Adema Adema Cùng quê hương với band nhạc biểu tượng của Nu Metal là Korn nhưng Adema khởi đầu muộn hơn band nhạc đàn anh khá lâu. Nhóm thành lập năm 2000 bởi vocalist Mark Chavez, anh em cùng mẹ khác cha với tay vocalist Jonathan Davis. Có lẽ vì lý do này, band nhạc nhanh chóng có hợp đồng với một hãng đĩa lớn là Arista và tung ra album đầu tay cùng tên band nhạc vào năm 2001. Album này khá thành công với 2 singles chính là Giving In và The Way You Like It. Album vươn lên đến hạng 27 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được trên 600 nghìn bản – một thành tích đáng nể của một band nhạc mới thành lập. Cũng chính vì những thành công của album này, band nhạc nhanh chóng có được vị trí trong những chuyến lưu diễn rất lớn như Ozzfest. Năm 2003, band nhạc tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là Unstable. So với album trước đó, album này tập trung nhiều hơn vào phần chơi nhạc cụ và giai điệu. Tuy nhiên, album có sử dụng một số bài hát rất giận dữ. Ngoài ra những ảnh hưởng của Grunge cũng trở nên rõ rệt trong album này. Album không thành công bằng album đầu tay khi chỉ xuất hiện tại vị trí 43 trên bảng xếp hạng và sau này bán được khoảng 400 nghìn bản so với album trước đó. Sau album thứ 2 không thực sự thành công, mâu thuẫn nảy sinh trong band nhạc.Tay guitar Ransom – người mâu thuẫn chính với Chavez rời band nhạc. Họa vô đơn chí, band nhạc sau đó cũng mất luôn hợp đồng với hãng đĩa Arista. Ngay sau đó, Chavez cũng không còn cảm hứng để theo đuổi sự nghiệp và quyết định chia tay band. Band nhạc gần như tan rã ngay sau đó. Tuy nhiên, sau một thời gian, Adema tiếp tục sự nghiệp bằng cách thuê một giọng ca chính mới là Luke Carrocioli để thay thế Chavez. Sau đó, nhóm có hợp đồng với hãng đĩa Anh Earache và tung ra album thứ 3 là Planets vào năm 2005. Lúc này thì Nu Metal không còn thịnh hành nữa nên nhóm chuyển hẳn sang chơi theo phong cách Post Grunge và Alternative. Album này vì thế gần với Rock hơn là Metal. Album không mấy thành công khi chỉ vươn lên hạng 153 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau album này, Caraccioli rời khỏi nhóm do không thấy có triển vọng. Ngay sau đó, nhóm định mời Chavez quay trở lại nhưng không thành công. Nhóm tiếp tục kết nạp thành viên mới là Bobby Reeves làm giọng ca chính rồi tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là Kill The Headlights vào năm 2007. Âm nhạc trong album này, dù đã quay trở lại với Nu Metal nhưng album thất bại hết sức thảm hại khi không có mặt trên bảng xếp hạng của Mỹ. Band nhạc ngay lập tức rơi vào tình trạng ngừng hoạt động. Trong những năm sau đó, dù band nhạc liên tiếp tái hợp nhưng không thể tung ra một album nào mới. Dù sao, Adema vẫn là một band nhạc khá tốt của Nu Metal. Giving In Unstable Tornado All These Years
Otep Otep Đến khoảng năm 2002, Nu đang trên đà đi xuống tuy vậy trong năm này, vẫn xuất hiện một số quái kiệt của làng nhạc này. Những band nhạc tuy không quá thành công về mặt thương mại, vẫn là những band nhạc đầy tài năng. Một trong số đó là band nhạc Otep. Band nhạc này còn thêm phần đặc biệt vì có một giọng ca nữ cũng chính là linh hồn của band nhạc – đó chính là vocalist Otep Shamaya. Nhóm thành lập năm 2000 tại California, Mỹ và tham gia biểu diễn tại các câu lạc bộ nhỏ. Tuy nhiên, một điều may mắn đã đến với band nhạc khi vợ của Ozzy Osbourne là Sharon có dịp xem nhóm trình diễn và bà này lập tức mời nhóm trình diễn tại Ozzfest – dù band nhạc chưa thể tìm được hợp đồng ghi âm. Sau đó thì Otep gần như ngay lập tức có hợp đồng với hãng đĩa khổng lồ là Capitol. Năm 2002, nhóm tung ra album đầu tay là Sevas Tra. Album này không thực sự thành công vì lúc này Nu Metal đã không còn là dòng nhạc được ưa thích nữa nhưng chất lượng album thì khá tốt. Album chỉ vươn lên được hạng 145 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Cùng với sự hỗ trợ rất lớn từ gia đình Ozzy và đại nhạc hội Ozzfest, dù không mấy thành công trong album đầu tay, Otep vẫn là một trong những nhóm chính của đại nhạc hội này. Vì thế, nhóm vẫn tiếp tục duy trì được hợp đồng với hãng Capitol và tung ra album thứ 2 House of Secrets vào năm 2004. Âm nhạc trong album này đã có sự thay đổi khá lớn khi có tích hợp thêm những ảnh hưởng của Extreme Metal. Tuy vậy album lại thành công hơn so với album trước khi chiếm được vị trí 93 và bài hát Warhead khá thành công. Sau 2 albums chỉ thành công ở mức độ vừa phải, Otep gặp rắc rối khi hãng đĩa của họ phải tiến hành sáp nhập với hãng đĩa khác. Album thứ 3 của họ vì thế chỉ được tung ra vào năm 2007 đó là album The Ascension. Mặc dù gặp nhiêu fkhó khăn album vẫn vươn lên hạng 81 trên bảng xếp hạng của Mỹ và trở thành album đạt được thứ hạng cao nhất của nhóm tính tới thời điểm bấy giờ. Năm 2009, nhóm tiếp tục tung ra album thứ 4 là Smash The Control Machine. Album này tiếp tục rất thành công khi vươn lên hạng 47 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Đây cũng là thứ hạng cao nhất trong lịch sử của nhóm. Sau đó nhóm còn tung ra 2 album là Atavist -2011 và Hydra -2013 trước khi Otep tuyên bố Hydra sẽ là album cuối cùng của nhóm. 2 albums trên chỉ thành công ở mức vừa phải khi có mặt trên bảng xếp hạng của Mỹ ở vị trí 61 và 133. Tuy nhiên, khi fan hâm mộ tưởng nhóm sẽ tan rã thì band nhạc vẫn tiếp tục lưu diễn và sáng tác một album mới. Otep là một nhóm nhạc đặc biệt, không chỉ vì họ có một giọng vocal nữ khá mạnh mẽ. Dù theo đuổi Nu Metal khi dòng nhạc này đã thoái trào, band nhạc vẫn luôn kiên định với phong cách Nu Metal của mình. Tất nhiên âm nhạc của họ còn chịu ảnh hưởng của Alternative, Gothic, Industrial, Extreme nhưng chủ đạo vẫn là Nu Metal. Cũng vì thế, đây là band nhạc không nên bỏ qua. Blood Pigs Ghost Flowers Smash the Control Machine Fists Fall Apex Predator
Switched Switched Cũng tương tự như Otep, Switched là một band nhạc có tài nhưng có lẽ không hợp thời. Nhóm thành lập từ năm 1999 tại Ohio, Mỹ và tung ra được một album demo. Album demo này có chất lượng rất tốt nên đã khiến band nhạc có được hợp đồng với hãng đĩa Immortal – hãng đĩa của band nhạc Korn. Năm 2002, nhóm tung ra album đầu tay là Subject To Change với nhiều bài hát trong album demo đầu tay. Album này có chất lượng cao và khá thành công về mặt thương mại khi bán được trên 100 nghìn bản. Cũng cần phải nhắc lại là tại thời điểm này thì Nu Metal đã đi xuống nên việc band nhạc bán được số đĩa kể trên là khá lớn. Trong cùng năm, nhóm có thể tham gia đại nhạc hội Ozzfest và được fan hâm mộ đánh giá rất cao. Chính vì vậy, Switched được coi là một trong những band nhạc đang lên với một tương lai sán lạn. Thế nhưng những rắc rối ngoài âm nhạc đã làm hại Switched. Năm 2003, họ gặp rắc rối lớn với cả hãng đĩa và người quản lý band nhạc. Thậm chí khi ghi âm album thứ 2, nhóm còn đổi tên thành Sky Fall Down và chuyển hướng sang chơi một thứ âm nhạc khác. Nhưng rồi album này cũng không thể tung ra và nhóm rơi vào tình trạng ngừng hoạt động trong thời gian rất dài. Các thành viên của nhóm lần lượt theo đuổi các dự án âm nhạc khác nhau trong vòng hơn 2 năm. Cuối cùng, dưới sự giúp đỡ của nhà quản lý, nhóm mới tái hợp và tung ra album thứ 2 là Ghosts In The Machine vào năm 2006. Đây là một album kép, với 1 đĩa là album thứ 2 của nhóm và đĩa thứ hai là các bài hát thu âm demo và b-side. Tuy nhiên, do thời gian gấp gáp album này khá thô. Tuy nhiên, chất lượng của các bài hát khá tốt. Sau album này thì nhóm rơi vào tình trạng ngừng hoạt động và đến năm 2010 thì nhóm chính thức tan rã và để lại khá nhiều nuối tiếc cho những fan hâm mộ. Switched là một band nhạc có tài và các album của họ đều có chất lượng khá tốt. Tuy nhiên, cùng với sự đi xuống của Nu Metal và những ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh, band nhạc đã đi xuống rồi tan rã. Tuy nhiên, đây vẫn là một band nhạc rất đáng nghe của Nu Metal. Inside Religion Like Suicide
Issues Issues Sau năm 2002, gần như không còn có bất kỳ band nhạc Nu Metal nào gây được sự chú ý trên toàn thế giới. Nu Metal cũng xuống dốc và rất nhiều người tin rằng dòng nhạc này đã chết. Tuy nhiên, vẫn còn đó những band nhạc gạo cội vẫn kiên định theo đuổi dòng nhạc như Korn, Deftones vẫn theo đuổi dòng nhạc này. Những band nhạc nêu trên vẫn có những thành công nhất định nhưng những thành công này vẫn thua xa so với những thành công của chính họ trước đó. Việc không còn xuất hiện những band nhạc mới khiến dòng nhạc ngày càng bị thu hẹp. Phải đến những năm đầu thập niên 2010s, dòng nhạc này mới có sự hồi sinh nhỏ với việc xuất hiện những band nhạc mới với chất lượng chuyên môn khá tốt. Đại diện tiêu biểu cho các band nhạc này chính là Issues. Issues thành lập năm 2012 tại Georgia, Mỹ. Tên của band nhạc được lấy theo một album rất nổi tiếng của band nhạc Korn. Trải qua rất nhiều sự thay đổi trong nhân sự, nhóm nhạc ổn định và tung ra EP đầu tay Black Diamonds khá thành công. Sau đó nhóm liên tiếp ghi âm và tung ra những single rồi một EP dạng acoustic khá thành công. Các sản phẩm này đều khá thành công, chính vì thế nhóm quyết định bắt tay vào ghi âm album đầu tay. Năm 2014, nhóm tung ra album đầu tay cùng tên. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp rất tốt giữa Nu Metal và Metalcore với một chút ảnh hưởng của R &B. Tại thời điểm này, việc tung ra một album Nu Metal rõ ràng không phải là một quyết định nghiêng về phía thương mại. Thế nhưng album này rất thành công khi vươn lên tới hạng 9 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Thành công của album này cũng là một động lực rất quan trọng cho một số band mới quay lại với Nu Metal. Hiện tại, Issues đang trong quá trình sáng tác và ghi âm album thứ 2. Âm nhạc của band không phải là thứ Nu Metal với sự kết hợp của Hip Hop, R&B, Pop, Metalcore… nhưng rất đáng chú ý. Bài viết về Issues cũng là bài cuối cùng của dòng nhạc Nu Metal, một trong những hiện tượng đáng nhớ của Metal trong thập niên 90s-2000s. Princeton Ave The Worst Of Them Stingray Affliction Mad At Myself
Metalcore Metalcore Dòng nhạc tiếp theo của Heavy Metal thế giới là Metalcore. Hiện tại, vẫn còn khá nhiều tranh cãi về thời điểm ra đời chính thức của dòng nhạc này và band nhạc thực sự chơi Metalcore đầu tiên. Do dòng nhạc này khởi đầu là một trào lưu ngầm Underground nên rất khó có thể nói chính xác đâu là thời điểm bắt đầu của dòng nhạc. Tại phần viết này, chúng ta tạm chấp nhận giả thiết rằng các band nhạc như Converge và Earth Crisis là những band nhạc đầu tiên chơi Metalcore (một số người cho rằng những band nhạc này chơi Hardcore chứ không phải Metalcore). Nếu chấp nhận giả thiết Converge là band nhạc Metalcore đầu tiên, dòng nhạc này được khai sinh vào năm 1994, tức là cùng năm với dòng nhạc Nu Metal. Đúng như tên gọi Metalcore, dòng nhạc này là sự kết hợp của Hardcore và Heavy Metal nhưng nghiêng nhiều hơn về phía Extreme. Hẳn chúng ta còn nhớ việc kết hợp Hardcore với Metal thì không còn quá mới mẻ, những band nhạc như SOD, D.R.I, Suicidal Tendencies, Prong đã thực hiện điều này từ những năm giữa thập kỷ 80s khi kết hợp Hardcore với Thrash (Crossover Thrash). Tuy nhiên khác với Crossover Thrash, thường mang đặc tính của cả 2 dòng nhạc, Metalcore có những đặc tính riêng và khác biệt hoàn toàn so với những dòng nhạc còn lại. Các band nhạc như Converge và Earth Crisis phát triển một thứ âm nhạc với những đoạn verses và chorus. Các đoạn verses rất mạnh mẽ và giận dữ với giọng hát khàn, trầm đục (của Hardcore) còn chorus thì sử dụng phong cách Melodic (có giai điệu) và sử dụng giọng hát trong (clean vocal). Các đoạn chorus này thường có những phần breakdowns, âm nhạc chậm sau đó tăng tốc và mạnh hơn rất nhiều. Tuy nhiên, dòng nhạc này không thực sự phổ biến mà chỉ dừng ở mức underground. Phải đến đầu thập niên 2000s, khi Nu Metal đi xuống, một số band Metalcore, với việc kết hợp thêm những ảnh hưởng của Melodic Death, Post Hardcore và Emo mới trở nên nổi tiếng. Sau đó, dòng nhạc này được kỳ vọng là sẽ thế chỗ cho Nu Metal với rất nhiều band nhạc mới xuất hiện. Tuy nhiên, những thành công về mặt thương mại của Metalcore khiêm tốn hơn rất nhiều so với Nu Metal. Cùng với thời gian, Metalcore cũng phát sinh một số nhánh nhỏ hơn là Mathcore và Deathcore: Mathcore là nhánh nhạc kết hợp giữa Metalcore và Math Rock. Math Rock là một dòng nhạc nhỏ, chủ yếu chơi các bài hát với nhịp khác lạ, phức tạp, nghiêng nhiều về kỹ năng, kỹ thuật chơi nhạc cụ, nhiều nhóm nhạc Math Rock chủ yếu chơi hòa tấu không lời. Math Rock ra đời cùng với Post Rock và do có nhiều điểm tương đồng, nhiều tạp chí còn xếp cả 2 dòng nhạc này vào chung một thể loại nhạc. (Nhưng Math Rock thì nghiêng nhiều về kỹ năng chơi nhạc hơn so với Post Rock – nghiêng nhiều về phát triển giai điệu bài hát). Nhóm khởi đầu trào lưu Mathcore có lẽ chính là Converge. Tuy nhiên, Dillinger Escape’s Plan đã làm cho nhánh nhạc này phát triển hết sức mạnh mẽ Deathcore là nhánh nhạc chịu ảnh hưởng nhiều từ Death Metal và Metalcore. Âm nhạc của Deathcore mạnh hơn nhiều so với Metalcore và sử dụng kỹ năng thường có của Death như blast beat, giọng gầm gừ. Chúng ta sẽ lần lượt đến với những tài năng lớn của Metalcore trong những bài viết tiếp theo.
Converge Converge Do rất khó xác định band nhạc nào thực sự chơi Metalcore đầu tiên, chúng ta tạm thời chấp nhận giả thiết rằng đó chính là Converge. Converge thành lập từ năm 1990 tại Massachusetts, Mỹ và gồm 4 thành viên là Jacob Bannon- vocal, Kurt Ballou – guitar, Nate Newton – bass, Ben Koller – drum. Band nhạc này khởi đầu chơi theo phong cách Hardcore. Năm 1994, nhóm tung ra album đầu tay Halo In A Haystack. Nhiều nhà chuyên môn đánh giá đây là album đầu tiên của Metalcore tuy nhiên album này gần với Hardcore nhiều hơn so với Metalcore. Điều này có nghĩa là âm nhạc trong album chủ yếu là Hardcore với những cú riff tiết tấu trung bình, giọng hát khàn, trầm. Nhưng khác với các album Hardcore khác, âm nhạc của Converge luôn có một phần giai điệu (chịu ảnh hưởng của Heavy Metal cổ) và chứa những đoạn ngừng (breakdowns) – một trong những đặc trưng của Metalcore sau này. Một điểm đặc trưng nữa trong âm nhạc của Converge là họ kỹ năng chơi nhạc của họ khá tốt, các bài hát có cấu trúc phức tạp và có phần chịu ảnh hưởng của Progressive. Chính vì những lý do này, đây là một album rất đáng nghe của Metal thế giới. Two Day Romance Năm 1996, Converge tung ra album thứ 2 là Petitioning The Empty Sky. Đây là một album dạng compilation – tuyển chọn những bài hát được ghi âm trong những giai đoạn khác nhau và có những bài hát được ghi âm live. Về mặt cơ bản, album này cũng khá giống album trước nhưng nó nghiêng nhiều hơn về phía Metal với những cú riff mang thương hiệu của Slayer (tức là chịu ảnh hưởng nhiều của Thrash). Vì các bài hát ghi âm trong nhiều giai đoạn khác nhau, album nghe có vẻ thiếu tập trung. Tuy vậy chất lượng các bài hát là khá tốt. Color Me Blood Red Âm nhạc của Converge chỉ thực sự chuyển hướng vào album thứ 3 là When Forever Comes Crashing vào năm 1998. Trong album này, âm nhạc của nhóm chịu khá nhiều ảnh hưởng của Math Rock. Điều này có nghĩa là các bài hát có cấu trúc phức tạp và kỹ năng chơi nhạc được đề cao hơn rất nhiều. Đây có lẽ cũng là một trong những album sớm nhất của nhánh nhạc nhỏ hơn trong Metalcore – nhánh Mathcore. Âm nhạc của album này cũng mang nhiều tính Extreme hơn rất nhiều so với những album trước đó. When Forever Comes Crashing Converge vươn lên tới đỉnh cao trong sự nghiệp với album kinh điển Jane Doe vào năm 2001. Đây là một album có hơi hướng concept (các bài hát gần như liên tiếp nhau không dừng). Âm nhạc trong album này rất nhanh và mạnh với nhiều ảnh hưởng của Grindcore nhưng được chơi với kỹ năng cực cao. Album hết sức thành công và được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Tạp chí Terrorizer của Anh đánh giá đây là album của năm 2001 còn Decibel thì bầu chọn đây là album hay nhất thập kỷ 2000s. Tạp chí Sputnikmusic sau này cũng bầu chọn đây là album hay nhất thập kỷ. Về mặt thương mại, album này cũng thành công lớn hơn so với các album trước đó. Âm nhạc trong album là sự pha trộn giữa sự hỗn loạn của Mathcore với những bài hát có giai điệu khá tốt. Concubine/Fault and Fracture Homewrecker (còn tiếp)
Converge Converge (tiếp theo) Năm 2004, Converge tung ra album thứ 5 là You Fail Me. Âm nhạc trong album này tiếp tục có sự thay đổi khi nghiêng nhiều hơn về phía giai điệu. Một số bài hát trong album có tiết tấu khá chậm và thậm chí còn sử dụng giọng hát kiểu clean. Việc sử dụng giọng hát clean và nghiêng về phía giai điệu khiến cho album dễ nghe hơn, tất nhiên nó cũng giảm tính Brutal như 4 album trước đó. Cùng với sự thành công của album Jane Doe trước đó, album này đánh dấu sự thành công tiếp theo về mặt thương mại của Converge khi lần đầu tiên xuất hiện trên bảng xếp hạng của Mỹ ở vị trí 171. You Fail Me Album thứ 6 của nhóm là No Heroes được tung ra vào năm 2006. Tuy nhiên, khác với 3 albums liên trước, album này gần như không còn tính Mathcore mà chỉ còn là phong cách Hardcore và Metalcore. Điều này cũng có nghĩa, nó gần với 2 albums đầu tiên của nhóm hơn và band quay trở lại với phong cách lúc khởi điểm. Phong cách này tuy hơi khó nghe nhưng album vẫn vươn lên hạng 151 trên bảng xếp hạng của Mỹ. No Heroes Sau 2 albums, tuy khá thành công về mặt thương mại nhưng không thực sự được đánh giới chuyên môn đánh giá quá cao, Converge trở lại đầy bất ngờ với album Axe To Fall -2009. Cách tiếp cận của nhóm với album cũng khác hẳn so với những album trước đó khi band nhạc mời thêm rất nhiều khách mời từ các band nhạc như Cave In, Neurosis để cùng thực hiện album này. Về mặt âm nhạc, điểm khác biệt lớn nhất là album này nghiêng rất nhiều về phong cách Progressive Rock/Metal. Phong cách Mathcore cũng đã trở lại. Hẳn chúng ta còn nhớ là cả Progressive và Mathcore đều là những lối chơi hết sức kỹ thuật. Sự xuất hiện của các khách mời cũng khiến cho âm nhạc của album trở nên dễ nghe hơn rất nhiều và pha trộn thêm một số phong cách khác nhau. Với những bài hát có chất lượng cực cao, album được giới chuyên môn đánh giá rất cao và có mặt trong top album của rất nhiều tạp chí. Về mặt thương mại, album cũng rất thành công khi xuất hiện trên bảng xếp hạng của Mỹ tại vị trí 74, vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng của nhóm tính tới thời điểm này. Dark Horse Album cuối cùng của Converge tính tới thời điểm hiện tại là All We Love We Leave Behind được tung ra vào năm 2012. Khác với album trước, album này nhóm không mời thêm khách để ghi âm album. Âm nhạc trong album vì thế cũng thay đổi khi chuyển sang những âm hưởng của Hardcore với những ảnh hưởng của Mathcore – chơi với kỹ năng rất cao. Phần lớn các bài hát trong album được hát với giọng khàn đặc trưng, chỉ còn lại một số bài nhẹ nhàng có giai điệu. Tuy vậy, đây vẫn là album được đánh giá rất cao từ cả giới chuyên môn lẫn fan hâm mộ. Về mặt thương mại, album này vươn lên hạng 70 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Aimless Arrow Converge là một band nhạc rất đặc biệt vì âm nhạc của nhóm mang nhiều tính Extreme và khó nghe. Tuy nhiên, band nhạc đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành Metalcore và cả nhánh nhạc Mathcore với một phong cách chơi sử dụng kỹ thuật rất cao. Có lẽ vì lý do này, Converge là band nhạc không thể bỏ qua của những fan yêu Metal. Precipice / All We Love We Leave Behind
Earth Crisis Earth Crisis Cùng với Converge, Earth Crisis là một trong những band nhạc đầu tiên chơi Metalcore. Tuy nhiên, khác với Converge, sự nghiệp của Earth Crisis có rất nhiều thăng trầm và họ chưa bao giờ thành công về mặt thương mại. Band thành lập từ năm 1989 nhưng sau đó tan rã. Sau đó tay bass Karl Buechner quyết định tái lập band nhạc với một đội hình hoàn toàn mới và bản thân anh này chuyển sang hát chính. Khoảng năm 1992, nhóm mới tung ra album EP đầu tiên là All Out War với phong cách Hardcore và nhận được khá nhiều sự chú ý từ giới hâm mộ của dòng nhạc này. Sau khá nhiều thay đổi trong đội hình, đến năm 1995, nhóm tung ra album đầu tay là Destroy The Machines – một trong những album Metalcore sớm nhất trong lịch sử. Âm nhạc trong album mang rất nhiều tính Hardcore với những đoạn solo thường thấy của Metal. Sau album đầu tay, Earth Crisis gặp rắc rối lớn khi đi lưu diễn vòng quanh nước Mỹ. Xe chở band nhạc bị lật và tất cả các thành viên đều bị thương. Mặc dù vậy, band nhạc vẫn tiếp tục tiến lên hết sức mạnh mẽ với album thứ 2 là Gomorrah’s Season Ends vào năm 1996. Lúc này âm nhạc của nhóm mang nhiều tính Metal hơn rất nhiều so với album trước đó. Album này cũng phức tạp và mang nhiều tính Metalcore hơn. Album này được giới chuyên môn đánh giá rất cao và Earth Crisis nhanh chóng nhận được nhiều sự chú ý từ các hãng đĩa lớn. Sau đó, họ có hợp đồng với hãng Roadrunner và năm 1998 thì tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Breed The Killers. Cùng với sự có mặt của một nhà sản xuất chuyên nghiệp hơn, album được thu âm khá tốt và có sự xuất hiện của Robb Flynn – giọng ca chính của nhóm Machine Head. Mặc dù được quảng bá khá tốt, album lại không thành công so với những album trước đó. Thất bại này khiến cả hai phía là band nhạc và hãng đĩa thất vọng và band nhạc trở lại với hãng đĩa Victory. Những đòi hỏi về thành công đã khiến Earth Crisis mắc sai lầm. Trong album tiếp theo của họ là Slither, nhóm chuyển sang chơi theo phong cách Nu Metal với những bài hát chịu ảnh hưởng của Rap. Album này khiến fan hâm mộ của nhóm nổi giận vì quá chạy theo thị trường. Thất bại của album này là giọt nước cuối cùng tràn ly, Earth Crisis tan rã ngay sau đó. Sau rất nhiều năm tham gia các dự án khác nhau. Đến năm 2007, Earth Crisis mới được tái lập lại. Năm 2008, nhóm ký hợp đồng với hãng đĩa Century Media và sau đó tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp là To The Death vào năm 2009. Sau đó, nhóm còn tung ra 2 albums là Neutralize The Threat -2011 và Salvation Of Innocents -2014 nhưng không mấy thành công. Một trong những điểm đặc biệt trong âm nhạc là họ thường hát về những vấn đề xã hội, chính trị, bảo vệ động vật. Âm nhạc của họ rất mạnh mẽ và mang nhiều tính bạo lực. Tuy không mấy thành công về thương mại, đây vẫn là một trong những band nhạc khởi đầu cho trào lưu Metalcore sau này. Destroy The Machines Broken Foundation jQPzgE5Mtv4 To Ashes Total War
Hatebreed Hatebreed Hatebreed là một trong những band nhạc đầu tiên chơi Metalcore và cũng là một trong những band nhạc đầu tiên của dòng nhạc này gặt hái được những thành công về mặt thương mại. Nhóm thành lập vào năm 1994 tại Connecticut, Mỹ và gần như ngay lập tức bắt tay vào viết những bài hát. Vào năm 1995, nhóm tung ra 1 album demo và nhận được sự chú ý của giới chuyên môn. Cũng trong năm này, album demo được ra lại dưới dạng split EP với band nhạc Neglect. Thành công rất đáng khích lệ này khiến nhóm có thêm động lực để tung ra một EP của riêng mình là Under Knife vào năm 1996. Album này nhận được rất nhiều lời khen ngợi và biến Hatebreed trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của dòng nhạc Hardcore tại thời điểm bấy giờ. Dù là một album mini (chỉ dài 14 phút) nó vẫn được giới hâm mộ săn lùng và thậm chí còn được tái bản nhiều lần. Under Knife Thành công của Under The Knife khiến Hatebreed gần như ngay lập tức có hợp đồng với hãng đĩa Victory – một hãng đĩa chuyên về thể loại nhạc này. Cũng cần phải nói thêm rằng âm nhạc của Hatebreed lúc này không hoàn toàn là Hardcore mà là sự pha trộn giữa Metalcore với Hardcore. Năm 1997, Hatebreed tung ra album đầu tay là Satisfaction Is The Death Of Desire. Dù có một cái tên khá dài nhưng album này rất ngắn – chỉ 26 phút. Mặc dù vậy, đây vẫn là một album rất hay và được giới chuyên môn đánh giá là một trong những album kinh điển của dòng nhạc Hardcore. Chính vì lý do này, Hatebreed nhanh chóng có được hợp đồng với hãng đĩa khổng lồ Universal. Last Breath Năm 2002, nhóm tung ra album thứ 2 là Perseverance, một trong những album kinh điển của Metalcore thế giới. Việc liên tục đi lưu diễn với những band nhạc Metal hàng đầu thế giới như Slayer, Deftones, Entombed, Napalm Death đã khiến âm nhạc của nhóm mang nhiều tính Metal hơn rất nhiều. Việc mới ký hợp đồng với hãng đĩa không khiến cho âm nhạc của nhóm mất đi tính hoang dại và mạnh mẽ (kết hợp nhiều với Extreme Metal). Album được giới chuyên môn đánh giá rất cao và cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 50 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Perseverance Ngay sau khi tung ra album kinh điển Perseverance, Hatebreed tung ra album kinh điển thứ 2 là The Rise Of Brutality chỉ 1 năm sau đó, tức là năm 2003. Về mặt âm nhạc, album này không khác nhiều so với album trước: là sự kết hợp giữa Hardcore và Extreme Metal nhưng phần Metal có lẽ mạnh mẽ hơn. Các bài hát có chất lượng rất tốt giúp cho album vươn lên hạng 30 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Thành công của những album liên tiếp giúp Hatebreed trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu trong làng nhạc Metalcore thế giới. Năm 2005, cùng với Killswitch Engage, Hatebreed trở thành band nhạc đầu tiên của Metalcore nhận đề cử cho giải thưởng Grammy. Live For This (còn tiếp)
Hatebreed Hatebreed (tiếp theo) Sau những album kinh điển là những chuyến lưu diễn rất dài trong sự nghiệp của Hatebreed. Band nhạc trở thành một trong những nhóm nhạc bận bịu nhất trong giai đoạn 2003-2005. Phải đến năm 2006, nhóm mới tung ra được album thứ 4 trong sự nghiệp là Supremacy. Âm nhạc trong album tiếp tục tích hợp thêm những ảnh hưởng của Extreme Metal, lúc này những ảnh hưởng của Punk chỉ còn khá ít. Những ảnh hưởng của Metal thậm chí còn trở nên mạnh mẽ hơn khi nhóm thuê một nhà sản xuất chuyên về Metal để sản xuất album này. Album này cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 31 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Defeatist Sau Supremacy, Hatebreed trở thành một ngôi sao đang lên trên bầu trời Metal thế giới. Nhóm tiếp tục tham gia rất nhiều những show lưu diễn dài ngày như Ozzfest, Download. Năm 2009, nhóm mới quay lại phòng thu âm và tung ra liên tục 2 albums. Album thứ nhất For The Lions là một album cover các bài hát của những band nhạc khá nổi tiếng khác như Slayer, Metallica, Black Flag, Misfít, Crowbar… Album thứ 2 là album phòng thu thứ 5 của nhóm – Hatebreed. So với những album trước, album này dễ nghe hơn. Một trong những lý do chính là do band nhạc tập trung nhiều hơn vào phần giai điệu, sử dụng clean vocal và sử dụng phong cách tung hứng guitar ở những đoạn hòa tấu. Album này cũng vì thế dài hơn so với những album trước. Album này có chất lượng khá tốt và cũng khá thành công khi vươn lên hạng 37 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Everyone Bleeds Now Album cuối cùng tính tới thời điểm hiện tại của Hatebreed là The Divinity Of Purpose được tung ra vào năm 2013. Trước khi tung ra album này, giọng ca chính của nhóm Jamey Jasta tham gia nhiều dự án và tự tung ra 1 album solo. Jasta là linh hồn của nhóm và album solo của anh, giống album trước đó Hatebreed mang nhiều tính giai điệu, dễ nghe hơn rất nhiều. Chính vì vậy, rất nhiều người đã nghĩ răng The Divinity sẽ tiếp tục phong cách dễ nghe hơn này. Tuy nhiên, thực tế khác hoàn toàn so với những gì mọi người dự đoán. Album này gần như nghiêng về phía Hardcore hơn là Metal. Âm nhạc trong album rất nhanh, mạnh, ồn ào và đầy giận dữ. Album này vì thế cũng khó nghe hơn so với các album trước. Tuy nhiên, nó lại rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 20 trên bảng xếp hạng của Mỹ (vị trí cao nhất của band nhạc tính tới thời điểm hiện tại). Honor Never Dies Hatebreed là một trong những band nhạc đầu tiên chơi Metalcore theo phong cách nghiêng nhiều về Hardcore. Họ cũng là một trong những band nhạc đầu tiên của dòng nhạc đạt được những thành công đáng kể về mặt thương mại. Âm nhạc của Hatebreed mạnh mẽ, nhanh và điều đặc biệt hơn là họ có nhiều album có chất lượng. Với những fan yêu thích của Metalcore và Hardcore, Hatebreed là band nhạc không thể bỏ qua.
Shadows Fall Shadows Fall Nếu như 3 band nhạc đầu tiên của dòng nhạc Metalcore mang rất nhiều âm hưởng của Hardcore nên một số nhà chuyên môn vẫn xếp họ vào dòng Hardcore thì Shadows Fall lại khởi đầu cho một trào lưu Metalcore hoàn toàn mới. Trào lưu này về sau trở thành rất nổi tiếng và khiến Metalcore được biết đến hết sức rộng rãi sau này. Điểm khác biệt lớn nhất của Shadows Fall là họ tích hợp Melodic Death Metal vào Metalcore mà sau này được rất nhiều fan hâm mộ Metal thế giới yêu mến. Band nhạc được thành lập vào năm 1995 bởi cặp đôi guitar Jonathan Donais và Matt Bachand. Năm 1996, nhóm tung ra album demo nhưng không thực sự thành công. Năm 1997, nhóm đổi giọng ca chính bằng vocalist Philip Labonte và tung ra album EP thứ 2 là To Ashes. Nhưng ngay cả EP thứ hai cũng không thành công như mong đợi nên nhóm vẫn không thể kiếm được một hợp đồng thu âm đúng nghĩa. Đến cuối năm 1997, Shadows Fall tung ra album đầu tay là Somber Eyes To The Sky thông qua hãng đĩa của Bachand. Trong album này, âm nhạc của nhóm nghiêng rất nhiều về Melodic Death Metal của Thụy Điển. Những âm hưởng của Metalcore là khá nhỏ nếu so sánh với Melodic Death nên nhiều người còn xếp album này vào Melodic Death. Mặc dù không mấy thành công và không nhiều người biết đến, đây vẫn là một album có chất lượng tốt của band nhạc. To Ashes Sau album đầu tay, Labonte bị yêu cầu rời band nhạc vì anh này còn tham gia một dự án dạng side project và không thực sự chuyên tâm vào Shadows Fall. Sau khi rời band, Labonte lập ra band nhạc Metalcore khác là All That Remains mà chúng ta sẽ còn gặp lại ở những bài viết sau. Band nhạc kết nạp thêm Brian Fair – giọng ca chính của một band Metalcore khác là Overcast khi band nhạc này tan rã. Fair với mái tóc tết rất dài, trở thành một biểu tượng không thể thiếu của Shadows Fall sau này. Với giọng ca chính mới, nhóm cũng gặp nhiều thuận lợi hơn trên con đường sự nghiệp khi có hợp đồng với hãng đĩa Century Media. Năm 2000, nhóm tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là Of One Blood. Âm nhạc trong album này khá giống với album trước, tức là mang nhiều tính Melodic Death Metal. 3 bài hát trong album này được ghi âm trích từ album trước đó. Cũng như album trước, album này không mấy thành công. Of One Blood Sau 2 albums đầu tay, Shadows Fall không thực sự thành công và luôn bị coi là một band nhạc Melodic Death hạng 2, điều này khiến band nhạc đưa ra một quyết định quan trọng là chuyển hướng từ Melodic Death sang Metalcore với sự tích hợp của Thrash, Hard Rock và những bản ballads. Năm 2002, nhóm tung ra album kinh điển The Art Of Balance. Với những ảnh hưởng của Thrash Metal, phần trình diễn guitar của cặp đôi Donais và Bachand ấn tượng và kỹ thuật hơn rất nhiều so với 2 albums trước đó. Giọng ca của Fair cũng tạo ấn tượng mạnh khi từ bỏ giọng gầm gừ kiểu Death và chuyển sang kết hợp giữa giọng clean và gọng gào thét kiểu Hardcore. Album này có chất lượng rất cao và nhanh chóng đưa tên tuổi Shadows Fall trở nên phổ biến rộng rãi trên thế giới. Album này nhanh chóng bán được hơn 100 nghìn bản và trở thành album bán chạy nhất của hãng đĩa Century Media tính tới thời điểm năm 2002. Thoughts Without Words Trên đà thăng tiến, nhóm tung ra album thứ 4 là The War Within vào năm 2004. Âm nhạc trong album này không khác quá nhiều so với album The Art Of Balance, tức là phong cách Metalcore với nhiều ảnh hưởng của Thrash (đặc biệt là Metallica và Anthrax). Với một loạt những bài hát có chất lượng cao và phong cách chơi nhạc rất kỹ thuật của cặp đôi guitar, album này gây shock trên thị trường nhạc Metal khi vươn lên hạng 20 trên bảng xếp hạng của Mỹ (đây là một kỷ lục với hãng đĩa Century Media – một hãng đĩa độc lập chuyên về Metal). Đến cuối năm 2006, nhóm còn vinh dự nhận được đề cử giải thưởng Grammy cho màn trình diễn Metal xuất sắc nhất. Đây cũng là album thành công nhất trong lịch sử của nhóm khi bán được khoảng 300 nghìn bản trên toàn thế giới. What Drives The Weak The Power Of I and I (còn tiếp)
Shadows Fall Shadows Fall (tiếp theo) Việc thăng tiến nhanh chóng đã khiến hãng đĩa Century Media trở nên khá nhỏ bé so với tiềm năng của band nhạc. Để hoàn thành hợp đồng, nhóm tung ra album Fallout From The War với các bài hát cover, hay bị loại ra khỏi album. Mặc dù chỉ là album dạng Rarities, album vẫn vươn lên được hạng 83 trên bảng xếp hạng của Mỹ, một thành tích rất khả quan. Kết thúc hợp đồng với Century Media, band ký hợp đồng với hãng đĩa khổng lồ Atlantic và tung ra album Threads Of Life vào năm 2007. Mặc dù album này có chất lượng khá tốt với các bài hát dễ nghe hơn (dựa nhiều vào giai điệu và ít tính Hardcore, Extreme) album không thể thành công như album trước khi chỉ vươn lên hạng 46 trên bảng xếp hạng của Mỹ và chỉ bán được khoảng 70 nghìn bản. Tuy album có một bản hit nhỏ là bài hát Redemption, bài hát được đề cử giải thưởng Grammy, nó vẫn không thể giúp album thành công hơn về mặt thương mại. Thất bại về mặt thương mại này khiến band nhạc bị cắt hợp đồng với Atlantic. Redemption Năm 2009, Shadows Fall tung ra album thứ 6 trong sự nghiệp là Retribution thông qua hãng đĩa Everblack Industries của chính band nhạc. Với những thất bại trong sự nghiệp, không khó để thấy album này mạnh mẽ, giận dữ và tốc độ chơi nhạc cao hơn rất nhiều so với 3 albums trước đó. Kỹ năng chơi guitar của nhóm trong album này rất tốt với kỹ thuật cao. Khả năng chơi trống của họ cũng được cải thiện đáng kể. Album này nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn và cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 35 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Still I Rise King Of Nothing Album cuối cùng của Shadows Fall tính tới thời điểm hiện tại là Fire From The Sky được tung ra vào năm 2012. Album, cũng không có quá nhiều khác biệt với album trước với những bài hát có chất lượng rất cao. Album cũng khá thành công khi vươn lên vị trí 38 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau album này, Donais được mời tham gia Anthrax và đây là lý do anh không thể tiếp tục sự nghiệp cùng với Shadows Fall nữa. Năm 2014, band nhạc tham gia những chuyến lưu diễn cuối cùng để rồi rơi vào tình trạng ngừng hoạt động vô thời hạn. The Unknown Shadows Fall là một trong những band nhạc tiêu biểu khởi đầu cho trào lưu Melodic Metalcore và khá thành công. Âm nhạc của họ không chứa quá nhiều sự khác biệt (trừ 2 albums đầu tay) nhưng đều là những album có chất lượng cao. Dù tương lai của band nhạc vẫn trong tình trạng bất định, đây vẫn là một band nhạc rất được yêu mến của dòng nhạc này.
Caliban Caliban Metalcore xuất hiện tại Mỹ và dần lan ra các nước khác. Trong các nước trên thế giới, có lẽ Đức là nước thứ hai xuất hiện những band nhạc Metalcore. Các band tiêu biểu của Đức có thể kể đến như Caliban và Heaven Shall Burn. Caliban có thể coi là band nhạc đầu tiên của Metalcore Đức, nhóm thành lập năm 1997 dưới cái tên Never Again. Sau khi thành lập 6 tháng nhóm sáng tác và ghi âm 2 bài hát, nhưng không thể tìm được hãng đĩa để tung ra. Tuy nhiên, các bài hát này được truyền tay nhau tới các hãng đĩa và hãng Lifeforce quyết định ký hợp đồng với band nhạc. Năm 1999, Caliban tung ra album đầu tay là A Small Boy And A Grey Heaven. Đây là một album có chất lượng âm nhạc khá tốt, nó là sự kết hợp của phong cách Thrash (Slayer), Hardcore (Poison The Well) và Metalcore (Hatebreed). Album này được đánh giá khá cao và là tiền đề để band nhạc tiếp tục theo đuổi sự nghiệp. Năm 2001, nhóm tung ra album thứ 2 là Vent. Trong album này, âm nhạc của nhóm có một chút thay đổi khi có sử dụng clean vocal. Album khá thành công tại Đức và Nhật nên khiến band nhạc có chuyến lưu diễn đầu tiên tại Nhật Bản cùng với mộtloạt những tên tuổi nổi tiếng như Pantera, Machine Head, Biohazard, Morbid Angel. Chuyến lưu diễn này còn khiến cho nhóm được biết đến rộng rãi và thậm chí còn chuẩn bị cho chuyến lưu diễn tiếp theo tại Mỹ. Tuy nhiên, điều này không thể thực hiện được vì vụ tấn công 11/9. Không thể sang Mỹ biểu diễn, Caliban tập trung vào ghi âm những album studio. Trong 2 năm liên tiếp, họ tung ra 2 albums: Shadow Hearts -2003 và The Opposite From Within -2004. Cả 2 albums đều nghiêng nhiều về phía giai điệu và rất thành công. Âm nhạc của nhóm cũng trở lại mạnh mẽ và giận giữ hơn so với album Vent trước đó. Cả 2 albums đều được đánh giá khá cao và trong xu thế đang lên của Metalcore, Caliban cũng gặp may mắn khi có được hợp đồng với hãng đĩa Roadrunner và khiến tên tuổi của họ nhanh chóng trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Liên tiếp trong những album tiếp theo là The Undying Darknes -2006, The Awakening -2007 và Say Hello To Tragedy -2009 đều gặt hái những thành công khá lớn về mặt thương mại khi xuất hiện trên bảng xếp hạng ở Đức tại các vị trí 74, 36, 36 (những album trước không có mặt trên bảng xếp hạng). Tuy nhiên, những thành công về mặt thương mại không đồng nghĩa với chất lượng âm nhạc được tăng cao. Những album này được làm khá vội và không thực sự có đột phá trong âm nhạc. Phải đến album thứ 8 là I Am Nemesis -2012 thì chất lượng âm nhạc của Caliban mới trở nên tốt hơn. Trong album này, nhóm sử dụng guitar để tạo giai điệu (ảnh hưởng của Killswitch Engage) và phong cách chơi phá cách (ảnh hưởng của Meshuggah). Các bài hát trong album có chất lượng tốt, mạnh mẽ, bạo lực nhưng không quá hỗn loạn và đặc biệt là không gây nhàm chán (các bài hát khác biệt). Album được giới chuyên môn đánh giá rất cao và tiếp tục thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 21 trên bảng xếp hạng của Đức. Album cuối cùng của Caliban tính tới thời điểm hiện tại là Ghost Empire được tung ra vào năm 2014. Đây là một album có chất lượng ở mức trung bình khi nghiêng nhiều về phía mainstream với những bài hát có giai điệu dễ nhớ. Tuy vậy, album này rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 7 trên bảng xếp hạng của Đức. Caliban là một trong những band nhạc tiêu biểu của Metalcore châu Âu. Tuy vậy, các album của nhóm không thực sự đều tay. Dự kiến album mới sẽ được tung ra vào năm 2016 và đây đã là album thứ 10 của nhóm. Destruction Forsaken Horizon Its Our Burden To Bleed Caliban's Revenge This Oath Devil's Night
God Forbid God Forbid Trong những năm cuối thập kỷ 90s, đầu thập kỷ 2000s Metalcore bắt đầu hình thành và phát triển. Rất nhiều fan hâm mộ và giới chuyên môn trên toàn thế giới đều tin rằng Metalcore sẽ nhanh chóng thống trị làng nhạc Rock thế giới thay thế vị trí của Nu Metal. Trào lưu này nhanh chóng thành công với một số lượng đông đảo các band nhạc mới. Chính vì lý do này, một số người trong giới chuyên môn đã gọi đây là trào lưu New Wave Of American Heavy Metal (NWOAHM). Cùng với đó, một số người bầu ra Big 5 của trào lưu này gồm Lamb Of God, Chimaira (cả 2 band ta đã gặp ở phần viết về Thrash) và Shadows Fall, Killswitch Engage và God Forbid. Đây là thời điểm mà chúng ta gặp gỡ với band nhạc thứ 4 trong bộ ngũ này – đó là God Forbid. God Forbid thành lập từ năm 1996 với các thành viên chủ chốt là người da màu. Việc tham gia lưu diễn với một số band nhạc mới như Nile, Cradle Of Filth đã khiến band trở nên khá phổ biến vào cuối những năm 90s. Năm 1999, nhóm tung ra album đầu tay Reject The Sickness qua hãng 9 Volt Records. Âm nhạc trong album này mang đậm phong cách Metalcore với những ảnh hưởng của Melodic Death và là một trong những album sớm nhất của Melodic Metalcore trên toàn thế giới. Tuy nhiên, album này khá thành công và gây ra tiếng vang lớn. Tuy nhiên, số lượng album này khá hạn chế. Rất may là band nhạc vẫn còn giữ bản master tape của album nên sau này, do đòi hỏi từ giới hâm mộ, album được ra lại dưới cái tên Sickness And Misery vào năm 2007 (kết hợp với EP Out Of Misery được tung ra vào năm 1998). No Sympathy Thành công của album đầu tay khiến nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa Century Media và tung ra album thứ 2 là Determination vào năm 2001. Đây là một album có chất lượng rất tốt và góp phần không nhỏ vào việc đưa God Forbid trở thành một trong những biểu tượng của NWOAHM. Âm nhạc trong album này vẫn là phong cách Melodic Metalcore nhưng với những bài hát có chất lượng cao hơn. Go Your Own Way Vào thời điểm năm 2004 khi God Forbid tung ra album thứ 3 là Gone Forever, âm nhạc của nhóm có nhiều thay đổi. Khác với những album trước, album này chịu rất nhiều ảnh hưởng của Thrash Metal. Cùng với sự xuất hiện của Thrash, lối chơi của band nhạc cũng trở nên mang nhiều tính kỹ thuật với những đoạn solo guitar. Phong cách này, về sau trở thành đặc trưng của God Forbid. Có lẽ cũng vì lý do này, album được đánh giá rất cao. Về mặt thương mại, album cũng thành công hơn khi xuất hiện trên bảng xếp hạng Top Independent Albums của Mỹ (bảng xếp hạng này dành cho những hãng đĩa nhỏ, kém nổi tiếng hơn). Anti Hero Living Nightmare (còn tiếp)
God Forbid God Forbid (tiếp theo) Sau 3 albums liên tiếp có chất lượng khá tốt, God Forbid đã trở nên khá nổi tiếng và được nhiều fan hâm mộ biết đến tên tuổi. Có lẽ vì lý do này, nhóm khởi đầu một dự án rất tham vọng khi viết một album concept (có cốt truyện). Năm 2005, nhóm tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là IV: Constitution Of Treason. Cốt truyện chính của album là về xã hội loài người, trải qua sự phát triển cực điểm đã tự hủy diệt. Sau rất nhiều năm, xã hội này mới lại hồi sinh trở lại nhưng rồi lại đi đến sự hủy diệt một lần nữa giống hệt như lần trước đó. Âm nhạc trong album vẫn là sự kết hợp của Thrash Metal và Metalcore trong đó Thrash Metal gần như mang tính chủ đạo. Album này rất thành công và được giới chuyên môn đánh giá cao. Đây cũng là album đầu tiên trong sự nghiệp của God Forbid xuất hiện trên bảng xếp hạng chính thức của nước Mỹ ở vị trí khiêm tốn là 118. Năm 2007, bài hát To The Fallen Hero của nhóm còn giành giải thưởng bài hát Metal/Hard Rock hay nhất của Independent Music Award. To The Fallen Hero Sau những chuyến lưu diễn dài ngày và tung ra 1 album DVD, God Forbid tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp là Earthsblood vào năm 2009. Đây là một album có chất lượng rất cao của nhóm. Âm nhạc trong album này, ngoài tính Thrash và Metalcore còn chịu rất nhiều ảnh hưởng của Progressive Metal với những bài hát có cấu trúc phức tạp và phong cách chơi nhạc đầy kỹ thuật. Ngoài ra cũng không thể không kể đến những ảnh hưởng của Melodic Death Metal. Album này nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới hâm mộ trên toàn thế giới và nó cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 110 trên bảng xếp hạng của nước Mỹ. Tuy nhiên, đây cũng là album cuối cùng của tay guitar Dallas Coyle với band nhạc (band nhạc có 2 tay guitar là anh em Dallas và Doc Coyle – cũng là những người đồng sáng lập). Đây là sự mất mát rất lớn vì Dallas và Doc là những tay guitar vô cùng ăn ý vì đã chơi với nhau từ khi còn rất nhỏ. Nguyên nhân chính của sự ra đi này có lẽ bắt nguồn từ vấn đề tài chính, band nhạc không thực sự quá thành công, việc này đã dẫn đến mâu thuẫn giữa chính anh em Dallas và Doc và Dallas đã quyết định không tiếp tục chơi nhạc với God Forbid nữa. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến cho God Forbid tan rã sau này. The Discovery/The Rain War Of Attrition Rõ ràng với album được đánh giá rất cao như Earthsblood, God Forbid không muốn dừng lại dù không còn Dallas. Họ tìm được một tay guitar mới để thay thế và đó là Matt Wicklund. Năm 2012 nhóm tung ra album thứ 6 trong sự nghiệp là Equilibrium. Âm nhạc trong album này, rất tiếc, không phải là sự kế tục của album rất hay Earthsblood. Nó quay về dạng Thrash/Metalcore của album VI trước đó. Tuy vậy, album này không thành công và cũng không được đánh giá quá cao vì ít tính đột biến. Album này cũng không thành công về mặt thương mại khi chỉ vươn lên được hạng 156 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau album này, Doc Coyle cũng rời khỏi band nhạc vào năm 2003. Ngay sau đó, band nhạc tuyên bố tan rã. Equilibrium God Forbid là một band nhạc có chất lượng rất tốt với những ảnh hưởng của Melodic Death và Thrash, Death Metal kiểu Mỹ. Dù không thực sự thành công về mặt thương mại, band nhạc vẫn nhận được rất nhiều sự tôn trọng của giới chuyên môn trên toàn thế giới. Chính vì thế việc band nhạc tan rã để lại không ít sự tiếc nuối cho những fan hâm mộ của Metalcore.
Killswitch Engage Killswitch Engage Nhân vật cuối cùng trong số những band nhạc Big 5 là Killswitch Engage và đây có lẽ cũng là band nhạc thành công nhất về mặt thương mại so với các band kể trên. Killswitch Engage (KSE) thành lập trên cơ sở là 2 band nhạc Overcast và Aftershock vào năm 1999. Cả 2 band nhạc trên đều là những band nhạc Metalcore. Sau khi 2 band tan rã, tay guitar bass Mike D’Antonio (Overcast) và tay guitar Adam Dutkiewicz – lúc này chơi trống (Aftershock) quyết định thành lập KSE. Họ mời thêm tay guitar Joe Stroetzel (Aftershock) và vocalist Jesse Leach. Năm 2000, nhóm tung ra album đầu tay cùng tên với band nhạc qua hãng đĩa Ferret. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của phong cách Melodic Death với giọng hát đầy giận dữ kiểu Hardcore (có lai với Death Metal). Album có chất lượng rất tốt nên mặc dù không mấy thành công về mặt thương mại (không xuất hiện trên bất kỳ bảng xếp hạng nào) nhưng vẫn khiến band nhạc được chú ý và sau đó là có hợp đồng với hãng đĩa khổng lồ Roadrunner. Temple from the Within Năm 2002, KSE tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là Alive Or Just Breathing. Sự thay đổi chủ yếu của KSE trong âm nhạc của album này là việc sử dụng cặp đôi guitar. Trong đó Dutkiewicz vừa chơi trống, vừa chơi guitar trong album này. Với việc sử dụng cặp đôi guitar, đây cũng là một trong những album đầu tiên trong lịch sử của Metalcore có tích hợp những âm hưởng của Metal cổ vào trong âm nhạc của nhóm. Chính vì thế, nó là một trong những album tiêu biểu của Metalcore thế giới. Tuy tích hợp nhiều tính giai điệu, đây vẫn là một trong những album mạnh nhất trong sự nghiệp của nhóm và mang đầy tính giận dữ. Dù chỉ xuất hiện ở hạng 37 của Top Heatseekers (dành cho những band nhạc chưa bao giờ có album vào top 100 của Mỹ) và bán được khoảng hơn 100 nghìn bản. Album này luôn được coi là một trong những album kinh điển của Metalcore thế giới. My Last Serenade Sau album thứ 2 rất thành công Alive Or Just Breathing, KSE mất đi tay giọng ca chính Jesse Leach vì những lý do gia đình và sức khỏe. KSE ngay lập tức bắt tay vào tìm kiếm một giọng ca chính mới và Howard Jones là người được lựa chọn. Đây là một giọng ca chính da màu nên giọng anh có phần trầm hơn so với Leach. Lúc này, band nhạc cũng cũng kết nạp thêm 1 tay trống mới và Dutkiewicz chuyển hẳn sang chơi guitar. Năm 2004, KSE tung ra album thứ 3 là The End Of Heartache. Cùng với giọng ca mới Jones, âm nhạc của KSE cũng thay đổi khi bớt đi tính bạo lực và các bài hát thường có đoạn chorus hát bằng giọng clean khá dễ nghe. Sự thay đổi này khiến album dễ nghe với những bài hát dễ nhớ. Album có chất lượng rất tốt và được PR một cách hợp lý (xuất hiện trong trong phần nhạc phim Resident Evil: Apocalypse) và trở thành một trong những album Metalcore thành công nhất trong lịch sử của dòng nhạc này khiê vươn lên vị trí 21 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Đến năm 2007, album giành được chứng chỉ đĩa vàng (hơn 500 nghìn bản) - đây là album đầu tiên của Metalcore có được vinh dự này. Tới cuối năm 2005, KSE cũng trở thành band nhạc Metalcore đầu tiên được đề cử giải thưởng Grammy cùng với Hatebreed. Đây có thể coi là một album kinh điển và phổ biến nhất của Metalcore thế giới. The End Of Heartache Rose Of Sharyn (còn tiếp)
Killswitch Engage Killswitch Engage (tiếp theo) Trên đà thành công của album The End Of Heartache, KSE tung ra album thứ 4 là As Daylight Dies vào năm 2006. Âm nhạc trong album này tiếp tục phong cách nghiêng nhiều về hướng giai điệu của những album rất thành công trước đó nhưng có phần dễ nghe hơn so với album trước. Dù album này không chiếm được thứ hạng cao như album trước – chỉ chiếm được hạng 31 trên bảng xếp hạng của Mỹ - nhưng nó cũng đạt được danh hiệu đĩa vàng vào năm 2007, chỉ một năm sau khi được tung ra. Trên thế giới, nó cũng xuất hiện trên nhiều bảng xếp hạng tại Anh, Áo, Australia… Tuy nhiên, quá trình lưu diễn của band nhạc sau album này gặp rất nhiều trục trặc. Nguyên nhân chính chủ yếu là do chấn thương lưng của Dutkiewicz, chấn thương này khiến band nhạc không ít lần phải thuê những tay guitar khác vào chữa cháy. Đến cuối năm 2007, KSE tung ra bản cover bài hát Holy Diver của Dio theo phong cách Metalcore và nhận được khá nhiều lời khen ngợi của giới chuyên môn. Dù là một bài hát cover, nó vẫn vươn lên được hạng 12 trên bảng xếp hạng các bài hát Rock của Mỹ (đây là vị trí cao nhất trong lịch sử của band nhạc tính tới thời điểm hiện tại). My Curse Sau 2 albums rất thành công, KSE đã trở thành một trong những tên tuổi lớn nhất trong làng nhạc Metal thế giới hiện đại. Điều này có lẽ đã ảnh hưởng không tốt tới album thứ 5 trong sự nghiệp của nhóm là Killswitch Engage vào năm 2009. Để sản xuất cho album, nhóm thuê Brendan O’Brien để kết hợp với Dutkiewicz. Tuy nhiên, sự kết hợp này không được tốt và trở thành một trong những điểm yếu nhất của album này. Có lẽ một phần do áp lực thành công quá lớn nên tiếng guitar gần như không nghe thấy (rất kém) và âm nhạc trong album nghiêng quá nhiều về hướng mainstream. Tuy nhiên, điểm sáng trong album này là giọng hát của Jones, anh này chủ yếu sử dụng giọng khàn và có phần gào thét dạng Hardcore – trái ngược hẳn với phong cách nhẹ nhàng, dễ nghe của phần nhạc. Dù có những hạn chế về chất lượng chuyên môn, album vẫn rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 7 trên bảng xếp hạng của Mỹ (vị trí cao nhất trong lịch sử của band nhạc). Starting Over Sau album thứ 5 khá thành công, KSE lại gặp trục trặc. Lần này là do sức khỏe của giọng ca chính Jones. Anh này bị bệnh tiểu đường độ 2 và gần như không thể tiếp tục sự nghiệp âm nhạc. KSE phải cấp tốc tìm người thay thế Jones cho những show lưu diễn để chờ anh này trở lại. Năm 2012, Jones tuyên bố rời khỏi band nhạc. Việc tìm kiếm giọng ca chính mới rất vất vả và gặp nhiều khó khăn. Cuối cùng, band nhạc quyết định mời lại giọng ca chính đầu tiên là Leach. Năm 2013, band nhạc tung ra album thứ 6 trong sự nghiệp là Disarm The Descent. Âm nhạc trong album này nhanh và mạnh hơn các album có Jones là giọng ca chính rất nhiều (giọng của Leach cũng mạnh mẽ, bạo lực và mang nhiều tính Extreme hơn so với giọng của Jones). Sự thay đổi này nhận được sự chào đón nồng nhiệt của các fan hâm mộ Metal trên toàn thế giới và album vì thế cũng được đánh giá rất cao. Về mặt thương mại, album cũng vươn lên hạng 7 trên bảng xếp hạng của Mỹ và có mặt trên rất nhiều bảng xếp hạng trên toàn thế giới. Đến năm 2014, bài hát In Due Time giúp cho KSE một lần nữa được đề cử giải thưởng Grammy cho màn trình diễn Metal xuất sắc nhất. Đây thực sự là một sự trở lại đầy ấn tượng của band nhạc. In Due Time Always Với những album chất lượng khá cao, KSE có lẽ là band nhạc thành công nhất về mặt thương mại của dòng nhạc Metalcore. Điều này cũng giúp họ trở thành một trong những band nhạc nổi tiếng và phổ biến nhất của dòng nhạc. Hiện tại, KSE đang trong quá trình sản xuất và ghi âm album thứ 7 trong sự nghiệp của nhóm. Hy vọng đây tiếp tục là một album có chất lượng cao. Holy Diver
ZAO ZAO ZAO là một trong những band nhạc có lịch sử phát triển hết sức đặc biệt. Nhóm thành lập năm 1993 tại West Virginia, Mỹ và khởi đầu là band nhạc chơi Hardcore và Christianity (chuyên hát về Chúa Trời). Trong thời kỳ đầu tiên, nhóm tung ra được 2 albums là All Else Failed -1995 và The Splinter Shards The Birth Of Separation đều là những album Hardcore với những bài hát về Chúa. Cả 2 album này không mấy thành công và nhóm tan rã sau khi tất cả các thành viên rời nhóm (trừ tay trống Jesse Smith). Năm 1998 bắt đầu thời kỳ thứ 2 trong sự nghiệp của Zao với việc Smith thuê thêm tay guitar Detar để tái lập band nhạc. Detar giới thiệu thêm tay guitar thứ 2 là Cogdell và giọng ca chính Daniel Weydant – một nhà văn, nhà thơ. Cùng với các thành viên này, nhóm tung ra album thứ 3 là Where Blood And Fire Bring Rest -98. Album này hoàn toàn mang tính Metalcore và là một trong những album sớm nhất của dòng nhạc này. Album có chất lượng khá tốt nên khiến band tạo dựng được vị trí trong làng nhạc underground thế giới. Ngay sau đó, Detar rời nhóm và người thay thế là Mellinger. Nhóm kết nạp thêm tay bass và bước vào ghi âm album thứ 4. Năm 1999, nhóm tung ra album kinh điển Lerateib Te Ex Infernis. Âm nhạc trong album này thay đổi khá nhiều khi thử nghiệm thêm những ảnh hưởng của Post Metal (Neurosis) vào Metalcore. Album này vì thế được giới chuyên môn đánh giá rất cao và là một trong những album kinh điển của Metalcore thế giới. Đội ngũ của Zao tiếp tục bất ổn ngay sau đó khi mất đi 2 thành viên gồm tay guitar và bass. Chỉ còn 3 thành viên, nhóm vẫn ghi âm album thứ 4 là (Self-Titled) vào năm 2001. Âm nhạc trong album này có tích hợp thêm những ảnh hưởng của Dark Pop và Industrial Metal. Sau album này, Zao tan rã. Tuy nhiên, hợp đồng của hãng đĩa vẫn còn hiệu lực nên nhóm cấp tốc bước vào ghi âm 2 album là Parade Of Chaos và ghi âm lại album All Else Failed theo phong cách Metalcore rồi tung ra vào năm 2002-2003. Dù được ghi âm với chỉ 3 thành viên và có phần hơi gấp rút, đây vẫn là những album có chất lượng khá của nhóm. Sau 2 album này, nhóm tan rã, các thành viên theo đuổi những dự án khác nhau. Sau đó, Zao lại tái lập một lần nữa nhưng rồi tay trống Smith lại quyết định ra đi (Smith là người sáng lập và tái sinh band nhạc). Các thành viên còn lại kết nạp tay trống mới và tung ra album thứ 7 trong sự nghiệp là The Funeral Of God vào năm 2004. Đây là một album concept với nội dung dựa theo sách Khải Huyền. Theo đó, do chán nản với cách lựa chọn đường đi của loài người, Chúa lựa chọn cách không can thiệp và để loài người gây ra chiến tranh và đi vào con đường diệt vong. Tuy nhiên cuối cùng thì loài người nhận ra sai lầm và đợi Chúa trở lại. Âm nhạc trong album khác hẳn so với những album trước khi chịu nhiều ảnh hưởng của Shadows Fall và Killswitch Engage (phong cách Melodic Metalcore). Tuy nhiên album có chất lượng tốt và được quảng bá rất rộng rãi bởi hãng đĩa Ferret nên khá thành công (đây là album bán chạy nhất trong sự nghiệp của nhóm). Album tiếp theo của nhóm là The Fear Is What Keep Us Here được tung ra vào năm 2006. Album này được ghi âm theo phong cách analog : đánh live trong phòng thu âm. Đây cũng là một album dạng concept nhưng không phải là album có cốt truyện mà là album với những bài hát cùng chung chủ đề về cái chết và sự mất mát. Âm nhạc trong album này khác rất nhiều so với album trước đó (mang tính raw kiểu Black Metal). Tuy nhiên, album vẫn có chất lượng khá cao. Năm 2009, Zao tung ra album Awake?, album này cũng có chất lượng khá tốt. Zao là một band nhạc có sự nghiệp phức tạp với những thay đổi liên tiếp (chỉ có rất ít album mà đội hình của nhóm giữ được nguyên vẹn giống nhau). Tuy chỉ là một band nhạc nhỏ, nhóm vẫn có nhiều ảnh hưởng tới Metalcore, đặc biệt là những band Christian Metalcore sau này. Ravage Ritual Autopsy 5 Year Winter The Rising End My Love, My Love (We've Come Back From The Dead) The Eyes Behind The Throne
Every Time I Die Every Time I Die Every Time I Die (ETID) thành lập năm 1998 và là một trong những band nhạc Metalcore đang lên trong những năm gần đây. Âm nhạc của nhóm dựa rất nhiều trên Hardcore nên nhiều nhà chuyên môn còn xếp nhóm vào dòng nhạc này. Tuy nhiên, trên thực tế, âm nhạc của nhóm có rất nhiều phần tử của Metalcore, Mathcore và sau này là Southern Rock và Groove Metal. Sau khi thành lập và tham gia một số chuyến lưu diễn, band nhạc nhận được sự chú ý của hang đĩa Goodfellow và tung ra album đầu tay Burial Plot Bidđing War vào năm 2000. Album được đánh giá khá tốt và khiến cho nhóm có hợp đồng với hãng đĩa Ferret và tung ra album đầu tay Last Night In Town vào năm 2001. Đây là một album mang nhiều tính Mathcore và Metalcore với một lối chơi khá kỹ thuật, tuy nhiên album cũng không dễ nghe nên không gặt hái được nhiều thành công. Phải đến album thứ 2 là Hot Damn! ETID mới nhận được những lời khen ngợi từ giới chuyên môn và được biết đến khá rộng rãi trong giới hâm mộ Metal. Âm nhạc trong album này vẫn là phong cách Metalcore kết hợp với Mathcore (với những bài hát rất ngắn – album chỉ dài khoảng 27 phút). Các bài hát được làm kỹ hơn, lời bài hát chịu nhiều ảnh hưởng từ văn học Anh, đặc biệt là Shakespeare. Dù không thể vươn lên có mặt trên bảng xếp hạng chính thức của Mỹ nhưng nhóm lần đầu tiên có mặt trên Top Independent (dành cho những hãng đĩa nhỏ). Đây là một album có chất lượng rất tốt. Trong những năm sau đó, band nhạc bất ngờ chuyển hướng âm nhạc với những album pha trộn giữa Metalcore và Punk Rock khá phổ biến lúc bấy giờ. 2 albums Gutter Phenomenon -2005 và The Big Dirty -2007 là có chất lượng không quá cao nhưng lại rất thành công về mặt thương mại khi lần lượt xếp hạng 71 và 41 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Phải đến album thứ 5 là New Junk Aesthetic -2009, phong cách chơi nhạc phóng khoáng, mạnh mẽ đầy giận dữ và kỹ thuật mới trở lại với band nhạc. Điều này đồng nghĩa với việc band nhạc giảm bớt tính Pop Punk (dù vẫn còn) và chơi mạnh hơn. Ngoài ra, những ảnh hưởng của Southern Rock (Blues của nước Mỹ) cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Dù album có chất lượng rất tốt, nó chỉ vươn lên được hạng 46 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Phong cách này tiếp tục phát triển với các album Ex Lives -2012 và From Parts Unknown -2014. Cả 2 albums đều có chất lượng tốt và cũng rất thành công về mặt thương mại khi lần lượt xếp hạng 25 và 22 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Điểm khác biệt lớn giữa 2 album là From Parts Unknown chịu ít ảnh hưởng của Southern Rock hơn so với Ex Lives. ETID là một band nhạc khá đặc biệt, âm nhạc của họ là sự pha trộn của rất nhiều thể loại nhạc khác nhau từ Metalcore tới Pop Punk, Southern Rock, Mathcore và Groove Metal. đây là một trong những band nhạc rất đáng chú ý trong những năm gần đây của dòng nhạc Metalcore. The Logic of Crocodiles Ebolarama The New Black Underwater Bimbos From Outer Space Revival Mode
Norma Jean Norma Jean Norma Jean được thành lập từ năm 1997 dưới cái tên Luti-Kriss. Đây là một band nhạc Christian – chuyên hát ca ngợi Chúa trời. Luti – Kris tung ra album đầu tay là Throwing Myself vào năm 2001 với phong cách Metalcore kết hợp với những ảnh hưởng của Nu Metal và Punk. Album này không thực sự thành công nên trong năm sau đó, nhóm đổi tên thành Norma Jean để tránh nhầm lẫn với Rapper Ludacris và chuyển hẳn sang phong cách Metalcore. Trong năm 2002, nhóm tung ra album thứ 2 là Bless The Martyr And Kiss The Child, một trong những album kinh điển của Metalcore thế giới. Âm nhạc trong album này là phong cách Metalcore kết hợp với Mathcore và Progressive. Chất lượng về mặt âm nhạc cũng như kỹ năng chơi nhạc là rất cao. Tuy không xuất hiện trên bảng xếp hạng nào, album vẫn được người hâm mộ Metalcore đánh giá rất cao. Sau khi tung ra album thứ 2, đội hình của Norma Jean có nhiều thay đổi khi giọng ca chính Scogin rời nhóm. Phải 3 năm sau, Norma Jean mới có thể tung ra album thứ 3 là O God, The Aftermath. Âm nhạc trong album này tiếp tục biến đổi khi nghiêng về Noise Music. Album khá ồn, khó nghe nhưng có phần bìa đĩa và quyển booklet được trang trí rất tốt. Album này sau đó còn được đề cử giải Grammy cho phần Artwork này. Vì thế, về mặt thương mại, album cũng rất thành công khi vươn lên được hạng 1 trên bảng xếp hạng dành cho Christian Music và hạng 62 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Đây cũng là những thành công đầu tiên của Norma Jean. Chỉ một năm sau, Norma Jean tung ra album Redeemer, một album kinh điển khác của nhóm. Âm nhạc trong album này ngoài tính Metalcore, Noise Rock còn tích hợp cả những ảnh hưởng của Post Metal và Sludge. Dù không có phần Artwork độc đáo như album trước, album này vẫn rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 38 trên bảng xếp hạng của Mỹ và hạng 1 trên bảng xếp hạng Christian. Âm nhạc trong album có chất lượng cao và cũng được rất nhiều người hâm mộ yêu mến. Sau albums thứ 3, Norma Jean tiếp tục rơi vào bất ổn khi mất đi tay trống. Phải đến năm 2008, nhóm mới tung ra được album thứ 4 là The Anti Mother với sự trợ giúp của rất nhiều vocalist đến từ nhiều band nhạc khác nhau như Page Hamilton (Helmet), Chino Moreno (Deftones) hay Cover Reber (Saosin). Có lẽ cũng vì ảnh hưởng của những khách mời này, album chủ yếu mang tĩnh Metalcore với một chút ảnh hưởng của Sludge Metal. Âm nhạc trong album có chất lượng khá tốt và được đánh giá cao. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên được vị trí 29 trên bảng xếp hạng của Mỹ (vị trí cao nhất trong lịch sử của band nhạc). Album thứ 5 của Norma Jean là Meridional được tung ra vào năm 2010. Album này không còn những vị khách mời nữa nên nó trở lại khá giống với album Redeemer. Tức là phong cách Metalcore với những ảnh hưởng của Mathcore, Sludge và Post Metal. Album này có chất lượng khá tốt nhưng không thể bằng Redeemer. Nó cũng không thực sự thành công về mặt thương mại khi chỉ xếp được hạng 45 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau album thứ 5, Norma Jean tiếp tục gặp tổn thất về nhân sự khi mất đi 3 thành viên chủ chốt. Phải tới năm 2013, nhóm mới ổn định lại đội ngũ và tung ra album thứ 6 là Wrongdoers. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của Metalcore với Mathcore, Noise Rock và Sludge Metal. Album này có chất lượng rất tốt và là một trong những album Metalcore rất đáng nghe trong những năm gần đây. Về mặt thương mại, album cũng thành công hơn so với album trước đó khi vươn lên được vị trí 37 trên bảng xếp hạng. Norma Jean là một trong những band nhạc Metalcore tiêu biểu và rất đáng nghe trong những năm gần đây. Âm nhạc của nhóm là sự kết hợp của Metalcore với một số dòng nhạc như Mathcore, Sludge, Noise Rock. Đây cũng là một trong những band nhạc tiêu biểu của Christian Metalcore. Light Blue Collar Face: Face Bayonetwork : Vultures In Vivid Color Songs Sound Much Sadder Deathbed Atheist Sword In Mouth, Fire Eyes
As I Lay Dying As I Lay Dying Cùng với Norma Jean, As I Lay Dying (AILD) là vừa là band nhạc Metal đồng thời là Christian. Các thành viên của band nhạc đều theo Thiên Chúa giáo. Câu chuyện của AILD bắt đầu bằng giọng hát chính Lambesis và có lẽ cũng kết thúc bởi anh này. Năm 2000, sau khi rời khỏi band nhạc Society’s Finest, Lambesis thành lập AILD. Ngay lập tức nhóm nhận được sự chú ý của hãng đĩa Pluto và có hợp đồng với hãng đĩa này. Năm 2001, nhóm tung ra album đầu tay Beneath The Encasing Of Ashes. Đây là một album mang đậm phong cách Hardcore và chịu nhiều ảnh hưởng của các band như Zao. Album này không thực sự thành công. Sau album đầu tay không thực sự thành công, nhóm nhạc quyết định kết nạp thêm 1 tay guitar và 1 tay bass để chơi nhạc chuyên nghiệp hơn. Sau một thời gian ổn định đội hình, nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa Metal Blade vào năm 2003. Cũng trong năm này, nhóm tung ra album thứ 2 là Frail Words Collapse. Âm nhạc trong album này theo phong cách Metalcore và cũng chưa có nhiều sáng tạo nhưng các bài hát đã tốt hơn trước. Một số bài hát của nhóm như 94 Hours hay Forever rất được yêu thích. Album này khá thành công khi vươn lên hạng 30 Top Independent và sau này bán được trên 200 nghìn bản. Năm 2005, AILD tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Shadows Are Security. Cặp đôi guitar mới xuất hiện khiến âm nhạc của nhóm nghe mới và các bài hát cũng tốt hơn (nghiêng về phía giai điệu) . Album này có chất lượng tốt và rất thành công khi vươn lên được hạng 35 trên bảng xếp hạng chính thức của Mỹ và đứng đầu trên Top Independent. Album này sau đó bán được khoảng 275 nghìn bản tại Mỹ và giúp cho tên tuổi band nhạc được biết đến rộng rãi. AILD vươn lên tới đỉnh cao trong sự nghiệp với album An Ocean Between Us vào năm 207. Âm nhạc trong album có nhiều thay đổi với những cú riff của Thrash Metal và phong cách chơi trống doubles bass khá kỹ thuật. Album có chất lượng cao và trở thành một trong những siêu phẩm của Metalcore thế giới. Về mặt thương mại, album cũng rất thành công khi vươn lên được hạng 8 trên bản xếp hạng của Mỹ (vị trí cao nhất trong lịch sử của band nhạc). Bài hát Nothing Left, single chính trong album còn giúp AILD có được đề cử giải thưởng Grammy cho màn trình diễn Metal xuất sắc nhất. Lúc này AILD đã trở thành một thế lực thực sự của Metal thế giới trong những năm giữa thập niên 2000s. Năm 2010, AILD tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp là The Powerless Rise. Âm nhạc trong album này nghiêng nhiều về Thrash hơn album trước. Tuy nhiên, giọng hát lại nghiêng nhiều về Extreme (Hardcore, Death) và ít sử dụng giọng clean. Album này có chất lượng khá tốt và cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 10 tại Mỹ. Album thứ 6, và có lẽ cũng là album cuối cùng của nhóm, Awakened được tung ra vào năm 2012. Đây là một album dạng tổng hợp, âm nhạc trong album là sự kết hợp của phong cách nghiêng về Thrash của 2 albums đỉnh cao trước với phong cách nghiêng về Hardcore của những album đầu tay. Tuy vậy , chất lượng của album này có phần không cao bằng so với những album trước. Album cũng khá thành công và chiếm được vị trí 11 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Ngay sau album này, giọng ca chính Lambesis bị bắt vì thuê người giết vợ cũ (đã ly dị). Anh này bị kết án tù 6 năm và AILD chính thức tan rã. Các thành viên còn lại lập band nhạc mới là Wovenwar và thuê một giọng hát chính khác vào thay thế. AILD là một trong những band nhạc Metalcore thành công nhất. Tuy nhiên những yếu tố ngoài âm nhạc đã khiến cho band nhạc không thể tiếp tục sự nghiệp. Tuy nhiên, những album như An Ocean Between Us, The Powerless Rise là những album rất hay của dòng nhạc Metalcore. Forever Through Struggle Nothing Left Parallels Paralyzed A Greater Foundation
Marty A.D Marty A.D Trong dòng nhạc Metalcore cũng có những band nhạc khá nhỏ nhưng cũng cũng có thể tung ra những album có chất lượng khá tốt. Marty A.D là một trong những band nhạc như vậy. Band nhạc thành lập năm 1999 tại Minnesota, Mỹ trên cơ sở là những thành viên band nhạc Disembodied. Ngay sau đó, nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa Ferret (hãng này về sau chuyên về dòng nhạc Metalcore). Năm 2001, nhóm tung ra album đầu tay là The Human Condition In Twelve Fractions. Đây là một album Metalcore có chất lượng rất tốt với những ảnh hưởng rõ nét của Thrash và Groove Metal (Pantera). Âm nhạc trong album mạnh mẽ, kỹ thuật và mang nhiều tính Extreme. Album này nhận được rất nhiều lời khen ngợi và trở thành một trong những album quan trọng của Metalcore underground. Tuy nhiên, Martyr A.D. không thể giữ được sự ổn định trong đội hình trong những năm sau đó dù đã tung ra được một album được đánh giá cao. Một trong những mất mát quan trọng là nhóm mất đi giọng ca chính Fisketti (anh này có giọng mạnh mẽ, mang nhiều tính Extreme kiểu Hardcore) và tay trống Kane. Chính vì sự bất ổn trong đội hình này mà phải tới năm 2004 nhóm mới tung ra được album thứ 2 là On Earth As It Is In Hell. Âm nhạc trong album này khác rất nhiều so với album trước đó khi những ảnh hưởng của Thrash và Groove còn rất ít. Bù vào đó là những ảnh hưởng của Melodic Death khá thông dụng với những band Metalcore tại thời điểm bấy giờ. Chất lượng của album này không tệ nhưng khó có thể so sánh được với album đầu tay. Việc album thứ hai không thành công đã khiến cho band nhạc gặp nhiều vấn đề. Tới tháng 4 năm 2005 thì nhóm tuyên bố tan rã mà không công bố lý do tại sao. Những cựu thành viên của nhóm Disembodied quay trở lại và tái lập nhóm này. Dù sớm tan rã, Martyr A.D vẫn là một band nhạc gây được nhiều thiện cảm từ giới hâm mộ Metal underground với 2 albums khá tốt, đặc biệt là album đầu tay. Broken Mouth American Hollow Bring Out Your Dead
Raunchy Raunchy Raunchy không phải là một band nhạc Metalcore thuần chất. Nhóm thành lập năm 1992 tại Đan Mạch, nhưng chủ yếu chơi các band nhạc cover của Metallica và Slayer. Phải mãi tới năm 1995 nhóm mới bắt đầu sáng tác và ghi âm những album demo nhưng vẫn không nhận được sự chú ý của các hãng đĩa. Đến năm 2000, cuối cùng thì nhóm cũng có được hợp đồng với hãng đĩa Drug và bắt tay vào ghi âm album đầu tay. Năm 2001, nhóm tung ra album Velvet Noise. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của Metalcore với những ảnh hưởng của Industrial và Electronic. Album này có chất lượng khá và giúp nhóm được biết đến khá rộng rãi tại bán đảo Scandinavia. Thành công của album cũng khiến cho nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa Nuclear Blast – một hãng đĩa lớn chuyên về Metal. Năm 2004, nhóm tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là Confusion Bay. Lúc này thì âm nhạc của nhóm rất phức tạp với những ảnh hưởng của cả Industrial, Electronic, Melodic Death, Alternative Metal và cả Nu Metal nữa. Tuy âm nhạc phức tạp, đây vẫn được coi là album đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm. Tuy nhiên sau album Confusion Bay, nhóm mất đi giọng ca chính Vognstrup và cũng mất luôn hợp đồng với hãng đĩa Nuclear Blast. Tuy vậy nhóm nhanh chóng tìm kiếm được một giọng ca chính mới và một hãng đĩa mới là Lifeforce. Năm 2006, nhóm tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Death Pop Romance. Âm nhạc trong album này khá giống với album trước, tuy nhiên có phần dễ nghe hơn với những đoạn chorus khá dễ nhớ. Tuy nhiên, chất lượng của album này có không tốt như album trước đó. Album tiếp theo của nhóm là Wasteland Discotheque -2008 tiếp tục phong cách truyền thống của Raunchy là Metalcore nhưng thậm chí còn dễ nghe hơn so với album trước. Tuy nhiên, chất lượng các bài hát của album này là khá tốt (tốt hơn so với album trước). Album tiếp theo của nhóm là A Discord Electric -2010 tiếp tục phong cách này với những đoạn chorus không khác nhiều lắm so với nhạc Pop với những đoạn Chorus rất dễ nhớ. Đây thậm chí còn là album dễ nghe nhất của nhóm. Sau album này, nhóm lại tiếp tục mất đi giọng ca chính. Phải 4 năm sau nhóm mới tung ra album tiếp theo là Vices. Virtues. Visions. Vào năm 2014. Album này không mấy thành công. Raunchy là một band nhạc khá lạ của Metalcore thế giới với những đoạn chorus rất dễ nghe, sử dụng nhiều keyboards và âm thanh điện tử. Một band nhạc rất đáng nghe với những fan hâm mộ giai điệu dễ nhớ. Crack of Dawn Watch Out Farewell To Devotion Warriors Nght Prty Truth Taker
36 Crazyfists 36 Crazyfists 36 Crazyfists (36CF) là một band nhạc khá phức tạp của dòng nhạc Metalcore. Âm nhạc của họ cũng không phải là Metalcore thuần chất mà còn chịu nhiều ảnh hưởng của Nu Metal, Alternative Metal và Emo. Band nhạc thành lập từ năm 1994 tại Alaska, Mỹ sau một sự kiện khá bi thảm. Trước đó, các thành viên của nhóm chơi cho 3 band nhạc khác nhau là Grin, Hessian và Broke và có quen biết nhau. Tuy nhiên, vào đầu năm 1994, tay trống Monsen của nhóm Broke bị giết vì một mâu thuẫn trong quán bar. Các bạn bè của anh tổ chức một buổi hòa nhạc để quyên góp tiền cho gia đình anh này. Tại buổi hòa nhạc, các thành viên của 36CF gặp gỡ và chơi chung với nhau trong một số bài hát. Nhận thấy sự hòa hợp đáng ngạc nhiên giữa các thành viên, họ quyết định thành lập ngay band nhạc trong buổi biểu diễn này. Năm 1995, nhóm tung ra album EP đầu tiên là Boss Buckle tuy nhiên chưa thực sự thành công (album này chủ yếu là Groove Metal với một chút ảnh hưởng của Rapcore). Khi sự nghiệp chưa đi đến đâu và chưa thể tìm được hợp đồng ghi âm thì nhóm tiếp tục gặp tổn thất lớn khi tay guitar bass Stuart chết vì tai nạn ô tô. Sau đó, band nhạc tìm được người thay thế và tung ra album đầu tay In The Skin vào năm 1997, album này chủ yếu mang tính Alternative và Heavy Metal. Phải mãi tới năm 1999, sau khi tung ra một album demo, nhóm mới nhận được sự chú ý của hãng đĩa khổng lồ Roadrunner và có hợp đồng với hãng đĩa này. Sự nghiệp của 36CF cũng cất cánh từ đây. Nhóm tung ra album thứ 2 là Bitterness The Star vào năm 2002 và nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp rất khéo léo giữa Metalcore với Nu Metal và Emo. Album có chất lượng rất tốt dù không thực sự thành công về mặt thương mại tại Mỹ (không có mặt tại bảng xếp hạng), nhưng lại bất ngờ có mặt tại bảng xếp hạng tại Anh (thị trường âm nhạc lớn thứ 2 thế giới) với vị trí 189. 2 Năm sau, nhóm tiếp tục tung ra album thứ 3 là A Snow Capped Romance -2002. Đây tiếp tục là một album có chất lượng rất tốt của Metalcore thế giới với những ảnh hưởng từ Alternative và Nu Metal. Album này có chất lượng rất tốt và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn và fan hâm mộ. Album cũng đạt được những thành công về mặt thương mại khi xuất hiện ở vị trí 123 tại Anh và 21 trên bảng xếp hạng Heatseeker tại Mỹ. Tuy nhiên, những thành công này là quá nhỏ so với một hãng đĩa như Roadrunner nên band nhạc nhanh chóng bị thanh lý hợp đồng. Nhưng với việc có những album được giới chuyên môn đánh giá cao, nhóm nhanh chóng có hợp đồng với hãng đĩa DRT và tung ra album Rest Inside The Flames vào năm 2006. Cùng với sự trợ giúp đắc lực của Killswitch Engage, album này gần như nghiêng hẳn sang Metalcore và cũng có chất lượng rất cao. Album này cũng khá thành công khi xuất hiện trên bảng xếp hạng của Anh ở vị trí 71. Năm 2008, nhóm tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp là The Tide And Its Takers. Album này cũng như album trước đó nghiêng nhiều về Metalcore. Album cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 155 tại Mỹ (lần đầu tiên xuất hiện trên bảng xếp hạng này) và hạng 83 tại Anh. Album thứ 6 của nhóm là Collisions And Castaways tung ra vào năm 2010. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp giữa Metalcore với Alternative Metal. Tuy nhiên, chất lượng của album này không thực sự cao nên cũng không mấy thành công. Album cuối cùng của nhóm là Time And Trauma được tung ra vào năm 2015. Đây là album có chất lượng tốt, mạnh mẽ. Album khá thành công khi vươn lên hạng 80 trên bảng xếp hạng của Mỹ và vị trí 61 tại Anh (đây là những vị trí cao nhất trong lịch sử của band nhạc). 36CF là một trong những band nhạc có chất lượng khá tốt và pha trộn nhiều thứ âm nhạc rất khác biệt. Tuy không mấy thành công về mặt thương mại, đây vẫn là một band nhạc khá hay của Metal thế giới. Slit Wrist Theory Bloodwork Ill Go Until My Heart Stops We Gave It Hell Reviver Also Am I