Heavy Metal - Nửa thế kỷ nhìn lại.

Discussion in 'Âm nhạc' started by no1knows, 20/5/13.

  1. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    All That Remains

    All That Remains​


    Trong phần viết về một trong những band nhạc huyền thoại của Metalcore là Shadows Fall, chúng ta đã biết rằng giọng ca chính đầu tiên của band nhạc này là Phil Labonte. Cùng với Labonte, Shadows Fall đã tung ra album đầu tay được đánh giá khá cao là Somber Eyes To The Sky. Tuy nhiên, sau đó, do Labonte tham gia dự án All That Remains dưới dạng side project khiến các thành viên khác của Shadows Fall không hài lòng và anh buộc phải ra đi. Đây cũng là lúc Labonte tập trung sự nghiệp tại All That Remains (ATR) và giúp cho band nhạc này trở thành một thế lực của Metalcore thế giới.
    Năm 2002, ATR tung ra album đầu tay là Behind Silence And Solitude. Album này thu âm khá thô và mang nhiều âm hưởng của Melodic Death Metal với một chút ảnh hưởng của Metalcore (với những đoạn Breakdowns). Album thứ 2 của nhóm là This Darkened Heart tung ra vào năm 2004 âm nhạc cũng tương tự như album đầu tay nhưng chất lượng thu âm tốt hơn. 2 albums này không mấy thành công về mặt thương mại mặc dù album thứ 2 được đánh giá khá cao. (cả 2 albums đều mang nhiều tính Melodic Death hơn là Metalcore).
    Sự nghiệp của ATR chỉ thay đổi vào năm 2006 khi nhóm tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là The Fall Of Ideals. Lúc này âm nhạc của nhóm đã có nhiều biến đổi khi tích hợp thêm rất nhiều ảnh hưởng của Metalcore (giọng khàn). Đây cũng là album đầu tiên mà giọng ca chính Labonte sử dụng giọng clean. Hiệu quả của sự thay đổi này xuất hiện gần như ngay lập tức khi nhóm ngay lập tức xuất hiện trên bảng xếp hạng của Mỹ ở vị trí 75 và album sau này bán được hơn 170 nghìn bản trên toàn thế giới. Sự thành công của album này khiến ATR có thể tham gia những đại hội lớn như Ozzfest, xuất hiện trong game Guitar Hero II.
    Thành công lớn hơn tiếp tục đến với ATR vào năm 2008 khi nhóm tung ra album thứ 4 là Overcome. Âm nhạc trong album này khá giống với album trước (tức là Metalcore). Tuy nhiên, album này nghiêng khá nhiều về hướng mainstream với những bài hát có đoạn chorus rất dễ nghe. Yếu tố kỹ thuật trong âm nhạc của nhóm trong album này cũng bị giảm bớt. Có lẽ vì yếu tố này, album rất thành công khi vươn lên hạng 16 trên bảng xếp hạng của Mỹ và nhanh chóng bán được trên 200 nghìn bản tại thị trường nước này.
    ATR đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp với album thứ 5 là For We Are Many vào năm 2010. Âm nhạc trong album này tiếp tục thay đổi khi nhóm tiếp tục tích hợp những ảnh hưởng của Heavy Metal cổ (phong cách Melodic). Album này được chơi với kỹ thuật chơi nhạc rất cao, nhất là cặp đôi guitar và nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn trên toàn thế giới. Tuy vậy, nó cũng khá dễ nghe. Album rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 10 trên bảng xếp hạng tại Mỹ và biến ATR trở thành một thế lực của Metal thế giới.
    Phong cách Metalcore chịu ảnh hưởng của Metal cổ tiếp tục trong album thứ 6 của nhóm là A War You Can’t Not Win vào năm 2012. Lúc này, nhóm không chỉ tích hợp những ảnh hưởng của Heavy Metal cổ mà còn tích hợp cả Hard Rock. Đây là album nghiêng rất nhiều về hướng giai điệu và phong cách chơi guitar harmonies kiểu cổ. Album này cũng có chất lượng khá tốt và cũng rất thành công khi vươn lên được hạng 13 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Album cuối cùng của ATR là The Order Of Things được tung ra vào năm 2015 và không có nhiều sự khác biệt so với những albums trước. Với các bài hát dễ nghe hơn rất nhiều. Tuy nhiên, album này không được giới chuyên môn cũng như fan hâm mộ thực sự đánh giá cao và cũng không thực sự thành công về mặt thương mại khi chỉ vươn lên được hạng 25 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    ATR là một band nhạc khá đặc biệt với những album có chất lượng chuyên môn khá tốt của Metalcore. Đây cũng là một trong những band nhạc chủ chốt của Metalcore trong những năm gần đây.

    This Darkened Heart

    This Calling

    Two Weeks

    The Last Time

    What If I Was Nothing

    This Probably Won't End Well
     
  2. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    AtreyU

    AtreyU​


    AtreyU thành lập từ năm 1998 tại Quận Cam, California, Mỹ và ban đầu lấy tên là Retribution. Tuy nhiên khi phát hiện band nhạc Helmet đã từng dùng tên này, band đổi thành AtreyU. Sau khi tung ra 2 albums EPs, AtreyU nhận được sự chú ý của hãng đĩa Victory- hãng rất nổi tiếng vì có công phát hiện và biến rất nhiều band nhạc Metalcore trở nên nổi tiếng. Năm 2001, nhóm có hợp đồng với hãng đĩa này và đến năm 2002 thì tung ra album đầu tay Suicide Noté And Butterfly Kisses. Âm nhạc trong album này khá mạnh mẽ, đầy giận dữ và thô. Chất liệu chính trong album là Metalcore với giọng gào thét. Album này được giới chuyên môn đánh giá khá cao. Dù không xuất hiện trên các bảng xếp hạng chính thức nào, album vẫn bán được hơn 240 nghìn bản tại Mỹ, khởi đầu không tệ với một band nhạc mới.
    Trên đà thành công, AtreyU tung ra album thứ 2 là The Curse vào năm 2004. Âm nhạc trong album này có nhiều sự thay đổi khi chuyển dần sang phong cách hát có giai điệu (giảm gào thét) với các bài hát có cấu trúc phức tạp, lời bài hát có chiều sâu và có phần buồn bã hơn. Chính vì thế, album này có nhiều âm hưởng của Gothic Rock. Album này dễ nghe hơn và vì thế cũng thành công hơn về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 32 trên bảng xếp hạng của Mỹ và bán được hơn 450 nghìn bản tại Mỹ. Sau album này tên tuổi của Atreyu đã được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới.
    Năm 2006, nhóm tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là A Death – Grip On Yesterday, một album khá dễ nghe nữa của nhóm. Album này nghiêng nhiều về sự cân bằng giữa giọng hát Melodic của Saller (tay trống) và giọng gào thét của Varkatzas (vocalist). Album này có chất lượng rất tốt và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Album này tuy vẫn còn mang nhiều tính Metal vẫn khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 9 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được hơn 340 nghìn bản.
    Sau 3 albums, AtreyU đã là những ngôi sao đang lên của Metal thế giới với album đứng trong top 10 bảng xếp hạng của Mỹ. Lúc này hãng đĩa Victory cũng trở nên quá nhỏ bé và nhóm chuyển sang một hãng đĩa lớn hơn là Hollywood. Năm 2007, nhóm tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là Lead Sails Paper Anchor. Âm nhạc trong album này thay đổi gần như hoàn toàn khi không còn là Metalcore nữa mà chuyển sang mainstream hoàn toàn khi không còn sử dụng vocal kiểu gào thét. Âm nhạc trong album là phong cách Post Hardcore kết hợp với Alternative và Hard Rock. Sự thay đổi quá lớn khiến cho band nhạc nhận rất nhiều sự chỉ trích từ giới chuyên môn. Mặc dù vậy album vẫn rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên được vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Sau khi nhận chỉ trích nặng nề của album trước, AtreyU quyết định trở về một phần với Metalcore và Hardcore trong album tiếp theo là Congregation Of The Damned vào năm 2009. Tuy nhiên, những bài hát Post Hardcore và Alternative thì vẫn còn. Điều này khiến cho album giống như một album tổng hợp của tất cả 4 album trước đó nhằm làm hài lòng những fan hâm mộ. Tuy nhiên, chất lượng album không cao. Album cũng kém thành công về mặt thương mại khi chỉ vươn lên được hạng 18 trên bảng xếp hạng của Mỹ (2 albums trước đều có trong top 10). Năm 2011, nhóm tuyên bố tạm thời ngừng hoạt động, các thành viên theo đuổi những side project. Phải tới năm 2014 nhóm mới quay lại và ghi âm album Long Live. Dự kiến album này sẽ được tung ra vào cuối năm 2015.
    AtreyU là một trong những band nhạc có chất lượng cao của Metalcore thế giới. Âm nhạc của nhóm khá mạnh mẽ với những bài hát có chất lượng tốt. Tuy sau này nhóm chuyển dần sang mainstream nhưng 3 albums đầu tay của nhóm đều là những album xuất sắc của dòng nhạc Metalcore.
    Aint Love Grand

    The Crimson

    Becoming The Bull

    Doomsday

    Lonely

    Long Live
     
  3. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Trivium

    Trivium​


    Trivium là một trong những band nhạc trẻ nhất có thể tiến lên trở thành những ngôi sao của Metalcore thế giới. Âm nhạc của nhóm là sự kết hợp của Metalcore, Thrash, Melodic Death và sau này là Heavy Metal cổ. Nhóm thành lập từ năm 2000 khi tay guitar/vocal Matt Heafy mới chỉ 14 tuổi. Trong một buổi trình diễn ở trường phổ thông, Heafy trình diễn bản cover No Leaf Clover của Metallica. Giọng ca chính Lewter rủ anh này tham gia một nhóm nhạc mới lấy tên là Trivium (tên này được lấy vì âm nhạc của nhóm là sự kết hợp của Metalcore, Melodic Death và Thrash Metal. Sau một thời gian đi lưu diễn tại các câu lạc bộ nhỏ, Lewter rời nhóm và Heafy chính thức giữ vai trò vocalist của band nhạc. Đến năm 2003 khi Metalcore bắt đầu cất cánh, thì Trivium mới có thể có được hợp đồng ghi âm với hãng đĩa Lifeforce của Đức. Nhóm ngay lập tức bắt tay vào ghi âm và tung ra album đầu tay là Ember To Inferno vào cuối năm 2003. Đây là một album Metalcore với khá nhiều ảnh hưởng của Thrash Metal. Album này có chất lượng khá tốt nhưng phần ghi âm và sản xuất chất lượng không cao nên khiến cho album không gây được tiếng vang lớn. Tuy nhiên, điều may mắn là hãng đĩa khổng lồ nhận ra tiềm năng to lớn của Trivium (Heafy mới 17 tuổi khi tung ra album đầu tay) nên đã quyết định ký hợp đồng với band nhạc trẻ này.
    Ember To Inferno


    Năm 2004, Trivium nhanh chóng bắt tay vào ghi âm album thứ 2 trong sự nghiệp là Ascendancy và tung ra album này vào đầu năm 2005. Với những bài hát có chất lượng cao và những đoạn solo guitar đầy kỹ thuật mang âm hưởng của Thrash album này mang một làn gió mới thổi vào thế giới Metal vào năm 2005. Album được giới chuyên môn đánh giá rất cao và được fan hâm mộ Metal thế giới yêu thích với những bài htá kinh điển như Rain, Like Light To The Flies, A Gun Shot To The Head Of Trepidation và Pull Harder On The Strings Of Your Martyr. Tuy không mấy thành công tại Mỹ (chỉ đứng thứ 151 trên bảng xếp hạng) album lại rất thành công trên thế giới khi bán được tổng cộng trên 500 nghìn bản và trở thành một trong những album kinh điển của Metalcore. Album này cũng được bầu là album hay nhất trong năm của tạp chí Kerrang! – tạp chí chuyên về Metal nổi tiếng tại Anh Quốc.
    Pull Harder On The Strings Of Your Martyr

    Like Light to The Flies


    Sau album khá thành công Ascendancy, các bài hát nổi tiếng trong album liên tục được phát trên các kênh truyền hình về nhạc Rock. Nhóm nhạc cũng có điều kiện đi lưu diễn với những band nhạc lớn hơn như Killswitch Engage, Fear Factory, Machine Head. Sau những chuyến lưu diễn dài ngày, Trivium quay trở lại phòng ghi âm và cuối năm 2006, nhóm tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Crusade. Âm nhạc trong album này thay đổi rất nhiều khi chuyển hẳn sang Thrash Metal. Những đặc trưng của Metalcore chỉ còn gần như không đáng kể khi giọng ca khàn, gào thét kiểu Hardcore không còn, những đoạn breakdowns đặc trưng của Metalcore cũng rất ít. Với việc chỉ sử dụng clean vocal, giọng ca của Heafy rất giống với James Hetfield. Album này có lẽ vì thế bị chỉ trích nhiều vì quá giống Metallica.Mặc dù bị giới chuyên môn chỉ trích, album rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 25 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Anthem (We Are The Fire)


    (còn tiếp)
     
  4. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Trivium

    Trivium​


    Sau album thứ 3 gặp nhiều chỉ trích, Trivium quyết định quay lại với phong cách Metalcore trong album thứ 4 là Shogun vào năm 2008. Tuy nhiên, phần chính trong âm nhạc của album này vẫn là Thrash Metal nhưng giọng hát khàn kết hợp với gào thét cũng như những đoạn breakdowns đã trở lại (tuy khá ít). Với lối chơi đầy kỹ thuật của tay trống Travis Smith, album nhận được nhiều lời khen ngợi của giới chuyên môn và cũng rất thành công về mặt thương mại. Album vươn lên hạng 23 trên bảng xếp hạng của Mỹ và có mặt trên top của rất nhiều quốc gia trên toàn thế giới.
    Down From The Sky


    Sau thành công của album thứ 4, Trivium lấy lại được sự tự tin để tiếp tục theo đuổi con đường âm nhạc của nhóm. Tuy nhiên, ngay sau khi lấy lại được khí thế, band nhạc lại đón nhận một tin buồn khi tay trống Smith quyết định rời khỏi band nhạc. Smith là thành viên sáng lập của band nhạc và là điểm sáng trong album Shogun trước đó. Việc mất đi thành viên quan trọng khiến band nhạc rất vất vả để tìm người thay thế. Phải đến năm 2011, nhóm mới ổn định được đội hình và tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp là In Waves. Có lẽ việc mất đi tay trống cũng làm cho âm nhạc của nhóm thay đổi khi chuyển hẳn về Metalcore giống album Ascendancy chứ không phải là Thrash như Shogun và The Crusade. Tuy nhiên, âm nhạc trong album còn chịu ảnh hưởng của Heavy Metal cổ (nghiêng về phía giai điệu). Các bài hát trong album này cũng ngắn, đơn giản và có phần khá dễ nghe so với 2 albums trước đó. Mặc dù về mặt sáng tạo, album này không mang nhiều tính đột phá, đây vẫn là một album có chất lượng khá tốt của Trivium. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 13 trên bảng xếp hạng của Mỹ.

    In Waves

    Built To Fall


    Sau khi phát hành album In Waves, Trivium dành rất nhiều thời gian để đi lưu diễn. Phải đến cuối năm 2012, các chuyến lưu diễn cua rnhóm mới kết thúc và nhóm bước vào ghi âm album thứ 6 trong lịch sử. Cuối năm 2013, nhóm tung ra album Vengeance Falls. Âm nhạc trong album này không khác nhiều so với album trước, tức là phong cách Metalcore chịu ảnh hưởng của Metal cổ. Album này chất lượng khá tốt nhưng không mang nhiều tính đột phá. Về mặt thương mại, nó cũng khá thành công khi vươn lên được hạng 15 tại Mỹ. Sau album này, một lần nữa Trivium lại mất đi tay trống. Sau khi tìm được tay trống mới, nhóm bắt đầu tiến hành ghi âm album thứ 7 là Silence In The Snow và dự kiến tung ra vào cuối năm 2015.
    Strife


    Trivium là một trong những band nhạc trẻ và có tài của Metalcore thế giới. Khi tung ra album kinh điến Ascendancy, các thành viên của nhóm mới chỉ ở độ tuổi đôi mươi. Chính vì vậy, nhiều fan hâm mộ Metal đã tin rằng band nhạc có thể trở thành những siêu sao trên bầu trời âm nhạc. Tuy vậy, do nhiều lý do khác nhau, 10 năm sau, Trivium vẫn chỉ nằm trong dạng tiềm năng chưa được khai phá. Có thể một phần do band nhạc thiếu đi sự đột phá, tính táo bạo trong âm nhạc nên band nhạc không thể thành công như những band nhạc khổng lồ của Metal thế giới. Mặc dù không thành công như kỳ vọng, đây vẫn là một trong những band nhạc thành công nhất của Metalcore mà những fan hâm mộ của Metal không thể bỏ qua.
     
  5. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Mnemic

    Mnemic​


    Mnemic là một trong những band nhạc Metalcore đến từ Denmark. Âm nhạc của nhóm ngoài tính Metalcore là chủ đạo, còn chịu rất nhiều ảnh hưởng từ các dòng nhạc khác như Industrial, Melodic Death, Thrash, Progressive và cả Nu Metal. Nhóm thành lập năm 1998 bởi vocalist Mark Bai. Ngay sau đó, nhóm có hợp đồng với hãng thu âm rất nổi tiếng của Metal là Nuclear Blast. Năm 2003, nhóm tung ra album đầu tay là Mechanical Spin Phenomena. Đây là một album tập trung khá nhiều thể loại với những ảnh hưởng rõ nét của Soilwork, Fear Factory và Strapping Young Lad. Album có chất lượng khá tốt và khiến cho Mnemic có dịp đi lưu diễn với hàng loạt những band nhạc rất nổi tiếng như Machine Head hay Death Angel.
    Nối tiếp đà thành công của album đầu tay, năm 2004, Mnemic tung ra album thứ 2 là The Audio Injected Soul. Đây là một trong những album đầu tiên trên thế giới sử dụng công nghệ Binaural Recording – một phương pháp ghi âm sử dụng 2 micro để tạo hiệu ứng 3D cho người nghe. Album này, về mặt âm nhạc cũng khá giống album trước đó khi kết hợp Metalcore với Industrial và Melodic Death. Các bài hát trong album đều có chất lượng khá nhưng không thực sự quá khác biệt (nghe từng bài riêng lẻ sẽ thấy không có vấn đề gì nhưng nghe cả album thì các bài cũng không có nhiều sự khác biệt). Với sự trợ giúp của công nghệ ghi âm, album có mặt trên bảng xếp hạng của Đan Mạch ở vị trí 97. Sau album này, giọng ca chính Bai rời khỏi nhóm và được thay thế bằng Tony Jelencovich và sau đó là Guillaume Bideau.
    Phải đến năm 2007, nhóm mới tung ra được album thứ 3 trong sự nghiệp là Passenger với giọng ca chính của Bideau. Âm nhạc trong album này cũng có sự thay đổi khi xuất hiện thêm những ảnh hưởng rõ nét của Thrash Metal và Nu Metal. Giọng ca chính Bideau là sự thay thế xứng đáng cho Bai và album có chất lượng khá tốt. Việc sản xuất và ghi âm album này cũng được thực hiện rất chuyên nghiệp nên chất lượng ghi âm rất tốt.
    Album thứ 4 của nhóm là Sons Of The System được tung ra vào năm 2010. Âm nhạc trong album này nghiêng nhiều hơn về phía giai điệu với rất nhiều lớp nhạc cụ chồng lên nhau (wall of sound). Cũng giống như album trước, album này có chất lượng khá tốt nhưng không thực sự mang tính đột phá. Sau album này, 3 thành viên sáng lập của nhóm bất ngờ rời khỏi nhóm. Sau khi tìm được các thành viên thay thế, nhóm tung ra album thứ 5 là Mnemesis vào năm 2012 nhưng không mấy thành công.
    Mnemic, tuy không phải là band nhạc mang tính đột phá trong âm nhạc, vẫn là một trong những nhóm nhạc rất đáng nghe của Metalcore với những album có chất lượng khá tốt.
    Liquid

    Deathbox

    Meaningless

    Diesel Uterus

    I've Been You
     
  6. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Bullet For My Valentine

    Bullet For My Valentine​


    Bullet For My Valentine (BFMV) có lẽ là band nhạc Metalcore thành công nhất của châu Âu trên phạm vi toàn thế giới. Band nhạc thành lập năm 1998 tại xứ Wales dưới cái tên là Jeff Killed John và khởi đầu là một band cover. Nhóm thường cover các bài hát của Metallica và Nirvana. Những năm sau đó, band nhạc tung ra một số album dạng EP và demo dưới dạng Nu Metal nhưng không thực sự thành công. Những khó khăn về tài chính sau đó khiến band nhạc buộc phải thay đổi. Năm 2003, nhóm đổi tên thành BFMV và chuyển sang chơi Metalcore với những ảnh hưởng của Heavy Metal cổ. Cuối năm 2003, nhóm tung ra EP cùng tên band nhạc với phong cách mới này và nhận được sự chú ý của các hãng đĩa lớn. Roadrunner định ký hợp đồng với band nhạc nhưng cuối cùng lại rút lui. Ngay sau đó, nhóm quyết định ký hợp đồng với hãng đĩa Sony. Năm 2005, BFMV tung ra album đầu tay The Poison. Album này chủ yếu là tập hợp những bài hát trong những album EPs và demos đã được tung ra trước đó. Mặc dù không được giới chuyên môn đánh giá quá cao, album rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 128 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này giành được danh hiệu đĩa vàng. Album này có rất nhiều bài hát sau này đã trở nên kinh điển của Metalcore như 4 Words, Tears Don’t Fall hay All These Things I Hate.
    Sau album đầu tay bất ngờ thành công lớn, BFMV liên tục đi lưu diễn tại các đại nhạc hội lớn nhất thế giới. Tên tuổi của nhóm cũng nhanh chóng được biết đến rộng rãi. Năm 2007, nhóm tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là Scream Aim Fire. Âm nhạc trong album này khác nhiều so với album trước khi sử dụng nhiều giọng clean vocal. Vì thế, album cũng giảm tính Metalcore mà nghiêng nhiều về Thrash Metal. Tuy nhiên, không vì thế mà các bài hát trong album dễ nghe hơn vì các bài hát có tiết tấu nhanh, mạnh và đầy giận dữ. Album này có chất lượng tốt và cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 4 tại Mỹ và hạng 5 tại Anh. Tính tới thời điểm hiện tại, album này đã bán được hơn 2 triệu bản trên toàn thế giới và cũng giành danh hiệu đĩa vàng tại Mỹ như album đầu tay (bán được trên 500 nghìn bản).
    Năm 2010, nhóm tiếp tục tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Fever. Âm nhạc trong album này chuyển từ Thrash Metal về lại với Metalcore. Điều này cũng có nghĩa rằng album nghe giống The Poison hơn là Scream Aim Fire tuy nhiên, khác với The Poison, album chịu nhiều ảnh hưởng của Heavy Metal cổ hơn. Ngoài ra, những ảnh hưởng của Emo cũng xuất hiện trong một số bài hát của album. Album này có chất lượng khá tốt và được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Album cũng khởi đầu rất ấn tượng tại các bảng xếp hạng khi vươn lên đứng hạng 3 tại Mỹ và hạng 5 tại Anh. Nhưng sau này, tổng số lượng album bán được trên toàn thế giới chỉ đạt khoảng 500 nghìn bản (bằng ¼ lần so với album thứ 2).
    Album thứ 4 trong sự nghiệp của BFMV là Temper Temper được tung ra vào năm 2013. Âm nhạc trong album này không khác nhiều so với album Fever nhưng có phần nhẹ nhàng hơn. Album này không mang nhiều tính sáng tạo và các bài hát cũng không thực sự xuất sắc nên bị giới chuyên môn chỉ trích khá nhiều. Album cũng không thành công về mặt thương mại khi chỉ vươn lên được hạng 13 trên bảng xếp hạng của Mỹ, 11 trên bảng xếp hạng của Anh. Số lượng bán được của album này thậm chí chỉ bằng khoảng 1/3 so với album Fever (chỉ hơn 100 nghìn bản trên toàn thế giới).
    Sau thất bại của Temper Temper, BFMV quyết định trở lại hết sức mạnh mẽ khi quay lại với phong cách Thrash của album Fever trong album thứ 5. Album này có tên là Venom và sẽ được tung ra tháng 8 năm 2015.
    4 Words (To Choke Upon)

    All These Things I Hate (Revolve Around Me)

    Scream Aim Fire

    Bittersweet Memories

    Breaking Point
     
  7. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Bring Me The Horizon

    Bring Me The Horizon​


    Bring Me The Horizon (BMTH) là một trong những tên tuổi mới nổi của Metalcore nước Anh trong những năm gần đây. Nhóm thành lập năm 2003 tại Yorkshire, Anh. Các thành viên của band nhạc chịu rất nhiều ảnh hưởng từ những dòng nhạc khác nhau như Metalcore (Norma Jean), Thrash Metal (Metallica), Death (At The Gates). Sau khi thành lập , nhóm tung ra 1 album EP và nhận được sự chú ý của hãng Thirty Days of Night. Sau khi ký hợp đồng nhóm tung ra lại EP vào năm 2005 và nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Album cũng rất thành công khi vươn lên hạng 41 trên bảng xếp hạng của Anh và giúp cho nhóm giành được danh hiệu band nhạc mới xuất sắc nhất của tạp chi Kerrang! Vào năm 2006. Mặc dù sau đó gây ra khá nhiều scandal như uống rượu say và đập phá nhạc cụ trên sàn diễn, band nhạc vẫn nhanh chóng tung ra album đầu tay Count Your Blessings vào cuối năm 2006. Âm nhạc trong album này mang nhiều phong cách Deathcore và không được giới chuyên môn đánh giá quá cao.
    Những chỉ trích nặng nề và những hành động bên ngoài âm nhạc thực chất lại mang nhiều lợi ích tới BMTH. Album không thực sự hay nhưng nhóm trở nên rất nổi tiếng. Năm 2008, nhóm tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là Suicide Season. Âm nhạc trong album này, khác hẳn với album trước mang tính Deathcore, mang tính Metalcore và nghiêng nhiều về phía mainstream. Sự thay đổi này khiến cho band nhạc nhận được cả những lời chỉ trích, cả khen ngợi. Tuy vậy album khá thành công về mặt thương mại khi xuất hiện trên khoảng 6 bảng xếp hạng trên toàn thế giới trong đó có 2 thị trường lớn nhất là Mỹ (hạng 107) và Anh (hạng 47). Đây cũng là những thành công về thương mại đầu tiên của nhóm.
    Album thứ 3 của BMTH There Is a Hell, Believe Me I've Seen It. There Is a Heaven, Let's Keep It a Secret. Được tung ra vào năm 2010. Âm nhạc trong album này chủ đạo vẫn là Metalcore nhưng band nhạc có tích hợp cả thêm những thành phần của giao hưởng, electronic và dàn hợp xướng và mang nhiều tính thử nghiệm. Album này có chất lượng rất tốt và được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Album cũng hết sức thành công về mặt thương mại khi xuất hiện trên bảng xếp hạng của Anh Quốc ở vị trí thứ 13 và tại Mỹ với vị trí 17. Đây chính là album đột phá trong sự nghiệp của BMTH.
    Sau album rất thành công thứ 3, phải 3 năm sau, tức là năm 2013, BMTH mới tung ra được album thứ 4 trong sự nghiệp là Sempiternal. Album này chơi nhẹ hơn album trước rất nhiều và mang tính thử nghiệm. Cũng giống album trước, album này chịu nhiều ảnh hưởng của electronic, ambient, atmospheric và cả pop. Album này cũng được giới chuyên môn và fan hâm mộ trên toàn thế giới đánh giá rất cao. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi xuất hiện trên hầu hết các bảng xếp hạng trên toàn thế giới. Đứng hạng 3 tại Anh và 11 tại Mỹ, đứng đầu trên bảng xếp hạng của Úc.
    Hiện tại, BMTH đang trong quá trình hoàn tất album thứ 5 trong sự nghiệp là The Spirit, album này sẽ được tung ra cuối năm 2015. Dù là band nhạc có khá nhiều tranh cãi, không thể phủ nhận rằng BMTH là band nhạc đang lên trong những năm gần đây của Metalcore. Những album gần đây của nhóm có chất lượng rất tốt.
    Pray for Plagues

    Chelsea Smile

    It Never Ends

    Go To Hell, For Heaven's Sake

    Drown
     
  8. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    In This Moment

    In This Moment​


    Trong lịch sử Extreme Metal, không có nhiều band nhạc có giọng ca chính là nữ và Metalcore cũng như vậy. In This Moment (ITM)là một trong những band nhạc hiếm hoi với giọng ca nữ chính của dòng nhạc này. ITM thành lập năm 2005 bởi giọng ca chính Maria Brink và tay guitar Chris Howorth. Sau khi kết nạp thêm tay trống, nhóm lấy tên là Dying Star. Tuy nhiên, band nhạc không thực sự thành công nên sau khi kết nạp thêm 2 thành viên nữa, nhóm đổi tên thành ITM và chuyển sang chơi Metalcore với những ảnh hưởng của Hard Rock. Đến cuối năm 2005, nhờ có sự phát triển của mang internet, ITM đã tạo dựng được tên tuổi và có một lượng fan đáng kể. Ngay lập tức, họ nhận được sự chú ý của hãng đĩa Century Media và ký hợp đồng với hãng này. Năm 2007, nhóm tung ra album đầu tay là Beautiful Tragedy. Album có chất lượng khá tốt và khiến cho ITM có được những chuyến lưu diễn tại những đại nhạc hội nổi tiếng và quảng bá tên tuổi của nhóm.
    Năm 2008, nhóm tung ra album thứ hai trong sự nghiệp là The Dream. Âm nhạc trong album này khác rất nhiều so với album trước khi gần như không còn tính Metalcore mà chuyển sang Alternative và Hard Rock với một chút ảnh hưởng của Hardcore. Trong album này, Brink gần như không sử dụng giọng gào thét mà chỉ sử dụng giọng clean. Âm nhạc trong album cũng nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, album có chất lượng rất tốt và được giới chuyên môn đánh giá khá cao. Cùng với đó, band nhạc gặt hái được những thành công đầu tiên về mặt thương mại khi album vươn lên hạng 73 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Năm 2010, nhóm tung ra album thứ 3 là A Star Crossed Wasteland. Âm nhạc trong album này là sự kết hợp của 2 albums trước đó nhưng tối tăm và mạnh hơn rất nhiều. Âm nhạc trong album chủ yếu là Metalcore với những ảnh hưởng của Alternative, Hard Rock. Dù chơi khá mạnh, album vẫn nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn và người hâm mộ. Album cũng thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 40 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Đây cũng là một trong những album rất hay của Metalcore thế giới.
    Tuy nhiên, sau album thứ 3, nhiều khó khăn đến với band nhạc khi 2 thành viên chủ chốt rời nhóm. Tuy nhiên, sau khi tìm được thành viên thay thế, nhóm bắt đầu tiến hành ghi âm album thứ 4. Năm 2012, nhóm tung ra album Blood. Do thành viên thay đổi khá nhiều nên âm nhạc của nhóm cũng thay đổi gần như hoàn toàn khi chuyển sang phong cách Industrial Metal. Đây là album có chất lượng khá cao nên nhận được khá nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 15 trên bảng xếp hạng của Mỹ và sau này bán được trên 200 nghìn bản. Đây cũng là album thành công nhất của band nhạc tính tới thời điểm hiện tại.
    Sau những album tốt, thời cơ lại đến với ITM khi nhóm chuyển sang một hãng đĩa lớn hơn là Atlantic. Năm 2014, nhóm tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp là Black Widow. Âm nhạc trong album này là sự phát triển kế tiếp của album Blood trước đó khi kết hợp Industrial với Gothic và Metalcore. Album này có chất lượng khá tốt và cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 8 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    ITM là một band nhạc khá kỳ lạ với những album khác biệt. Tuy nhiên, đây là một band nhạc hay và đang lên của Metal thế giới mà các fan của Metal không nên bỏ qua.
    Beautiful Tragedy

    Forever

    The Gun Show

    Blood

    Sick Like Me
     
  9. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    The Agonist

    The Agonist​


    Cùng với In This Moment, The Agonist là một trong những band nhạc Extreme Metal có giọng ca chính là nữ. Nhóm thành lập năm 2004 tại Quebec, Canada bởi giọng ca chính Alissa White Gluz, guitar Danny Marino và tay bass Chris Kells. Năm 2007, nhóm mới tung ra được album đầu tay là Once Only Imagined. Lúc đầu, nhóm dự kiến đây là một album demo không chính thức. Tuy nhiên, sau khi video clip của bài hát Business Suits And Combat Boots nhận được rất nhiều lời khen ngợi, nhóm quyết định biến đây thành album đầu tay của mình. Về mặt âm nhạc, album này mang chủ yếu tính Metalcore có kết hợp những ảnh hưởng của Death Metal (Deathcore).
    Sau album đầu tay khá thành công, Agonist có dịp đi lưu diễn với một loạt những band nhạc nổi tiếng như God Forbid, Overkill hay Enslaved và tên tuổi của nhóm bắt đầu trở nên phổ biến. Năm 2009, nhóm tung ra album thứ 2 là Lullabies For The Dormant Mind. Âm nhạc trong album này rất phức tạp vì chịu nhiều ảnh hưởng từ classical, Jazz, Grindcore, Thrash, Black Metal trên nền Melodic Death Metal. Điều này có nghĩa là album mạnh hơn khá nhiều so với album trước và sử dụng chủ yếu là giọng gầm gừ. Mặc dù mạnh mẽ và mang nhiều tính Extreme, album khá thành công khi có mặt trên bảng xếp hạng Heatseekers ở vị trí 105 (bảng xếp hạng này dành cho những band nhạc chưa từng có album xuất hiện trong top 100 của Mỹ). Album này cũng khá thành công ở Nhật và Châu Á, châu Mỹ Latin.
    Sau album thứ 2, nhóm có dịp đi lưu diễn vòng quanh thế giới từ Mexico tới Venezuela, Nhật, Trung Quốc, Châu Âu. Ngay trong khi đang đi lưu diễn, nhóm đã kịp tung ra một album EP. Năm 2012, nhóm tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Prisoners. Âm nhạc trong album này lại nghiêng về phía Metalcore với một lối chơi khá kỹ thuật. Những ảnh hưởng của Melodic Death vẫn còn khá rõ nét. Album này khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 19 trên bảng xếp hạng Heatseekers và 89 tại Nhật Bản.
    Năm 2014, giọng ca chính White gia nhập nhóm Arch Enemy và rất thành công với album War Eternal sau đó. Tuy mất đi White, nhóm tìm được một giọng ca mới để thay thế , đó là Vicky Psarakis. Đầu năm 2015, nhóm tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là Eye Of Providence. Đây là một album có chất lượng rất cao theo phong cách Metalcore, Melodic Death. Giọng ca của Psarakis rất mạnh mẽ và khác biệt so với giọng ca của White và là điểm sáng nhất trong album này.
    Tuy mất đi giọng ca chính, The Agonist vẫn tiếp tục phát triển và trở thành một trong những band nhạc đang lên của Metalcore thế giới. Một band nhạc rất đáng nghe với những fan yêu Metalcore hoặc Arch Enemy.

    Business Suits and Combat Boots

    Thank You Pain

    Panophobia

    Gates Of Horn And Ivory
     
  10. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    The Dillinger Escape Plan

    Mathcore​


    Mathcore hay còn gọi là Math Metal là một dòng nhạc kết hợp của Math Rock và Metalcore. Chúng ta đều đã hiểu khá rõ Metalcore là gì ở đây sẽ tập trung phân tích một chút về Math Rock. Math Rock là dòng nhạc phát triển từ những năm đầu của thập niên 90s bởi những band như Don Caballero. Dòng nhạc này phát triển cùng lúc với Post Rock và có khá nhiều điểm tương đồng với Post Rock. Trước đây, Post Rock và Math Rock thường được xếp chung với nhau. Tuy nhiên, khác với Post Rock nghiêng nhiều về phần giai điệu và phát triển bài hát, Math Rock nghiêng nhiều về thử nghiệm với những bài hát đơn giản hơn (bài hát ngắn hơn) và cũng đòi hỏi khá nhiều kỹ năng chơi nhạc. Vì mang tính thử nghiệm, cấu trúc bài hát của Math Rock khá phức tạp, giai điệu bất thường (thường bắt đầu rồi dừng lại rất bất ngờ) và khá ầm ỹ. Âm nhạc của Math Rock dựa chủ yếu trên 2 nhạc cụ là guitar và trống. Diễn tả thì phức tạp nhưng Math Rock khá gần với Avant Garde Rock.
    Trong thập kỷ 90s, khi Metalcore bắt đầu phát triển, một số nhóm nhạc tiên phong của dòng nhạc này bắt đầu kết hợp Metalcore với Math Rock để tạo ra nhánh nhạc Mathcore. Một trong những band nhạc tiên phong của Mathcore có thể kể đến nhóm Converge mà chúng ta đã gặp gỡ trong phần viết về Metalcore. Bên cạnh Converge, band nhạc có vai trò rất quan trọng của Mathcore là The Dillinger Escape Plan.
    Nhánh nhạc nhỏ này sau đó tiếp tục phát triển hết sức mạnh mẽ và khá được yêu mến trong những năm gần đây. Ta sẽ đến lần lượt với những đại diện tiêu biểu của Mathcore trong những phần viết tiếp theo.

    The Dillinger Escape Plan​


    The Dillinger Escape Plan (TDEP) thành lập từ năm 1997 dưới cái tên là Arcane và chủ yếu chơi nhạc theo phong cách Hardcore Punk. Sau khi tung ra một album EP là The Dillinger Escape Plan. EP này có chất lượng khá tốt và giúp cho nhóm có một lượng khán giả khá đông đảo. Nhận thấy sự thành công từ cái tên TDEP, nhóm quyết định đổi theo tên này. Trong thời kỳ đầu tiên, TDEP đã dần tạo dựng tên tuổi trong cộng đồng nghe nhạc Hardcore bằng những màn trình diễn sôi động, nhưng cũng đầy bạo lực. Phong cách chơi nhạc đầy kỹ thuật của nhóm cũng khiến cho hãng đĩa chuyên về Metal Relapse chú ý và ký hợp đồng. Năm 1999, nhóm tung ra album đầu tay Calculating Infinity. Âm nhạc trong album này rất mạnh và dựa nhiều trên kỹ năng chơi nhạc. Mặc dù trước album này không lâu, tay guitar bass Adam Doll bị tai nạn nằm liệt giường nhưng vẫn hướng dẫn cho tay guitar Weinman chơi bass và có những đóng góp nhất định cho album. Album có chất lượng rất tốt và nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ cả giới chuyên môn , underground cũng như mainstream khiến nhóm thậm chí còn được vocalist Mike Patton mời tham gia biểu diễn cùng band nhạc huyền thoại Mr Bungle.

    Sugar Coated Sour


    Sau những chuyến lưu diễn dài ngày, với những chiêu trò quái lạ như pháo hoa, thổi lửa, trình diễn ánh sáng tên tuổi của TDEP càng trở nên nổi tiếng (theo nghĩa tiêu cực). Đến năm 2000, nhóm mất đi giọng ca chính Minakakis. Ngay lập tức, nhóm bắt tay tìm kiếm một giọng ca chính mới. Trong thời điểm chưa có giọng ca chính, nhóm mời Mike Patton tham gia và ghi âm một album EP có tên là Irony Is A Dead Scene. Dù là một album mini, album được đánh giá rất cao và góp phần quan trọng trong việc quảng bá cho tên tuổi của TDEP sau này.

    The Mullet Burden

    Cuối năm 2001, nhóm kết nạp giọng ca chính Puciato vào band nhạc. Năm 2004, nhóm tung ra album thứ 2 là Miss Machine. Âm nhạc trong album này có nhiều sự khác biệt so với album trước đó khi chuyển hẳn sang phong cách Mathcore kết hợp với Experimental. Các bài hát trong album dễ nghe, chậm và cũng đơn giản hơn so với những album trước đó. Do chịu ảnh hưởng của Mike Patton và band nhạc Nine Inch Nails, album còn chịu rất nhiều ảnh hưởng của Avant Garde, Industrial và Jazz fusion. Sự thay đổi này nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ cả giới chuyên môn. Album cũng đánh dấu những thành công đầu tiên của nhóm về mặt thương mại khi vươn lên hạng 106 trên bảng xếp hạng của Mỹ, ngoài ra nhóm còn xuất hiện trên các bảng xếp hạng của Nhật, Pháp và Anh Quốc.

    Setting Fire To Sleeping Giants

    Unretrofied


    (còn tiếp)
     
  11. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    The Dillinger Escape Plan

    The Dillinger Escape Plan​

    (tiếp theo)

    Sau album thứ 2, mâu thuẫn lại phát sinh giữa tay guitar Weinman và tay trống Pennie. Mâu thuẫn này khiến Pennie chuyển sang band nhạc Coheed And Cambria trước khi nhóm bắt tay vào ghi âm album thứ 3. Band nhạc kết nạp tay trống mới Gil Sharone nhưng lại mất đi tay guitar Brian Benoit (do bị bệnh). Thay vì tìm một tay guitar mới, Weinman quyết định tự mình chơi guitar trong album thứ 3. Năm 2007, nhóm tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Ire Works. Âm nhạc trong album này, tích hợp thêm rất nhiều phong cách thử nghiệm của album trước đó, nhưng lần này, nhóm thử nghiệm với những âm thanh điện tử. Cũng như album trước, album này được giới chuyên môn đánh giá rất cao và cũng khá thành công về mặt nghệ thuật khi bán được khoảng 11 nghìn bản trong tuần đầu tiên phát hành.

    Milk Lizard

    Black Bubblegum


    Sau album thứ 3, TDEP rời khỏi hãng Relapse và thành lập một hãng ghi âm riêng là Party Smasher. Lúc này, nhóm cũng đã được ghi nhận trên toàn thế giới như một band nhạc tài năng khởi đầu cho một trào lưu mới là Mathcore. Năm 2010, nhóm tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là Option Paralysis. Cũng như album trước, album này mang nhiều tính thử nghiệm và có phần hỗn loạn trên một nền kỹ thuật chơi nhạc rất cao. Album này có chất lượng rất tốt và thậm chí còn được nhiều phiếu nhất trong cuộc bầu chọn album của năm của tạp chí Pitchfork do độc giả của tạp chí này bình chọn. Dù phát hành dưới dạng một hãng đĩa nhỏ, độc lập, album vẫn vươn lên được hạng 78 trên bảng xếp hạng của Mỹ và trở thành album có thứ hạng cao nhất của nhóm nhạc tính tới năm 2010.

    Farewell, Mona Lisa


    Năm 2013, sau rất nhiều chuyến lưu diễn dài ngày, TDEP tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp là One Of Us Is The Killer. Âm nhạc trong album này có sự khác biệt so với album trước khi chuyển nhiều sang phong cách giai điệu. Chính vì lý do này, album dễ nghe hơn và cũng chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc của band nhạc trong kỹ năng sáng tác các bài hát. Album cũng vì thế được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Về mặt thương mại, album cũng rất thành công khi vươn lên hạng 25 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Đây cũng là album có thứ hạng cao nhất trên bảng xếp hạng của nhóm.
    Hiện tại, TDEP đang thực hiện những chuyến lưu diễn dài ngày với những band nhạc khổng lồ như Soundgarden hay Nine Inch Nails. Nhóm dự kiến sẽ trở lại studio để ghi âm album thứ 6 trong sự nghiệp vào cuối năm 2015.

    One Of Us Is The Killer

    When I Lost My Bet

    TDEP là một trong những band nhạc tiên phong và có lẽ cũng là band nhạc nổi tiếng nhất của nhánh nhạc Mathcore. Âm nhạc của nhóm phức tạp, ồn và không dễ nghe, dù dựa trên một nền tảng kỹ năng chơi nhạc rất tốt. Đây cũng chính là biểu tượng của dòng nhạc Mathcore. Những album của nhóm đều có chất lượng khá tốt và mang nhiều tính đột phá. TDEP cũng là một trong những band nhạc rất đáng được chú ý trong những năm gần đây của Metal thế giới.
     
  12. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Ion Dissonance

    Ion Dissonance​

    Ion Dissonance (ID) là một band nhạc Mathcore đầu tiên. Nhóm thành lập năm 2001 tại Quebec, Canada khi cặp đôi guitar Antoine Lussier và Sebastien Chaput mong muốn chơi một thứ Metal kỹ thuật và phức tạp hơn so với những nhóm mà họ tham gia trước đó. Lúc này, Mathcore đã trở nên khá nổi tiếng nên cũng dễ hiểu là ID tham gia dòng nhạc này. Sau khi ổn định đội hình, nhóm tìm kiếm cơ hội bằng cách xin biểu diễn mở màn cho các band như The Dillinger Escape Plan, Every Time I Die, The Black Dahlia Murder. Năm 2003, nhóm tập trung ghi âm và tung ra album đầu tay là Breathing Is Irrelevant. Đây là một album Mathcore lai với Grindcore với những bài hát khá ngắn nhưng đầy bạo lực, giận dữ và kỹ thuật. Những ảnh hưởng của The Dillinger Escape Plan là không thể phủ nhận nhưng vẫn có chất lượng rất tốt. Album này được những tạp chí Metal hàng dầu thế giới như Metal Maniacs, Terrorizer đánh giá rất cao và là tiền đề quan trọng để nhóm tiếp tục theo đuổi dòng nhạc này.
    Năm 2005, nhóm tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là Solace. Âm nhạc trong album này chuyển từ Mathcore với những ảnh hưởng từ Grindcore trong album trước đó thành Mathcore với những ảnh hưởng của Deathcore. Cùng với những ảnh hưởng của Deathcore, âm ưởng của Grindcore giảm đáng kể. Album này, vì thế, cũng rất nhanh, mạnh và đầy giận dữ. Album cũng được giới chuyên môn đánh giá khá cao.
    Âm nhạc của ID bắt đầu chuyển hướng trong album thứ 3 là Minus The Herd vào năm 2007. Lúc này, những ảnh hưởng của Grindcore gần như không còn. Thay vào vị trí của Grindcore, nhóm tích hợp thêm một chút âm hưởng của Groove Metal trên nền Deathcore và Mathcore. Việc nhóm thay đổi giọng ca chính khiến âm nhạc nghiêng nhiều hơn về Deathcore hơn là Mathcore. Điều này cũng có nghĩa rằng cấu trúc phức tạp và có phần ồn ào, hỗn loạn của Mathcore không còn nhiều. Tuy vậy, album vẫn khá mạnh. Về mặt thương mại, album khá thành công khi vươn lên được hạng 22 trên bảng xếp hạng Heatseekers.
    Album cuối cùng tính tới thời điểm hiện tại của ID là Cursed được tung ra vào năm 2010. Đây cũng là album đầu tiên mà ID sử dụng guitar 8 dây và clean vocal. Âm nhạc trong album này khá giống với album Solace, tức là phong cách Mathcore kết hợp với Deathcore tuy nhiên không còn những ảnh hưởng của Grindcore. Album này, tuy chưa phải là đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm, vẫn là một album khá tốt.
    ID là một nhóm nhạc không quá nổi tiếng và được biết đến nhiều trong làng nhạc Metal thế giới. Tuy nhiên, đây vẫn là một nhóm nhạc có chất lượng khá cao và rất đáng nghe của Mathcore thế giới.
    The Bud Dwyer Effect

    She's Strychnine

    Kneel

    This is The Last Time I Repeat Myself
     
  13. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Protest The Hero

    Protest The Hero​


    Protest The Hero (PTH) được thành lập từ năm 1999 tại Ontaria khi các thành viên của nhóm còn rất trẻ (khoảng 14 tuổi) dưới cái tên là Happy Go Lucky. Khi mới thành lập, nhóm chủ yếu chơi theo phong cách Hardcore Punk. Sau khi tung ra 2 albums EP lần lượt vào các năm 2002, 2003 nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa Vagrant. Năm 2005, nhóm tung ra album đầu tay là Kezia. Album chứng kiến sự thay đổi rất lớn trong phong cách chơi nhạc của PTH khi chuyển sang Metalcore kết hợp với một lối chơi rất kỹ thuật với những âm hưởng của Progressive và Punk. Đây là một album dạng concept – có nội dung. Nội dung chính của album nói về nhân sinh quan của 3 người: một cô gái bị kết án tử hình, đao phủ thực hiện việc tử hình và một thầy tu làm nhiệm vụ rửa tội cho cô gái; về cái chết của chính cô này. Nên nhớ rằng lúc này các chàng trai của nhóm vẫn còn rất trẻ (chỉ tầm đôi mươi). Dù còn khá trẻ, album vẫn được giới chuyên môn đánh giá khá cao vì phong cách chơi nhạc hết sức kỹ thuật và giọng hát khá tốt.
    Sau khi tung ra album đầu tay, nhóm liên tục đi lưu diễn và phải tới năm 2008, nhóm mới tung ra được album thứ 2 trong sự nghiệp là Fortress. Đây là album đột phá trong sự nghiệp của PTH. Trong album này, âm nhạc của nhóm thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn khi nghiêng rất nhiều về kỹ thuật chơi nhạc. Âm nhạc trong album này chủ yếu là phong cách Progressive Metal kết hợp với Mathcore. Album có chất lượng rất tốt và được giới chuyên môn trên toàn thế giới khen ngợi. Thậm chí, tay trống Mike Portnoy của band nhạc Progressive Metal huyền thoại Dream Theater còn bầu album này vào Top 10 album xuất sắc nhất của năm. Về mặt thương mại, album cũng rất thành công khi vươn lên hạng nhất trên bảng xếp hạng của Canada (album trước của nhóm thậm chí còn không có mặt trên top 200) và 95 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Sau thành công vang dội của Fortress, PTH thậm chí còn có thể tự tổ chức tour lưu diễn quảng bá thêm cho album. Sau chuyến lưu diễn, nhóm tung ra một album live là Gallop Meets The Earth – đây là một thành tích rất lớn với một band nhạc mới chỉ có 2 albums studio. Trên đà thành công, nhóm tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Scurrilous vào năm 2011. Âm nhạc trong album này dường như là sự kết hợp của cả 2 albums trước đó. Tức là sự kết hợp của phong cách có phần lai giữa Mathcore, Progressive và cả Pop Punk trong những đoạn chorus. Album có chất lượng khá tốt nhưng không thực sự mang nhiều tính đột phá như 2 albums trước. Về mặt thương mại, album này cũng không thành công bằng album thứ 2 khi chỉ xếp được hạng 8 tại Canada và hạng 81 tại Mỹ.
    Sau album thứ 3 không thật sự thành công, PTH rơi vào khủng hoảng khi 2 thành viên trụ cột rời khỏi nhóm. Sau khi nhờ sự trợ giúp của tay trống Chris Adler của nhóm Lamb Of God trợ giúp, PTH bắt tay vào ghi âm và tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là Volition vào năm 2013. Âm nhạc trong album này dễ nghe hơn những album trước khá nhiều. Album mang nhiều tính Progressive hơn là Metalcore và có lẽ vì những lý do này, album đạt được những thành tích rất lớn về mặt thương mại khi vươn lên được hạng 20 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Album này cũng có chất lượng rất tốt.
    PTH là một band nhạc đang trên đà thăng tiến của Metal thế giới. Âm nhạc của nhóm dựa trên 3 điểm chính là kỹ năng chơi nhạc rất tốt, cách viết lời thông minh và một giọng hát pha trộn nhiều phong cách. Âm nhạc của nhóm khá tốt và hy vọng nhóm sẽ còn tiếp tục tung ra những album chất lượng trong những năm sắp tới.
    Blindfolds Aside

    Bloodmeat

    C'est La Vie

    Mist
     
  14. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    All Shall Perish

    Deathcore​


    Deathcore, đúng như tên gọi của nó là sự kết hợp những đặc tính của Death Metal vào Metalcore. Những đặc tính chính của Death Metal thường xuất hiện trong Deathcore là những cú riff rất nặng tremolo picking, phong cách chơi trống blast beats. Metalcore – hẳn chúng ta còn nhớ, đặc trưng bởi giọng hát khàn, gào thét và những đoạn dừng đột ngột – breakdowns. Phong cách Deathcore bắt nguồn từ khá sớm – đầu thập kỷ 2000s nhưng không nhận được nhiều sự chú ý. Hiện tại thì vẫn còn khá nhiều tranh cãi về thời điểm xuất hiện của nhánh nhạc này. Nhưng phải đến những năm 2006-2007 thì dòng nhạc này mới trở nên phổ biến với sự xuất hiện của những tên tuổi lớn như Suicide Silent, Job For A Cowboy và Bullet For My Valentine. (Trước đó thì một số band như All Shall Perish cũng đã chơi Deathcore). Sau này, Deathcore vẫn tiếp tục phát triển với một số tên tuổi khá nổi tiếng khác.

    All Shall Perish

    Thành lập năm 2002 tại California, Mỹ, All Shall Perish là một trong những nhóm tiên phong của nhánh nhạc Deathcore. Tuy không thực sự gặt hái được nhiều thành công và được biết đến rộng rãi, nhóm vẫn được coi là một trong những band nhạc xuất sắc nhất của dòng nhạc này. Sau khi thành lập, All Shall Perish (ASP) tung ra một album demo và nhận được sự chú ý của hãng đĩa từ Nhật, hãng Amputated Vein. Dưới sự trợ giúp của hãng đĩa, ASP tung ra album đầu tay Hate, Malice, Revenge vào năm 2003. Trong album này, nhóm đã kết hợp Death Metal, Grindcore và Metalcore vào với nhau để trở thành một dòng nhạc mới mà ta quen gọi là Deathcore. Album có chất lượng khá tốt và giúp cho nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa Nuclear Blast sau đó. Do hãng đĩa Amputated Vein quá nhỏ, Nuclear Blast quyết định mua lại bản quyền album đầu tay và tung ra sau đó 2 năm (năm 2005), album này vì thế trở nên phổ biến hơn khá nhiều.
    Năm 2006, nhóm tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là The Price Of Existence. Sự thay đổi lớn nhất trong album này có lẽ là sự xuất hiện của giọng ca chính Hernan Hermida và chất lượng ghi âm tốt hơn khá nhiều. Giọng ca mới có phần bạo lực hơn so với giọng ca cũ (nghiêng về gào thét). Kỹ năng chơi nhạc của album này cũng phát triển cao hơn so với album trước đó. Album này được giới chuyên môn đánh giá rất cao và giúp đưa tên tuổi nhóm trở nên khá phổ biến trong thế giới Metal.
    Album thứ 3 của nhóm là Awaken The Dreamers được tung ra vào năm 2008. Đây tiếp tục là một album có chất lượng rất tốt của nhóm với lối chơi ngày càng kỹ thuật hơn. Tuy chơi rất kỹ thuật, album vẫn có phần giai điệu khá hay. Album có chất lượng rất tốt và nhanh chóng chiếm được cảm tình của giới chuyên môn trên toàn thế giới. Tay guitar Kirk Hammett của band nhạc Metallica thậm chí còn chọn album này là một trong 25 albums hay nhất thập kỷ 2000s. Album này cũng vì thế, giúp nhóm có mặt trên top của Mỹ tại vị trí 126.
    Sau album rất hay Awaken The Dreamers, ASP rơi vào bất ổn khi liên tục các thành viên gạo cội rời khỏi nhóm. Sau khi ổn định được đội hình, nhóm tung ra album thứ 4, cũng là album cuối cùng tính tới thời điểm hiện tại là This Is Where It Ends. Đây cũng là một album có chất lượng tốt và khá thành công về mặt thương mại khi vươn được lên hạng 50 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Trong một thời gian dài sau khi tung ra album thứ 4, ASP rơi vào khủng hoảng khi mất đi giọng ca chính và các thành viên gạo cội khác. Đã có những lúc tưởng band nhạc sẽ tan rã nhưng rồi họ lại tiếp tục ổn định được đội ngũ và đang chuẩn bị tung ra album thứ 5 trong sự nghiệp. Dù không quá nổi tiếng và được biết tới rộng rãi, đây vẫn là band nhạc rất được yêu mến của Deathcore.
    Deconstruction

    Eradication

    Never... Again

    There Is Nothing Left
     
  15. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Job For A Cowboy

    Job For A Cowboy​


    Job For A Cowboy (JFAC) chính là một trong 3 band nhạc đưa tên tuổi của Deathcore trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới và cũng đóng góp rất lớn cho sự phát triển của nhánh nhạc này. Nhóm thành lập năm 2003 khi các thành viên của nhóm còn rất trẻ (chỉ trong độ tuổi 15, 16). Cùng với sự phát triển của Internet và mạng xã hội, nhóm tự tạo một trang trên Myspace rồi post những bài hát miễn phí để tạo dựng tên tuổi. Sau đó, nhóm nhận được sự chú ý của một hãng đĩa nhỏ là King of The Monsters và có hợp đồng với hãng này. Năm 2005, nhóm tung ra một album mini là EP Doom - một trong những album kinh điển của Deathcore thế giới dù chỉ là EP. Dù album này được ghi âm khá thô, có phần hơi hỗn loạn, nó vẫn có chất lượng rất tốt và được nhiều người hâm mộ yêu mến.
    Thành công của Doom khiến nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa chuyên về Metal là Metal Blade và ra lại album này. Năm 2007, JFAC tung ra album chính thức đầu tay là Genesis. Âm nhạc trong album này thay đổi khá nhiều so với album trước khi gần như nghiêng hẳn về Death Metal, tính Metalcore vẫn còn nhưng khá ít (với những đoạn breakdowns). Album chơi rất mạnh, đầy kỹ thuật, và chứng tỏ sự trưởng thành nhanh chóng về kỹ năng viết nhạc của nhóm. Album này nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn trên toàn thế giới. Về mặt thương mại, album cũng rất thành công khi vươn lên hạng 54 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Điều này cũng có nghĩa rằng dây là album đầu tay có thứ hạng cao nhất của một band nhạc Metal mới trong vòng 6 năm. (Album đầu tay có thứ hạng cao hơn là Slipknot vào năm 2001).
    Album thứ 2 của nhóm là Ruination được tung ra vào năm 2009. Đây là một cố gắng rất lớn của band nhạc vì trước đó, nhóm đã mất đi một số thành viên chủ chốt. Sau album đầu tay rất thành công, không ngạc nhiên khi âm nhạc trong album này không khác nhiều so với album trước đó. Sự khác biệt cơ bản chỉ là về phong cách viết lời bài hát – lời bài hát trong album này chủ yếu nói về các vấn đề chính trị thế giới. Album này có chất lượng khá tốt nhưng ít mang tính đột phá. Có lẽ vì thế, album chỉ tiến lên được hạng 42 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Album thứ 3 của JFAC là Demonocracy được tung ra vào năm 2012. Lúc này thành viên của nhóm nhạc tiếp tục thay đổi và nhóm chuyển sang chơi một thứ Death Metal rất kỹ thuật. Tuy nhiên, album này cũng không mang nhiều tính đột phá nên chỉ có thể vươn lên hạng 87 trên bảng xếp hạng của Mỹ và là một bước lùi trong sự nghiệp của band nhạc.
    Album thứ 4, cũng là album cuối cùng của JFAC tính tới thời điểm hiện tại là Sun Eater, được tung ra vào năm 2014. Album này chuyển về chơi theo phong cách Death Metal với những bài hát có giai điệu rất tốt. Album có chất lượng rất tốt và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn và người hâm mộ trên toàn thế giới mặc dù không mấy thành công về mặt thương mại khi chỉ tiến lên được hạng 91 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    JFAC là một trong những band nhạc rất quan trọng của Deathcore thế giới dù sau này, nhóm chuyển dần thành một band nhạc Death Metal. Các album của nhóm đều có chất lượng từ khá trở lên và là một trong những điểm sáng của Metal trong những năm gần đây.
    Entombment of a Machine

    Embedded

    Ruination

    Tarnished Gluttony

    Sun of Nihility
     
  16. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Suicide Silence

    Suicide Silence​


    Suicide Silence (SS), cùng với Job For A Cowboy và Bullet For My Valentine chính là những band nhạc có những bước đột phá giúp nhánh nhạc Deathcore được biết đến rộng rãi hơn trên toàn thế giới. Sự khác biệt lớn nhất giữa SS với 2 band nhạc kể trên là sau khi giúp sức cho Deathcore được biết đến rộng rãi hơn, Bullet For My Valentine chuyển sang chơi Metalcore còn Job For A Cowboy thì nghiêng về Death Metal, còn SS thì vẫn kiên trì theo đuổi Deathcore. Có lẽ chính vì lý do này, SS được coi là biểu tượng của Deathcore thế giới. Do Deathcore là một dòng nhạc gây nhiều tranh cãi và thường bị các fan của Death Metal ghét bỏ, SS cũng thường bị chỉ trích nặng nề. Nhưng những chỉ trích này thường là thiếu công bằng mà quên đi những phần đóng góp của họ cho Metal thế giới.
    Trở lại với lịch sử của band nhạc, SS thành lập năm 2002 tại California dưới dạng side project – tức là một band nhạc không chính thức và các thành viên đều có band nhạc chính của riêng mình. Khởi đầu, nhóm còn có 2 vocalists. Sau khi tung ra album demo đầu tay và thứ hai. Tuy không mấy thành công, nhưng thấy band nhạc có nhiều triển vọng, các thành viên quyết định chuyển band nhạc thành band chính thức. Sau khi tung ra album demo thứ 3, nhóm nhận được sự chú ý của hãng đĩa nhỏ Third Degree và tung ra album EP cùng tên. Album có chất lương khá tốt và giúp cho nhóm có hợp đồng với hãng đĩa Century Media. Năm 2007, nhóm tung ra album đầu tay The Cleansing. Âm nhạc trong album này là Deathcore với những ảnh hưởng của Mathcore và Black Metal. Album có chất lượng khá tốt và nhận được nhiều lời khen ngợi. Album cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên được vị trí thứ 94 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Trên đà thành công, SS tung ra album thứ 2 là No Time To Bleed vào năm 2009. Đây là album mang tính đột phá của SS. Với lối chơi guitar đầy tính kỹ thuật với những âm hưởng của Groove Metal, album nhận được sự khen ngợi của rất nhiều nhà chuyên môn trên toàn thế giới. Tới cuối năm, album còn giúp cho SS nhận được giải thưởng band nhạc mới xuất sắc của tạp chí hàng đầu về Rock là Revolver. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 32 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Sau album thứ 2 hết sức thành công, SS trở thành một thế lực của Metal thế giới, năm 2011, nhóm tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là The Black Crown. Album này về mặt âm nhạc khá giống album trước nhưng với nhiều ảnh hưởng hơn từ Groove Metal. Tuy nhiên, chất lượng album này không bằng album trước đó dù nó cũng khá thành công về mặt thương mại khi vươn lên vị trí 28 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Sau album này, tổn thất rất lớn với SS khi giọng ca chính Mitch Lucker gặp tai nạn mô tô và qua đời vào năm 2012.
    Cái chết của Lucker là một đòn giáng rất mạnh vào SS, trong cả năm sau đó, band nhạc ngừng hoạt động. Phải mãi đến cuối năm 2013, các thành viên của SS mới quyết định tiếp tục sự nghiệp và mời giọng ca chính Hermida của nhóm All Shall Perish về làm ca sỹ chính. Năm 2014, nhóm tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là You Can’t Stop Me. You Can’t Stop Me chính là đoạn lyric cuối cùng mà Lucker viết trước khi qua đời. Âm nhạc trong album này trở về với phong cách Deathcore khá quen thuộc trước đây. Album có chất lượng khá tốt và cũng rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên hạng 15 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Dù đã mất đi giọng ca chính, SS vẫn là một trong những band nhạc đang lên của Metal thế giới với album sau có phần thành công hơn album trước. Đây cũng chính là band nhạc biểu tượng của Deathcore và cũng là một trong những band nhạc xuất sắc nhất của dòng nhạc này.

    The Price Of Beauty

    Wake Up

    You Only Live Once

    You Can't Stop Me
     
  17. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Whitechapel

    Whitechapel​


    Whitechapel là một trong những band nhạc Brutal Metalcore đang lên trong những năm trở lại đây. Nhóm thành lập năm 2006 tại Tennesse, Mỹ vào năm 2006. Nhóm nhanh chóng ghi âm album demo đầu tay và có hợp đồng với hãng đĩa Candlelight tại Mỹ và Siege Of Amida tại Anh Quốc. Cùng với sự trợ giúp của 2 hãng đĩa này, nhóm tung ra album đầu tay The Somatic Defilement vào năm 2007. Dù là một nhóm dạng Deathcore, Whitechapel lại lựa chọn tung ra một album dạng concept với nội dung chính về Jack The Ripper – một kẻ giết người hàng loạt cuối thế kỷ 19 - mà nạn nhân thường là phụ nữ. Đến nay thì vụ án này vẫn là một bí mật và không ai biết Jack The Ripper thực sự là ai. Album này không thực sự nổi bật và chất lượng chỉ ở mức khá.
    Nhận thấy tiềm năng khá lớn của Whitechapel, hãng đĩa chuyên về Metal của Mỹ là Metal Blade nhanh chóng tìm cách ký hợp đồng với band. Năm 2008, Whitechapel tung ra album thứ 2 trong sự nghiệp là This Is Exile. Âm nhạc trong album này vẫn theo phong cách Brutal Deathcore nhưng chất lượng có phần cao hơn so với album trước. Album cũng thành công hơn về mặt thương mại khi xuất hiện ở vị trí 118 trên bảng xếp hạng của Mỹ. Nhóm thậm chí còn quay video clips cho 3 bài hát trong album.
    Trên đà thành công, nhóm tiếp tục tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là A New Era Of Corruption vào năm 2010. Trong album này, nhóm thể hiện một lối chơi hết sức kỹ thuật và các bài hát cũng đa dạng hơn. So với các band nhạc Deathcore cùng thời, lối chơi của Whitechapel dường như nghiêng nhiều về phía Brutal Death Metal. Album có chất lượng tốt và cũng rất thành công trên phương diện thương mại khi vươn lên được hạng 43 trên bảng xếp hạng của Mỹ.
    Sự nghiệp của Whitechapel tiếp tục thăng tiến với album cùng tên vào năm 2012. Âm nhạc trong album này khá giống với album trước và cũng khá thành công khi vươn lên được vị trí 47 trên bảng xếp hạng của Mỹ và biến Whitechapel dần trở thành một thế lực mới trên bầu trời Metal thế giới.
    Album cuối cùng tính tới thời điểm hiện tại của Whitechapel là Our Endless War được tung ra vào năm 2014. Âm nhạc trong album này vẫn tiếp phong cách Deathcore nghiêng về phía Death Metal. Dù album không thực sự mang quá nhiều tính đột phá về mặt âm nhạc, nó lại là bước đột phá của Whitechapel về mặt thương mại. Album này vươn lên đứng vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng của Mỹ và có lẽ là album Deathcore có thứ hạng cao nhất tính tới thời điểm hiện tại.
    Whitechapel là một band nhạc đang lên của không chỉ Deathcore mà còn của Metal thế giới. Số lượng fan hâm mộ của band nhạc này đang tăng lên một cách nhanh chóng và khiến cho nhóm có thể lọt vào top những band nhạc Metal hàng đầu thế giới.

    The Somatic Defilement

    Possession

    The Darkest Day Of Man

    Possibilities of an Impossible Existence

    Our Endless War
     
  18. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Born Of Osiris

    Born Of Osiris​


    Born Of Osiris sẽ là cái tên cuối cùng của dòng nhạc Metalcore được giới thiệu trong phần viết về dòng nhạc này. Đây là một band nhạc mới nhưng đem lại nhiều hy vọng cho thế giới Metal trong những năm gần đây. Âm nhạc của Born Of Osiris khá phức tạp và là sự kết hợp của Progressive Metal với Metalcore. Nhóm chơi nhạc rất kỹ thuật nên còn được liệt vào hàng ngũ Technical Metal.
    Trở lại với lịch sử của band nhạc, Born Of Osiris (BOO) thành lập năm 2003 tại vùng Northland Chicago thuộc bang Illinois, Hoa Kỳ. Vùng này khá nổi tiếng trong thế giới của Metalcore với những tên tuổi như Veil Of Maya, Oceano… BOO nhanh chóng khẳng định được tên tuổi và có hợp đồng với hãng đĩa Sumerian. Năm 2009, nhóm tung ra album đầu tay là A Higher Place. Với một phong cách chơi nhạc rất khác biệt, sử dụng những bài hát có tiết tấu vừa và chậm, mang nhiều tính giai điệu và ít những đoạn breakdowns hơn, album mang lại cho nhóm rất nhiều lời khen ngợi từ những fan yêu thích của Progressive Metal. Album này cũng khá thành công về mặt thương mại khi xuất hiện trên bảng xếp hạng của Mỹ ở vị trí số 73. Một khởi đầu đầy hứa hẹn với một band nhạc trẻ.
    Album thứ 2 của nhóm là Discovery được tung ra vào năm 2011. Phong cách chơi nhạc rất kỹ thuật với những bài hát mang nhiều tính Progressive, sử dụng keyboards để tạo hiệu ứng atmospheric tiếp tục là những điểm sáng trong album này. Đây cũng là album đầu tiên mà các thành viên của BOO sử dụng guitar 7 giây. Dù album không quá thành công về mặt thương mại khi chỉ vươn lên được hạng 87 trên bảng xếp hạng của Mỹ, album vẫn được giới chuyên môn đánh giá rất cao.
    Album thứ 3 của nhóm là Tomorrow We Die Alive được tung ra vào năm 2013. Trong album này một sự thay đổi khá lớn về âm nhạc đã diễn ra khi tay keyboards Buras sử dụng syntherizer và đóng góp phần quan trọng trong âm nhạc của nhóm. Việc sử dụng nhiều syntherizer cũng khiến cho âm nhạc của nhóm nhẹ nhàng và dễ nghe hơn so với 2 albums trước đó. Album cũng nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn trên toàn thế giới, đặc biệt là những fan hâm mộ của Progressive. Có lẽ cũng vì dễ nghe hơn, album rất thành công về mặt thương mại khi vươn lên được hạng thứ 27 trên bảng xếp hạng tại Mỹ. Album này cũng khiến cho BOO vươn mình để trở thành một thế lực mới của Metal thế giới.
    BOO là một band nhạc Deathcore nhưng âm nhạc của họ rất phức tạp vì nó còn chịu ảnh hưởng nhiều từ Progressive, Avant Garde, Mathcore, Thrash và cả Alternative Metal nữa. Đây cũng là một band nhạc rất đáng chú ý trong những năm sắp tới.
    Phần viết về Born Of Osiris cũng đóng lại một trong những chương quan trọng nhất của Metal thập kỷ 2000s – Metalcore.

    Open Arms to Damnation

    Now Arise

    Recreate

    M∆CHINE
     
  19. tubatubi

    tubatubi Advanced Member

    Joined:
    3/12/08
    Messages:
    51
    Likes Received:
    0
    Đọc các bài của bạn no1knows thấy phong phú thêm về dòng nhạc này, cám ơn bạn...
     
  20. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Symphonic Metal

    Symphonic Metal​


    Symphonic Metal là dòng nhạc lớn cuối cùng của Metal thế giới tính tới thời điểm hiện tại. Do là dòng nhạc mới, vẫn chưa có những định nghĩa cuối cùng về dòng nhạc này. Nhưng có một số điểm mà các nhà chuyên môn đều thống nhất đó là Symphonic Metal chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nhạc cổ điển, đặc biệt là giao hưởng. Để có âm hưởng của giao hưởng, phần đông các band nhạc Symphonic Metal sử dụng keyboards hoặc syntherizer (do việc sử dụng một dàn giao hưởng thực sự rất đắt đỏ - chỉ có một số band đã nổi tiếng mới chịu được chi phí này). Do đó, vai trò của tay keyboardist trở nên cực kỳ quan trọng với dòng nhạc này. Đây cũng là dòng nhạc hiếm hoi của Metal mà vai trò của keyboards trở nên quan trọng hơn so với cây guitar điện.
    Cũng như nhiều dòng nhạc khác, thời điểm xuất hiện của Symphonic Metal vẫn còn là điều đang tranh cãi. Đến thời điểm hiện tại, đa phần đều chấp nhận rằng Therion và Trans-Siberian Orchestra là những band nhạc đầu tiên của trào lưu này. Mặc dù âm nhạc rất khác biệt (Therion khởi đầu là một band theo phong cách Death Metal sau đó tiến lên Symphonic) còn Trans – Siberian Orchestra thì theo đuổi phong cách Symphonic Power. Cả 2 đại diện kể trên đều có những album tung ra vào năm 1996. Trong những năm sau đó, một loạt những tên tuổi nổi tiếng của Symphonic dần xuất hiện như Nightwish (Folk & Power) hay Within Temptation (Gothic). Các band nhạc kể trên rất thành công và góp phần đưa dòng nhạc này trở nên phổ biến tại Châu Âu sau đó lan ra toàn bộ thế giới. Hầu hết các band Symphonic sau này ít nhiều đều chịu ảnh hưởng từ Nightwish với giọng ca nữ chính kiểu Opera. Một số band nhạc sử dụng phong cách hát kiểu Beauty And The Beast – nữ giọng cao kiểu Opera, nam sử dụng giọng gầm gừ kiểu Death.
    Về mặt âm nhạc, Symphonic Metal khá dễ nghe, dễ nhớ. Nhưng điểm yếu của dòng nhạc này chính là kỹ năng chơi nhạc và những bài hát mang tính đột phá, khác thường. Một số fan hâm mộ của Metal cho rằng dòng nhạc mang quá nhiều tính giải trí ít tính nghệ thuật. Nhưng những năm gần đây, nhiều band nhạc bắt đầu tích hợp thêm nhiều ảnh hưởng của Extreme Metal vào Symphonic.
    Chúng ta sẽ lần lượt đến với những anh tài của Symphonic Metal trong những bài viết kế tiếp
     
  21. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Therion

    Therion​


    Therion là band nhạc biểu tượng của Symphonic Metal. Mặc dù yếu tố Symphonic đã có trong những band nhạc tiền thân của Metal từ rất sớm (Deep Purple có album chơi cùng dàn nhac giao hưởng từ những năm đầu thập kỷ 70s), nhưng phải đến những năm cuối thập kỷ 90s, nó mới thực sự lớn mạnh để trở thành một dòng nhạc độc lập. Band nhạc có công rất lớn trong việc đưa Symphonic Metal phát triển thành một dòng nhạc riêng biệt chính là Therion. Tuy là một band nhạc, Therion gần như là một dự án solo của Christofer Johnsson khi anh này viết tất cả các bài hát, chơi guitar, keyboards, organ và cả hát. Johnsson thành lập Therion vào năm 1987 dưới cái tên Blitzkrieg tại Upplands Vasby, Thụy Điển. Band nhạc này khởi đầu theo phong cách Extreme Metal cổ với ảnh hưởng rõ nét của Venom và Motorhead. Band nhạc này không tồn tại được lâu và tan rã vào năm 1988. Nhưng đến cuối năm này, band nhạc được tái lập dưới cái tên mới là Megatherion (tên album rất nổi tiếng của Celtic Frost), sau đó rút ngắn tên gọi thành Therion.
    Sau khi ổn định đội hình và tung ra 2 albums deno, nhóm nhạc có hợp đồng với hãng đĩa nhỏ là Deaf Records và tung ra album đầu tay Of Darkness vào năm 1991. Tuy tung ra vào năm 1991 nhưng hầu hết các bài hát đều được sáng tác trong giai đoạn 87-89. Album này mang hoàn toàn phong cách Death Metal kiểu cổ với rất nhiều ảnh hưởng của Death, Morbid Angel và Celtic Frost. Âm nhạc không có gì đặc biệt nên album không gây được bất kỳ tiếng vang nào trên thế giới.
    Asphyxiate with Fear


    Không nản chí sau album đầu tiên, Therion tìm kiếm hợp đồng mới với hãng đĩa Active và tung ra album thứ hai trong sự nghiệp là Beyond Sanctorum vào năm 1992. Âm nhạc trong album này vẫn chủ yếu là Death Metal tuy nhiên đã có sự tích hợp của Progressive, cổ điển, nhạc Trung Đông. Đây cũng là album đầu tiên nhóm sử dụng keyboards và phong cách hát kết hợp cả nam và nữ (đã được Paradise Lost thực hiện trước đó). Album này mang khá nhiều phong cách thử nghiệm và có chất lượng tốt hơn album đầu tay nhưng chưa tới mức đột phá.
    Pandemonic Outbreak


    Năm 1993, Therion tiếp tục tung ra album thứ 3 trong sự nghiệp là Symphony Masses: Ho Drakon Ho Megas. Lúc này âm nhạc của nhóm mới thay đổi rất nhiều: chất Death Metal chỉ còn lại khá ít, thay vào đó là Doom Metal với những ảnh hưởng của Symphonic, Jazz, Progressive, nhạc Trung Đông, Ả Rập và cả những ảnh hưởng của phong cách Melodic Metal cổ. Lúc này, phong cách DoomDeath đang rất phát triển nên Therion ít nhiều chịu ảnh hưởng của dòng nhạc này. Album này có chất lượng khá tốt và khá thành công về mặt thương mại khi bán được khoảng 10 nghìn bản, đánh dấu những thành công bước đầu của Therion trên thị trường âm nhạc Metal thế giới.
    A Black Rose


    Thành công của album thứ 3 khiến Therion có được hợp đồng với hãng đĩa lớn chuyên về Metal là Nuclear Blast vào năm 1994. Một năm sau, nhóm tung ra album thứ 4 trong sự nghiệp là Lepaca Kliffoth. Album tiếp tục chứng kiến sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm khi nghiêng dần về Doom, Symphonic và Death N Roll (chịu ảnh hưởng của band nhạc huyền thoại Entombed). Album này sử dụng rất nhiều keyboards và là một bước chuyển mình rất quan trọng của Therion.
    The Beauty In Black


    (còn tiếp)
     
  22. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Therion

    Therion​


    (tiếp theo)
    Sự nghiệp của Therion chỉ chuyển hoàn toàn sang Symphonic Metal với album thứ 5 trong sự nghiệp là Theli vào năm 1996. Trong album này, gần như không còn những ảnh hưởng của Death Metal. Ngoài âm hưởng rất rõ của giao hưởng, band nhạc còn thuê thêm cả 2 dàn hợp xướng là North German Radio và The Siren để hát bè trong album. Album có chất lượng rất tốt và có thể coi là album đầu tiên trong lịch sử của Symphonic Metal. Do có chất lượng cao, đây cũng chính là album kinh điển đầu tiên trong lịch sử của dòng nhạc này. Album cũng rất thành công về mặt thương mại khi bán được khoảng 75 nghìn bản tại châu Âu trong 1 tháng đầu tiên.
    To Mega Therion


    Sau những thành công của album kinh điển Theli, năm 1997, Therion tung ra một album dạng tuyển chọn những sáng tác cũ của nhóm (nhưng chưa được tung ra) là A’arab Zaraq – Lucid Dreaming. Dù chỉ là một album dạng tuyển chọn những bài hát cũ, album vẫn khá thành công khi có mặt trên bảng xếp hạng của Đức (ở vị trí 98). Đây cũng là lần đầu tiên một album của nhóm xuất hiện trên bảng xếp hạng.
    Fly To The Rainbow


    Năm 1998, Therion tung ra album thứ 6 trong sự nghiệp là Vovin. Tuy là một album dưới cái tên Therion, đây thực chất là một album solo của Johnsson. Anh này thuê toàn bộ các nghệ sỹ chơi nhạc (không phải là thành viên của band) để ghi âm. Ngoài việc mời thêm các nghệ sỹ mới, Johnsson cũng đã có đủ tài chính để thuê thêm 1 dàn hợp xướng và ngũ tấu đàn giây (chỉ gồm 5 nhạc công: 2 violin, 1 viola, 1 cello và 1 contrabass) để chơi trong album này. Album có chất lượng rất tốt và được rất nhiều fan hâm mộ của Symphonic Metal yêu mến. Lúc này, dù là một band nhạc Thụy Điển, Therion trở nên rất nổi tiếng tại Đức và Áo. Album Vovin lần lượt xuất hiện trên bảng xếp hạng của 2 quốc gia kể trên tại vị trí 46 và 48. Đây cũng là album thành công nhất về mặt thương mại của nhóm khi bán được khoảng 150 nghìn bản.
    Eye Of Shiva


    Nắm bắt được tâm lý đang được yêu mến của Therion, hãng đĩa của họ nhanh chóng thúc giục tung ra 1 album mới. Năm 1999, nhóm tung ra album thứ 7 trong sự nghiệp là Crowning Of Atlantis. Đây thực chất là một album dạng EP, một số bài trong album trình diễn live và một số thì là bài hát cover. Vì lý do thương mại, hãng đĩa đã cho nó thành một album chính thức.
    Album tiếp theo của nhóm được tung ra vào năm 2000 là Deggial. Những thành công của các album trước đó khiến Johnsson đã có thể thực hiện những dự án tham vọng hơn. Lần này, anh thuê hẳn một dàn giao hưởng nhỏ (12 người) và một dàn hợp xướng để thực hiện album. Âm nhạc trong album vẫn là sự kết hợp giữa giao hưởng với phong cách Death/Heavy Metal, có kết hợp với Hard Rock. Những ảnh hưởng của những nhà soạn nhạc cổ điển như Carl Orff, Richard Wagner trong album này rất rõ nét. Những ảnh hưởng này khiến âm nhạc trong album mang đậm tính atmospheric. Album này có chất lượng tốt nhưng mang ít tính đột phá và dễ nghe. Album cũng giành được hạng 43 trên bảng xếp hạng của Đức nhưng số lượng đĩa bán được không cao bằng album Vovin.
    Via Nocturna


    Sau khá nhiều album chất lượng tốt, Therion dần trở thành một trong những thế lực của Metal châu Âu. Những thành công về mặt thương mại cũng khiến band nhạc có thể thực hiện những dự án tham vọng hơn. Khi ghi âm album thứ 10 trong sự nghiệp là Secret Of The Runes vào năm 2001, nhóm đã có thể thuê được ¾ dàn nhạc giao hưởng (gồm bộ dây, bộ gỗ và bộ đồng- chỉ thiếu bộ gõ). Âm nhạc trong album này khác so với album trước khi là Symphonic kết hợp với Scandinavian Metal (Viking Metal). Tuy nhiên, điểm yếu trong album này là âm nhạc đơn giản và lặp lại, kỹ năng chơi nhạc không thực sự cao. Dù được giới chuyên môn đánh giá khá tốt. Album lại không thành công về mặt thương mại bằng các album trước.
    Summer Night City


    (còn tiếp)
     
  23. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Therion

    Therion​


    (tiếp theo và hết)

    Trong khoảng thời gian từ năm 1991 tới năm 2001, Therion đã tung ra được 10 album studio theo những cách khác nhau. Đây là một con số rất lớn so với một band nhạc. Sau năm 2001 là khoảng thời gian nghỉ và đi lưu diễn của Therion. Kết thúc chuyến lưu diễn quảng bá cho album Secret Of The Runes tour, band nhạc đã sáng tác tiếp được 55 bài hát. Với số lượng bài hát lớn như trên, lại được chơi bởi một band Symphonic Metal với những bài hát rất dài, nhóm có thể tung ra cỡ 3-4 album liên tục. Lúc này Therion đã có thể thuê một dàn giao hưởng thực sự với cả 4 bộ (Prague Philharmonic Orchestra) và cả dàn hợp xướng và hàng loạt khách mời. Band nhạc chọn ra 21 bài hát và ghi âm trong vòng 9 tháng với khoảng 170 nhạc công tham gia. Cuối năm 2004, nhóm tung ra cặp đôi album kép Lemuria và Sirius B. Khỏi phải diễn tả nhiều ta cũng hiểu là âm nhạc trong cả hai album này tràn ngập không khí Symphonic. Tuy nhiên, khác với những album trước đó, cả 2 albums này sử dụng khá nhiều cú riff guitar và chơi khá nhanh mạnh (nhiều chất Metal hơn). Điểm yếu của cả 2 albums này đều tuân thủ theo một motive Chorus/Verse truyền thống. Trong 2 album thì Sirius B chất lượng có phần cao hơn. Cả 2 albums này đều khá thành công về mặt thương mại khi xuất hiện trên hầu hết các bảng xếp hạng trên toàn châu Âu.
    Abraxas

    Blood of Kingu


    Sau một cặp album là một album kép – Gothic Kabalah vào năm 2007. Album này chứng kiến nhiều sự thay đổi trong âm nhạc của Therion. Lúc này, Johnsson không còn đóng vai trò sáng tác chủ yếu nữa mà công việc sáng tác chia đều cho các thành viên trong band. Band cũng kết nạp thêm một giọng ca nữ chính (trước đây nhóm không có giọng ca chính đúng nghĩa mà do các thành viên band nhạc tự hát kết hợp với dàn hợp xướng). Cùng với giọng ca nữ chính mới, vai trò của dàn hợp xướng trong album còn khá nhỏ và chỉ còn nhiệm vụ hát nền. Lúc này thì cũng không còn dàn giao hưởng nữa mà nhóm chủ yếu sử dụng organ và keyboards, tuy vẫn có sự hiện diện của một số nhạc cụ thuộc dàn giao hưởng cổ điển như sáo, tambourine. Âm nhạc của nhóm, vì thế, khá giống với âm nhạc của Nightwish và cũng nhẹ hơn, dễ nghe hơn so với cặp đôi Lemuria/Sirius B trước đó. Album này cũng khá thành công về mặt thương mại khi xuất hiện ở vị trí cao trên khắp các bảng xếp hạng tại châu Âu.
    Son of The Staves of Time


    Sau album Gothic Kabalah, Therion rơi vào khủng hoảng và gần như tan rã vào năm 2008 khi các thành viên lần lượt rời nhóm. Tuy nhiên, Johnsson vẫn quyết định tiếp tục sự nghiệp bằng các thuê thêm các thành viên mới để tái lập nhóm. Năm 2010, nhóm tung ra album Sitra Ahra. Một album quay trở lại với xu hướng Symphonic và Opera của nhóm . Âm nhạc trong album chủ yếu là sự kết hợp giữa Symphonic Metal với một số ảnh hưởng của Power và Metal cổ. Album này có chất lượng khá tốt và nhận được nhiều lời khen ngợi dù không thực sự thành công về mặt thương mại .
    Sitra Ahra


    Năm 2012, Therion tiếp tục tung ra một album cover các bài hát tiếng Pháp – Les fleurs du mal, album này không thành công. Sau album này, Johnsson liên tiếp tham gia các dự án dạng side project như Luciferian Light Orchestra và Therion tạm ngừng hoạt động.
    J'ai Le Mal De Toi


    Tuy hiện tại, tương lai của Therion chưa rõ ràng nhưng đây là band nhạc có tẩm ảnh hưởng rất rộng lớn tới dòng nhạc Symphonic Metal hiện đại. Họ cũng là band nhạc đầu tiên khởi đầu trào lưu này và là band nhạc mà rất nhiều fan hâm mộ dòng nhạc yêu mến.
     
  24. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Trans-Siberian Orchestra

    Trans-Siberian Orchestra​


    Trans-Siberian Orchestra (TSO) là một trong những band nhạc Metal thành công nhất trong thập kỷ 2000s. Về mặt âm nhạc, nhóm không phải là một band Symphonic như chúng ta quan niệm về dòng nhạc này (âm nhạc của họ hoàn toàn khác biệt với những nhóm khác như Therion, Nightwish, Within Temptation – là những biểu tượng của Symphonic Metal). Nhưng việc họ sử dụng rất nhiều keyboards và âm nhạc chịu rất nhiều ảnh hưởng của giao hưởng, opera khiến trong những năm gần đây, nhóm được xếp vào dòng nhạc này.
    Câu chuyện của TSO khởi đầu từ band nhạc huyền thoại Savatage. Như chúng ta đã biết về band nhạc này, Savatage là một band nhạc rất có tài năng của Power Metal Mỹ nhưng nhóm không bao giờ đạt được những thành tựu to lớn về mặt thương mại như nhiều band nhạc khác cùng thời. Linh hồn của Savatage là anh em nhà Oliva: Criss và Jon và một người giấu mặt khác là Paul O’Neill, nhà sản xuất của band nhạc. O’ Neill tuy không trực tiếp tham gia Savatage nhưng luôn kết hợp với anh em nhà Oliva để sáng tác các bài hát cho Savatage. Ngoài Savatage, O’Neill còn là nhà quản lý của Aerosmith, Humble Pie, Scorpions… và là người yêu thích Progressive Rock và nhạc cổ điển (những ảnh hưởng của 2 dòng nhạc này rất lớn trong âm nhạc của TSO). Tuy là một nhà sản xuất, O’Neill vẫn luôn mong muốn có thể thành lập một band nhạc chơi theo phong cách Progressive với những ảnh hưởng từ cổ điển, opera. Đến đầu những năm 90s, sau khi Jon Oliva rời khỏi Savatage (Oliva luôn nghĩ rằng Savatage không thành công về mặt thương mại là do chọn cái tên không thực sự tốt), cặp bài trùng Jon và O’Neill đã định khởi động dự án TSO nhưng cái chết của tay guitar Criss đã khiến dự án phải tạm dừng. Để Savatage không chết yểu, cặp đôi này quay lại và sáng tác 2 albums cho band nhạc.
    Sau khi Savatage ổn định tình hình, cặp đôi này khởi động dự án và tung ra album đầu tay Christmas Eve And Other Stories vào năm 1996 với các thành viên của Savatage. Đây là album đầu tiên trong chùm 3 albums có cốt truyện viết về Christmas. Nội dung chủ yếu của album viết về một chàng trai, khi đi tới quán bar trong dịp lễ Giáng Sinh, anh gặp một ông già và ông này kể cho anh những truyền thuyết về ngày lễ đặc biệt này. Âm nhạc trong album không quá đặc biệt khi kết hợp sử dụng những đoạn khá nổi tiếng của cổ điển (phong cách neo classical) vào trong những bài hát mới. Những ảnh hưởng của cổ điển và Progressive là rất lớn. Một trong những điểm yếu chính trong album này là giọng hát không được tốt và việc sử dụng dàn hợp xướng không thực sự hợp lý. Mặc dù vậy, album rất thành công về mặt thương mại khi bán được tới hơn 3 triệu bản tại Mỹ (gấp hàng chục lần so với album thành công nhất của Savatage). Đây cũng là một trong những album Christmas thành công nhất trong lịch sử của Mỹ (đứng hàng thứ 9).
    Christmas Eve in Sarajevo

    A Mad Russian's Christmas


    Thành công rất lớn của album đầu tay khiến TSO nhanh chóng tung ra album thứ 2 và cũng là phần tiếp theo của album Christmas là The Christmas Attic vào năm 1998. Tuy là phần tiếp theo của album nhưng nội dung của cốt truyện hoàn toàn khác biệt khi kể về việc một cô bé lên gác xép trong dịp lễ Giáng Sinh và phát hiện ra những điều kỳ diệu và dịp lễ này tại đây. Âm nhạc trong album không khác gì nhiều so với album đầu tay: sử dụng nhiều giọng ca chính . Bản hit Christmas Canon (sử dụng nhiều phần trong bản giao hưởng Canon) giúp cho album bán được gần 2 triệu bản.
    Christmas Canon


    (còn tiếp)
     
  25. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Trans-Siberian Orchestra

    Trans-Siberian Orchestra​


    (tiếp theo)
    Những thành công của 2 albums đầu tay khiến TSO tự tin hơn trong sự nghiệp của mình. Album thứ 3 của nhóm là Beethoven’s Last Night. Đây là một album không có chủ đề về Christmas đầu tiên của nhóm. Chủ đề của album này là câu chuyện diễn ra trong đêm cuối đời của Beethoven vào năm 1827. Lúc này ông đã hoàn thành bản giao hưởng số 10 – siêu phẩm hay hơn tất cả các bản giao hưởng còn lại. Khi đó, nữ thần định mệnh cùng con trai là Twist tới để thông báo với Beethoven rằng đã đến lúc ông phải chấm dứt cuộc sống của mình. Lúc này, quỷ vương Memphisto đến để lấy linh hồn của Beethoven đi. Nhưng, do quá ấn tượng với sự nghiệp khổng lồ của Beethoven, Memphisto đưa ra đề nghị để Beethoven sống, đổi lại toàn bộ sáng tác âm nhạc của ông sẽ thuộc về Memphisto và quỷ vương sẽ xóa bỏ toàn bộ ký ức của loài người về âm nhạc của ông. Đứng trước một lựa chọn rất khó khăn, Beethoven đề nghị cho 1 giờ để suy nghĩ và quỷ vương đồng ý. Sau khi Memphisto ra đi, thì nữ thần định mệnh xuất hiện trở lại. Beethoven, người có một cuộc sống đầy đau khổ, đã oán trách nữ thần vì những bất hạnh trong cuộc đời mình. Nữ thần, rất tôn trọng Beethoven vì tài năng của ông, đã đề nghị cho ông quay trở lại với quá khứ để sửa đổi những điều bất hạnh trong cuộc đời mình. Trước tiên, Beethoven quay trở lại thời niên thiếu, khi mẹ mất sớm, cuộc sống khổ cực và đầy bạo lực (thường xuyên bị đánh mắng). Nhưng khi Beethoven yêu cầu nữ thần sửa lại tuổi thơ cho bớt đau khổ, bà này nói rằng nếu sửa lại, ông sẽ không thể viết được bản giao hưởng số 6 (bản giao hưởng đồng quê – 1 trong 4 bản giao hưởng nổi tiếng nhất của ông này) vì bản giao hưởng này lấy cảm hứng từ tuổi thơ cơ cực khổ sở. Sau khi cân nhắc, Beethoven thay đổi ý định sửa lại tuổi thơ của mình. Beethoven lần lượt trải qua những giây phút khó quên như gặp gỡ với Mozart – người thầy mà ông hết sức tôn trọng, gặp gỡ với người yêu cũ là Theresa, người mà sau đó, do ông bị điếc, ông đã buộc phải từ bỏ bà. Lúc này, Beethoven yêu cầu nữ thần chữa khỏi bệnh điếc cho mình để ông không phải rời xa Theresa. Nữ thần đồng ý nhưng nói với ông rằng nếu ông khỏi bệnh, tất cả các tác phẩm của ông viết sau khi bị điếc sẽ không thể thực hiện. Nữ thần cũng mang ông đến tương lai nơi vô số những nhà soạn nhạc chịu ảnh hưởng từ những tác phẩm sau này của ông. Dù biết Theresa luôn yêu thương mình thực lòng, giữa sự lựa chọn đầy đau đớn giữa hạnh phúc riêng và các tác phẩm truyền từ đời này sang đời khác, cuối cùng Beethoven đành gạt nước mắt chọn những tác phẩm, những đứa con tinh thần mà ông cũng vô cùng yêu mến. Như vậy, cuối cùng, Beethoven thực ra không lựa chọn thay đổi bất kỳ điều gì trong cuộc sống của mình. Khi quỷ vương quay trở lại, ông thông báo quyết định lựa chọn các tác phẩm thay vì cuộc sống của chính mình. Thay vì tước đoạt mạng sống của Beethoven, quỷ vương đưa ra một lời đề nghị dễ chịu hơn: chỉ cần đổi mạng sống của ông lấy bản giao hưởng số 10, siêu tuyệt tác của ông. Lần này, Beethoven quyết định rất nhanh là không đổi. Trong nỗ lực cuối cùng, Memphisto chỉ sang cửa sổ nhà bên cạnh nơi có một cô bé mồ côi đang ngủ và nói cho Beethoven về cuộc sống khốn khổ mà cô gái sẽ phải trải qua. Đau khổ và thương xót, Beethoven đề nghị đổi bản giao hưởng số 10 lấy một tương lai tươi sáng hơn cho cô bé. Một bản hợp đồng được Twist thảo ra và cả Memphisto lẫn Beethoven ký tên vào. Lúc này, cuộc sống của Beethoven cũng kết thúc, nhưng với những hành động cao đẹp trước khi chết, linh hồn ông được lên thiên đàng chứ không về địa ngục với quỷ vương. Sau khi lấy bản giao hưởng, quỷ vương đưa nó vào lửa và đốt. Tuy vậy, bản giao hưởng không bị cháy và quỷ vương không thể hủy được nó. Lý do chính được đưa ra là do Beethoven thực chất có một người anh trai, người anh này cùng họ, cùng tên với ông nhưng đã chết từ rất sớm. Do đó, trong bản hợp đồng với quỷ vương, khi ông ghi tên họ đầy đủ, nơi sinh và tên cha mẹ thì trước Chúa trời, điều đó được hiểu là anh trai của ông (thực tế ông là Ludwig Van Beethoven II). Vì lý do này, quỷ vương chỉ có thể hủy được bản giao hưởng số 10 của anh trai ông chứ không phải của chính Beethoven, (vì Memphisto không có anh trai cùng tên nên quỷ vương vẫn phải thực hiện đúng theo cam kết). Tuy nhiên trong lúc lộn xộn, Twist nhân cơ hội lấy trộm bản hoàn chỉnh của bản giao hưởng số 10 để lại bản nháp chưa hoàn chỉnh (mà ngày nay chúng ta tìm thấy).
    Đây là một câu chuyện hay, nhiều ý nghĩa và có kết thúc rất bất ngờ. Album này thực chất được hoàn thành trước cả album thứ 2 của nhóm nhưng lại bị đẩy xuống ra sau album trên vì lý do thương mại. Album nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn nhưng không thành công lắm về mặt thương mại khi chỉ bán được hơn 500 nghìn bản tại Mỹ, kém rất nhiều so với 2 albums đầu tay.
    Requiem

    Mephistopheles' Return


    (còn tiếp)
     

Share This Page

Loading...