĩa vàng với hơn 500 nghìn bản bán được. Will You Sự nghiệp của POD dần đi xuống với album thứ 5 là Testify vào năm 2006, một album pha trộn nhiều thứ âm nhạc khác nhau, từ Metal tới Rock nhẹ. Album này, dù cũng chiếm được hạng 9 trên bảng xếp hạng của Mỹ nhưng chỉ bán được số lượng đĩa bằng 1/3 so với album trước. Tới những album sau này như When Angels & Serpents Dance -2008, âm nhạc của nhóm đã chuyển sang phong cách Alternative Rock kết hợp với Reggae, Latin nhưng cũng không thành công (dù vẫn chiếm được hạng 9 tại Mỹ). Phải đến album thứ 7 là Murdered Love -2012 thì nhóm mới trở lại với phong cách Nu – Rap Metal quen thuộc nhưng vẫn không thành công (chỉ chiếm được hạng 17 tại Mỹ). Album mới của nhóm dự kiến sẽ được tung ra trong năm 2015. POD, dù không quá thành công về mặt thương mại vẫn là một trong những band nhạc rất đáng chú ý của Nu Metal thế giới. Goodbye For Now Lost In Forever
Limp Bizkit Limp Bizkit Limp Bizkit có lẽ là một trong những band nhạc thành công nhất về mặt thương mại trong lịch sử của Nu Metal nhưng cũng là một trong những band nhạc bị căm ghét nhất của dòng nhạc này. Một trong những lý do chủ yếu khiến band nhạc bị ghét bỏ là do tích hợp quá nhiều Rap vào trong Metal. Điều này thực ra không phải quá mới, một số band như Rage Against The Machine đã làm trước đó khá lâu, nhưng có lẽ không có band Metal nào lại có hàm lượng Rap lớn như Limp Bizkit, tính tới thời điểm band nhạc này bắt đầu xuất hiện trên thị trường. Limp Bizkit thành lập năm 1994 bởi Fred Durst, giọng ca chính của nhóm tại Florida cùng với John Otto, một tay trống nhạc Jazz và Sam Rivers, tay guitar bass. Trước khi thành lập nhóm, sở thích của Durst là break dance và hip hop. Mặc dù phải làm một số nghề như xăm hình, bán máy cắt cỏ, Durst nuôi dưỡng ý tưởng phát triển một band nhạc tập hợp các ý tưởng từ Rock và Hip Hop. Sau khi thành lập band nhạc, 3 thành viên liên tục tập luyện và viết được 3 bài hát. Sau đó họ kết nạp thêm thành viên thứ 4 là tay guitar Wes Borland và bắt đầu đi lưu diễn. Phong cách trình diễn hết sức mạnh mẽ của band nhạc đã biến họ trở thành một trong những band nhạc được yêu mến nhất tại khu vực Florida, đến mức ngay cả một band nhạc khá nổi tiếng là Sugar Ray, lúc này đã có hợp đồng với hãng đĩa nổi tiếng, cũng đồng ý chơi mở màn cho Limp Bizkit lúc này còn chưa có hợp đồng với bất kỳ hãng đĩa nào. Phải đến khi Durst xăm hình cho những thành viên của Korn, họ mới có cơ hội để phát triển mạnh mẽ hơn. Ấn tượng với những nỗ lực của Durst, Korn chọn Limp Bizkit là band nhạc mở màn cho nhóm này trong 2 chuyến lưu diễn. Sau đó Limp Bizkit có hợp đồng với hãng đĩa Mojo, nhóm cũng kết nạp thêm thành viên mới là DJ Lethal. Ngay sau đó, band tiếp tục có những bất đồng với hãng đĩa và chuyển sang hãng Flip. Năm 1997, nhóm tung ra album đầu tay là Three Dollar Bill Yall. Mặc dù đã được hãng đĩa Flip đầu tư hết mức (hãng đĩa thậm chí còn hối lộ 5000 $ cho kênh Radio để phát bài hát Counterfeit 50 lần) album vẫn không gây được sự chú ý lớn của giới hâm mộ. Dù không mấy thành công, Durst thậm chí còn chiếm thêm một vị trí cao trong việc tìm kiếm tài năng cho hãng đĩa Flip (sau này chính Durst đã ký hợp đồng với Staind). Phải đến năm 1998, sau khi lưu diễn liên tục và quảng bá, single thứ 2 của album đầu tay là Faith – một bản nhạc cover của George Micheal mới gặt hái được thành công. Thành công của Faith giúp cho album vươn lên được tới hạng 22 trên bảng xếp hạng của nước Mỹ và sau này, với sự thành công của những album kế tiếp, album này thậm chí còn bán được hơn 2 triệu bản. Counterfeit Năm 1999, nhóm tung ra album thứ 2 là Significant Others. Âm nhạc trong album này tốt hơn album trước rất nhiều với những bài hát có chất lượng cao hơn. Thành công của single chính Nookie khiến album vươn lên tới hạng 1 của nước Mỹ. Một loạt những bài hát rất thành công sau đó như Re Aranged, N 2 Gether Now hay Break Stuff đưa album nhanh chóng thống trị trên thị trường nước Mỹ với hơn 7 triệu bản bán được. Nó cũng góp phần rất lớn đưa Nu Metal bùng nổ trên toàn thế giới. Nookie Break Stuff Trên đà thành công, Limp Bizkit tiếp tục tung ra album thứ 3 có tên là Chocolate Starfish and The Hot Dog Flavored Water vào năm 2000. Đây tiếp tục là một album hết sức thành công khi ngay lập tức vươn lên hạng nhất trên bảng xếp hạng của Mỹ với hơn 1 triệu bản bán được trong 1 tuần. Đây là kỷ lục đĩa nhạc bán chạy nhất (trong một tuần) trong lịch sử của nhạc Rock thế giới. Với những bài hát vô cùng được yêu thích như Take A Look Around, Boiler, Rollin, My Generation, My Way… album hết sức thành công khi nhanh chóng bán được tới 6 triệu bản tại Mỹ và giúp cho Limp Bizkit trở thành một trong những thế lực hàng đầu của Nu Metal, đang nở rộ bấy giờ. Những album của Limp Bizkit lúc ấy còn bán chạy hơn rất nhiều so với biểu tượng của Nu Metal là Korn (album bán chạy nhất của Korn chỉ bán được khoảng 5 triệu bản). Take A Look Around My Way (còn tiếp)
Limp Bizkit Limp Bizkit (tiếp theo) Tuy nhiên, sau những thành công rất lớn, Limp Bizkit ngay lập tức rơi vào khủng hoảng. Tay guitar Borland – một trong những người sáng tác chính của band nhạc cảm thấy không hài lòng với đường hướng phát triển nên quyết định rời band nhạc. Sau đó, tay guitar Mike Smith của nhóm Snot được mời vào để thay thế Boland. Nhóm tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là Results May Vary vào năm 2003. Sự ra đi của Borland cũng khiến âm nhạc của nhóm thay đổi và chịu nhiều ảnh hưởng của Alternative Rock, Funk và tất nhiên cả Rap và Nu Metal nữa. Dù album này bị giới chuyên môn đả kích kịch liệt, nó vẫn vươn được lên hạng 3 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này cũng bán được trên 1 triệu bản (đạt đĩa bạch kim vào năm 2008). Tuy nhiên, đây lại là một bước lùi rất lớn trong sự nghiệp của Limp Bizkit vì những album trước bán được tới 6, 7 triệu bản. Thất bại này khiến nhóm nhanh chóng chia tay với Smith. Eat You Alive Behind Blue Eyes Năm 2004, Borland quay trở lại và ghi âm album thứ 5 của nhóm. Năm 2005, nhóm tung ra album The Unquestionable Truth (Part 1). Hiển nhiên âm nhạc trong album cũng thay đổi nhiều khi tập trung vào những mảng tối của cuộc sống và sử dụng nhiều dạng âm nhạc thử nghiệm hơn. Tuy nhiên, tại thời điểm này, dù âm nhạc của Limp Bizkit đã mang nhiều cảm xúc hơn, thì thời của họ đã qua. Nếu album trước đã thất bại thảm hại, album này thậm chí còn thảm hại hơn rất nhiều. Trong tuần đầu tiên, album chỉ bán được 37 nghìn bản và vươn lên được vị trí thứ 24 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Đây cũng là album đầu tiên của nhóm không dành được danh hiệu đĩa vàng. Thất bại này khiến Borland chán nản và một lần nữa, anh này rời nhóm và không hẹn ngày trở lại. The Truth Tuy nhiên, đến năm 2009, Borland và Durst lại tiếp tục làm việc và kết quả là album Gold Cobra được tung ra 2 năm sau đó. Âm nhạc trong album này là sự trở lại với thứ Nu Metal trong những album đầu tiên. Album này có chất lượng khá tốt và được giới chuyên môn đánh giá khá cao. Trên bảng xếp hạng, nó cũng khá thành công khi vươn lên hạng 16 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Hiện tại, Limp Bizkit đang trong quá trình hoàn thiện album thứ 7 trong sự nghiệp là Stampede of the Disco Elephants và dự kiến sẽ được tung ra trong năm 2015. Gold Cobra Ready To Go Sự nghiệp của Limp Bizkit gắn liền với sự thăng trầm của Nu Metal. Band nhạc góp phần rất lớn để dòng nhạc này phát triển mạnh mẽ và thống trị thế giới. Tuy nhiên, những mâu thuẫn trong nội bộ band nhạc đã khiến cho Limp Bizkit xuống dốc nhanh chóng. Cùng với sự xuống dốc của band nhạc, dòng nhạc Nu Metal cũng đi xuống theo. Tuy nhiên, so với những band nhạc khác, Limp Bizkit không thể tạo được một lượng fan hâm mộ trung thành vững chắc. Họ nhanh chóng bị bỏ rơi khi thời của họ đã qua. Nhưng dù sao Limp Bizkit là band nhạc không thể thiếu khi nói về Nu Metal.
Coal Chamber Coal Chamber Một trong những band nhạc khá được yêu thích khác của Nu Metal là nhóm nhạc Coal Chamber. Nhóm được thành lập vào năm 1993 tại California, Mỹ. Nhóm nhanh chóng chiếm được cảm tình của giới hâm mộ với những bài hát Nu Metal có phần đen tối và ít nhiều chịu ảnh hưởng của Gothic và Industrial. Phong cách ăn mặc của nhóm cũng chịu nhiều ảnh hưởng của phong cách Gothic hơn là Hip Hop của Nu Metal. Tới cuối năm 1994, tay guitar Dino Cazares của nhóm nhạc Fear Factory phát hiện ra tài năng của band nhạc này nên đã giới thiệu band với hãng đĩa Roadrunner của nhóm Fear Factory. Sau đó, band nhạc có hợp đồng với hãng đĩa này vào cuối năm 1995. Năm 1997, nhóm tung ra album đầu tay cùng tên nhóm. Âm nhạc trong album này chịu ảnh hưởng khá nhiều từ Korn và White Zombie. Dù không xuất hiện trên bất kỳ bảng xếp hạng nào album khá thành công khi bán được hơn 500 000 nghìn bản tại nước Mỹ. Loco Năm 1999, nhóm tung ra album thứ 2 là Chamber Music. Âm nhạc trong album này đã có sự thay đổi rất lớn khi chuyển từ phong cách Nu Metal chịu ảnh hưởng của Korn sang phong cách Gothic Nu Metal khác biệt hơn rất nhiều. Chính vì chuyển phong cách mới, âm nhạc của nhóm mang nhiều tính giai điệu và dễ nghe hơn album đầu tay. Album còn được sự trợ giúp nhiệt tình của cặp vợ chồng Sharon và Ozzy Osbourne, những người lúc đó là người quản lý của band nhạc. Album này vì thế vươn lên hạng 22 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Shock The Monkey Album thứ 3 trong sự nghiệp của nhóm là Dark Days được tung ra vào năm 2002, đây cũng là album cuối cùng trước khi tan rã của nhóm. Trái ngược hẳn với album khá nhẹ nhàng trước đó Chamber Music, album này rất mạnh và giận dữ. Dù được fan hâm mộ khá yêu thích, album không được giới chuyên môn đánh giá cao. Âm nhạc trong album vẫn là sự kết hợp của Gothic Rock với Nu Metal. Album chỉ vươn lên được hạng 34 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau album này, rất nhiều vấn đề đã xảy ra với Coal Chamber. Đầu tiên là việc tay bass nữ Rayna Foss rời band nhạc để sinh con. Sau đó là những mâu thuẫn trong nội bộ band nhạc phát sinh trầm trọng, dẫn tới việc vocalist Fafara đánh nhau với guitarist Rascon ngay trên sàn diễn khiến Fafara rời nhóm và band nhạc tan rã ngay sau đó. (Ta sẽ còn gặp lại anh này ở phần viết về Metalcore sau này với band nhạc DevilDriver). Phải đến năm 2011, nhóm mới quyết định tái lập band và tung ra album mới là Rivals sau 13 năm. Fiend Coal Chamber là một trong những band nhạc Nu Metal không mấy thành công về mặt thương mại. Ngoại trừ album đầu tay chịu nhiều ảnh hưởng của Korn, những album sau đó của nhóm có chất lượng khá tốt khi kết hợp Gothic và Nu Metal tạo ra một thứ âm nhạc mới mẻ. Tuy không thành công về thương mại, band lại rất được fan hâm mộ yêu quý và tôn trọng. Một band nhạc rất đáng nghe của dòng nhạc này. I.O.U. Nothing
Papa Roach Papa Roach Papa Roach là một trong những band nhạc hết sức thành công và nổi tiếng của Nu Metal thế giới. Band nhạc thành lập năm 1993 bởi giọng ca chính Jacoby Shaddix và tay trống Dave Buckner. Tới năm 1997, nhóm tự sản xuất và tung ra album đầu tay Old Friends From Young Years. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp giữa Nu Metal và phong cách Rap. Do số lượng hạn chế, album sau này được tung ra lại thông qua fan club của nhóm. Tuy nhiên, album này không thực sự thành công khi không xuất hiện trên bất kỳ bảng xếp hạng nào. Sau khi tung ra album đầu tay, Papa Roach liên tục đi lưu diễn với một loạt những tên tuổi lớn của Metal thế giới để âm nhạc của họ được biết đến rộng rãi hơn. Năm 1998, hãng đĩa khổng lồ Warner Bros tiếp cận band nhạc nhưng sau đó quyết định không ký hợp đồng. Nhân cơ hội này hãng Dreamworks nhanh chóng ký hợp đồng với band. Năm 2000, Papa Roach tung ra album kinh điển Infest. Album thực chất chính là album demo trước đó của band nhạc kết hợp thêm một số bài hát mới. Âm nhạc trong album là Nu Metal với những đoạn riff rất hay và rất nhiều ảnh hưởng của Rap, Hip Hop. Với một loạt những bài hát kinh điển như Last Resort, Broken Home, Between Angels And Insects album gần như ngay lập tức trở thành một trong những album kinh điển của Nu Metal thế giới. Album sau này vươn lên tới hạng 5 trên bảng xếp hạng của Mỹ và bán được hơn 3 triệu bản. Ngay cả giới chuyên môn cũng đánh giá rất cao album này và Papa Roach thậm chí còn được đề cử giải thương Grammy cho hạng mục Best New Artist – một trong 4 mục quan trọng nhất của giải thưởng này. Last Resort Between Angels And Insects Sau album kinh điển Infest, những tưởng rằng Papa Roach sẽ lên như diều gặp gió nhưng sự thực thì không như vậy. Trước cái bóng quá lớn của Infest, album thứ 3 của nhóm là Lovehatetragedy -2002 lại là một bước lùi trong sự nghiệp của nhóm. Về cơ bản album này âm nhạc cũng khá giống album trước nhưng chú trọng hơn về phần hát thay vì đọc Rap (mang nhiều tính giai điệu hơn). Mặc dù ngay trong tuần đầu tiên album đã vươn lên hạng 2 trong bảng xếp hạng của Mỹ nhưng số lượng đĩa bán được tụt nhanh một cách thê thảm. Album sau này chỉ nhận được chứng chỉ đĩa vàng và là một bước lùi rất lớn so với album trước. She Loves Me Not Thất bại của album thứ 3, Papa Roach thay đổi gần như hoàn toàn âm nhạc của nhóm trong album thứ 4 là Getting Away With The Murder vào năm 2004. Lúc này âm nhạc của nhóm không còn là Nu Metal nữa mà chuyển sang phong cách Alternative Rock/Metal. Điều này có nghĩa là cũng không còn phong cách Rap nữa. Mặc dù vậy album khá thành công khi bán được đĩa bạch kim tại Mỹ, dù chỉ chiếm được hạng cao nhất là 17 trên bảng xếp hạng. Những thay đổi của Papa Roach tiếp tục diễn ra trong những album tiếp đó là The Paromour Sessions -2006 hay Metamorphosis -2009, The Connection -2012 và cả album mới nhất F.E.A.R vào năm 2015. Lúc này thì âm nhạc của nhóm gần như không còn tính Metal mà chỉ là Alternative Rock kết hợp với Hard Rock. Dù thay đổi phong cách chơi nhạc, những album kể trên cũng không thực sự thành công khi chỉ xuất hiện trên top 20 của bảng xếp hạng Mỹ. Tuy âm nhạc có nhiều thay đổi và không còn chơi Nu Metal trong phần lớn những album trong sự nghiệp, Papa Roach vẫn là band nhạc để lại nhiều dấu ấn với album kinh điển Infest vào năm 2000. Hiển nhiên, đây cũng là một trong những album xuất sắc nhất trong lịch sử dòng nhạc này. Getting Away With Murder Forever Lifeline
Sevendust Sevendust Sevendust là một trong những band nhạc không thực sự quá thành công về mặt thương mại những vẫn để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong dòng nhạc Nu Metal. Đây cũng là một trong số rất ít những band Nu Metal có giọng ca chính là một người da đen. Sevendust thành lập năm 1994 tại Georgia, Mỹ bởi bassist Vince Hornsby và drummer Morgan Rose. Sau đó, giọng ca chính Lajon Witherspoon, tay guitar John Connolly và tay guitar thứ hai là Clint Lowery gia nhập nhóm. Lúc này nhóm có tên là Rumblefish . Tuy nhiên sau khi phát hiện ra có nhóm nhạc cùng tên với mình, band đổi thành Sevendust như hiện tại. Năm 1997, nhóm tung ra album đầu tay cùng tên qua hãng đĩa TVT. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của Nu Metal với Alternative Metal và Thrash với những cù riff rất mạnh, giọng ca giận dữ và tiếng trống dồn dập của Thrash Metal. Album này khởi đầu không thành công khi chỉ bán được khoảng 3 nghìn bản trong tuần đầu tiên. Tuy nhiên, sau đó album dần được chú ý và vươn lên được hạng thứ 165 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau này album còn nhận được chứng chỉ đĩa vàng (bán được hơn 500 nghìn bản). Đây là một thành công đáng kể đối với một band nhạc mới được thành lập và âm nhạc cũng không phải dễ nghe. Black Những thành công của album đầu tay khiến band nhạc nhanh chóng được tham gia các đại nhạc hội nổi tiếng như Ozzfest hay Dynamo Open Air trong năm 1998. Năm 1999, nhóm tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là Home. Lúc này album đã có thể vươn lên hạng 19 trên bảng xếp hạng của Mỹ với sự trợ giúp của Chino Moreno và Skin – giọng ca nữ chính da màu của nhóm Alternative Skunk Anansie. Về mặt âm nhạc thì album này khá giống album trước (tức là phong cách Nu/Alternative Metal) nhưng có phần dễ nghe hơn. Album có chất lượng khá tốt và cũng như album trước, đạt chứng chỉ đĩa vàng cho hơn 500 nghìn bản bán được. Denial Sau 2 albums khá thành công liên tiếp, Sevendust tiếp tục được mời tham gia đại nhạc hội Woodstock 99 và khá thành công. Năm 2001, nhóm tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Animosity. Âm nhạc trong album này đã có sự thay đổi khi tích hợp thêm những ảnh hưởng của Post Grunge và Hard Rock vào Nu Metal. Album này cũng khá thành công với những bản Hit như Praise hay Live Again. Dù chỉ xuất hiện ở vị trí số 28 trên bảng xếp hạng của Mỹ, album này sau đó cũng giành được chứng chỉ đĩa vàng như 2 albums trước đó. Praise Album thứ 4 của nhóm là Seasons được tung ra vào năm 2003 tiếp tục là một trong những album có chất lượng khá tốt. Trong album này, chất Nu Metal đã giảm để nhường chỗ cho phong cách Hard Rock và Alternative chiếm ưu thế. Điều này cũng có nghĩa là âm nhạc trong album nghiêng nhiều hơn về mặt giai điệu. Album này được giới chuyên môn đánh giá rất cao – thậm chí là cao nhất trong sự nghiệp của nhóm vì nó khá dễ nghe. Album cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 14 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Single chính của album là Enemy là bài hát được biết đến rộng rãi nhất của nhóm. Nó vươn lên được hạng 10 trên bảng xếp hạng dành cho các bài hát Mainstream Rock. Đây cũng là thứ hạng cao nhất của Sevendust trên các bảng xếp hạng. Tuy nhiên, đây cũng là album cuối cùng của tay guitar Lowery với nhóm. Enemy (còn tiếp)
Sevendust Sevendust (tiếp theo) Sau 4 albums tình hình bắt đầu xấu đi với band nhạc Sevendust. Lúc này nhóm đã kết thúc hợp đồng với hãng đĩa TVT và chuyển sang hãng đĩa mới là Winedark. Và đây là một trong những sai lầm lớn của band nhạc. Năm 2005, nhóm tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp là Next. Lúc này, Nu Metal đã không còn là dòng nhạc được ưa chuộng nên Sevendust chuyển hẳn sang phong cách Alternative. Album chỉ thành công ở mức vừa phải khi vươn lên được hạng 20 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Tuy nhiên chỉ vài tháng sau đó, hãng đĩa của họ không thực sự chăm lo đến band nhạc khi để mặc band tự xoay xở, không quảng bá cho album. Rất nhiều người hâm mộ thậm chí không biết là band nhạc đã tung ra album mới được 5 tháng. Sau đó, band nhạc cũng không được trả tiền đầy đủ. Band nhạc phải tự bỏ tiền trang trải các khoản cho band nhạc và dẫn tới phá sản với món nợ lên tới cả triệu USD. Ugly Driven Sau đó, Sevendust ký hợp đồng với hãng đĩa Asylum và tung ra 2 albums khá thành công nhưng mang phong cách alternative và Hard Rock là Alpha -2007 và Chapter VII: Hope & Sorrow -2008. Cả 2 albums đều có mặt trên bảng xếp hạng của Mỹ ở vị trí khá cao là 14 và 19. Cùng với sự trở lại của Lowery vào năm 2008, nhóm có thêm động lực để tiếp tục sự nghiệp với album thứ 8 là Cold Day Memory vào năm 2010. Trong album này, nhóm đã quay trở lại với phong cách Alternative/Nu Metal trước đây. Những ảnh hưởng của Hard Rock vẫn còn nhưng khá nhỏ. Album cũng nhận được sự chào đón nhiệt liệt của fan hâm mộ và vươn lên được vị trí số 12 (vị trí cao nhất trong lịch sử band nhạc). Prodigal Son Unraveling Album cuối cùng tính tới thời điểm hiện tại của nhóm là là Black Out The Sun vào năm 2013. Đây là album tổng hợp rất nhiều phong cách từ Alternative Nu Metal tới Hard Rock khá phổ biến trong các album của Sevendust. Album này cũng được giới chuyên môn đánh giá khá cao dù chỉ vươn lên được hạng 18 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sevendust hiện đang hoàn thiện thứ 10 của nhóm trong năm 2015. Decay So với những band nhạc Nu Metal khác, âm nhạc của Sevendust có nhiều sự khác biệt với những ảnh hưởng của Alternative và Thrash. Tuy không phải là band nhạc quá thành công về mặt thương mại, đây là band nhạc được giới chuyên môn đánh giá cao và rất được yêu mến. Một band nhạc khá đặc biệt trong lịch sử của Nu Metal.
Saliva Saliva Saliva là một trong những band nhạc có sức sống khá mãnh liệt trong dòng nhạc Nu Metal. Nhóm thành lập năm 1996 tại Tennessee, Mỹ. Âm nhạc của nhóm này cũng khá đặc biệt khi theo phong cách Nu Metal kết hợp với Southern Rock của Mỹ. Nói đến Southern Rock của Mỹ chắc hẳn chúng ta không thể quên những tên tuổi rất nổi tiếng như Allman Brother Band, Lynyrd Skynyrd, Molly Hatchet, ZZTop hay gần đây là Black Stone Cherry. Dòng nhạc này thực chất là sự kết hợp của Rock, Blues và Country là một trong những đặc sản của nhạc Rock Hoa Kỳ. So với nhiều band nhạc chịu ảnh hưởng của Southern Rock như 3 Doors Down, Nickelback… Saliva không thành công bằng nhưng họ vẫn có những điểm đặc biệt riêng trong âm nhạc của mình và đến tận những thời điểm gần đây vẫn liên tục tung ra những album có chất lượng. Sau khi thành lập 1 năm, Saliva tự tung ra album đầu tay cùng tên vào năm 1997. Âm nhạc trong album này chủ yếu là Nu Metal (kiểu đọc Rap) kết hợp với Southern, Hard Rock. Dù không có hãng đĩa quảng cáo, album này nhanh chóng bán được tới 10 nghìn bản. Thành công này khiến nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa nổi tiến là Island. Tuy nhiên, phải tới tận 4 năm sau, tức là năm 2001, nhóm mới có thể tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là Every Six Second. Âm nhạc trong album vẫn là phong cách Nu, Rap Metal kết hợp với Southern Rock. Album có chất lượng khá tốt với những bài hát khá hay như: Your Diseas, Click Click Boom hay After Me đã khiến cho album vươn lên được hạng 56 trên bảng xếp hạng của Mỹ và đạt chứng chỉ bạch kim với hơn 1 triệu bản bán được. Sau thành công khá lớn của album đầu tay, ngay trong năm sau đó, tức là năm 2012, Saliva tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Back Into Your System. Về mặt âm nhạc, album này không khác quá nhiều so với album trước đó. Bản hit Always rất thành công về mặt thương mại đã giúp cho album này có thể vươn lên tới hạng 19 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này cũng giúp cho album giành đĩa vàng với hơn 500 nghìn bản bán được. Sau 2 albums khá thành công, Saliva đã trở thành một trong những tên tuổi được yêu thích của Metal thế giới. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm mà Nu Metal sắp thoái trào. Vì vậy, cũng như rất nhiều band nhạc khác, Saliva cũng nhanh chóng rời xa Nu Metal trong album thứ 4 là Survival Of The Sickest vào năm 2004. Âm nhạc trong album này chủ yếu là phong cách Hard Rock, Southern Rock chứ không còn nhiều chất Nu Metal nữa (chỉ có 1 bài duy nhất có phong cách đọc Rap của Nu Metal). Tuy chuyển thể loại nhưng album vẫn khá thành công khi vươn lên được hạng 20 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Đến album thứ 5 là Blood Stained Love Story vào năm 2007 thì âm nhạc của Saliva không còn một chút gì của Nu Metal nữa. Thay vào đó là phong cách Post Grunge, Alternative khá thịnh hành vào thời điểm này. Album có một bản hit là Ladies And Gentlemen rất được yêu thích nên vẫn chiếm được hạng 19 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sự nghiệp của nhóm chỉ đi xuống nhanh chóng khi tung ra album Cinco Diablo vào năm 2008. Album này thất bại tới mức còn không xuất hiện trong top 100 trên bảng xếp hạng của Mỹ dù được quảng bá khá nhiều. Album tiếp theo trong sự nghiệp của nhóm là Under Your Skin tiếp tục không thành công và điều này khiến giọng ca chính Josey Scott quyết định rời band nhạc để theo đuổi sự nghiệp solo. Tuy rất khó khăn, các thành viên còn lại của Saliva vẫn tiếp tục sự nghiệp bằng việc kết nạp thêm thành viên mới và tung ra 2 albums liên tiếp là In It To Win It -2013 và Rise Up -2014. Cả 2 albums không thực sự dù có tích hợp thêm ảnh hưởng của Metalcore vào phong cách Hard Rock. Dù sự nghiệp có nhiều thăng trầm, Saliva vẫn là một band nhạc khá tốt với 2 albums khá hay trong dòng nhạc Nu Metal. Hiện tại, có lẽ Saliva đã đi đến điểm đáy trong sự nghiệp của họ những nhóm vẫn kiên định theo đuổi sự nghiệp. Your Disease Always Survival Of The Sickest Ladies And Gentlemen Family Reunion Badass
Kid Rock Kid Rock Kid Rock là một trong những nghệ sỹ nổi tiếng nhất của không chỉ Nu Metal mà còn là của nhạc Rock tại thời điểm hiện tại. Kid Rock tên thật là Robert James Ritchie. Kid Rock khởi đầu sự nghiệp vào năm 1990 và ban đầu là một Rapper. Trong khoảng từ năm 1990-1997, Kid Rock tung ra 3 album theo phong cách Rap và gần như không nhận được bất kỳ sự chú ý nào của giới chuyên về âm nhạc trên thế giới. Năm 1998, Kid Rock bất ngờ tung ra album Devil Without A Cause theo phong cách hoàn toàn mới lạ và nghiêng hẳn về phía Nu Metal. Âm nhạc trong album là sự kết hợp của Nu Metal với Rap và Southern Rock. Kid Rock đã rất khôn ngoan khi tận dụng những giai điệu của rất nhiều bài hát tốt trong lịch sử âm nhạc và pha trộn thêm những đoạn đọc Rap của riêng anh vào. Về mặt âm nhạc, các bài hát không quá sáng tạo nhưng tại thời điểm bấy giờ, Nu Metal đang là mode. Không phủ nhận những bài hát đi vay mượn giai điệu, những đoạn riff… của Kid Rock là khá hay. Cùng với việc đi biểu diễn liên tục với những band như Limp Bizkit và Staind (dù Kid Rock chỉ mới là tay học việc và chỉ đi diễn mở màn cho những band này) thì những thành công sau đó của Rock cũng khiến cả thế giới ngỡ ngàng. Một loạt những single trong album như Bawitdaba, Cowboy hay Only God Knows Why liên tục làm làm mưa làm gió trên toàn thế giới và kéo album này lên hạng 4 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Nhưng đó chưa phải là điều đáng ngạc nhiên nhất, sau đó album còn bán được tới hơn 11 triệu bản tại Mỹ. Việc bán được 11 triệu bản biến album của một tay ngang trở thành album bán chạy nhất của toàn bộ dòng nhạc Nu Metal và biến Kid Rock từ một anh chàng vô danh thành một siêu sao. Anh này còn được đề cử cả giải Grammy giành cho nghệ sỹ mới xuất sắc nhất – một trong 4 giải quan trong nhất. Trên đà thành công Rock tiếp tục tung ra một album tương tự với album trước là The History Of Rock vào năm 2000. Dù là một album dạng remixed các bài hát, tình yêu dành cho Rock của giới hâm mộ Metal thế giới lúc này rất lớn. Album remixed không có nhiều đặc sắc này vươn lên hạng 2 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và cũng bán được 2 triệu bản với bài hit là American Bad Ass – bản remixed bài hát Sad But True của Metallica. Tuy nhiên, cũng bất ngờ như khi xuất hiện, Kid Rock nhanh chóng từ bỏ Nu Metal để chuyển sang Country và Southern Rock trong album thứ 6 là Cocky vào năm 2001 – lúc này Nu Metal đã bắt đầu có dấu hiệu xuống dốc. Sự thay đổi của Kid Rock lúc đầu không gây ấn tượng. Album bán không được chạy, nhưng sau đó, nhờ sự vượt trội của single Picture hát chung với Sheryl Crow, album lại được giới hâm mộ chào đón nồng nhiệt và bán được hơn 5 triệu bản. Đây cũng là lúc Kid Rock tìm được hướng đi mới cho sự nghiệp của mình khi Nu Metal đã suy tàn. Những album sau này của Rock đều theo phong cách Southern Rock, Country, Blues và liên tục thành công với hàng triệu bản bán được. Nó cũng biến anh này trở thành một trong những tên tuổi nổi tiếng nhất trong làng nhạc Rock hiện tại. Tuy chỉ là một tay ngang, bất ngờ tham gia Nu Metal, Kid Rock lại có những album bán chạy nhất của cả dòng nhạc. Thành công của anh cũng góp phần rất lớn vào sự bùng nổ của Nu Metal sau này. Rock có lẽ cũng là người đầu tiên rời bỏ Nu Metal vào năm 2001 và vẫn thành công rực rỡ. Thành công này có lẽ cũng là nguyên nhân chính khiến rất nhiều band nhạc Nu Metal chuyển hướng âm nhạc trong những năm giữa thập niên 2000s, đánh dấu sự đi xuống của dòng nhạc này. Dù sao, Devil Without A Cause vẫn luôn là một trong những tuyệt phẩm của Nu Metal thế giới. Bawitdaba Only God Knows Why American Bad Ass Picture All Summer Long Born Free
Project 86 Project 86 Trong lịch sử của dòng nhạc Metal, phần lớn các band nhạc đều đạt được những thành công nhất định như đạt chứng chỉ đĩa vàng, đĩa bạch kim nhưng cũng có nhiều band nhạc không có nhiều những thành công về mặt thương mại dù các album của họ chất lượng khá tốt. Project 86 là một trong những tên tuổi như vậy. Tính tới thời điểm hiện tại, nhóm đã tung ra được 9 album và 3EPs nhưng tổng số lượng đĩa band được của họ chỉ khoảng 500 000 trên toàn thế giới. Nhóm nhạc này thành lập từ năm 96 tại California, Mỹ và là một band nhạc theo phong cách Christian, giống nhóm nhạc POD. Chính vì lý do này, nhóm nhanh chóng có hợp đồng với hãng đĩa BEC một chi nhánh của hãng Tooth & Nail – chuyên về nhạc Rock Christian. Năm 1998, nhóm tung ra album đầu tay cùng tên. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của Rapcore và Nu Metal. Album khá thành công và bán được khoảng 30 nghìn bản tại nước Mỹ. Với một nhóm nhạc theo phong cách Hardcore/Metal Christian thì đây là một con số khá cao nên band nhạc gần như ngay lập tức trở thành một cái tên đáng chú ý. Năm 2000, nhóm tung ra album thứ 2 là Drawing Black Lines. Đây là một album có chất lượng rất tốt. Âm nhạc trong album là sự kết hợp giữa Nu Metal với phong cách Metalcore, Alternative. Điều này cũng có nghĩa album nghiêng nhiều về phía giai điệu hơn là phong cách Rap của album trước. Các bài hát đều có chất lượng khá cao nên album được giới chuyên môn khen ngợi rất nhiều. Chính vì vậy, ngay trong năm 2000, hãng đĩa khổng lồ Atlantic quyết định mua lại bản quyền và tung ra album này thêm một lần nữa. Trong tư cách là một band nhạc đang lên, Project 86 quyết định ghi âm album thứ 3 dưới dạng concept. Band nhạc cũng tràn đầy năng lượng để viết một album có chất lượng tốt nhưng nó không thực sự thuyết phục hãng đĩa Atlantic, những người mong muốn band nhạc viết những bài hits để đĩa nhạc của họ bán chạy hơn. Dưới áp lực của hãng đĩa, nhóm phải dành cả 14 tháng để ghi âm, thay đổi và ghi âm lại. Nhưng kết quả cuối cùng thì rất đáng thất vọng vì album rất khác so với ý định ban đầu. Năm 2002, nhóm cuối cùng cũng tung ra được album thứ 3 là Truthless Heroes. Thế nhưng, đây lại là một thất bại trong sự nghiệp của nhóm vì album được làm quá kỹ, dễ nghe nên nó thiếu đi sức mạnh và năng lượng, vốn đã tràn ngập trong 2 albums đầu tay của nhóm. Tất nhiên album chịu nhiều chỉ trích và cũng không thành công. Sau thất bại của album thứ 3, Project 86 quyết định chia tay hãng đĩa Atlantic. Thất bại của album này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới những chàng trai còn trẻ của nhóm. Sau đó, nhóm nhạc quyết định tự thành lập hãng đĩa của riêng mình và bắt tay vào ghi âm album thứ 4 là Songs To Burn Your Bridges By. Âm nhạc trong album lúc này trở nên mạnh mẽ và có phần phá phách hơn rất nhiều so với album trước đó. Album này, có chất lượng tốt và nhận được nhiều lời khen ngợi. Chính vì vậy, hãng đĩa Tooth & Nail quyết định ký lại hợp đồng với band và tung ra lại album này vào giữa năm 2004. Những năm sau đó, do Nu Metal đang trên đà đi xuống, cũng như nhiều band nhạc khác Project 86 chuyển dần sang một thứ âm nhạc mới mẻ dựa nhiều vào giai điệu. Nhóm cũng bắt đầu tích hợp vào âm nhạc của mình những âm hưởng của Post Punk như The Cure, Joy Division và sử dụng nhiều keyboards. Những ảnh hưởng này bắt đầu từ album …And The Rest Will Follows vào năm 2005, một album có chất lượng rất tốt. Khi tung ra album Rival Factions vào năm 2007, âm nhạc của nhóm gần như đã chuyển hẳn sang Post Punk, New Wave và Alternative Rock và còn rất ít tính Metal. Tuy nhiên, rất may mắn đây chỉ là sự thay đổi tạm thời của band nhạc vì trong album thứ 7 của nhóm là Picket Fence Cartel vào năm 2009, âm nhạc của nhóm lại trở nên mạnh mẽ hơn. Lần này nó là sự pha trộn giữa Heavy Metal với Alternative Metal và Post Hardcore. Album này cũng có chất lượng tốt. Hai album sau này của nhóm là Wait For The Siren -2012 và Knives To The Future đều là những album có chất lượng rất tốt với nhiều ảnh hưởng của Hardcore, Alternative và cả Nu Metal. So với những người bạn thân thiết là nhóm POD, Project 86 không thành công lắm về mặt thương mại. Tuy nhiên về mặt âm nhạc, đây là một nhóm có nhiều album chất lượng rất tốt. Dù là một band nhạc kém nổi tiếng, Project 86 là một nhóm nhạc mà những fan của Alternative/Nu Metal không nên bỏ qua. Pipe Dream One Armed Man Hollow Again Project 86 - My Will Be A Dead Man Fall, Goliath, Fall
Soulfly Soulfly Một trong những thành công rất lớn của Nu Metal trong những năm cao trào là dòng nhạc đã ảnh hưởng nhiều tới những người khổng lồ của Metal thế giới như Metallica, Machine Head hay Sepultura. Tất cả những band nhạc này đều có những album theo phong cách Nu Metal, mặc dù đây không phải những album được đánh giá cao. Soulfly có lẽ là một band nhạc vừa mới vừa cũ với những fan hâm mộ Heavy Metal thế giới, bởi vì đây là band nhạc của Max Cavalera, giọng ca chính của band nhạc Sepultura. Lúc này Max vừa rời khỏi band nhạc huyền thoại này do mâu thuẫn với các thành viên khác trong band nhạc. Album cuối cùng của Max với Sepultura là Roots đã chịu rất nhiều ảnh hưởng của Nu Metal. Nên sau khi quyết định ra solo dưới cái tên Soulfly, cũng không quá lạ lùng khi Max tiếp tục theo đuổi dòng nhạc Nu Metal. Vì chán cảnh tranh cãi giữa band nhạc Max quyết định đây là một dự án solo và trong mỗi album anh sẽ mời những nhạc công khác nhau. Năm 1998, Soulfly tung ra album đầu tay cùng tên nhóm. Để thực hiện album, Max nhờ sự trợ giúp của rất nhiều thành viên các band nhạc khác như Fear Factory, Limp Bizkit, Deftones, Los Hooligans, Cypress Hill, Skindred. Không cần phải quá khó khăn để hiểu rằng album này pha trộn rất nhiều thể loại nhạc khác nhau từ Industrial, Nu Metal, Ska, Rap, Groove và đặc biệt là World Music – dòng nhạc pha trộn giữa âm nhạc truyền thống, đặc trưng của các vùng miền trên thế giới. Chắc chúng ta còn nhớ, Sepultura là một trong những band nhạc Metal đầu tiên kết hợp World Music vào âm nhạc của mình và điều đó được tiếp tục một cách mạnh mẽ hơn trong Soulfly. Dù gây nhiều tranh cãi và khởi đầu khá khiêm tốn khi chỉ xếp hạng 79 trên bảng xếp hạng của Mỹ, album vẫn giành được giải đĩa vàng (với hơn 500 nghìn bản bán được). Bleed Sau album đầu tiên khá thành công (nên nhớ rằng bản thân band nhạc huyền thoại Sepultura cũng chỉ có 2 album đạt được chứng chỉ đĩa vàng mà thôi nên ngay album đầu tiên Soulfly đạt đĩa vàng đã là một thành công vang dội), Cavalera quyết định biến đây thành dự án nghiêm túc. Năm 2000, nhóm tung ra album thứ 2 là Primitive. Âm nhạc trong album này vẫn là phong cách Nu Metal kết hợp với World Music nhưng có phương hướng rõ ràng và có phần nghiêng nhiều về Metal hơn so với album trướ đó. Cũng như album trước, album này có sự tham gia của rất nhiều nhân vật nổi tiếng của làng nhạc Metal thế giới như Corey Taylor (Slipknot), Sean Lennon (con trai của John Lennon), Chino Moreno (Deftones), Tom Araya (Slayer). Album này khởi đầu khá ấn tượng với hạng 32 trên bảng xếp hạng của Mỹ và khá thành công. Back To The Primitive Âm nhạc của Soulfly bắt đầu có sự chuyển hướng trong album 3 vào năm 2002. Trong album này, Soulfly bắt đầu chuyển dần sang chơi Nu Metal với những ảnh hưởng của Thrash Metal. Tất nhiên chất World Music vẫn còn nhưng khá ít (chỉ 3 bài hát). Sự thay đổi này khiến band nhạc nhận được khá nhiều lời khen ngợi và chú ý của giới chuyên môn. Seek 'N' Strike Quá trình chuyển mình của Soulfly tiếp tục trong album thứ 4 là Prophercy vào năm 2004. Lúc này những ảnh hưởng của Thrash Metal là rất lớn nên nhiều người đã gọi đây là một album Thrash với những ảnh hưởng của World Music. Chất Nu Metal còn khá nhỏ trong album này và lần đầu tiên trong sự nghiệp Max Cavalera thực sự chú tâm vào sáng tác những bài hát có chất lượng cao. Album vì thế được giới hâm mộ đặc biệt yêu thích dù nó chỉ chiếm được hạng 46 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Prophecy (còn tiếp)
Soulfly Soulfly (tiếp theo) Sự nghiệp của Soulfly tiếp tục phát triển mạnh mẽ 1 năm sau đó tức là năm 2005 khi nhóm tung ra album thứ 5. Trong album Dark Ages, âm nhạc của Soulfly đã chuyển hoàn toàn thành Thrash Metal. Âm nhạc trong album này nhanh hơn, mạnh hơn và tối tăm hơn so với những album trước đó rất nhiều. Chính vì yếu tố này, lúc đầu album bị chỉ trích vì chịu ảnh hưởng quá nhiều của Sepultura (so với Sepultura thì Soulfly chơi nhạc nhẹ hơn rất nhiều). Nhưng trên thực tế, có thể do lúc này Cavalera đang gặp rất nhiều vấn đề trong gia đình, cuộc sống (khi mất đi cháu trai và người bạn thân thiết- tay guitar huyền thoại Dimebag Darell). Cũng giống như nhiều album của Soulfly, những bài hát đầu album có chất lượng rất cao, những bài hát sau đó chất lượng giảm rất nhanh. Tuy nhiên, cùng với thời gian, album này ngày càng được yêu mến hơn. Carved Inside Trải qua 5 albums, phần lớn đều có chất lượng khá tốt, Soulfly vẫn không nhận được sự chú ý quá nhiều từ giới hâm mộ Metal thế giới. Một trong những nguyên nhân chính là vì cái bóng của Sepultura quá lớn. Các fan hâm mộ thậm chí chỉ mong Soulfly thất bại để Max Cavalera trở về với Sepultura. Trong album thứ 6 của nhóm là Conquer vào năm 2008 (album thứ 6 trong vòng 10 năm), âm nhạc của nhóm rất ít thay đổi so với album trước đó. Âm nhạc trong album này chủ yếu là Thrash và Groove Metal. Đây là một album có chất lượng rất tốt, đầy mạnh mẽ và đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của band nhạc. Unleash Sự nghiệp của Soulfly chỉ dần đi xuống với album thứ 7 trong sự nghiệp là Omen. Âm nhạc trong album này trở về với phong cách Groove Metal với những bài hát ngắn hơn và điều quan trọng hơn, nó không có gì đặc biệt. Dĩ nhiên album cũng không thực sự được đánh giá cao. Rise Of The Fallen Tuy nhiên, Soulfly là một band nhạc khá kỳ lạ. Thông thường họ luôn có một album hay sau đó là một album không nổi bật. Chính vì vậy sau album chất lượng thấp Omen, nhóm lại tung ra một album khác có chất lượng khá cao là Enslaved. Âm nhạc trong album này rất mạnh , nhanh và tối với những ảnh hưởng của cả Death Metal. Album này gần như chỉ là một album Metal thuần túy vì những đoạn điệp khúc theo phong cách World Music gần như không còn. Sự thay đổi cơ bản này đem lại cho âm nhạc của Soulfly một diện mạo mới và hơn hết, các bài hát có chất lượng cao. Đây là một album có chất lượng rất tốt của nhóm. World Scum Album thứ 9 là Savages vào năm 2013 một lần nữa chứng kiến sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm khi nghiêng thêm về phía Hardcore và Groove Metal. Đây cũng là album đầu tiên mà cậu con trai Zyon chơi trống trong band nhạc của cha mình là Max (có lẽ lúc này Max đã già) nên âm nhạc không thực sự nổi trội và những ảnh hưởng của World Music một lần nữa lại xuất hiện. Tuy nhiên, điều đáng buồn là album này chất lượng kém khá xa so với album trước đó là Enslaved. Dự kiến trong năm 2015, nhóm sẽ tung ra album thứ 10 là Archangel. Bloodshed Soulfly (hay Max Cavalera) là một band nhạc tài năng. Âm nhạc của họ khá đặc biệt với rất nhiều dấu ấn của World Music. Tuy chất lượng các album không đồng đều, đây vẫn là một band nhạc rất đáng chú ý trong lịch sử Metal thế giới.
Crazy Town Crazy Town Trong lịch sử của thế giới âm nhạc, có rất nhiều những trường hợp band nhạc chỉ được biết đến qua một bài hit rồi sau đó biến mất như chưa từng xuất hiện trên thế giới. Những band nhạc như vậy được gọi chung một cái tên là One Hit Wonder. Và rất tiếc trong thế giới của Heavy Metal cũng có những band nhạc như vậy. Và Nu Metal cũng không phải là ngoại lệ, đây chính là trường hợp của band nhạc Crazy Town. Band nhạc này thành lập từ năm 1995 nhưng không thực sự quá chú tâm vào con đường âm nhạc. Trong một thời gian khá dài họ không sáng tác và ghi âm được album nào kể cả demo. Phải mãi tới năm 1999, nhóm mới ghi âm album đầu tay The Gift Of Game và tung ra vào cuối năm. Album này không thực sự thành công mặc dù đây là Nu Metal đang phát triển rất mạnh. 2 Singles đầu tiên của album không nhận được bất kỳ sự chú ý nào trên toàn thế giới và vì thế không có mặt trên bất kỳ bảng xếp hạng nào. Dù được đi lưu diễn mở màn cho một band nhạc khổng lồ là Red Hot Chili Pepper thì số phận của album cũng không khá hơn. Một năm sau khi tung ra album này, Crazy Town chỉ bán được tầm 100 nghìn bản, một con số khiêm tốn so với những album đình đám của Metal cùng thời. Mọi việc chỉ thay đổi vào cuối năm 2000, khi nhóm tung ra single thứ 3 là Butterfly. Không hiểu vì một lý do kỳ bí nào đó, đĩa nhạc này lần lượt vươn lên và đứng hạng đầu của Top 100 Billboard. Cũng cần giải thích thêm là Top 100 là bảng xếp hạng dành riêng cho các bài hát của nước Mỹ. Thông thường, những người đứng đầu Top này thường là những ngôi sao nhạc Pop, còn nhạc Rock thì vào được Top 10 đã là rất khó rồi. Việc Butterfly có thể vươn lên hạng nhất Top 100 và sau đó đứng đầu trên bảng xếp hạng của 15 nước khác quả là như sấm nổ bên tai vì trong lịch sử của Nu Metal (dù rất thành công, chưa hề có band nhạc nào làm được điều kỳ diệu như trên). Thành công của single này góp phần kéo album lên tới hạng 9 trên bảng xếp hạng của Mỹ và giúp album giành đĩa bạch kim với khoảng trên 1,5 triệu bán được và biến Crazy Town trở thành một trong thế lực mới nổi của Nu Metal trên toàn thế giới. Dĩ nhiên, sau album đầu tiên rất thành công, album thứ 2 của nhóm rất được trông đợi. Nhưng sau điều kỳ diệu của Butterfly, một điều kỳ quái lại xảy ra. Dù tên tuổi của Crazy Town đã rất nổi tiếng nhưng khi tung ra album Darkhorse vào năm 2002 họ lại thất bại hết sức thảm hại. Dù âm nhạc trong album này có nghiêng về Rock nhiều hơn, nó cũng không thể lý giải tại sao album chỉ vươn lên hạng cao nhất là 120 trên bảng xếp hạng của Billboard với tổng cộng 28 ngàn bản (so với hơn 1,5 triệu của album trước). Thất bại này khiến Crazy Town sụp đổ ngay sau đó. Sau này nhóm có tái lập lại vào năm 2007 nhưng chật vật để có thể viết xong một album mới. Hiện tại nhóm đang trong quá trình hoàn thiện album thứ 3 là The Brimstone Sluggers để tung ra vào tháng 8 năm 2015. Crazy Town quả là một trường hợp cá biệt của Metal thế giới. Butterfly Revolving Door Drowning Lemonface
Slipknot Slipknot Slipknot, cũng giống như Korn, Deftones là một trong những band nhạc biểu tượng cho trào lưu Nu Metal. Và cũng giống như những nhóm nhạc gạo cội kể trên, Slipknot đã tạo dựng cho mình một lượng fan trung thành. Chính vì vậy dù Nu Metal không còn là thể loại thành công về mặt thương mại trong những năm gần đây thì Slipknot vẫn luôn là band nhạc được mong chờ và yêu mến. So với nhiều nhóm nhạc khác của Nu Metal, âm nhạc của Slipknot khá mạnh và chịu ảnh hưởng từ một số dòng nhạc Extreme như Death. Sau này âm nhạc của họ nghiêng dần sang hướng giai điệu và chịu nhiều ảnh hưởng của Metal truyền thống. Đáng ra, Slipknot có thể xuất hiện sớm hơn trong phần viết về Nu Metal vì họ đã có album đầu tay từ năm 97. Tuy nhiên, sau này band nhạc không thừa nhận đây là album chính thức của nhóm nên thời gian khởi đầu của nhóm bị lùi xuống năm 1999. Đây là nhóm nhạc khá kỳ lạ vì các thành viên luôn đeo mặt nạ khi biểu diễn. Trở lại với lịch sử của band nhạc, Slipknot thành lập từ năm từ năm 1995 bởi tay trống Shawn Crahan và tay guitar bass Paul Gray. Sau đó tay trống Joey Jordison gia nhập nhóm và Crahan chuyển sang chơi percussion (trống sử dụng tay gõ vào mặt trống). Sau nhiều thay đổi trong đội hình, đến năm 1996 thì nhóm đã bao gồm 7 thành viên và bắt đầu bước vào ghi âm album đầu tay. Cuối năm 1996, nhóm tung ra album đầu tay là Mate. Feed. Kill. Repeat. Mặc dù lúc đầu nhóm coi đây là album chính thức đầu tiên nhưng sau đó nhóm cân nhắc lại và chuyển album này thành một bản demo. Âm nhạc trong album này rất khác biệt so với những album sau này của nhóm khi là sự kết hợp của Nu Metal, Jazz, Funk, Experimental, Groove, Death… Tại thời điểm ban đầu, chỉ có khoảng 1000 bản của album này được bán ra. Ngay cả bản thân các thành viên band nhạc hiện tại cũng không có ai còn giữ bất kỳ bản copy nào của album này. Do tính chất khác biệt của âm nhạc so với các album sau này rất lớn và sau này nhiều bài hát được ghi âm lại phục vụ cho album Vol 3 nên nhóm đã coi album này là một album demo. Gently Album của nhóm không thực sự thành công nên Slipknot không thể tìm được một hãng đĩa để ký hợp đồng. Để tiếp tục sự nghiệp, nhóm buộc phải thay đổi bằng cách tìm thêm một giọng ca mới nhiều tính giai điệu hơn. Lúc này, nhóm tìm thấy Corey Taylor của nhóm Alternative Metal Stone Sour và mời anh này gia nhập nhóm chuyển giọng ca chính của nhóm xuống chơi percussion thứ 2. Như vậy có thể thấy nhóm có 3 tay trống và còn kết nạp thêm một tay DJ Sid Wilson vào để biến band thành 9 người. Năm 1998, nhóm tung ra 1 album demo mới để tìm kiếm một hợp đồng, album demo này khá tốt và ngay sau đó, nhóm có hợp đồng với hãng đĩa Roadrunner (hợp đồng trị giá 500 nghìn dollar Mỹ với 7 albums – một hợp đồng quá thành công của hãng đĩa này). Năm 1999 nhóm tung ra album đầu tay cùng tên – một album kinh điển của Nu Metal thế giới. Âm nhạc trong album này là Nu Metla nhưng với những ảnh hưởng của Death, Thrash Speed, Alternative và cả Rap lẫn Industrial. So với các album Nu Metal cùng thời, album này mạnh hơn khá nhiều và mang nhiều tính Extreme. Album khởi đầu không mấy thành công (chỉ chiếm được hạng 51) nhưng sau đó, nhờ những chuyến lưu diễn liên tục và phong cách biểu diễn đầy giận dữ và kỳ quặc của nhóm đã khiến album nổi như cồn và bất ngờ giành đĩa bạch kim (bán được hơn 1 triệu bản) vào năm 2000. Đây là album đầu tiên trong lịch sử của hãng đĩa Roadrunner giành được danh hiệu này. Tại thời điểm hiện tại, album đã giành được 2 lần đĩa bạch kim và là album bán chạy nhất trong lịch sử của Slipknot. Sự thành công của nhóm còn được củng cố thêm khi band nhạc được đề cử giải thưởng Grammy cho trình diễn Metal xuất sắc nhất. Wait And Bleed Sau thành công vang dội của album đầu tay là những ngày tháng vất vả trong sự nghiệp của band nhạc khi liên tục lưu diễn và phải chuẩn bị tung ra album thứ 2. Nhưng thành công nào cũng có mặt trái của nó, thành công đem lại tiền bạc nhưng nó cũng làm cho mối quan hệ giữa các thành viên trở nên căng thẳng hơn. Album thứ 2 của nhóm là Iowa được tung ra vào năm 2001 là một album mạnh mẽ, đen tối và nhiều tính Extreme hơn so với album đầu tay. Một trong những điểm đặc biệt hơn của album này là nhóm đã sử dụng phong cách dựa nhiều trên kỹ năng chơi nhạc của các thành viên. Đây là một album có chất lượng khá tốt và không phụ lòng mong đợi của fan hâm mộ. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi có mặt trên top 10 trên hầu hết các bảng xếp hạng trên toàn thế giới. Riêng tại Vương quốc Anh nó vươn lên hạng 1 còn tại Mỹ thì chiếm hạng 3. Album này sau đó cũng giành được đĩa bạch kim. My Plague Left Behind (còn tiếp)
Slipknot Slipknot (tiếp theo) Dù trong nội bộ band nhạc có mâu thuẫn, Slipknot vẫn liên tục lưu diễn cho album khá thành công là Iowa trong gần 1 năm. Nhưng khi các chuyến lưu diễn kết thúc cũng là lúc mâu thuẫn giữa các thành viên của nhóm tăng cao. Năm 2002, nhóm rơi vào tình trạng ngừng hoạt động và đẩy tương lai band nhạc vào tính huống bất ổn. Trong những năm sau đó, các thành viên chủ chốt của nhóm tham gia rất nhiều các dự án kiểu side projects khiến rộ lên tin đồn là nhóm đang trên bờ vực tan rã. Phải đến năm 2004, sau khi giải quyết các bất đồng, Slipknot mới tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Vol.3: (The Subliminal Verses). Âm nhạc trong album này có rất nhiều thay đổi khi nhóm nghiêng hẳn sang phong cách Melodic và Heavy Metal truyền thống với việc sử dụng những đoạn solo guitar. Ngoài ra một số bài hát còn sử dụng acoustic guitar và mang tràn đầy cảm xúc. Rất nhiều fan hâm mộ và cả giới chuyên môn đã shock trước sự trưởng thành rất nhanh chóng của band nhạc. Hiển nhiên, album có chất lượng chuyên môn rất cao và cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 2 tại Mỹ và sau này giành đĩa bạch kim. Đến cuối năm 2006, nhóm còn được nhận tin vui hơn khi bài hát Before I Forget trong album này nhận giải thưởng Grammy cho trình diễn Metal xuất sắc nhất. Duality Vermillion Sau 3 albums thành công liên tiếp, Slipknot gần như đã có tất cả: sự thừa nhận của giới chuyên môn, xây dựng cho mình một lượng fan hâm mộ vững chắc, thành công về mặt thương mại, đoạt giải thưởng Grammy sau khá nhiều lần được đề cử. Điều duy nhất còn thiếu của nhóm có lẽ là chưa một album nào của họ có thể vươn lên đứng đầu trên bảng xếp hạng của Mỹ dù bán được khá nhiêu (albums thứ 2 và 3 của nhóm chỉ vươn lên được hạng 3 và 2). Nhưng trước khi hoàn thành ước mơ này, họ còn rất nhiều việc phải làm, việc đầu tiên là giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ band nhạc. Sau khi tung ra Vol 3. Một lần nữa Slipknot lại rơi vào tình trạng ngừng hoạt động vào năm 2005. Các thành viên của nhóm lại trở về tham gia vào các side projects. Phải đến cuối năm 2007, nhóm mới trở lại để chuẩn bị cho album thứ 4. Năm 2008, nhóm tung ra All Hope Is Gone vào cuối năm. Lần này giấc mơ lớn của Slipknot đã thành sự thật khi album vươn lên đứng đầu bảng xếp hạng của Mỹ. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của cả 3 album trước đó. Đây cũng là lần đầu tiên tất cả các thành viên của band nhạc tham gia vào việc sáng tác các bài hát. Album sau đó cũng rất thành công khi bán được trên 1 triệu bản và nhận chứng chỉ bạch kim. Psychosocial Nhưng những thành công rất lớn của các albums cũng không làm cho mối quan hệ giữa các thành viên trong band nhạc tốt hơn. Đến cuối năm 2009, nhóm nhạc lại một lần nữa rơi vào tình trạng đường ai nấy đi. Nhưng lần này, mọi việc còn trở nên tồi tệ hơn với Slipknot. Giữa năm 2010, tay bass Gray qua đời do dùng thuốc kích thích quá liều. Nhưng họa vô đơn chí, mọi việc vẫn chưa dừng lại ở đây, tới năm 2013, tay trống Jordison bị buộc rời nhóm mà không rõ nguyên do. Nên nhớ Gray và Jordison là những người sáng tác chính trong band nhạc cùng với Crahan và Taylor. Nhưng trong hoàn cảnh khó khăn, một lần nữa Slipknot lại làm cho giới hâm mộ kinh ngạc khi tung ra album thứ 5 là .5: The Gray Chapter. Âm nhạc trong album này gần như là sự kết hợp hoàn hảo của Iowa và Vol.3: tức là phong cách Nu Metal mạnh mẽ hòa trộn với Melodic Metal. Album có chất lượng rất tốt và được giới chuyên môn chào đón nhiệt liệt. Nó cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên đứng đầu trên bảng xếp hạng của Mỹ và có mặt trên Top đầu của hầu hết các nước trên thế giới. The Devil In I Killpop Có thể nói, Slipknot là một trong những biểu tượng của Nu Metal thế giới với phong cách chơi nhạc đầy mạnh mẽ và phóng khoáng. Dù thời đỉnh cao của Nu Metal qua từ rất lâu nhưng Slipknot vẫn rất thành công về mặt thương mại. Những thành viên của nhóm đều là những người có kỹ năng chơi nhạc rất tốt, đặc biệt là tay trống Jordison, một trong những tay trống có kỹ thuật rất cao của Metal thế giới. Tất nhiên, đây cũng là band nhạc mà những người yêu Metal không thể bỏ qua.
Linkin Park Linkin Park Trong lịch sử của Nu Metal thế giới, Linkin Park là một band nhạc gây nhiều tranh cãi. Những tranh cãi về band nhạc này có lẽ sẽ không nhiều nếu như band nhạc không quá thành công và lôi kéo một lượng rất đông đảo fan hâm mộ trẻ tuổi. Cũng chính vì lý do này, band nhạc thường bị những Metalhead coi là band nhạc chỉ dành cho trẻ con. Tuy nhiên, khi thời gian qua đi, ta có thể có một cái nhìn công bằng hơn về band nhạc và những đóng góp khá lớn của họ với dòng nhạc này. Linkin Park thành lập từ năm 1996 bởi bộ 3 Mike Shinoda – lúc này là tay rhymth guitar với Brad Delson – guitar và Rob Bourdon – trống khi cả 3 còn đang học cấp 3. Sau đó một thời gian thì họ kết nạp tay DJ Joe Hahn và tay bass Dave Farrell và giọng ca chính Mark Wakerfield và đổi tên thành Xero. Tuy nhiên, band nhạc không thành công và không thể tìm được một hợp đồng thu âm. Cũng chính vì lý do này, Wakefield rời khỏi nhóm và thay thế anh này là giọng ca chính Chester Bennington. Bennington trước đó tham gia một band nhạc Post Grunge nên anh này có giọng khá mạnh mẽ. Ngay sau đó, band đổi tên thành Hybrid Theory. Lúc này band nhạc hồi sinh với phong cách trình diễn kết hợp của 2 vocalist Shinoda – phong cách đọc Rap và Bennington – giọng hát theo phong cách Melodic. Tuy nhiên sau khi tung ra một album EP, một lần nữa nhóm đổi tên thành Linkin Park. Tới lúc này thì nhóm mới có thể ký được hợp đồng với một hãng đĩa rất lớn là Warner Bros – nguyên nhân chủ yếu là một người quen của nhóm đã trở thành phó chủ tịch của hãng đĩa này. Năm 2000, nhóm tung ra album đầu tay Hybrid Theory, một trong những album bán chạy nhất trong lịch sử của Nu Metal. Trước khi tung ra album, nhóm tung ra single One Step Closer và nhận được sự chào đón khá nhiệt tình của các kênh quảng bá. Chính vì vậy, album khởi đầu khá tốt và vươn lên được hạng 16 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau khoảng 5 tuần thì album đạt được chứng chỉ đĩa vàng (bán được hơn 500 nghìn bản). Nhưng những thành công lớn về mặt thương mại chỉ đến trong những năm sau đó. Trong năm 2001, album bán được gần 5 triệu bản và trở thành album bán chạy nhất tại Mỹ. Trong năm 2002, album vẫn tiếp tục bán được rất nhiều (khoảng 100 nghìn bản 1 tuần) và sau 5 năm thì album nhận được chứng chỉ bạch kim (với hơn 10 triệu bản bán được tại Mỹ). Điều này khiến Hybrid Theory trở thành album bán chạy thứ 2 trong lịch sử của Nu Metal (chỉ sau Devil Without A Cause của Kid Rock). Âm nhạc trong album này là Nu Metal với phong cách hát nửa Rap nửa giai điệu của 2 giọng ca chính. Album chơi nhạc với kỹ thuật không cao nhưng giai điệu thì dễ nhớ và dễ nghe. Là một album bán rất chạy nhưng có một điều đặc biệt là Hybrid Theory không bao giờ vươn lên dẫn đầu trên bảng xếp hạng của Mỹ, đã rất nhiều lần, album này vươn lên hạng 2 nhưng sau đó lại tụt dần xuống và trở thành một trong những album hạng 2 vĩ đại nhất trong lịch sử của Mỹ. Sau album rất thành công với những bài hát rất nổi tiếng, Linkin Park tung ra album thứ 2 là Meteora vào năm 2003. Âm nhạc trong album này không khác gì nhiều so với album trước đó với một loạt những bài hát dễ nghe như Somewhere I Belong, Numb… album tiếp tục rất thành công khi vươn lên hạng 1 trên bảng xếp hạng của Mỹ với gần 1 triệu bản bán được trong 1 tuần. Album cũng rất thành công trên bình diện thế giới khi đứng đầu trên hầu như tất cả các bảng xếp hạng. Album này sau đó cũng bán được hơn 6 triệu bản tại Mỹ và khoảng 8 triệu bản trên toàn thế giới. Tuy nhiên sau 2 albums siêu thành công, Linkin Park lại rơi vào khoảng lặng rất lớn khi các thành viên band nhạc tham gia rất nhiều sự án side project khác nhau và đều khá thành công về mặt thương mại. Phải đến năm 2007 nhóm mới tung ra album thứ 3 là Minutes To Midnight. Album này chứng kiến sự thay đổi rất lớn trong âm nhạc của Linkin Park khi họ chuyển hẳn sang phong cách Alternative Rock/Metal với phong cách Rock là chủ đạo. Sự thay đổi này vẫn được sự chào đón nồng nhiệt của giới hâm mộ (album vẫn thống trị thị trường thế giới khi xếp hạng đầu trên hầu như tất cả các bảng xếp hạng của thế giới). Những album sau đó của Linkin Park chứng kiến sự trưởng thành hơn trong âm nhạc của họ khi A Thousand Suns -2011 mang nhiều phong cách electronica và Industrial Rock với nội dung nói về nỗi sợ hãi của con người với bom nguyên tử. Living Things năm 2012 lại nghiêng về Alternative Rock với một số ảnh hưởng của Electronica. Còn The Hunting Party -2014 lại có xu hướng trở lại với Nu Metal, Alternative Metal với những ảnh hưởng của Hard Rock. Các album trên đều rất thành công về mặt thương mại khi có mặt trên top đầu của hầu hết các nước dù âm nhạc không còn dễ nghe như trước. Tuy âm nhạc có phần thay đổi khi nghiêng dần về Rock trong những album sau này, Linkin Park vẫn rất được yêu thích với những album đình đám như Hybrid Theory hay Meteora. Phong cách kết hợp giữa giọng 2 giọng hát: vừa đọc Rap vừa hát có giai điệu của nhóm thực sự là một phong cách mới mẻ và khá sáng tạo trong Nu Metal. Dù có nhiều tranh cãi, Linkin Park vẫn là một trong những band nhạc chủ chốt của dòng nhạc này. In The End Numb What I've Done New Divide Castle Of Glass Until It's Gone
Mudvayne Mudvayne Rất nhiều fan hâm mộ của Metal thế giới đều nghĩ rằng Nu Metal là một dòng nhạc không có kỹ thuật chơi nhạc cao. Điều này không thực sự đúng bởi vì trong dòng nhạc này vẫn có những nghệ sỹ có kỹ thuật chơi nhạc rất cao như cặp đôi guitar Head/Munky của Korn, các tay guitar Carpenters của Deftones, Wes Boland – Limp Bizkit, Mick Thompson của Slipknot, hay như tay trống Jordison cũng của nhóm Slipknot. Và Mudvayne cũng là một trong những nhóm nhạc đặc biệt với sự có mặt của tay bass Ryan Martinie một trong những tay bass xuất sắc nhất của Metal thế giới trong thập kỷ 2000s. Mudvayne thành lập năm 1996 tại Illinois bởi tay bass Shawn Barclay, tay guitar Greg Tribbett và tay trống Matthew McDonough. Band nhạc hoàn thiện khi giọng ca chính Chad Gray tham gia cùng nhóm. Năm 1997, Martinie mới gia nhập nhóm để thay thế Barclay. Năm 1998, dưới sự giúp đỡ đắc lực của nhà quản lý, Mudvayne có hợp đồng với hãng đĩa khổng lồ Epic và năm 2000 thì nhóm tung ra album đầu tay L.D. 50. Về mặt âm nhạc, tuy đây là một album Nu Metal nhưng các bài hát trong album có cấu trúc hết sức phức tạp (dù không có những đoạn solo guitar). Màn trình diễn của các thành viên trong album này đều rất ấn tượng đặc biệt là phong cách chơi nhạc của tay bass Martinie, anh này kết hợp phong cách Funk, Jazz, Rock và Nu Metal vào một cách tài tình và khó tưởng tượng. Với phong cách Body Painting đầy mới mẻ, các thành viên band nhạc đã mang đến một phong cách rất mới mẻ cho Metal thế giới. Dù album này không thực sự thành công về mặt thương mại (chỉ chiếm được hạng 85 tại Mỹ) nhưng rồi các fan hâm mộ cũng dần nhận ra tài năng của band nhạc này và album sau đó đạt chứng chỉ đĩa vàng (với khoảng trên 500 nghìn bản được bán ra). Dig Năm 2002, sau rất nhiều chuyến lưu diễn kéo dài, Mudvayne tung ra album thứ hai trong sự nghiệp là The End Of All Things To Come vào năm 2002. Do thời gian hạn chế, album chỉ được viết trong phạm vi gần 1 tháng. Âm nhạc trong album này tiếp tục là sự kết hợp của Nu Metal với những dòng nhạc rất phức tạp như Jazz, Progressive Rock với Death, Thrash và Groove Metal. Điều này cũng có nghĩa là những cú riff và tempos của các bài hát thay đổi rất thường xuyên. Với phong cách đầy tính sáng tạo và mang nhiều tính thử nghiệm, album được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Về mặt thương mại, nó cũng khá thành công khi vươn lên được hạng thứ 17 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này cũng bán được trên 500 nghìn bản như album trước (đĩa vàng). Not Falling Sau 2 albums khá thành công, tên tuổi của Mudvayne đã trở nên phổ biến. Họ có thể tham gia lưu diễn cùng những band nhạc khổng lồ như Metallica. Đến năm 2004, sau rất nhiều chuyến lưu diễn dài ngày, nhóm quay lại studio để ghi âm cho album thứ 3 của nhóm. Lúc này Nu Metal đã xuống dốc và chỉ còn lại rất ít nhóm nhạc còn tiếp tục theo đuổi dòng nhạc này. Quá trình sáng tác và ghi âm album thứ 3 của nhóm, do nhiều lý do khác nhau, diễn ra khá chậm. Phải đến tháng 4 năm 2005, nhóm mới tung ra được album Lost And Found. Âm nhạc trong album này khác rất nhiều so với 2 albums trước đó khi nghiêng rất nhiều về phía giai điệu. Cấu trúc các bài hát cũng đơn giản và ít tính thử nghiệm hơn so với những album trước. Lúc này Nu Metal đã đi xuống nhưng Mudvayne thì không. Đây là album thành công nhất trong sự nghiệp của nhóm khi vươn được tới hạng 2 trên bảng xếp hạng của Mỹ và còn bán được hơn 1 triệu bản tính tới thời điểm hiện tại. Happy? Sau một thời gian khá dài ngừng hoạt động (hiatus) để các thành viên tham gia nhóm nhạc Hellyeah, Mudvayne trở lại với album thứ 4 là A New Game vào năm 2008. Âm nhạc trong album này là sự kế tiếp của album trước tức là chuyển dần sang phong cách Melodic Rock, tính Metal còn lại rất ít. Tuy nhiên, album này chất lượng không bằng album trước. Album này vì thế chỉ chiếm được hạng 15 trên bảng xếp hạng của Mỹ và là album đầu tiên không đạt được chứng chỉ đĩa vàng trong sự nghiệp của nhóm. Do What You Do Chỉ hơn 1 năm sau, tức là cuối năm 2009, Mudvayne tung ra album cuối cùng trong sự nghiệp (tính tới thời điểm hiện tại) đó là album cùng tên Mudvayne. Tuy được sáng tác cùng thời điểm với album The New Game, âm nhạc trong album này hoàn toàn khác biệt so với album trước đó. Âm nhạc trong album rất phức tạp và chịu nhiều ảnh hưởng từ Ambient, Death, Nu Metal, Alternative Metal…Điều này cũng có nghĩa là nó mạnh hơn album trước rất nhiều . Album có chất lượng rất tốt tuy nhiên, lúc này các thành viên trong band đã gặp rất nhiều mâu thuẫn nên album không được quảng bá bởi những chuyến lưu diễn và cũng không được sự hẫu thuẫn của hãng đĩa. Điều này khiến album thất bại về mặt thương mại (bán được rất ít đĩa và chỉ vươn lên được hạng 53 trên bảng xếp hạng của Mỹ). Sau album này, Mudvayne chính thức ngừng hoạt động và các thành viên tham gia nhiều dự án khác nhau. Scream With Me Mudvayne là band nhạc tài năng và rất được yêu thích của không chỉ những fan của Nu Metal mà còn từ nhiều dòng nhạc khác trên thế giới. Âm nhạc của họ phức tạp và các thành viên thực sự là những quái kiệt trong làng Metal.
Nonpoint Nonpoint Nonpoint cũng là một trong những band Nu Metal không thực sự thành công về mặt thương mại nhưng họ vẫn có một sự nghiệp kéo dài. Nhóm thành lập năm 1997 tại Florida. Sau khi thành lập, nhóm tung ra 2 albums dạng demo là Separate Yourself -98 và Struggle -99. Sau 2 albums, nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa MCA và đến năm 2000 thì tung ra album đầu tay là Statement. Album này, thực chất là album Struggle trước đó được ghi âm lại. Âm nhạc trong album là phong cách Nu Metal lai với Rap rất phổ biến tại thời điểm bấy giờ. Tuy đã tham gia lưu diễn những đại nhạc hội nổi tiếng như Ozzyfest nhưng Statement chỉ chiếm được hạng 166 trên bảng xếp hạng của Mỹ và không thực sự thành công về mặt thương mại. Album thứ 2 của nhóm là Development được tung ra vào năm 2002 khá thành công. Lúc này âm nhạc của nhóm có sự thay đổi với những ảnh hưởng của Alternative Metal và Heavy Metal truyền thống. Album này chiếm được hạng 52 trên bảng xếp hạng của Mỹ và khiến cho nhóm nhạc tiếp tục kiếm được suất tham dự Ozzfest lần thứ 2 liên tiếp. Tuy nhiên, sự thành công này của nhóm là quá nhỏ bé và chưa thỏa mãn được sự mong đợi từ hãng đĩa nên nhóm mất hợp đông ghi âm. Năm 2004, Nonpoint tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Recoil. Album này mang phong cách Nu Metal kết hợp với Alternative. Nhưng tại thời điểm này, Nu Metal đã đi xuống nên cũng dễ hiểu là album không thành công khi chỉ chiếm được hạng 115 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau album thứ 3 không thành công, Nonpoint trở lại với một hãng đĩa độc lập. Năm 2005, nhóm tung ra album thứ 4 là To The Pain. Âm nhạc trong album vẫn là sự kết hợp giữa Nu Metal với Alternative Metal và một số ảnh hưởng từ Groove Metal. Album này có chất lượng khá tố. Tuy album được tung ra từ một hãng đĩa độc lập nhưng nó vẫn có mặt trên bảng xếp hạng của Mỹ ở vị trí 147. Mặc dù vị trí khá khiêm tốn, album sau này vẫn bán được hơn 130 nghìn bản và là một thắng lợi của band nhạc. Tuy nhiên, Nonpoint không thể giữ được phong độ cao tại album tiếp theo là Vengeance vào năm 2007. Lúc này nhóm chuyển sang Groove Metal kết hợp với Alternative. Dù khởi đầu ấn tượng với hạng 129 trên bảng xếp hạng của Mỹ, album không thực sự thuyết phục được giới chuyên môn và số lượng đĩa bán được ít hơn so với album trước. Năm 2010, nhóm tung ra album thứ 6 là Miracle. Âm nhạc trong album này trở lại với phong cách Nu Metal. Album rất thành công khu vươn lên hạng 59 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Tuy nhiên phong độ và đường hướng phát triển không được định hướng rõ ràng là điểm trừ trong sự nghiệp của Nonpoint. Năm 2010 nhóm tung ra album thứ 7 cùng tên với phong cách Post Grunge giống Nickelback. Album này không thành công. Album cuối cùng của nhóm tính tới thời điểm hiện tại là The Return mang phong cách Alternative, Hard Rock với những ảnh hưởng của Nu Metal lại được đánh giá khá cao và cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 39 trên bảng xếp hạng. Tuy ít được nhiều fan hâm mộ biết đến và cũng không mấy thành công trong thương mại nhưng Nonpoint vẫn là một trong những band nhạc khá được yêu mến của Nu Metal. Tuy Nu Metal đã đi xuống, Nonpoint vẫn đều đặn ra đĩa và thường thì các đĩa của họ vẫn có những âm hưởng của Nu Metal và cũng đạt được một số thành công nhất định. What A Day In The Air Tonight Bullet With A Name Miracle Left For You
Primer 55 Primer 55 Trong bất kỳ một dòng nhạc nào, luôn tồn tại những band nhạc lớn được rất nhiều fan hâm mộ biết tới và ngược lại, có những band nhạc nhỏ hơn, ít nổi tiếng hơn. Primer 55 là band nhạc thuộc trường phái sau (trong 2 trường phái trên) của Nu Metal thế giới. Band nhạc này thành lập 1997 tại Kentucky, Hoa Kỳ bởi cặp đôi Bobby Burns –guitar và J-Sin giọng ca chính. Nếu như Burns chịu ảnh hưởng nhiều từ Metal thì Sin lại chịu ảnh hưởng lớn từ Hip Hop và sự kết hợp của 2 ảnh hưởng này hình thành nên âm nhạc của Primer 55. Sau khi thành lập, nhóm tung ra được 1 EP là As Seen On TV qua một hãng đĩa độc lập. EP có chất lượng khá tốt và nhóm nhận được sự chú ý và sau đó là ký hợp đồng với hãng Island, một hãng đĩa rất nổi tiếng của Anh Quốc. Dưới yêu cầu của hãng đĩa, EP đầu tay được mix lại (mời thêm một số nghệ sỹ khác như DJ Chris Kilmore của band nhạc Incubus và giọng ca chính của (Hed) PE là Jared Gomes để quảng bá và ghi âm. Với sự xuất hiện của DJ Kilmore, âm nhạc trong album này gần như khác hẳn so với album trước đó vì thêm rất nhiều ảnh hưởng của Hip Hop và Rap. Đây là một album Nu Metal với những ảnh hưởng của Rap và có chất lượng rất tốt. Mặc dù không thành công về mặt thương mại, album vẫn được đánh giá khá cao từ giới chuyên môn và người hâm mộ. Sau album đầu tay khá tốt, Primer 55 liên tục đi lưu diễn với rất nhiều tên tuổi nổi tiếng như Biohazard, Slipknot, Machine Head hay Dope, sau đó họ còn kiếm được suất trình diễn tại đại nhạc hội Ozzfest vào năm 2000. Sau đó, dù có một số thay đổi trong đội hình band nhạc, nhóm vẫn quyết tâm trở lại phòng thu để ghi âm album thứ 2 trong sự nghiệp. Năm 2001, tức là chỉ hơn 1 năm sau khi tung ra album đầu tay, Primer 55 tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là (the) New Release. Về mặt âm nhạc, album này có nhiều sự khác biệt so với album trước đó khi giọng hát chính giảm bớt việc sử dụng giọng ca kiểu Blues thay cho Rap. Nhóm cũng sử dụng nhiều loại nhạc cụ như piano, saxophone. Tuy vậy, âm nhạc trong album vẫn đầy mạnh mẽ và giận dữ. Album lạ, và có chất lượng tốt và bắt đầu có những thành công về mặt thương mại khi vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng Heatseeker (bảng xếp hạng dành cho những nghệ sỹ chưa bao giờ xuất hiện trên top 100 bảng xếp hạng chính thức của Mỹ) và sau đó vươn lên hạng 102 trên bảng xếp hạng chính thức. Tuy nhiên, dù đang trên đà thăng tiến, band nhạc không đáp ứng được sự kỳ vọng của hãng đĩa Island. Đây cũng là lúc sự kiện 11/9 xảy ra, ngay sau đó, Island chấm dứt hợp đồng và không tiếp tục bán đĩa của Primer 55 nữa. Mặc dù vậy, band nhạc vẫn tiếp tục được đánh giá khá cao và vẫn có thể đi lưu diễn với những tên tuổi nổi tiếng như 311, Dope, Skinlab trong năm 2002. Tuy nhiên, vào năm 2003 nhóm bắt đầu xuất hiện những rạn nứt từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Việc không thể tìm kiếm một hợp đồng ghi âm mới, kết hợp với việc giọng ca chính Sin lúc này đã nghiện cả rượu và ma túy quá nặng. Sau đó Burns gia nhập nhóm Soulfly và Primer 55 gần như tan rã. Phải đến năm 2008, nhóm mới tái hợp và chuẩn bị để ghi âm một album mới. Tuy nhiên, những bất đồng trong nội bộ band nhạc khiến album này không thể hoàn thành và Burns sa thải tất cả những thành viên còn lại. Kể từ đó, dù Primer 55 chưa chính thức tan rã nhưng band nhạc không thể tung ra bất kỳ album nào. Primer 55 là một trong những band nhạc có tài của Nu Metal, tuy nhiên họ không thể cất cánh bởi nhiều yếu tố trong nội bộ và ngoại cảnh. Mặc dù vậy, họ vẫn có 2 albums chất lượng rất tốt và đáng chú ý. Loose This Life Lessons
Alien Ant Farm Alien Ant Farm Trong dòng nhạc Nu Metal, có một số band nhạc nổi lên hoàn toàn tình cờ do những bản nhạc cover và Alient Ant Farm (AAF) là một band nhạc như vậy. Nhóm nhạc thành lập từ năm 1995 tại California này khởi đầu khá chậm chạp và phải tới năm 1998 mới tung được ra album EP đầu tay. Năm 1999, AAF tự tung ra album đầu tay Greatest Hits và được đánh giá khá cao. Nhưng phải đến năm 2000, nhóm mới có thể ký được hợp đồng với hãng đĩa. Nhưng việc ký hợp đồng này không phải do album đầu tay của nhóm có chất lượng tốt mà là do nhóm có quan hệ rất thân thiết với Papa Roach – nhóm nhạc đang làm mưa làm gió với album Infest. Dưới sự giới thiệu của Papa Roach, AAF ký hợp đồng với hãng đĩa DreamWork (hãng đĩa của Papa Roach). Năm 2001, nhóm tung ra album thứ hai là ANThology. Album này khởi đầu khá chậm chạp và bài hát Movies – bài hát cũng có mặt trong album đầu tay là Greatest Hits – được chọn làm singles chính nhưng không mấy thành công. Trong album này, thực ra còn có một bài hát cover của Micheal Jackson là Smooth Criminal. Band nhạc không hề có ý định phát hành bài hát cover này dưới dạng single những một điều bất ngờ xảy ra đã khiến họ đổi ý định. Một kênh radio quảng bá đã lấy bài hát này (không được sự cho phép của band nhạc) và phát liên tục trên kênh của họ. Bài hát nhận được phản hồi tích cực và khi band nhạc biết chuyện, họ không những không kiện kênh radio mà còn quyết định tung ra bài hát dưới dạng single và quay video clip để quảng bá (dự án quay video clips cho single Movies bị hoãn lại). Quyết định này đã thay đổi sự nghiệp của AAF khi bài hát thành công rất lớn, thậm chí vươn lên tới hạng 23 trên bảng xếp hạng 100 Top Hits của Mỹ. Album sau đó cũng thành công theo khi vươn lên hạng 11 trên bảng xếp hạng của của Mỹ và giành được chứng chỉ đĩa bạch kim. Sau album thứ hai rất thành công, AAF nhanh chóng bắt tay vào ghi âm album thứ 3 trong sự nghiệp. Năm 2003, nhóm tung ra album TruANT. Trước khi tung ra album này, nhóm tung ra single These Days khá thành công. Tuy nhiên, điều không may mắn cho nhóm nhạc là hãng đĩa của họ lúc này đang gặp nhiều khó khăn nên công việc quảng bá cho album không được tốt. Chỉ 2 tháng sau khi nhóm tung ra album thì hãng đĩa này phá sản và buộc phải bán lại cho hãng Universal. Album này vì thế không thể thành công như album trước đó. Album chỉ vươn lên hạng cao nhất là 42 trên bảng xếp hạng của Mỹ với số lượng đĩa bán được rất thấp. Thất bại của album thứ 3 cũng gây ra những mâu thuẫn và thay đổi trong đội hình band nhạc. Việc hãng đĩa bị bán tiếp tục ảnh hưởng tới band nhạc trong thời gian tiếp theo. Hãng đĩa mới của band là Universal chuyển hợp đồng của AAF cho một chi nhánh của hãng là Geffen. Tuy nhiên, quan hệ của band nhạc với hãng đĩa mới không thực sự tốt nên hãng đĩa từ chối tung ra album thứ 4 của band nhạc. Hãng đĩa cũng không đồng ý để band nhạc tự tung ra album này. Sau rất nhiều thương thảo, cuối cùng thì band nhạc cũng tung ra được album thứ 4 là Up In The Attic vào năm 2006. Tuy vậy album này gần như không có sự quảng bá nào và vì thế nó tiếp tục thất bại thảm hại khi chỉ vươn lên hạng 114 trên bảng xếp hạng của Mỹ và ở trong bảng xếp hạng này trong 2 tuần. Sau album này, AAF gần như ngừng hoạt động và sau đó là tan rã. Sau này, nhóm có tái lập và tung ra album Always And Forever -2014 nhưng không thành công. AAF là một trong những band nhạc có tên tuổi của trào lưu Nu Metal đầu những năm 2000s. Âm nhạc của nhóm, ngoài tính Nu Metal, còn chịu ảnh hưởng của những dòng nhạc khác như Alternative Rock, Metal, Punk Rock, Pop Punk và Post Grunge. Đây là một band nhạc kỳ lạ và thành công nhờ một bài hát cover của danh ca Micheal Jackson. Smooth Criminal Movies These Days Around The Block
Drowning Pool Drowning Pool Drowning Pool là một trong những bông hoa sớm nở chóng tàn của Nu Metal thế giới. Nhóm nhạc này thành lập năm 1996 tại Texas, Mỹ bởi tay guitar C.J. Pierce, tay trống Mike Luce, sau đó tay bass Stevie Benton và vocalist Dave Williams. Các thành viên của band nhạc có kỹ năng chơi nhạc khá tốt (band nhạc khởi đầu chỉ chơi theo phong cách hòa tấu không lời tới năm 1999 khi Williams tham gia nhóm). Do có kỹ năng chơi nhạc tốt, trước khi tung ra album đầu tay, nhóm đã tạo dựng được tên tuổi khi chơi cùng Ozzy Osbourne trong đại nhạc hội Ozzfest. Chính vì lý do này, nhóm nhanh chóng có hợp đồng với hãng đĩa mới nổi Wind-Up và năm 2001 tung ra album đầu tay Sinner. Album này hết sức thành công khi vươn lên tới hạng 14 trên bảng xếp hạng của Mỹ và bán được trên 1 triệu bản chỉ trong vòng 6 tuần. Với kỹ năng chơi nhạc rất tốt, Drowning Pool nhanh chóng được đánh giá là một trong những tài năng hứa hẹn nhất của dòng nhạc Nu Metal trong thập kỷ 2000s. Thế nhưng, khi đang ở trong những ngày tháng tươi đẹp nhất trong sự nghiệp thì vận đen đổ xuống đầu band nhạc. Khi đang đi lưu diễn quảng bá cho album, giọng ca chính Williams bất ngờ qua đời vì trụy tim. Dĩ nhiên, band nhạc không muốn dừng lại và tìm một giọng ca mới để thay thế Williams – đó là Jason Jones. Nhưng cũng phải đến năm 2004 thì nhóm mới có thể tung ra được album thứ 2 là Descentized. Cùng với một giọng ca mới thì âm nhạc của nhóm cũng có nhiều thay đổi khi chịu nhiều ảnh hưởng của Post Grunge và Hard Rock, giảm dần tính Nu Metal. Mặc dù có một single khá thành công là Step Up, album vẫn không thể thành công như album trước (thực ra là kém rất xa). Album chỉ vươn lên hạng 17 trên bảng xếp hạng của Mỹ và thậm chí không giành được danh hiệu đĩa vàng. Thất bại này khiến band nhạc nhanh chóng chia tay giọng ca chính Jones. Năm 2005, vocalist Ryan McCombs, cựu thành viên của nhóm nhạc SOiL gia nhập nhóm. Năm 2007, nhóm tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Full Circle. Lúc này âm nhạc của nhóm chỉ còn mang rất ít tính Nu Metal mà chuyển dần sang Alternative Metal với những ảnh hưởng của Grunge. Dù album không thực sự thành công về mặt thương mại (chỉ xếp hạng 64 trên bảng xếp hạng của Mỹ) nhưng lại được fan hâm mộ và giới chuyên môn đánh giá rất cao. Năm 2010, Drowning Pool tung ra album cùng tên thứ 4. Đây là album đầu tiên trong lịch sử của nhóm mà giọng ca chính không thay đổi. Âm nhạc trong album này chủ yếu là Alternative Metal kết hợp với Hard Rock và Post Grunge. Album này khá thành công khi vươn lên hạng 52 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Tuy nhiên, ngay trên đà thành công, band nhạc lại tiếp tục có sự mất mát khi giọng ca chính McCombs quay trở lại tái hợp với SOiL. Band nhạc tiếp tục sự nghiệp với giọng ca chính mới Jasen Moreno và tung ra album thứ 5 là Resillence vào năm 2013. Cùng với sự thay đổi giọng ca chính, âm nhạc trong album tiếp tục biến đổi với giọng hát mạnh mẽ và giận dữ hơn rất nhiều. Âm nhạc trong album vì thế mang nhiều tính Heavy Metal với một chút ảnh hưởng của Grunge. Album không thực sự thành công khi chỉ đứng hạng 72 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Drowning Pool là một band nhạc có tài nhưng sự nghiệp của họ gặp nhiều lận đận do cái chết của vocalist Williams. Điều này khiến band nhạc không thể cất cánh sau album kinh điển đầu tay Sinner. Tuy nhiên, đây là một band nhạc rất hay của Nu Metal. Tear Away Bodies Step Up 37 Stitches Feel Like I Do
Ill Nino Ill Nino Có rất nhiều band trong dòng nhạc Nu Metal đã tích hợp khá nhiều những ảnh hưởng từ các dòng nhạc khác nhau như Groove, Thrash, Hip Hop, Alternative, Funk, Death, World Music… để biến dòng nhạc này trở nên hết sức đa dạng. Và Ill Nino cũng là một trong số những band nhạc đặc biệt trong dòng nhạc Nu Metal. Sự khác biệt của nhóm là việc sử dụng rất nhiều nhạc Latin vào Nu Metal. Ill Nino thành lập năm 2000 tại New Jersey, Mỹ và khởi đầu thì chơi nhạc theo phong cách Latino Hardcore vì các thành viên trong nhóm đều có nguồn gốc Latin. Sau khi ổn định đội hình, nhóm tung ra 2 album dạng EPs và khá thành công. Chính vì lý do này, nhóm nhanh chóng có hợp đồng với hãng đĩa Roadrunner. Năm 2001, Ill Nino tung ra album đầu tay Revolution Revolucion. Đây là một album Nu Metal kết hợp với nhạc Latin rất độc đáo và lạ. Album có chất lượng khá tốt nên nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn (dù không xuất hiện trên bất kỳ bảng xếp hạng nào nhưng album vẫn bán được khoảng 450 nghìn bản trên toàn thế giới). Sau album đầu tay, Ill Nino dành một thời gian rất lớn để lưu diễn khắp thế giới, từ châu Mỹ tới châu Âu và sang cả Nhật với việc tham gia rất nhiều các đại nhạc hội có tên tuổi trên toàn thế giới như Ozzfest, Download, Dynamo Festial. Năm 2003, nhóm tung ra album thứ 2 là Confession. Album này khá thành công khi vươn lên hạng 37 trên bảng xếp hạng của Mỹ với single chính khá thành công là How Can I Live. Vì trước album này, nhóm đã thay 2 thành viên chính thức nên âm nhạc cũng có chút thay đổi khi nghiêng nhiều hơn về phía Alternative và bớt phần Latin. Album này sau đó cũng bán được gần 500 nghìn bản và là album thành công nhất trong sự nghiệp của nhóm. Album thứ 3 trong lịch sử của nhóm là One Nation Underground được tung ra vào năm 2005. Âm nhạc trong album này là sự pha trộn giữa Nu Metal với những ảnh hưởng của Metalcore, Alternative và nhạc Latin. Tuy nhiên, album này không thực sự thành công về mặt thương mại vì chỉ bán được tầm 200 nghìn bản – một thất bại nếu so với album trước đó. Album cũng chỉ vươn lên được hạng 101 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau album thứ 3 không thành công, nhóm chuyển sang hãng đĩa mới và tung ra album Enigma vào năm 2008. Album này chuyển hẳn sang phong cách Alternative và Latin mà không còn tính Nu Metal nữa. Album này, tuy vậy cũng không thực sự thành công. Có lẽ cũng vì lý do này, nhóm trở lại với phong cách Nu Metal trong album Dead New World vào năm 2010. Tất nhiên, lúc này Nu Metal không phải là một thể loại nhạc yêu thích nên album cũng không mấy thành công. 2 album gần nhất của nhóm là Epidemia -2012 và Till Death, La Familia – 2014 đều trở lại với phong cách Latin kết hợp với Nu Metal và có chất lượng khá tốt. What Comes Around How Can I Live What you deserve The Alibi Of Tyrants Against the Wall