Heavy Metal - Nửa thế kỷ nhìn lại.

Discussion in 'Âm nhạc' started by no1knows, 20/5/13.

  1. huytk1

    huytk1 Advanced Member

    Joined:
    8/9/11
    Messages:
    53
    Likes Received:
    0
    Kiến thức của bác hoành tráng quá. Mình nghe thật là quá ít ỏi so với biển rock. Xưa nay chỉ biết Heavy metal là black sabbath cond Deep Purple mình toàn gọi là hard rock ( chả biết đúng không).
    Ở đây có bác nào nghe Queen, the beattles hay rainbow nữa không nhỉ?
     
  2. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Overkill

    Overkill​


    The Years Of Decay tiếp tục xu hướng của album trước đó và trở thành một trong những album thuần chất Thrash Metal với tiết tấu nhanh và mạnh. Album này dài tới 56 phút (với 9 bài hát, có bài dài hơn 10 phút) và mang rất nhiều phong cách khác nhau, cách phát triển bài hát cũng phức tạp hơn nhiều so với các album trước. Nó cũng chứng tỏ sự trưởng thành nhanh chóng của band nhạc. Đây cũng là album thành công nhất của Overkill khi bán được khoảng 178, 000 bản tại Mỹ và khoảng 4 triệu bản trên toàn thế giới. Một số bài hát đáng chú ý có thể kể đến : Eliminator, I Hate hay Time To Kill.
    Eliminator

    I Hate


    Đầu những năm 1990 chứng kiến sự thay đổi rất lớn của Overkill khi tay guitar Gustafson bị sa thải do có những mâu thuẩn với Verni về đường hướng phát triển tiếp theo của band. Liền một lúc 2 tay guitar: Rob Cannevino và Merrit Gant gia nhập band. Lúc này, Overkill gồm 5 thành viên chứ không phải 4 như trước nữa. Một điều cũng nên nhắc lại là Gustafson là người sáng tác chính trong các album trước đây của Overkill nên sự ra đi của anh này khiến rất nhiều fan hâm mộ tin rằng Overkill không thể gượng dậy được nữa. Nhưng album tiếp theo của nhóm Horroscope -1991 đã làm câm lặng những người chỉ trích Verni và Ellsworth vì sự ra đi của Gustafson. Đây thực sự là đỉnh cao trong sự nghiệp của Overkill, album này thậm chí hay hơn rất nhiều cả về phương diện sáng tác, chơi nhạc, sản xuất so với tất cả các album trước đó. Một loạt những bài hát trong album đã trở thành kinh điển như Blood Money, Thanx For Nothin’, Horroscope hay Soulitude. Nhưng tiếc rằng đây lại là siêu phẩm cuối cùng của Overkill, sau này âm nhạc của Overkill thay đổi nhiều khi chuyển dần sang chịu ảnh hưởng của Groove Metal và nhóm không thực sự ra được album nào nổi bật kể từ năm 1993.

    Horroscope

    Thanx For Nothing


    Gần 20 năm sau, tức là vào năm 2010, nhóm mới quay trở lại với thứ Thrash Metal thủa nào với album được đánh giá rất cao Ironbound. Thậm chí album này còn được đánh giá là một trong những album hay nhất trong sự nghiệp của Overkill với giọng ca cao vút và đầy năng lượng của Ellsworth. Ghi âm và sản xuất của album này cực tốt, các bài hát dài (trung bình gần 6 phút/bài) với kỹ năng chơi nhạc tuyệt vời. Đây cũng là album đầu tiên sau 17 năm Overkill có mặt lại trên bảng xếp hạng của Mỹ sau album I Hear Black năm 1993 – hạng 192. Một số bài hát hay trong album có thể kể đến: Ironbound, In Vain, Killing For A Living, Bring Me The Night.
    Bring Me The Night


    Ironbound


    Album gần đây nhất của họ The Electric Age -2012 cũng rất hay và thậm chí còn được đánh giá cao hơn cả Ironbound. Album này thậm chí xếp hạng 77 tại Mỹ và cũng được rất nhiều fan hâm mộ yêu thích với những bài hát nổi tiếng như: Come And Get It, Electric Rattlesnake hay Wish You Were Dead. Trải qua một sự nghiệp dài hơn 30 năm với 17 albums (có lẽ là kỷ lục với một band Thrash), Overkill thực sự là một trong những cái tên có uy tín nhất của dòng nhạc Thrash Metal.
    Electric Rattlesnake
     
  3. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Nuclear Assault

    Nuclear Assault​



    Năm 1984, sau khi tay bass Dan Lilker bị sa thải khỏi Anthrax, anh này cùng với vocal John Connelly (một cựu thành viên của Anthrax) quyết định thành lập ra Nuclear Assault cùng với Bramante và Evans. Connelly và Lilker chia sẻ tình yêu với thể loại nhạc Hardcore, còn 2 thành viên còn lại là Anthony Bramante (guitar) và Glenn Evans (trống) lại là những người yêu nhạc Thrash. Sự kết hợp của 4 thành viên này cho ra một thứ nhạc Thrash Metal với nhiều ảnh hưởng của Hardcore ( một nhánh con của punk rock và có hơi hướng chịu ảnh hưởng của Metal). Năm 1986 nhóm cho ra album đầu tay Game Over, album này đánh rất mạnh và đầy tính giận dữ và sau đó cũng nhanh chóng trở thành một trong những album kinh điển của dòng nhạc Thrash Metal với một loạt các bài hát rất hay như: Sin, Betrayal, Radiation Sickness, bài hát rất ngắn Hang The Pope… hay bản epic Brain Death.

    Sin


    2 năm sau, tức là năm 1988, Nuclear Assault tung ra album thứ 2 – Survive. Đây là album chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc của ban nhạc. Album giúp cho nhóm giành được sự chú ý của đông đảo đại chúng khi xuất hiện trên bảng xếp hạng của Mỹ ở vị trí số 145 và đứng trong bảng xếp hạng này 10 tuần. Về mặt âm nhạc, album này đánh chậm hơn album trước đó nhưng sự phát triển bài hát thì lại tốt hơn nhiều. Các bài hát như Brainwashed, Rise From The Ashes, Fight To Be Free luôn xuất hiện trong các buổi trình diễn live của band. Đây cũng là album được giới hâm mộ và chuyên môn đánh giá cao nhất trong sự nghiệp của Nuclear Assault (tuy nhiên album này lại rất ít người biết đến).
    Brainwashed

    Rise From The Ashes


    Cùng với sự thành công của Survive, chỉ một năm sau- 1989 nhóm tiếp tục tung ra album thứ 3 - Handle With Care. Album này cũng là đỉnh cao về mặt thương mại của nhóm khi chiếm hạng 126 tại Mỹ. Đây cũng là album đánh với tốc độ nhanh, mạnh nhất trong sự nghiệp và cũng là một album hay của nhóm với một loạt các bài hát để đời như: New song, Critical Mass, F#, hay When Freedom Dies, Trail Of Tears. Thế nhưng tiếc rằng, album này lại là điểm dừng trong sự nghiệp của Nuclear Assault. Sau Handle With Care nhóm quyết định chơi chậm lại như hầu hết các band Thrash lúc bấy giờ. Rất nhiều band đã thành công khi chơi chậm lại nhưng Nuclear Assault lại không nằm trong số những band này. Lilker rời nhóm ngay sau album Out Of Order - 1991 để thành lập band Grindcore - Brutal Truth và tiếp tục theo đuổi thứ âm thanh mạnh mẽ hơn. Tiếp theo sự ra đi của Lilker là đến Bramante. Với sự ra đi của hai trụ cột, sự nghiệp của nhóm nhanh chóng đi đến hồi kết sau năm 93. Đến cuối thập kỷ 90, nhóm mới quyết định tái hợp nhưng cũng chỉ cho ra được 1 album duy nhất The Third Genocide vào năm 2005. Tuy sự nghiệp ngắn ngủi và ít được nhiều người biết tới nhưng 2( có thể là 3) album đầu của nhóm chính là những album mà những người yêu mến dòng nhạc Thrash không nên bỏ qua.
    Critical Mass
     
  4. andy_82

    andy_82 Approved Member

    Joined:
    12/12/12
    Messages:
    45
    Likes Received:
    13
    Phiền bác no1 một tý. Tôi cũng cài mà tại sao không lên links như bác nhỉ, cám ơn nhiều!
     
  5. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Ví dụ đây là link youtube

    http://www.youtube.com/watch?v=[b]dUa5yJNaLBs[/b]

    Thì bác copy phần in đậm vào giữa link nhúng youtube thôi
     
  6. andy_82

    andy_82 Approved Member

    Joined:
    12/12/12
    Messages:
    45
    Likes Received:
    13
    Hóa ra bỏ phần đầu. Cám ơn bác nhiều!
     
  7. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    East Coast Thrash Metal

    East Coast Thrash Metal​


    Ngoài 2 cái tên Overkill và Nuclear Assault, một số band khác tại bờ Đông của nước Mỹ cũng chơi một thứ âm nhạc hết sức ấn tượng. Chúng ta sẽ đến với 2 trong số những cái tên nổi bật nhất của East Coast là Hades và Toxik.

    Hades
    Thành lập từ năm 1978 bởi tay guitar Dan Lorenzo. Nhưng mãi tới năm 1987 nhóm mới tung ra album đầu tiên Resisting Success. Và sau đó một năm là If At First You Don’t Succeed -88. Đây là 2 albums rất ít người biết đến nhưng lại được những nhà chuyên môn đánh giá rất cao. Nhóm chơi một thứ âm nhạc có thể gọi là Power Thrash Metal, rất kỹ thuật. Tuy được giới chuyên môn đánh giá rất cao nhưng Hades lại không thể giành được thành công đáng kể nào về mặt thương mại. Chuyến lưu diến năm 1989 tưởng như sẽ giúp cho họ được biết đến nhiều hơn lại kết thúc trong thất bại thảm hại. Hậu quả của nó dẫn đến kết cục đáng buồn cho nhóm – tan rã vào năm 1989. Những thành viên đầy tài năng của nhóm buộc phải tham gia các band khác như: Non- Fiction, Watchtower, Power hay System Addict. Mãi đến giữa thập kỷ 90, nhóm mới tái hợp và cho ra một loạt các album rất có chất lượng. Trong đó đỉnh cao phải kể đến album Damnation -2001, một trong những album Thrash hay nhất của thập kỷ 2000s. Tuy vậy đây lại là album cuối cùng của nhóm cho tới thời điểm hiện tại.

    The Leaders



    Toxik
    Là một trong những band Thrash Metal tài năng nhất của thế hệ thứ hai trong thập kỷ 80. Thành lập từ năm 85 dưới cái tên Tokyo nhưng sau đó nhanh chóng đổi tên thành Toxik vì trùng tên với một nhóm nhạc khác. Khác với các nhóm nhạc cùng thời kỳ ở East Coast, Toxik chơi hết sức kỹ thuật và phức tạp với rất nhiều ảnh hưởng của Progressive Rock. Tay guitar Josh Christian và tay trống Tad Lager là những điểm sáng trong âm nhạc của nhóm. Hai anh này đánh hết sức kỹ thuật và đầy sáng tạo. Chính vì lối chơi như vậy nên lúc khởi đầu âm nhạc của nhóm được gọi là Progressive Thrash Metal. Đến năm 1987, nhóm ký được hợp đồng với hãng Roadracer – tiền thân của hãng đĩa nổi tiếng thế giới về nhạc Metal sau này – Roadrunner. Cùng trong năm, nhóm tung ra album đầu tiên World Circus -88. Đây là một album rất hay, và thậm chí được tạp chí College Music Journal bình chọn là Best New Metal Album of The Year của năm 87. Tuy được đánh giá cao, nhưng vẫn có nhiều nhà chuyên môn và người hâm mộ không thực sự thích giọng ca than vãn của Mike Sanders nên ngay sau đó, anh này bị thay thế bởi Charles Sabin. Anh này có giọng ca rộng và tốt hơn khá nhiều so với Sanders. Cùng với Sabin, nhóm lập tức cho ra album thứ 2 Think This-1989. Album này cũng hết sức chất lượng và thậm chí còn được khen ngợi nhiều hơn so với album trước đó. Lúc này, Toxik cùng với một số nhóm như Watchtower, Fates Warning và King Diamond – nhóm nhạc Đan Mạch và cùng thuộc biên chế của Roadrunner đã tiến rất gần tới vị trí thành ngôi sao và trở thành dòng nhạc chính thống. Thế nhưng giữa lúc tưởng như sẽ phát triển rực rỡ nhất thì những mâu thuẫn nội bộ đã khiến band tan rã vào năm 1991 để lại rất nhiều sự nuối tiếc cho người hâm mộ. Tuy vậy, 2 album của nhóm luôn được yêu mến và được nhiều fan hâm mộ của dòng nhạc Thrash Metal săn lùng.
    Think This

    Greed
     
  8. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Kreator

    Teutonic Thrash Metal.
    Teutonic Thrash Metal là một trong những nhánh Thrash Metal riêng biệt và có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành phát triển của Thrash Metal tại châu Âu. Ngoài ra dòng nhạc này còn có sự ảnh hưởng rất lớn tới sự ra đời của thế hệ Black Metal thứ hai tại Na Uy và Death Metal tại Mỹ và châu Âu. Khi nhắc đến Teutonic Thrash là người ta nhắc đến một dòng nhạc mang đậm tính bạo lực với lối chơi hết sức tốc độ, mạnh mẽ nhưng cũng đầy kỹ thuật kết hợp với giọng ca mang đậm âm hưởng của tiếng Đức. Đóng góp lớn nhất cho sự hình thành và phát triển của Teutonic Thrash phải kể đến Big Three: Kreator, Sodom và Destruction. Âm nhạc của 3 nhóm có nhiều sự tương đồng và bạo lực. Ngoài ra còn có Coroner một nhóm nhạc của Thụy Sỹ với lối đánh đậm chất kỹ thuật mang nhiều âm hưởng progressive metal. Các fan hâm mộ của dòng nhạc này có thể tìm hiểu một số band khác như Tankard, Headhunter hay Vendetta. Trước tiên chúng ta sẽ đến với Kreator.

    Kreator​


    Kreator là band nhạc có tầm ảnh hưởng lớn nhất của Teutonic Thrash Metal trên phương diện toàn cầu. Nhóm thành lập từ năm 82 với vocalist/guitarist Mille Petrozza và tay trống Jurgen Ventor Reil. Đến năm 1985 thì họ kiếm được hợp đồng với hãng đĩa Noise khá nổi tiếng trong giới Underground của Đức. (Hãng này sau đó bị bán lại cho hãng Sanctuary vào năm 2001 và đang dừng hoạt động từ năm 2007 vì hãng Sanctuary bị phá sản, tuy vậy hãng có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của Thrash và Speed Metal tại châu Âu). Ngay sau khi kiếm được hợp đồng ghi âm, Kreator bắt tay vào sáng tác và sản xuất ngay album đầu tiên của họ - Endless Pain -85. Toàn bộ album này chỉ được ghi âm trong 10 ngày (lúc này các thành viên của nhóm chỉ tầm 18, 19 tuổi mà thôi). Đây là một album với rất nhiều ảnh hưởng tới Metal thế giới, đặc biệt là tới diện mạo của Black Metal sau này. Dù chất lượng ghi âm rất tệ, album vẫn rất được yêu thích và trở thành album kinh điển của nhóm với một loạt các bài hát được yêu thích như: Tormentor, Flag Of Hate.

    Tormentor

    Flag Of Hate


    Ngay sau album đầu tay, chỉ một năm sau, nhóm đã tung ra album thứ hai: Pleasure To Kill -86. Đây là một album kinh điển, có rất nhiều ảnh hưởng và có lẽ cũng là album thành công nhất trong sự nghiệp của Kreator. Đây là album đánh hết sức nhanh, mạnh và bạo lực nhất của Thrash Metal tại thời điểm bấy giờ. Hiển nhiên đây cũng là một album kinh điển của Thrash Metal với một loạt các bài hát luôn xuất hiện trong những buổi trình diễn của Kreator và được fan yêu mến như: Pleasure To Kill, Riot Of Violence hay Under The Guillotine.

    Pleasure To Kill

    Riot Of Violence


    Sau 2 album kinh điển Endless Pain và Preasure To Kill chỉ với 3 thành viên, Kreator tiếp tục tung ra album thứ 3 – Terrible Certainty vào năm 87. Lúc này nhóm đã có tay guitar thứ hai là Jorg Tritze và gồm 4 thành viên. Terrible Certainty là một album khá hay mặc dù thu âm rất kém. Album này cũng chứng kiến sự trưởng thành hơn nữa của Kreator khi các bài hát có xu hướng phức tạp và tempos thay đổi nhiều. Tuy nhiên, do ghi âm kém mà album lại không được nhiều fan yêu thích tại thời điểm mới tung ra. Tuy nhiên càng về sau, cùng với thời gian thì album càng được đánh giá cao hơn. Các bài hát hay trong album có thể kể đến: Terrible Certainty (dù có nét tương đồng với Fight Fire With Fire của Metallica), Toxic Trace hay Behind The Mirror.

    Terrible Certainty

    Toxic Trace


    Sự thành công đầy hứa hẹn của 3 album đầu tiên đã khiến cho Kreator nhận được sự quan tâm của một hãng đĩa lớn là Epic vào năm 88. Nhóm tung ra album thứ 4 Extreme Aggression vào năm 1989. Vì ký được hợp đồng với hãng đĩa lớn nên album này thu âm rất tốt, hơn hẳn so với các album trước đo. Về mặt âm nhạc thì album này có nhiều điểm gần gũi với Death Metal. Tuy vậy nó cũng hay và được fan hâm mộ yêu mến với 2 bài hát kinh điển là Love Us Of Hate Us hay Betrayer.

    Betrayer



    Sau album này Tritze quyết định rời nhóm, người thay thế anh là Frank Blackfire Gosdzik – tay guitar của Sodom. Ngay năm sau đó, nhóm tung ra album Coma Of Souls -90. Đây cũng là album kinh điển cuối cùng của nhóm. Album này không được nhiều fan hâm mộ yêu thích bằng các album trước đó, tuy vậy cũng như Terrible Certainty, cùng với thời gian thì nó càng được yêu mến hơn. Một số bài hát hay trong album có thể kể đến: When The Sun Burns Red và People Of The Lie.

    When The Sun Burns Red



    Đến đây cũng là điểm kết thúc cho thời kỳ kinh điển của Kreator với một chùm 5 album kinh điển. Phải rất lâu sau này, tức là đến đầu thập kỷ 2000s nhóm mới tiếp tục tung ra một loạt album có chất lượng mà ta sẽ tiếp tục gặp lại ở phần sau.

    (còn tiếp)
     
  9. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Kreator

    Kreator​


    (tiếp theo)
    Sau 5 albums đầu tay kinh điển, Kreator bắt đầu rơi vào một thời kỳ dài (suốt thập kỷ 90) rơi vào khủng hoảng. Tại thời điểm đầu thập kỷ 90, Thrash Metal dần suy tàn, Kreator rất tiếc không phải là trường hợp đặc biệt, họ cũng rơi vào dòng xoáy suy tàn của Thrash. Tuy không tan rã và vẫn tung ra một loạt các album, nhưng âm nhạc của nhóm không còn là Thrash truyền thống nữa mà chịu ảnh hưởng của đủ loại nhạc như Industrial (Renewal), groove metal (Cause for Conflict), Gothic rock và Ambient (Outcast và Endorama) với những sự thay đổi liên tục trong đội hình. Sự thay đổi này của Kreator không những làm chán nản hoàn toàn các fan hâm mộ, mà thành công về mặt thương mại cũng chẳng đến, đặt một dấu hỏi rất lớn về tương lai band nhạc. Phải đến đầu những năm 2000 thì Kreator mới quay lại chơi Thrash Metal kiểu kinh điển. Lúc này âm nhạc Kreator còn được tích hợp thêm khá nhiều ảnh hưởng của Melodic Death Metal của Thụy Điển. Mặc dù có tích hợp thêm âm thanh Melodic trong những cú riff, giai điệu và giọng hát, sự trở lại Thrash Metal của Kreator được chào đón nồng nhiệt. Khởi đầu cho sự thay đổi này là album Violent Revolution -2001. Album này cũng nhanh chóng trở thành một trong những album Thrash kinh điển với các tuyệt tác như: Violent Revolution, Reconquering The Throne hay Servant In Heaven- King In Hell.
    Violent Revolution

    Reconquering The Throne


    Sau thành công có phần bất ngờ với Violent Revolution, Kreator tiếp tục phát triển theo hướng kết hợp giữa Thrash Metal và Melodic Death, album sau đó của nhóm: Enemy Of God -2005, còn được đánh giá là đỉnh cao trong sự nghiệp âm nhạc của nhóm, sánh ngang với Pleasure To Kill hay Extreme Aggression. Thậm chí với rất nhiều fan hâm mộ, họ còn cho rằng album này vượt trội hơn so với 2 album kinh điển nêu trên với hàng trăm cú riff đầy giai điệu và tốc độ, kết hợp với chất lượng ghi âm và sản xuất phải nói là gần như hoàn hảo. Hầu hết các bài hát trong album đều có chất lượng rất cao, đặc biệt là Enemy Of God, Impossible Brutality, Dystopia hay Voices Of The Death.
    Enemy Of God

    Impossible Brutality


    Dĩ nhiên sau khi tìm con đường đi của mình, Kreator không có lý do gì để dừng lại, album tiếp theo của họ - Hordes Of Chaos – 2009, được ghi âm hoàn toàn analog (bằng analog tape) theo kiểu đánh live trực tiếp trong phòng thu mà không cần phải chỉnh sửa lại, như cách họ thực hiện album kinh điển Pleasure To Kill năm 1986. Một lần nữa album của Kreator được giới hâm mộ và chuyên môn đánh giá rất cao. Lần đầu tiên trong lịch sử, Kreator xuất hiện trên bảng xếp hạng của Mỹ dù ở vị trí khiêm tốn 165, đây là điều mà các album kinh điển trước đó của nhóm không thể thực hiện được. Một số bài hát đáng chú ý có thể kể đến Hordes Of Chaos, Amok Run, Radical Resistance.
    Hordes Of Chaos


    Album gần đây nhất của nhóm, Phantom AntiChrist -2012 cũng rất thành công khi xếp hạng 130 tại Mỹ và cũng được giới chuyên môn đánh giá khá tốt với những bài hát hay như: Phantom Antichrist, Civilization Collapse, Death To The World.
    Phantom Antichrist


    Với 2 thời kỳ cách nhau cả hơn 10 năm, Kreator vẫn tiếp tục là một thể lực đáng kể của Thrash Metal ở châu Âu. Họ cũng là nguồn cảm hứng lớn lao cho các dòng nhạc Black và Death Metal sau này. Tuy cũng có lúc, Kreator trượt dài và tưởng không thể gượng dậy được nhưng rồi họ lại trở lại thậm chí mạnh mẽ hơn với một thứ Thrash Metal vô cùng tốc độ và bạo lực với một loạt 4 album mới mà trong số đó: Violent Revolution và Enemy Of God đã trở thành kinh điển, Hordes Of Chaos thì cũng đang trên đường trở thành album kinh điển tiếp theo của nhóm thì có lẽ mọi fan hâm mộ của Thrash Metal nói riêng đều phải ngả mũ kính phục. Kreator thực sự là một tượng đài của Thrash. Đặc biệt hơn, chúng ta sẽ tiếp tục chờ đợi những album kinh điển tiếp theo của nhóm.
    Civilization Collapse
     
  10. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Sodom

    Sodom​


    Nếu như Kreator là cái tên thành công nhất trên trường quốc tế của Teutonic Thrash thì Sodom lại là cái tên thành công nhất tại quê hương của bộ ba này, nước Đức. Thành lập từ năm 82, với bộ ba Tom Angelripper – bass/vocals và Chris Witchhunter –drums và Destructor – guitar. Ban đầu âm nhạc của nhóm chịu ảnh hưởng của Black Metal nguyên thủy mà tiêu biểu là Venom. Tuy nhiên, sau khi tay guitar Frank Blackfire thay thế Destructor vào năm 1987 thì nhóm dần chuyển sang Thrash Metal. Với đội hình này, nhóm tung ra album kinh điển đầu tiên vào năm 87 – Persecution Mania. Đây là album Thrash với rất nhiều ảnh hưởng của Motorhead và punk rock. Thậm chí trong album còn có một bài hát cover lại của Motorhead là Iron Fist. Album sau này cũng trở thành kinh điển của Thrash Metal với những bài hát kinh điển như: Outbreak Of Evil, Nuclear Winter.
    Outbreak Of Evil

    Nuclear Winter


    Nhưng phải đến năm 1989, khi nhóm tung ra album đỉnh cao trong sự nghiệp – Agent Orange . Đây là một album lấy cảm hứng từ cuộc chiến tại Việt Nam và có tầm ảnh hưởng vô cùng lớn lao tới Black Metal Na Uy sau này. Về mặt âm nhạc, album này kéo dài hơn so với các album trước đó của nhóm (khoảng gần 5 phút/bài) với những đoạn sử dụng guitar acoustic và các đoạn guitar solo xuất hiện liên tục và ấn tượng, các bài hát có cấu trúc phức tạp và cấu trúc hợp lý hơn. Tất cả đã tạo ra một album kinh điển của Thrash Metal và nó giúp cho tên tuổi của Sodom được biết đến trên toàn thế giới. Đây cũng là album đầu tiên của Thrash Metal châu Âu vào được bảng xếp hạng tại Đức với vị trí 36. Và cũng là album đầu tiên của Thrash châu Âu đạt được đĩa bạch kim tại Đức (với hơn 100, 000 bản bán ra). Tính cho tới thời điểm này, đây là album Teutonic Thrash Metal bán được nhiều nhất tại Đức cũng như trên toàn thế giới. Các bài hát kinh điển của album này có thể kể đến: Agent Orange, Ausgebombt, Remember The Fallen, Tired And Red.
    Agent Orange

    Ausgebombt


    Chỉ tiếc rằng sau album Agent Orange vô cùng thành công, tay guitar Blackfire lại quyết định rời Sodom để gia nhập Kreator. Sự nghiệp của Sodom cũng dần đi xuống từ đây, dù họ còn tung ra được 1 album chất lượng khá tốt Better Of Death -90. Sau Better Of Death, họ bắt đầu chịu ảnh hưởng của Death Metal theo xu hướng chung của thế giới, tuy vậy, sự thay đổi trong phong cách âm nhạc này cũng không mấy thành công. Phải đến năm 98 nhóm mới tiếp tục chơi Thrash với một số album cũng thành công ở mức độ vừa phải. Thành công nhất trong số này có lẽ là M-16 năm 2001 và Sodom -2006.
    Napalm in the Morning

    City Of God


    Tuy vậy, với 2 album kinh điển Persecution Mania và đặc biệt là Agent Orange luôn được người hâm mộ chào đón trên toàn thế giới. Cùng với Kreator và Destruction, Sodom có ảnh hưởng vô cùng quan trọng tới sự hình thành của Death Metal sau này. Đồng thời album Agent Orange còn là niềm cảm hứng bất tận cho những band Black Metal thế hệ thứ hai tại Na Uy và nhiều nước khác trong thập kỷ 90. Hiển nhiên đây là 2 album không thể bỏ qua đối với những fan của dòng nhạc Extreme.
     
  11. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Destruction

    Destruction​

    Destruction là cái tên cuối cùng, đồng thời cũng được ít người biết đến nhất trong bộ 3 Teutonic Thrash. Tuy vậy, nhóm vẫn có những album kinh điển để đời và được rất nhiều người hâm mộ cũng như giới chuyên môn đánh giá cao. Ngay từ năm 1985, album đầu tay của nhóm Infernal Overkill đã được đánh giá rất cao và là Album của năm do bạn đọc tạp chí Metal nổi tiếng của Đức Metal Hammer bầu chọn. Chính vì thế nhóm thậm chí còn lưu diễn với tên tuổi khổng lồ của làng nhạc Metal thế giới là Slayer trong năm này. Album tiếp theo của nhóm Eternal Devastation -86, thậm chí còn được đánh giá cao hơn nữa khi nhóm quyết định thử nghiệm lối đánh kỹ thuật hơn. Tuy nhiên, ngay sau album này, nhóm bắt đầu có dấu hiệu đổ vỡ khi tay trống gạo cội Sandmann không muốn trở thành một nghệ sỹ chuyên nghiệp và rời nhóm. Album thứ 3 – Release From Agony -88, tiếp tục được giới chuyên môn đánh giá rất cao, đặc biệt là tại Mỹ. Lúc này band chơi hết sức kỹ thuật. Tuy nhiên, do chơi quá kỹ thuật nên nhóm còn rất ít đất diễn cho giọng ca chính Schmier nên anh này cảm thấy mất dần chỗ đứng trong band nhạc. Dù được đánh giá cao tại Mỹ và Nhật nhưng album lại không thành công tại Đức, quê hương của band. Ngay trong năm 89, do mâu thuẫn về đường hướng phát triển trong âm nhạc của nhóm, Schimer bị sa thải khỏi band và đây cũng là lúc mà sự nghiệp của nhóm tuột dốc. Mãi đến đầu thập kỷ 2000s, Schimer sau khi thành lập band Thrash Headhunter không mấy thành công, mới quyết định trở lại với Destruction. Nhóm tiếp tục ra một loạt các album, trong đó có một số album được đánh giá rất cao như : The Antichrist -2001 hay Day Of Reckoning -2011.
    Bestial invasion

    Curse The Gods

    Mad Butcher
     
  12. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Coroner

    Coroner​

    Coroner là một band nhạc đến từ Thụy Sĩ và không nhiều người biết tới. Tuy nhiên cùng với thời gian, càng ngày những album của họ càng được nhiều người đánh giá cao hơn. Âm nhạc của band là sự kết hợp của Thrash Metal, Progressive Rock, Jazz và Industrial Metal. Nghe qua thì thấy cũng không phải là điều gì đó quá ghê gớm, nhưng đặt tại thời điểm những năm giữa thập kỷ 80, thì thấy rằng họ là một trong những band đi trước thời đại. Thậm chí nhóm còn có biệt danh là The Rush of Thrash Metal. Riêng biệt danh này thôi đã thấy sự đặc biệt cũng như sự yêu mến của fan với âm nhạc của nhóm.
    Khi mới thành lập, nhóm thường đi biểu diễn với band nhạc huyền thoại Celtic Frost và giọng ca, nhạc sỹ viết nhạc chính của Celtic Frost thậm chí còn hát chính trong album demo của nhóm – Death Cult vào năm 1986. Âm nhạc của nhóm phát triển dần từ Speed Metal với ảnh hưởng của Gothic và nhạc cổ điển (giống Celtic Frost và Bathory) trong album đầu tiên R.I.P sang kiểu Technical Thrash của riêng bản thân họ trong những album về sau. Kể từ album thứ hai thì họ chuyển dần sang kiểu Technical Thrash với những ảnh hưởng của progressive rock (chuyển tempo nhiều). Nhưng phải đển album thứ 3 – No More Color (89) thì nhóm mới vươn tới đỉnh cao trong sự nghiệp của mình. Album này có rất nhiều đoạn phô diễn kỹ thuật đặc biệt là solo guitar. Các bài hát trong album này cũng có cấu trúc chịu nhiều âm hưởng của nhạc Jazz. Album này sau đó đã tiến tới trở thành một trong những album kinh điển của Thrash Metal thế giới với một loạt các bài hát rất hay như: Die By My Hand, No Need To Be Human hay Read My Scars.
    Sau album kinh điển No More Color, nhóm tiếp tục ra tiếp một album kinh điển nưa vào năm 1991 đó là Mental Vortex. Album này cũng giống như album trước đó khá dài ( trung bình gần 6 phút một bài) với những đặc điểm riêng biệt của nhóm nhưng đã chậm hơn, nhiều những cú riff hơn và cũng dễ nghe hơn. Album cuối cùng của nhóm, Grin năm 93 lại mang nhiều chất Industrial hơn những album trước đó. Dù khá khác lạ, album này cũng rất được các fan hâm mộ yêu mến. Tiếc rằng, đây lại là album studio với hoàn toàn những bài hát mới cuối cùng của nhóm. Sau album này, nhóm còn tung ra một album compilation- Coroner với những bài hát cũ đã thành danh và một số bài hát bị loại ra khỏi các album trước đó. Nhóm tan rã vào năm 1995 để lại rất nhiều tiêc nuối cho người hâm mộ.
    Masked Jackal

    Nosferatu

    Voyage To Eternity

    Divine Step
     
  13. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Sabbat (UK)

    Sabbat (UK)​

    Thành lập từ năm 1985 tại Nottingham bởi cặp đôi Martin Walkyier- vocals và Andy Sneap – guitars. Tuy sự nghiệp của nhóm khá ngắn ngủi (trong 5 năm) nhưng 2 album mà nhóm tung ra thực sự là những album kinh điển của Thrash Metal thế giới. Chịu ảnh hưởng của Metallica, Slayer và Venom, âm nhạc của nhóm là sự hòa trộn của Black/Thrash Metal với những âm hưởng của Progressive Rock (trong phong cách viết nhạc). Đến năm 1988, nhóm tung ra album đầu tiên, một album kinh điển của dòng nhạc Thrash Metal – History of A Time To Come và được giới chuyên môn cũng như fan hâm mộ đánh giá rất cao. Album này sau đó nhanh chóng tiến dần tới vị trí kinh điển của dòng nhạc Thrash với những bài hát vô cùng được yêu thích như: A Cautionary Tale, Hosanna In Excelsis, Behind The Crooked Cross, For Those Who Died.
    Album tiếp theo của nhóm Dreamweaver là một album concept và còn mang nặng tính progressive hơn nữa. Cũng như album trước, album này được đánh giá rất cao. Nhưng rất tiếc, đây cũng là album cuối cùng với sự có mặt của cặp đôi Walkyier/Sneap. Sau album này, việc bắt đầu phát sinh những mâu thuẫn về đường hướng phát triển của band nhạc. Walkyier không còn muốn viết lời cho những bài hát quá dài (lên tới 11 phút) của Sneap. Thêm vào đó là sự thiếu đầu tư của hãng đĩa ghi âm khiến Walkyier càng chán nản. Đỉnh điểm là khi hãng đĩa từ chối cấp tiền cho nhóm biểu diễn tại Nam Mỹ đã khiến sự thất vọng của Walkyier trở thành tuyệt vọng. Walkyier rời nhóm vào năm 1990 để thành lập một nhóm nhạc khác là Skyclad, đây là nhóm nhạc tiên phong và cũng là nhóm sáng lập của dòng nhạc Folk Metal sau này. Chúng ta sẽ còn trở lại với Skyclad khi nói về Folk Metal.
    Hosanna In Excelsis

    For Those Who Died

    The Clerical Conspiracy
     
  14. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Sepultura

    Sau khi chia tay với những nhóm nhạc chính của Thrash Metal thế giới, ta sẽ đến với một số nhóm nhạc nổi bật trong thập kỷ 80. trước tiên là Sepultura

    Sepultura​

    Sepultura có lẽ là cái tên phổ biến nhất trên thế giới của làng nhạc Rock/Metal Brazil. Thành lập từ năm 1983 bởi anh em Max và Igor Cavalera. Band đầu nhóm chơi một thứ nhạc Thrash với giọng hát chịu ảnh hưởng từ Death Metal (hai nhóm nhạc có ảnh hưởng lớn nhất tới âm nhạc của Sepultura chính là Metallica và Possessed – một nhóm tiên phong chơi theo phong cách Death/Thrash Metal và là những người đặt nền móng đầu tiên cho dòng nhạc Death Metal sau này). Đến năm 1986 nhóm cho ra đời album đầu tiên là Morbid Visions và giành được sự chú ý nhỏ tại Brazil. Phải đến album thứ 2 là Schizophrenia năm 87 thì nhóm mới được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Album này chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc của band khi chịu nhiều ảnh hưởng của lối đánh đầy kỹ thuật của Metallica. Thành công của album này khiến nhóm nhận được sự chú ý của hãng đĩa Roadrunner- lúc này chỉ là một hãng nhỏ mới thành lập nhưng có đường hướng phát triển hết sức bài bản và nghiêm túc. Dù album này thu âm rất kém nhưng với những bài hát được phát triển một cách hợp lý những đoạn solo guitar đầy chất lượng đã khiến tên tuổi của Sepultura bắt đầu được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới.
    To The Wall

    Septic Schizo


    Nhưng phải đến album thứ 3 là Beneath The Remains - 1989, Sepultura mới bắt đầu đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp của mình. Album chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc của band nhạc nếu so sánh với những album trước đó của nhóm. Cùng với thời gian album này trở thành một trong những album kinh điển của dòng nhạc Thrash Metal. Với lối chơi hết sức tốc độ, đầy kỹ thuật kết hợp với những đoạn riff hay dễ nhớ, những đoạn solo guitar thần sầu và đặc biệt là kỹ thuật thu âm vượt trội hơn so với những album trước đó. Album này cũng là điểm kết thúc của Sepultura đầu tiên. Sau album này, nhóm chuyển hướng âm nhạc khi bắt đầu thời kỳ thứ 2 cũng thành công không kém, nếu không muốn nói là còn thành công hơn thời kỳ thứ nhất chơi Thrash/Death Metal.
    Beneath The Remains

    Inner Self
     
  15. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Sepultura

    Sepultura


    Năm 1991, Sepultura tung ra album thứ 4 và cũng là một trong những album kinh điển của Thrash Metal – Arise. Nếu Beneath The Remains giúp tên tuổi của nhóm được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới đặc biệt tại Mỹ với phong cách Death/ Thrash thì album Arise lại chứng kiến sự thay đổi dần trong phong cách nhạc của Sepultura. Lúc này âm nhạc của nhóm đã có những ảnh hưởng của Groove Metal kết hợp với sự thử nghiệm như: sử dụng những tiếng trống của thổ dân Nam Mỹ vào trong âm nhạc, những âm hưởng của industrial hay hardcore punk. Sự kết hợp này cho ra đời một album tuyệt vời, album cũng nhanh chóng chiếm vị trí được yêu mến nhất và trở thành một trong những album kinh điển của nhóm với một loạt các bài hát không thể quên như Arise, Dead Embryonic Cells hay Under Siege. Album này lập một loạt các kỷ lục: album đầu tiên của Sepultura lọt vào bảng xếp hạng của Mỹ khi đứng ở vị trí 119, lần đầu tiên một album của Sepultura nhận được danh hiệu đĩa vàng tại nước ngoài (Indonesia khi bán được hơn 25.000 bản), album này cũng là album đầu tiên của nhóm bán được trên 1triệu bản trên toàn thế giới, album đạt đĩa bạc tại Anh với hơn 60.000 bản bán ra.
    Arise

    Dead Embryonic Cells


    Sau album Arise, tên tuổi Sepultura đã nổi như cồn trên toàn thế giới. Rất nhiều tạp chí nổi tiếng về Metal đã coi họ như một trong những band Metal hàng đầu thậm chí còn vượt qua cả những tên tuổi khổng lồ như Metallica hay Slayer. Album tiếp theo của họ - Chaos A.D thậm chí còn thành công hơn nữa. Đây là album đầu tiên của nhóm đạt được đĩa vàng tại Mỹ với hơn 500.000 bản được bán ra. Album này chiếm được vị trí thứ 32 tại Mỹ đồng thời đạt đĩa vàng tại 2 quốc gia khác nữa. Về mặt âm nhạc, album này đánh chậm và mang nặng âm hưởng của Groove Metal hơn nữa tất nhiên kèm cả những ảnh hưởng của Industrial và Hardcore kết hợp với âm nhạc của Brazil nữa. Những tuyệt phẩm như Refuse/Resist – bài hát khởi đầu với nhịp tim của bào thai đứa con trai đầu tiên của Max (cậu bé nay đã trưởng thành và trở thành một tay trống giống như chú Igor của mình. Cậu thậm chí còn chơi cho cả band Soulfly của bố) rồi tiếp nối là tiếng còi xe cấp cứu luôn gây một ấn tượng không thể phai mờ trong tâm trí những người đã nghe qua bài hát này. Ngoài Refuse/Resist thì Territory, Slave New World, Propaganda hay Biotech Is Godzilla rất ít khi vắng mặt trong những buổi biểu diễn của Sepultura.
    Refuse/Resist

    Territory



    Đến năm 1996 thì một lần nữa Sepultura lại thay đổi phong cách khi chơi theo kiểu Nu Metal kết hợp với World Music với album Roots -96. Sự thay đổi này mang lại thành công to lớn về mặt thương mại cho nhóm với khoảng hơn 2 triệu bản bán được trên toàn thế giới. Album chiếm hạng 27 tại Mỹ và cũng đạt đĩa vàng tại Mỹ và 7 quốc gia khác nữa. Thế nhưng, sự thay đổi trong phong cách chơi của Sepultura lại khiến những fan hâm mộ Thrash Metal phiền lòng vì chất Thrash của họ còn rất ít. Sau album này, mâu thuẫn gay gắt nổ ra giữa Max và các thành viên. Nguyên nhân chính là do vợ của anh này, đồng thời là người quản lý của band nhạc có mâu thuẫn lớn với các thành viên còn lại và bị sa thải. Max rời khỏi Sepultura vào năm 1997. Sau khi Max rời khỏi nhóm, Sepultura thuê Derrick Green làm vocalist và tiếp tục sự nghiệp của mình nhưng họ vẫn bị luẩn quẩn trong vòng xoáy của Thrash Metal hay Nu Metal. Những album sau đó của nhóm không gặt hái được nhiều thành công như những album trước nữa, thậm chí còn kém thành công hơn cả những album của Soulfly –band của riêng Max. Năm 2007, Igor tiếp tục rời nhóm để tái hợp với anh trai của mình trong band Cavalera conspiracy. Các thành viên còn lại tiếp tục sự nghiệp với các album như A-Lex -2009, Kairos -2011 và gần đây nhất là The Mediator Between Head And Hands Must Be The Heart -2013.

    Roost Bloody Roost

    Ratamahatta


    Tuy sự nghiệp trải dài nhưng thời kỳ với Max Cavalera vẫn là thời kỳ thành công nhất trong lịch sử của Sepultura. 3 albums: Beneath The Remains, Arise và Chaos A.D luôn được những fan hâm mộ yêu mến và là những album kinh điển của dòng nhạc Metal thế giới. Nó cũng giúp cho Sepultura trở thành một trong những band nhạc Rock của Brazil thành công và nổi tiếng trên toàn thế giới. Nhất là trong giới yêu nhạc Metal.

    Convicted In Life
     
  16. trungavr

    trungavr Advanced Member

    Joined:
    25/8/12
    Messages:
    175
    Likes Received:
    23
    Location:
    tp.hcm, vietnam
    Trên hết tất cả, Sepultura là band e mê nhất...nhưng qua đến Soulfly em lại ko thích, có thể vì cái bóng quá lớn của Sepul đã che mất chăng?!
     
  17. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Em đoán chắc bác mê chất Thrash/Death của Sepultura chứ không thích kiểu World Music/Nu Metal của Soulfly. Nhưng Soulfly cũng chỉ chơi theo phong cách này trong 4 albums đầu tiên thôi, những album kể từ Dark Ages thì Soulfly lại trở về chơi theo kiểu Thrash Metal. Chất lượng âm nhạc của họ cũng khá tốt, theo em 2 album tiêu biểu của Soulfly đánh Thrash có thể kể đến Dark Ages -2005 và Conquer -2008. Trong đó em thích Conquer hơn.
     
  18. trungavr

    trungavr Advanced Member

    Joined:
    25/8/12
    Messages:
    175
    Likes Received:
    23
    Location:
    tp.hcm, vietnam
    Mong bác giải thích thêm về khái niệm, định nghĩa Thrash, Groove metal, hay harcore, metalcore, world music. Trc giờ em chỉ biết tên gọi, tự định nghĩa phing cách của nhóm dưaj theo tai nghe mà ko biết chính xác...
     
  19. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Em chỉ giải thích theo sự hiểu biết của mình:

    Thrash Metal: là thể loại Metal được yêu mến nhất xuất hiện đầu thập niên 80, đặc trưng của thể loại nhạc này là tiếng trống đập (thrash) liên hồi với tốc độ cao (sử dụng trống với double bass -2 trống cái), những đoạn riff ngắn và chắc nịch (ảnh hưởng của punk rock), những đoạn solo guitar cao và chói tai, cộng với giọng hát giận dữ và bạo lực. Thrash Metal là bước phát triển tiếp theo của Heavy Metal trong thập kỷ 70 nhưng với giai điệu, tiết tấu nhanh mạnh hơn rất nhiều đồng thời rất chú trọng vào kỹ năng chơi nhạc (đa phần các band Thrash chơi rất kỹ thuật - technical). Việc sử dụng double bass với nhịp đập liên tục chính là một yếu tố cách mạng trong làng nhạc Metal. Sau này các dòng nhạc Metal khác hầu như đều chịu ảnh hưởng của Thrash.

    Groove Metal là nhánh nhỏ của Thrash Metal. Groove Metal tiết tấu chậm hơn so với Thrash Metal, thường là có một đoạn riff lặp đi lặp lại trong suốt cả bài hát, âm nhạc nghe đêu đều (groove) hơn,. Giọng hát của Groove thì chịu ảnh hưởng của hardcore, tức là giọng khàn và gằn xuống (trong khi Thrash Metal thì không có kiểu giọng ca riêng biệt). Ban tiêu biểu nhất của Groove Metal chính là Pantera.

    Hardcore: thực chất không phải là một dòng nhạc Metal mà là nhánh nhỏ của punk rock có hơi hướng nghiêng về Metal. Dòng nhạc này thậm chí còn xuất hiện trước cả Thrash một chút và đặc trưng bởi những đoạn riff ngắn và chậm (tất nhiên là so với Metal chứ không so với nhạc rock thông thường nhé). Giọng hát khàn, hơi gằn xuống. Các bài hát thường rất ngắn chỉ 2-3 phút (đặc trưng của punk).

    Metalcore: đây là dòng nhạc sinh sau đẻ muộn. Dòng nhạc này là sự kết hợp giữa Melodic Death Metal (tiết tấu, intro bài hát) của Thụy Điển, kết hợp với Thrash metal và Hardcore.

    World Music là các dạng âm nhạc đặc trưng cho từng đất nước (ví dụ nhạc Ả rập, nhạc Ấn Độ, nhạc cổ truyền Việt Nam, Trung Quốc) thì đều coi là World Music. Sepultura là nhóm nhạc Metal chịu ảnh hưởng nhiều nhất của World Music. Nếu bác chú ý nghe những album như từ Arise, Chaos A.D hay Roost thì thấy trong những album này đều có dạng percussions - trống dùng tay để vỗ vào mặt trống tạo ra tiếng kêu chứ không giống như trống nhạc rock là dùng dùi để đánh vào mặt trống. Việc dùng Percussions và một số đoạn nhạc có giai điệu của thổ dân Nam Mỹ tạo nên một thứ âm thanh đặc biệt mà không có bất kỳ một band Metal nào khác có thể có được. Nó làm nên thứ âm nhạc riêng biệt đặc trưng cho Sepultura. Sự thử nghiệm của Soulfly với World Music luôn xuất hiện trong các album của họ. khi thì là Nam Mỹ, khi thì là nhạc Nga, nhạc Nam Tư...
     
  20. trungavr

    trungavr Advanced Member

    Joined:
    25/8/12
    Messages:
    175
    Likes Received:
    23
    Location:
    tp.hcm, vietnam
    Ồ! thật ra Roots mang âm hưởng World music lại là album kéo em đến với Sepultura, cũng chính Percussions mê hoặc em. Sau khi nghe album này thì em mới quyết định tìm mua trọn bộ Sepultura (tính tới thời điểm đó). Tuy nhiên cũng có album World music mang âm hưởng Nhật Bản em lại ko thích.
    Bác tiếp tục nhé, you're never walk alone....
     
  21. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Em lại cũng khá thích Soulfly đặc biệt là album Soulfly, Prophercy và Conquer. Trong đó chỉ có Conquer là đánh theo kiểu Thrash.
     
  22. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Artillery

    Artillery​

    Artillery là một trong những band nhạc đầu tiên ở châu Âu chơi Thrash Metal và cũng là một trong những band đầu tiên chơi Technical Thrash. Âm nhạc của họ có nhiều điểm tương đồng với những band như Megadeth, Coroner hay Sabbat. Quê hương của nhóm ở Đan Mạch, cũng là quê hương của tay trống Lars Ulrich nên họ cũng khá thân thiết với Metallica và thường lưu diễn cùng nhóm này trong những năm đầu sự nghiệp. Thành lập từ năm 1982 nên có một số người cho rằng nhóm này mới chính là band đầu tiên chơi Thrash Metal chứ không phải các đại diện đến từ Mỹ. Trong những năm đầu thập kỷ 80, tức là trước khi tung ra album đầu tiên của mình, nhóm đã được nhiều fan hâm mộ trên thế giới biết tới qua những bản demo như We Are The Dead -82 hay Shellshock và Deeds Of Darknes vào năm 84. Tuy nhiên khi nhóm tung ra album thực sự đầu tiên Fear Of Tomorrow thì đa phần fan hâm mộ lại thất vọng. Nguyên nhân chính là do việc sản xuất và thu âm quá kém. Nhưng album thứ 2 của họ thì chất lượng thu âm có khá hơn . Chỉ với 8 bài hát, nhưng được fan hâm mộ vô cùng yêu mến vì đã chuyển từ âm nhạc khá đơn giản của album trước sang thứ âm nhạc đầy kỹ thuật.
    Nhưng phải đến album cuối cùng là Inheritance thì Artillery mới đạt đến đỉnh cao của mình. Album này là sự kết hợp giữa Technical Thrash với giọng hát có nhiều điểm tương đồng với Ronnie James Dio. Artillery tan rã vào năm 1991, 1 năm sau khi cho ra đời Inheritance để lại rất nhiều sự tiếc nuối trong lòng người hâm mộ. Sau vài lần tái lập, nhóm mới cho ra đời album tiếp theo When Death Comes vào năm 2009 , My Blood vào năm 2011, cả hai album trên được đánh giá khá cao của giới hâm mộ. Album gần đây nhất là Legions năm 2013.
    Terror Squad

    By Inheritance

    10.000 devils

    Warrior Blood
     
  23. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Annihilator

    Annihilator​


    Là band nhạc Metal thành công nhất trong lịch sử của Canada với khoảng hơn 2 triệu bản bán được trên toàn thế giới, Annihilator còn là một trong những tượng đài của Thrash Metal. Trong sự nghiệp kéo rất dài của mình, mặc cho sự thay đổi rất nhiều, đôi lúc chỉ còn 1 hoặc 2 người với Jeff Walters chơi tất cả các nhạc cụ, nhưng band vẫn liên tiếp cho ra đời 14 albums tính đến thời điểm hết năm 2013 (con số này chỉ thua kém Overkill trong dòng nhạc Thrash mà thôi). Trong số những album này thì 2 album đầu tiên là Alice In Hell -89 và Never, Neverland -90 đã trở thành những album kinh điển của dòng nhạc Thrash Metal. Với lối chơi đậm chất kỹ thuật mang nhiều thử nghiệm và âm hưởng của progressive rock đã biến Annihilator trở thành một band Thrash Metal vô cùng được yêu mến, đặc biệt là những người yêu thích Megadeth hay Anthrax thì càng không thể bỏ qua. 2 album đầu tiên đưa nhanh chóng đưa họ lên thành những ngôi sao mới nổi của dòng nhạc Thrash Metal thế giới dù có sự thay đổi trong giọng hát chính. Tuy nhiên đến album thứ 3- Set The World On Fire thì cũng như những band khác cùng thời, họ hướng tới số đông đại chúng khán giả hơn với những giai điệu dễ nghe. Dù khá thành công tại châu Âu nhưng lại bị khán giả ở Bắc Mỹ ngoảnh mặt. Đồng thời lúc này, Thrash không còn thịnh hành nữa khiến band mất hợp đồng với hãng Roadrunner. Chính những điều này khiến band tan rã và trở thành một phiên bản solo của riêng Jeff Waters khi anh chơi hết các nhạc cụ (trừ trống) trong album King Of The Kill. Thậm chí đến album Remains- 97, Waters còn chơi tất cả nhạc cụ và dùng trống điện mà không cần đến một tay trống thực thụ nữa. Dù sau này, Waters tái lập lại band với 5 rồi 3 thành viên và liên tục tung ra các album Thrash và cũng được đánh giá khá cao nhưng không bao giờ Annihilator còn có thể có những album kinh điển như Alice In Hell hay Never Neverland nữa cả.
    Alice In Hell

    Stonewall

    Phoenix Rising - bản ballad nhẹ nhàng được yêu thích của Annihalator

    King Of The Kill, album solo đầu tiên của Jeff Waters

    No Way Out trong album mới nhất Feast - 2013
     
  24. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Cacophony

    Cacophony​

    Như đã nói ở phần đầu, Speed Metal ra đời cũng lúc với Thrash nhưng Speed thì chịu ít ảnh hưởng của punk rock hơn, bài hát thường hiền hơn và chịu ảnh hưởng ít nhiều từ neo classical – nhạc cổ điển mới. Trong số những band tiêu biểu có thể kể đến Racer X, Cacophony, Helloween, Rage, Running Wild… Tuy nhiên 3 đại diện cuối cùng đến từ Đức chỉ chơi Speed Metal trong một số album đầu, sau đó họ chuyển ngay sang Power Metal. Trong các band trên, đại diện tiêu biểu nhất ta sẽ nói đến chính là Cacophony. Cacophony thành lập từ năm 1986 bởi cặp đôi guitar huyền thoại Marty Friedman và Jason Becker. Âm nhạc của Cacophony dựa rất nhiều vào kỹ thuật chơi nhạc tuyệt vời của cặp đôi này, các bài hát tiết tấu rất nhanh với những đoạn solo đậm tính giai điệu kết hợp với những ảnh hưởng của Heavy Metal cổ và Neo Classical. Và tất nhiên là sự tung hứng và hiểu ý nhau đến khó tin giữa Friedman và Becker. Rất nhiều bài hát của cặp đôi này là không lời (instrumental). Cặp đôi này chỉ tung ra 2 albums là Speed Metal Symphony -87 và Go Off -88. Trong đó album đầu tiên của họ gây shock trong giới Metal lúc bấy giờ bởi kỹ thuật chơi nhạc shredding tuyệt đỉnh của cả Becker và Friedman. Album này được bầu là album shredding guitar xuất sắc thứ 9 trong lịch sử bởi tạp chí Guitar World. Chỉ có một điểm yếu duy nhất của album này chính là lyrics và giọng ca nghiêng về Hard rock của Marrino thực sự không phù hợp với âm nhạc của Cacophony. Với nhiều fan hâm mộ thì giọng ca của anh này chính là nhân tố chính “phá hủy” âm nhạc của Cacophony. Album Speed Metal Symphony chính là album kinh điển của Speed Metal. Thế nhưng, sau khởi đầu đầy hứa hẹn, điểm yếu chết người trong giọng hát lại hủy diệt Cacophony. Album tiếp theo của họ là Go Off là một thất bại thảm hại về mặt thương mại, điều này dẫn đến sự tan rã của Cacophony dù họ đã tạo dựng được tên tuổi rất lớn. Becker và Friedman cùng theo đuổi sự nghiệp solo với 2 album kinh điển của Speed Metal là Perpetual Burn và Dragon’s Kiss vào năm 88. Phần còn lại của câu chuyện thì có lẽ chúng ta ai cũng đã biết: Marty Friedman gia nhập Megadeth vào năm 1990 còn Becker thì gia nhập band Glam Metal của David Lee Roth – giọng hát chính của Van Halen. Nhưng sau đó không lâu thì Becker lâm bệnh nặng: một căn bệnh có tên là amyotrophic lateral sclerosis khiến anh không thể chơi nhạc được nữa. Sau đó, căn bệnh này còn khiến anh không thể cử động và nói được. Dù không thể nói và cử động được nhưng trí tuệ của Becker vẫn hết sức minh mẫn, với sự trợ giúp của của máy tính và những bạn chơi guitar khác, anh vẫn tiếp tục sáng tác và tung ra album. Tuy nhiên sẽ không tay guitar nào có thể chơi nhạc của Becker như bản thân anh đã từng chơi. Căn bệnh quỷ quái này đã cướp đi của thế giới Metal một trong những tay guitar tài năng bậc nhất, để lại rất nhiều nỗi xót thương và luyến tiếc cho người hâm mộ.
    Speed Metal Symphony

    Ninja

    Go Off!

    Perpetual Burn - trong album solo cùng tên của Jason Becker


    Forbidden City - trong album solo Dragon's Kiss của Marty Friedman
     
  25. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Pantera

    Pantera
    Pantera thành lập từ năm 1984 và là một trong những band nhạc Metal thành công nhất trong thập kỷ 90 với một chuỗi 5 album kinh điển. Tuy nhiên, khởi đầu sự nghiệp thì Pantera lại không mấy thành công. Lúc đầu họ chơi thể loại nhạc Power Glam Metal với nhiều nét tương đồng với Motley Crue. Sau 4 albums chơi Glam Metal là : Metal Magic -83, Projects In The Jungle -84, I Am The Night -85 và Power Metal -88, Pantera bất ngờ chuyển hướng sang Groove Metal. Ngay từ album đầu tiên chơi Groove Metal, với thứ âm nhạc mạnh hơn rất nhiều, họ lập tức trở thành những ngôi sao sáng trên bầu trời Metal thế giới. Như ta đã biết, Groove Metal là một nhánh nhỏ của Thrash Metal với tiết tấu hơi chậm hơn và những đoạn riff lặp đi lặp lại, những đoạn solo guitar chịu nhiều ảnh hưởng của blues rock và giọng hát thì chịu nhiều ảnh hưởng hardcore (khàn). Groove Metal thực ra không phải do Pantera sáng tạo ra mà do một band khác là Exhorder, nhưng chính Pantera mới là band nhạc đưa dòng nhạc này ra ánh sáng và trở thành một trong những nhánh nhạc chính thống của Heavy Metal. Trong những năm đầu và giữa thập kỷ 90, khi Thrash Metal dần đi xuống thì Groove Metal lại là lên ngôi. Có những thời điểm Groove Metal đã được coi là một nhánh riêng nhưng sau này khi thời gian qua đi, xu hướng chung lại cho rằng Groove chưa đủ sự khác biệt và số lượng band để tạo thành một nhánh riêng. Sự thành công của Pantera đã sản sinh ra một loạt các band Groove có tên tuổi khác như: Machine Head, DamagePlan, Sepultura – nhóm này chuyển dần sang Groove từ album Arise, và sau này còn có một đại diện xuất sắc là Lamb Of God. Groove Metal còn ảnh hưởng rất nhiều đến những band Thrash Metal gạo cội khác nữa như Kreator hay Overkill chẳng hạn.
    Thực ra, trong album Power Metal năm 1988 thì Pantera cũng đã bắt đầu có sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm với sự xuất hiện của giọng ca Phil Anselmo. Âm nhạc của nhóm trong album này đã nghiêng về Judas Priest nhiều hơn so với những album trước đó với giọng ca của Terrence Lee nghiêng về Glam Metal của Motley Crue. Sau này Anselmo kết hợp với tay guitar huyền thoại Dimebag Darrell và tay trống Vinnie Paul – Dimebag và Vinnie là hai anh em ruột- và tay bass Terry Glaze, tạo ra bộ khung vô cùng thành công của Pantera sau này. Cần phải nhắc lại là Dimebag là tay guitar hết sức tài năng và đã từng được Dave Mustaine đồng ý cho gia nhập Megadeth từ lúc nhóm còn chưa nổi tiếng, nhưng rồi anh này quyết định ở lại Pantera vì anh trai mình không được vào Megadeth (bài về Megadeth có nói kỹ hơn). Việc Mustaine không nhận anh em nhà Dimebag vào nhóm cũng là một điều hết sức may mắn cho âm nhạc Metal thế giới, nếu họ vào nhóm Megadeth thì chúng ta sẽ không còn có Pantera nữa. Vì có sự khác biệt quá lớn trong hai thời kỳ âm nhạc của nhóm, 4 albums đầu tiên của Pantera thường không được nhắc tới trong list các album của Pantera, lý do chủ yếu là các thành viên của band cảm thấy không thoải mái khi nhắc tới mấy album này.
    Năm 1990, Pantera tung ra album Groove Metal đầu tiên và cũng là album kinh điển đầu tiên của Groove Metal và cũng là album kinh điển của Metal thế giới sau này – đó là album Cowboys From Hell. Với kỹ năng chơi nhạc Shredding tuyệt vời của Dimebag, giọng ca hết sức mạnh mẽ của Anselmo. Một album gần như hoàn hảo với hàng loạt bài hát bất hủ như: Cowboys From Hell, Psycho Holiday, Cemetary Gates, Domination. Dù khởi đầu chậm chạp với vị trí 117 trên bảng xếp hạng của Mỹ nhưng Pantera nhanh chóng nhận được sự chú ý của giới hâm mộ và kết quả là album này đạt được đĩa bạch kim tại Mỹ với hơn 1 triệu bản bán được. Thậm chí ở thị trường Anh, với gu âm nhạc khác biệt so với Mỹ họ cũng đạt được đĩa vàng.
    Cowboys From Hell

    Cemetary Gates

    Domination

    Album tiếp theo của Pantera, Vulgar Display Of Power -1992, thậm chí còn thành công hơn nữa khi xếp hạng 44 tại Mỹ và có mặt trên hơn 10 bảng xếp hạng trên toàn thế giới, lượng đĩa bán ra cũng hết sức thuyết phục với hơn 2 triệu bản tại Mỹ. Đó là về mặt thương mại, về mặt âm nhạc thì album này giọng ca của Anselmo cũng chuyển từ Power Metal sang chịu ảnh hưởng của hardcore. Dimebag cũng đánh mạnh hơn so với album trước. Tuy nhiên đây là album tuyệt vời của Pantera với hàng loạt bài hát để đời như: Walk, This Love, Mouth Of War hay Hollow. Cũng có rất nhiều fan hâm mộ cho rằng đây mới là album đỉnh cao trong sự nghiệp của Pantera và Walk là bài hát phổ biến nhất của nhóm.
    Walk

    This Love

    Hollow
     

Share This Page

Loading...