Sau khi điểm qua các band nhạc đến từ Thụy Điển, chúng ta sẽ tới với nước Mỹ. Trong thập kỷ 70s, nước Mỹ chỉ có Kansas là band nhạc thuộc nhánh Symphonic Prog thành công. Thế nhưng khi Symphonic Rock lụi tàn, quốc gia này lại có vai trò rất quan trọng trong việc hồi sinh Symphonic Prog nói riêng và Prog Rock nói chung. Trong 3 band nhạc quan trọng và thành công nhất thế giới ở trào lưu thứ 3 của Prog Rock, nước Mỹ có Spock’s Beard (Anh Quốc có Porcupine Tree, Thụy Điển có The Flower Kings). Thành công của bộ 3 này là nguồn cảm hứng rất lớn để Prog Rock không những hồi sinh với những band nhạc mới đầy tài năng, mà còn giúp cho nhiều band nhạc cũ tái hợp và ra các album mới. Hầu hết các nhánh nhạc trong dòng lớn Prog Rock đều hồi sinh, kể cả những dòng trước đây khá bị ghẻ lạnh như Neo Prog. Rất nhiều band gạo cội của các dòng này đã trở lại và mạnh mẽ hơn xưa rất nhiều. Chúng ta sẽ đến với những band nhạc chính của Mỹ trong dòng nhạc này. Discipline Trở lại với lịch sử của Symphonic Prog của Mỹ, nếu Thụy Điển có đầu tàu là Anglagard thì vai trò đó tại Mỹ thuộc về Discipline. Số phận của band nhạc này, thật kỳ lạ, khá giống với Anglagard. Nhóm tung ra 2 albums kinh điển trong thập kỷ 90 (một albums rất hay thuộc hàng kinh điển, một kém hơn một chút) rồi biến mất. Sau khi được giới chuyên môn đánh giá rất cao, nhóm bất ngờ quay lại và tung ra một album còn khủng khiếp hơn nữa vào năm 2011 rồi lại chìm dần sau đó. Discipline được thành lập từ năm 87 khi tất cả các thành viên còn rất trẻ, họ mới chỉ ở độ tuổi 17. Trong một thời gian rất dài, họ đã sáng tác được khá nhiều các album demo nhưng không thể tung ra (mãi tới năm 2013, dưới sự đòi hỏi của người hâm mộ, những bản demos này mới được tái bản dưới dạng album tuyển chọn). Dù không có hợp đồng với hãng đĩa, nhóm rất chịu khó lưu diễn và dần tạo được một lượng fan trung thành khá lớn. Mãi tới năm 93, nhóm mới tung ra được albums đầu tay là Push & Profit. Album này có chất lượng khá tốt, nhưng chưa đạt tới mức độ kinh điển. Âm nhạc trong album này chịu ảnh hưởng khá rõ của những band như Marillion, IQ của Neo Prog và King Crimson. Discipline chỉ vươn tới đỉnh cao sự nghiệp của mình với album thứ hai là Unfolded Like Staircase vào năm 97, một album kinh điển của Symphonic Prog. Âm nhạc trong album này có sự sang trọng của Genesis, sự đau đớn, dằn vặt của Van Der Graaf Generator, sự đen tối của King Crimson kết hợp với những âm thanh hiện đại hơn của Marillion, Pendragon, IQ. Album tuyệt hay này có vai trò không kém gì so với Hybris của Anglagard đối với nước Mỹ, biến nhóm nhạc này trở thành một trong những huyền thoại của Symphonic Prog. Tuy nhiên, sự nghiệp của Discipline không suôn sẻ những năm sau đó, sau rất nhiều chuyến lưu diễn, Parmenter, lãnh đạo của band nhạc quyết định chú trọng hơn vào sự nghiệp solo và Discipline lúc này chỉ còn tung ra những albums live. Phải mãi tới năm 2011 (tức là 14 năm sau khi tung ra album kinh điển Unfolded), Discipline bất ngờ quay trở lại và tung ra một album kinh điển khác là To Shatter All Accord. Vẫn là một thứ Symphonic Prog hoành tráng, trang trọng nhưng tràn ngập nỗi buồn, sự đen tối với những bài hát có giai điệu cực tốt (dù rất dài – có bài dài 25 phút) và mang những âm điệu hiện đại hơn. Dù tung ra muộn, đây vẫn là một trong những album hay nhất trong lịch sử của nhánh nhạc này. Sau này Discipline còn tung ra một album nữa là Captives of the Wine Dark Sea -2017 có chất lượng khá tốt. Em có 2 albums kinh điển của nhóm là Unfolded Like Staircase -94 và To Shatter All Accord -2011
Echolyn Echolyn là một trong những nhóm nhạc quan trọng nhất của Symphonic Prog Mỹ và thế giới trong những năm gần đây. Họ cũng là một trong những trụ cột của Symphonic Prog hiện đại, dù có sự nghiệp hết sức khó khăn với nhiều lần tan rã. Nhóm thành lập năm 89 trên cơ sở là các thành viên của nhóm nhạc Narcissus, một nhóm nhạc chuyên đi cover. Tay guitar Brett Kull và tay trống Paul Ramsey lúc này muốn phát triển sự nghiệp bằng cách tự sáng tác các bài hát của riêng mình đã thành lập nhóm nhạc mới lấy tên là Echolyn. Và từ đây câu chuyện của nhóm bắt đầu. Vào năm 91, sau khi ổn định đội hình, Echolyn tung ra album đầu tay cùng tên. Đây là một album rất hay và lạ của Symphonic Prog Mỹ. Âm nhạc trong albums là sự pha trộn của phong cách Neo Prog (kiểu Pallas với IQ) với những ảnh hưởng của Symphonic Prog và Rock N Roll. Với một band nhạc trẻ, đây là một khởi đầu khá hứa hẹn. Năm 1993, Echolyn bất ngờ tung ra album thứ hai là Suffocation In Bloom. Với một bản giao hưởng dài tới 28 phút, nói về tâm trạng đầy thất vọng của band nhạc khi không được bất cứ hãng đĩa nào đoái hoài tới trong album đầu tay. Album đỉnh cao này là một trong những album hay nhất trong lịch sử của Symphonic Prog mới. Album đánh dấu sự phát triển vượt bậc của Echolyn, khiến cho những fan hâm mộ của band cũng phải ngỡ ngàng. Âm nhạc trong album là sự kết hợp gần như hoàn hảo giữa sự phá cách của Gentle Giant với phong cách Symphonic lai với Canterbury của nhóm nhạc Happy The Man. Lúc đầu, album này chỉ có 1000 bản được sản xuất, do bán hết ngay nên nhóm tiếp tục ra thêm 1000 bản nữa, rồi thêm 500 vào năm 95. Sau này, Echolyn còn nhận được bản ghi âm gốc từ hãng nên đã tái bản một lần nữa với số lượng 6000 bản. Tổng cộng chỉ có khoảng 8500 bản được bán ra nên album rất khó kiếm. Dù khó nghe, tính nghệ thuật rất cao của album này đã khiến Echolyn lọt vào mắt xanh của một hãng đĩa khổng lồ trên thế giới- hãng Epic. Năm 94, Echolyn có hợp đồng với hãng đĩa này. Năm 95 nhóm tung ra album thứ 3 là As The World. Dù đây là một album rất hay, nó chưa đạt tới mức đỉnh cao của album trước là Suffocation. Cộng với sự thiếu quan tâm của hãng đĩa trong việc quảng cáo và đầu tư lưu diễn cho band nhạc khiến album không thành công về mặt thương mại. Dù đã ký hợp đồng nhiều album với Echolyn, Epic quyết định tự chấm dứt hợp đồng với band nhạc. Đây là đòn đánh rất nặng vào band nhạc trẻ và họ không gượng dậy nổi, nhóm tan rã sau đó không lâu. Sau khi tan rã, nhóm còn tung ra được một album nữa là When The Sweet Turns Sour-96, là tập hợp các bản demo và biểu diễn live. Album không thực sự hay nhưng cái tên của nó cho thấy sự bất lực và bế tắc của band nhạc. Trong giai đoạn 96-2000, các thành viên của Echolyn theo đuổi nhiều dự án khác nhau nhưng cũng không thực sự thành công. Phải tới năm 2000 nhóm mới tái hợp và tung ra album thứ 5 là Cowboy Poems Free. Trong album này, âm nhạc của Echolyn thay đổi khá nhiều. Ảnh hưởng của Gentle Giant giảm xuống và tính đơn giản của Rock, Country tăng lên cùng với những ảnh hưởng của Jazz. Tuy khác biệt, đây vẫn là album rất hay và được giới chuyên môn chào đón. Nó là động lực rất lớn để Echolyn tung ra tuyệt phẩm tiếp theo – Mei. Mei được tung ra vào năm 2002 là một bản giao hưởng của nhạc Rock. Nói là album nhưng đây thực chất là một bài hát dài gần 50 phút. Để tăng tính giao hưởng cho album, nhóm đã thuê một bộ gỗ và bộ dây của dàn giao hưởng vào chơi cùng. Với phong cách giao hưởng, rất nhiều đoạn hòa tấu, tưởng chừng như album rất khó nghe, nhưng không phải, phần lớn các đoạn trong album có giai điệu dễ nghe và dễ nhớ, mang âm hưởng của cả Hard Rock và Symphonic Prog. Album này, gần như ngay lập tức cũng tiến tới trở thành album kinh điển của Symphonic Prog. Thành công của Mei đã khiến cho Echolyn phát triển một thứ âm nhạc riêng biệt, rất phức tạp của riêng họ. Bao gồm Symphonic Prog, Jazz, Hard Rock, nhạc làng quê Pastoral và cổ điển. Band nhạc còn tung ra những album rất hay như: The End Is Beautiful -2005, Echolyn -2012 và I Heard You Listening -2015. Trong đó Echolyn -2012 đang trên đường trở thành một album kinh điển của Symphonic Prog mới. Echolyn là một band nhạc rất đặc biệt với những sáng tạo bất ngờ và khá đơn độc trong dòng nhạc Symphonic Prog. Âm nhạc của nhóm có nhiều tính phá cách và thử nghiệm của Gentle Giant kết hợp với giai điệu đẹp của nhạc mainstream và giao hưởng. Trong lịch sử của mình, nhóm chưa bao giờ tung ra một album có chất lượng kém (ngoại trừ album tuyển chọn When The Sweet Turns Sour). Hiện nay, nhóm đang ở trong thời kỳ tái thiết lại band nhạc và đang chuẩn bị cho ra album mới. Một band nhạc rất hay của Symphonic Prog Mỹ. Em có các albums lần lượt từ trái sang phải từ trên xuống dưới: Suffocation In Bloom -93, As The World -95, When The Sweet Turns Sour-96, Cowboy Poems Free-2000, Mei - 2002, The End Is Beautiful -2005, Echolyn -2012 và I Heard You Listening -2015.
Glass Hammer Glass Hammer là một trong những đại diện tiêu biểu cho Symphonic mới của Hoa Kỳ. Nhóm thành lập từ năm 92 bởi cặp đôi Steve Babb (lấy nghệ danh là Stephen DeArqe) và Fred Schendel. Cả hai đều là những nghệ sỹ có thể chơi rất nhiều nhạc cụ Babb tập trung vào bass, keyboards còn Schendel là chơi guitars, keyboards và trống. Do cùng yêu thích Lord Of The Rings của Tolkien, cả hai bắt tay vào viết một album (concept có cốt truyện) dựa trên nhân vật Aragorn (của tác phẩm Lord Of The Rings). Band tung ra albums này vào năm 92. Thực ra đây không phải là một album có chất lượng tốt vì lúc này các thành viên còn trẻ và cốt truyện thì phức tạp và quá tầm. Âm nhạc trong albums chịu nhiều ảnh hưởng của những band như ELP, Yes và Kansas (dựa nhiều vào khả năng chơi keyboards) nhưng chưa hay và có phần mất phương hướng. Cặp đôi do không có tiền nên chơi toàn bộ nhạc cụ (sử dụng trống điện) và cả hát chính, rồi tự sản xuất. Thế nhưng, không biết có phải do artwork khá đẹp mắt, nội dung về chủ để khá ăn khách lúc ấy không mà albums này lại khá thành công khi bán được vài nghìn bản thông qua mạng internet, đặt hàng qua phone, TV… Thành công này đã khiến cho cặp đôi này ngạc nhiên và quyết định theo đuổi sự nghiệp âm nhạc nghiêm túc hơn. Không giống như Echolyn hay Discipline, Glass Hammer cần rất nhiều thời gian để trưởng thành. Sau khi trở thành một band nhạc thực sự (band này chủ yếu chơi trong studio và ra albums chứ gần như không lưu diễn), nhóm vẫn loạng choạng với những albums kiểu ELP, Yes với những giọng hát kiểu Pop. Dù liên tục tung ra các albums (khoảng 2 năm một đĩa), chất lượng các albums chỉ ở mức trung bình khá. Sự nghiệp của họ chỉ tiến lên khi bước vào thập kỷ 2000s trong album thứ 6 là Lex Rex -2002. Là một band nhạc chịu nhiều ảnh hưởng của Prog Rock cổ, Glass Hammer càng chơi càng lên tay, đặc biệt là trong những năm gần đây. Các albums của họ có chất lượng ngày càng tốt hơn. Họ cũng có sức sáng tạo rất lớn với khoảng 20 albums studio. Âm nhạc thì chịu nhiều ảnh hưởng của Symphonic Prog cổ với keyboards chủ đạo và các bài hát nghiêng nhiều hơn về phía giai điệu. Band nhạc chủ yếu tung ra những albums concept có cốt truyện. Về mặt ca từ, họ thường lấy cảm hứng từ các tác phẩm văn học đặc biệt là Tolkien, C. S. Lewis và John Krakauer, văn xuôi thời đại Victoria và các truyền thuyết, thần thoại thời kỳ Trung cổ. Với sự nghiệp kéo dài, nhóm gây dựng được lượng fan hâm mộ đông đảo và trở thành một trong những nhóm Symphonic nổi tiếng nhất của Mỹ trong những năm gần đây. Những albums tiêu biểu có thể kể đến: Lex Rex -2002, If -2010, Perilous -2012, Valkyrie -2016. Em có 6 abums của nhóm: Cor Cordium -2011, If-2010, Perilous -2012, Ode To Echo -2014, The Breaking Of The World -2015 vaf Valkyrie -2016
Band này có rất nhiều bìa đĩa cực đẹp. Nhạc thì tùy từng albums, những albums gần đây nghe có chất lượng rất ổn.
Spock’s Beard Spock’s Beard là một trong những band nhạc lớn và thành công nhất của Prog Rock thế hệ thứ ba. Tuy nhiên so với những band nhạc trụ cột khác của dòng nhạc này, sự nghiệp của nhóm có rất nhiều thăng trầm và kịch tính. Âm nhạc của Spock’s Beard chịu rất nhiều ảnh hưởng của những nhóm nhạc Prog Prog thời kỳ đầu như Yes, Genesis, Kansas, King Crimson và đặc biệt là Gentle Giant. Nhóm cũng quy tụ các nghệ sỹ có tài năng chơi nhạc cụ cao nên âm nhạc của nhóm mang nhiều âm hưởng của Symphonic Prog cổ, tức là lối chơi nhạc chặt chẽ, yêu cầu cao, trau chuốt, hoành tráng và phức tạp với kỹ năng chơi nhạc rất tốt. Dù là một band Mỹ nhưng âm nhạc của nhóm giống với Anh Quốc hơn. Nhóm nhạc này thành lập tại Los Angeles, Mỹ vào năm 1992 bởi anh em Neal (vocal, keyboards) và Alan Morse (guitars). Trước đó, cặp đôi này đã chơi cùng nhau trong khá nhiều bands nhưng không mấy thành công nên dự định của họ là lập một band nhạc riêng, chỉ có hai anh em chơi với nhau. Nhưng sau đó, họ đổi ý khi gặp một số nghệ sỹ có kỹ năng rất tốt nên kết nạp thêm Nick D’Virgilio (trống) và Dave Meros (bass) vào band. Bộ tứ này ghi âm album đầu tay kinh điển The Light và tung ra vào năm 95. Với bản giao hưởng kinh điển The Light dài hơn 15 phút, kỹ năng chơi nhạc siêu việt nhưng lại có giai điệu hay và dễ nhớ, đây là một trong những album kinh điển đầu tiên của Symphonic Prog mới. Dù không có hãng đĩa nào ký hợp đồng và chỉ là một album mà band tự bỏ tiền ra làm (self released), album rất thành công và giúp cho nhóm có một lượng fan hâm mộ khá đông đảo. Sau này, do đòi hỏi của người hâm mộ , có khoảng 5-6 hãng đĩa đã mua bản quyền và phát hành lại album kinh điển này, trong đó có Metal Blade, SPV và Inside Out. Yêu cầu về lưu diễn đã khiến nhóm phải mời thêm một tay keyboards người Nhật là Ryo Okumoto vào chơi cùng, đây là đội hình vàng trong chương đầu tiên của band nhạc. Với sức sáng tạo rất lớn, nhóm tiếp tục tung ra các albums hay là Beware Of Darkness -96, The Kindness Of Strangers-98 và Day For Night -99. Sau đó, nhóm vươn tới đỉnh cao trong sự nghiệp với 2 siêu phẩm V -2000 và Snow-2002. Nếu như V gồm các bản nhạc rất dài (có bài hơn 30 phút) với nhiều âm hưởng Symphonic Rock cổ (sử dụng keyboard cơ) kết hợp những giai điệu đẹp của Hard Rock ở trình độ chơi nhạc rất cao thì Snow lại là một album kép, concept với cốt truyện về một người đàn ông trẻ từ miền Trung nước Mỹ tới New York sống và vươn lên. Một album rất hay có nhiều điểm tương đồng với The Lamb Lies Down On Broadway của Genesis. Khi sự nghiệp của Spock’s Beard tưởng như đang đi rất đúng hướng thì band nhạc lại chịu tổn thất nặng nề. Hầu như tất cả các bài hát của nhóm đều do Neal Morse sáng tác, nhưng lúc này ông tìm thấy chân lý trong tôn giáo (Thiên Chúa) và mong muốn chuyển sang hát về Chúa nhiều hơn. Nhưng Neal lại không muốn các thành viên khác của nhóm phải chịu đựng mình nên quyết định rời nhóm để theo đuổi sự nghiệp solo. Tay trống Nick D’Virgilio đảm nhận vai trò hát chính và Spock’s Beard loạng choạng bước vào giai đoạn thứ hai của sự nghiệp. Sự thay đổi trong âm nhạc của nhóm là không thể tránh khỏi khi người sáng tác chính ra đi. Lúc này sáng tác trở thành công việc chung của cả nhóm, các bài hát trở nên ngắn, mang nhiều âm hưởng của Pop, Rock hiện đại hơn là Symphonic. Âm nhạc khá mạnh và chịu ảnh hưởng nhiều của King Crimson. Những khó khăn và mất phương hướng này thể hiện khá rõ ở hai albums: Feel Euphoria -2003 và Octave -2005. Nhưng sau đó thì nhóm dần chơi lên tay trong album Spock’s Beard -2006 và vươn tới đỉnh cao của giai đoạn hai với album X -2010. Tuy nhiên, một lần nữa nhóm nhạc lại mất đi thành viên trụ cột của mình khi đang đi đúng hướng. Lần này không phải do tôn giáo nữa. Số là, tay trống Nick D’Virgilio lúc này còn tham gia viết nhạc cho gánh xiếc nổi tiếng thế giới Cirque du Soleil. Công việc quá bận và gây ra những ức chế với các thành viên khác trong band nhạc. Trước tình hình căng thẳng tăng cao, ông này quyết định rời nhóm. Một lần nữa Spock’s Beard rơi vào bất ổn. Nhưng do đã có kinh nghiệm, lần này nhóm thích nghi tốt hơn. Nhóm mời giọng hát chính của nhóm Enchant là Ted Leonard thay thế cho Nick D’Virgilio. Band nhạc bước vào thời kỳ thứ ba. Ở đây chúng ta cũng cần giải thích qua về Enchant. Đây là một nhóm nhạc Progressive Rock mới của Mỹ, nhưng trường phái họ theo đuổi là Neo Prog chứ không phải Symphonic. Với những nhóm Neo Prog, giọng hát thường rất quan trọng và Enchant không phải ngoại lệ Leonard có giọng rất tốt, mang nhiều tham vọng và biểu cảm. Sự kết hợp này, cộng với sự trợ giúp của Neal Morse (sáng tác 2 bài) và sự trở lại với Symphonic cổ đã khiến album đầu tiên của nhóm trở thành một trong những tuyệt phẩm. Đó là album - Brief Nocturnes And Dreamless Sleep -2013. Nhóm tiếp tục phong cách mới rất hay với tuyệt phẩm The Oblivion Particle -2015 và album khá hay Noise Floor -2018 (album chứng kiến sự trở lại của D’Virgilio trong vai trò drums). Dù trải qua nhiều thăng trầm, sự nghiệp của Spock’s Beard rất đáng tự hào. Họ có những album rất hay xứng đáng thuộc hàng siêu phẩm của Symphonic Prog mới như V hay Brief. Bộ sưu tập của em gồm: 19 albums của nhóm 6 albums dưới thời kỳ của Neal Morse gồm: The Light-95, Beware Of Darkness -96, The Kindness Of Strangers-98, Day For Night -99, V-2000 và Snow-2002. Riêng Snow em có 1 bản promotion, 1 bản digibook và 1 bonus CD. Các albums thời kỳ D'Virgilio hát chính gồm: Feel Euphoria -2003 (boxset), Octave -2005 (digibook), album cùng tên Spock’s Beard -2006 và X-2010. Spock's Beard còn là những band nhạc chơi live rất hay, em có 4 albums live của nhóm gồm Here And There-2001, Gluttons for Punishment -2005, The X Tour-Live -2012 và Snow Live -2017. Album tuyển chọn The First Twenty Years 2015 và các album thời kỳ Ted Leonard gồm: Brief Nocturnes And Dreamless Sleep -2013 và Oblivion Particle -2015
1 tg những thách thức rất lớn cho dân nghe cho vui mà ko sưu tầm như em là hội này ra nhiều albums quá, nhìn qua đã phát hoảng! Em mới có 1 album, mua đến cái thứ 2 thì bị thất lạc ko về dc nên tự nhiên thấy cảm giác như định leo núi mà mới đến chân núi đã vấp ngã, chưa ngóc lên dc Cái V em mua về nhạc cảm giác ban đầu nhạc chơi cũng hay. Nhưng mà rock thì em thích có cái gì hoặc tăm tối, hoặc điên loạn, ko ít ra thì cũng phải báng bổ 1 tí nó mới đã. Cái album này họ có vẻ hơi hiền. Chắc đợi 1 thời gian hồi thì sẽ cố leo núi tiếp
Thực ra nó cũng vừa phải thôi bác, cái chính là phải tìm hiểu nó. Nếu bác thích Prog Rock thì đây mới chỉ là một phần rất nhỏ thôi (1 trong 20 nhánh nhỏ).
Thực ra thì Spock's Beard chơi theo phong cách ít bị Metal hóa. Neal Morse solo có nhiều album có lẽ còn hay hơn cả Spock's Beard.
Neal Morse Khi còn trẻ ước mơ của Neal cũng giống như bao người khác - tìm thấy thành công trong thế giới nhạc Pop. Nhưng sau nhiều năm vật lộn trong bối cảnh vừa là ca sĩ kiêm nhạc sĩ ở Los Angeles, anh nhận ra rằng ước mơ của mình sẽ không thể trở thành hiện thực. Để giải thoát khỏi sự khôn ngoan thông thường, Neal đã thực hiện một bước đi đầy can đảm: anh đối mặt với thực tế và cống hiến hết mình cho progressive rock, tình yêu thực sự trong sâu thẳm trái tim anh. Thể loại nhạc khó hiểu, cạnh tranh khốc liệt nhưng lại ít có cơ hội thành công về mặt thương mại. Dù biết trước khó khăn, anh vẫn không nản lòng và thành lập band nhạc có tên gọi kỳ quặc SPOCK'S BEARD cùng với anh trai của mình, Alan. Band đã thu âm album đầu tay The Light với toàn bộ số tiền mà họ tích góp được. Sự đặt cược này mang lại kết quả bất ngờ, album là một thành công đột phá, làm chấn động cộng đồng khá nhỏ bé của Prog Rock. Trong 10 năm sự nghiệp với Spock's Beard, Neal là người sáng tác chính và giúp cho nhóm phát hành 10 CD (6 studio albums) được giới phê bình đánh giá cao và giúp nhóm vươn lên dẫn đầu thế giới Prog. Neal cũng đã phát hành 6 CD albums lớn nhỏ với TRANSATLANTIC, "siêu nhóm" prog bao gồm những nhạc sĩ prog giỏi nhất thế giới ở thời điểm bấy giờ. Neal cuối cùng đã tìm được thành công mà anh hằng mơ ước. Trong khi vẻ ngoài Neal có tất cả; thì sâu thẳm bên trong nội tâm phức tạp của mình, vẫn còn thiếu một thứ gì đó. Morse nhận ra rằng đối với anh, việc nắm lấy đức tin Cơ đốc chính là sự hoàn thành nhiệm vụ về mặt tinh thần của mình. Bước đi ngay sau đó của anh rất đột ngột – khiến mọi người hoàn toàn bất ngờ: anh sẽ tiếp tục chơi nhạc nhưng chỉ để ca ngợi Chúa trời. Sự căng thẳng tinh thần cộng với sự thành công ngày càng tăng về mặt thương mại của Spock’s Beard trong album kinh điển Snow -2002, đã khiến Morse rời bỏ band nhạc này. Kể cả khi Transatlantic thành công rất lớn cũng không làm cho Morse đổi ý, anh quyết định rời cả nhóm này để đi theo tiếng gọi của Chúa và bắt đầu mọi thứ từ đầu cả về âm nhạc, tình cảm và tinh thần. Cần nói thêm là trước khi rời khỏi Spock’s Beard, Morse đã có 2 albums solo lần lượt là Neal Morse -99 và It’s Not To Late -2001 theo phong cách Pop Rock thông thường với chất lượng không có gì nổi bật. Nhưng không biết có phải do Chúa soi đường không mà sau đó sự nghiệp của Morse phát triển rất mạnh, với những albums đầy tham vọng. Khởi đầu bằng album Testimony -2003, ghi lại hành trình tinh thần và âm nhạc của anh bằng lời và nhạc. Album kép dài hơn hai giờ này gần như là một bản nhạc liên tục. Nó có nhiều phong cách từ Pop – Rock, tới Prog rồi chuyển sang giao hưởng, tới một dàn hợp xướng đầy đủ rồi sang Hard rock. Album đưa người nghe vào một cuộc hành trình hấp dẫn độc đáo như chính con người đằng sau nó vậy. Nó đến từ trái tim của Morse. Điểm yếu lớn nhất của album này có lẽ chính là lời hát về chủ đề tôn giáo và Chúa Trời. Dù không mấy thành công về thương mại, về mặt nghệ thuật, Testimony là một thành tích solo đáng kể. Neal không chỉ viết, chuyển soạn (cho giao hưởng) và sản xuất mà đồng thời kiêm hát chính và chơi hầu hết các loại nhạc cụ: guitar, keyboard, piano. Vai trò trống được sự trợ giúp của huyền thoại Mike Portnoy (Dream Theater). Báo chí chính thống và giới chuyên môn đều ca ngợi Testimony là một trong những album progressive rock hay nhất trong năm. Nó đã nhận được nhiều danh hiệu, từ tạp chí Progressive World (Top 5 Album) đến The National Review (10 Best of the Year). Tour lưu diễn vòng quanh thế giới tiếp theo (sau này trở thành album Testimony Live) đã giành cho anh giải thưởng "Tour nhạc rock xuất sắc nhất" tại Cuộc bình chọn nhạc Rock Progressive của Hà Lan, vượt qua các đề cử của Peter Gabriel, Radiohead, Rush và những người khác. Neal cũng giành giải Album xuất sắc nhất cho album phòng thu là Testimony. Sau tour lưu diễn này, tạp chí Classic Rock của Anh đã đưa anh vào danh sách "100 ca sỹ (frontmen) vĩ đại nhất của Rock". Sau những thành công rất lớn của album Testimony, Morse mạnh dạn đưa sự nghiệp âm nhạc của anh lên tầm cao mới với việc kết hợp với Mike Portnoy và tay bass Randy George để sáng tác và ghi âm những album tiếp theo. Sự kết hợp rất đúng đắn này đã làm cho sự nghiệp của Morse phát triển rất nhanh với 2 siêu phẩm của Symphonic Prog là One -2004 và ? (Question Mask)-2005. Tuy nhiên, sau những album kinh điển của Symphonic Prog, Morse lại tiếp tục với những album theo phong cách Pop Rock thuần túy, đơn giản và ca ngợi Chúa. Đến tận thời điểm hiện tại Morse vẫn tiếp tục với hai phong cách khác biệt Symphonic Prog và Pop/Rock. Đa phần những album Symphonic Prog của anh đều có chất lượng rất cao, nhiều albums đạt tới mức siêu phẩm như: Solar Scriptura -2007 album cực kỳ hay và mạnh mẽ với nhiều ảnh hưởng của Metal và cổ điển, Testimony 2 -2011, Momentum -2012, Grand Experiment -2015 và The Similitude Of A Dream -2016. Những albums Pop Rock thì ngược lại, rất tầm thường. Với sức sáng tạo rất lớn, hiện Morse đã có tới 30 albums. Khoảng 1/3 trong số này là những albums mà các fan của Prog Rock không thể bỏ qua. Bộ sưu tập của em gồm 16 albums Những albums theo trường phái Symphonic có chất lượng cực tốt gồm(từ trên xuống dưới - từ trái sang phải):The Similitude Of A Dream -2016; Testimony -2003, Testimony - Bonus CD, Testimony2 -2011; One -2004, ?-2005, tuyệt phẩm Solar Scriptura -2007; Lifeline-2008, Grand Experiment -2015,Momentum -2012. Những albums theo phong cách Pop/Rock Christian gồm: God Won't Give Up -2005, Neal Morse -1999; Send The Fire -2006, The River -2009, Songs From November -2011; Thỉnh thoảng Morse còn tung ra những albums cover những band Rock khá phổ biến từ The Beatles tới U2.... Em có album Cover To Cover -2006 Neal Morse có khá nhiều điểm gần giống với Roine Stolt. Morse chắc được Chúa dẫn đường trở thành ngôi sao còn với Stolt thì người dẫn đường là Prog Rock. Tuy nhiên, cả hai đều có những albums rất hay. Với Morse là ? và Solar Scriptura. Ông này còn tham gia vài band nữa mà chúng ta sẽ gặp ở phần sau. Những album Pop Rock của Morse đa phần rất dở nhưng do trước đây em chưa chú ý và mua nhầm. Sau này thì mình rút kinh nghiệm dần nên mua đĩa của ông này cần phải chú ý kỹ xem thể loại gì.
Em đang thử bid 1 cái CD của Echolyn về nghe xem sao. Nghe qua trên mạng thì em thấy nhạc hao hao Gentle Giant, mà dạo này ko biết sao nghe GG thấy hay quá đi mất!
Echolyn được coi là Gentle Giant của Mỹ mà bác, âm nhạc chịu nhiều ảnh hưởng của GG lắm. Ngoài ra thì còn chịu ảnh hưởng của Happy The Man, một nhóm Eclectic Prog cực hay nữa của Mỹ (GG cũng là Eclectic). Nhóm này nếu nhìn thấy 3 cái là Suffocation In Bloom, Mei và Echolyn (Windows) thì nên mua ngay, đặc biệt 2 cái đầu cực hiếm. Nhóm này có điểm đặc biệt là thường làm những albums dễ nghe hơn để kiếm tiền, sau đó làm một cái chất lượng nghệ thuật cực cao (các bài hát rất dài). Nhưng đây là nhóm có tài, các bài hát dù ngắn hay dài chất lượng đều rất tốt. Chỉ có mỗi cái As The World là dễ kiếm thì phải (vì của hãng Epic) những cái khác hơi khó tìm.
Transatlantic Transatlantic là một trong siêu nhóm nổi tiếng nhất trong lịch sử của Prog Rock. Không giống như ELP hay các siêu nhóm khác, đây là một dự án kiểu side project – tức là các thành viên chỉ tập hợp trong một thời gian rồi trở về với band nhạc chính của mình. Dự án này được lên kế hoạch bởi cặp đôi Mike Portnoy – tay trống huyền thoại của nhóm nhạc Prog Metal - Dream Theater và Neal Morse của Spock’s Beard. Portnoy vốn là một fan hâm mộ trung thành của Prog Rock trong đó Spock’s Beard, Fates Warning và Marillion. Lúc này thì Prog Rock đã hồi sinh mạnh mẽ, các band như Dream Theater, Spock’s Beard và cả Fates Warning đều có những albums rất hay. Portnoy liên lạc với Morse và Jim Matheos (tay guitar của Fates Warning) để thành lập nhóm mới. Cả 2 đều đồng ý, và bộ 3 thuê thêm tay bass Pete Trewavas của Marillion nữa. Nhưng sau đó không lâu, do bận nhiều việc nên Matheos không thể tiếp tục, Morse giới thiệu Roine Stolt vào thay thế. Band nhạc lúc này có 2 thành viên từ Mỹ và 2 từ châu Âu, rất phù hợp với tên gọi xuyên Đại Tây Dương, và sự nghiệp của Transatlantic bắt đầu. Nhóm tung ra album đầu tay là SMPT:e (đây là một cách chơi chữ, vừa là chữ cái đầu của các thành viên band nhạc, vừa là một thiết bị ghi âm Hi End) vào năm 2000. Đây là một album theo đúng phong cách Symphonic cổ ở thập kỷ 70s với những bài hát rất dài (có bài hơn 30 phút). Tuy cả 4 người đều tham gia sáng tác, nhưng âm nhạc của nhóm giống như sự pha trộn của Spock’s Beard và The Flower Kings vậy. Chắc rằng vai trò sáng tác của Morse và Stolt cao hơn so với 2 thành viên còn lại. Album này được giới chuyên môn đánh giá rất cao và khá thành công tại Đức. Trên đà thành công, nhóm tung ra album thứ hai là Bridge Across Forever năm 2001, album này cũng toàn những bài hát rất dài (2 bài dài hơn 26 phút, 1 bài 15 phút). Nó thậm chí còn tốt hơn cả album trước đó khi những ảnh hưởng của Spock’s Beard và The Flower Kings đều giảm đi rất nhiều, âm nhạc mang nhiều âm hưởng của Symphonic Rock cổ với hơi hướng hiện đại hơn của Hard Rock, Modern Rock và Blues. Lúc này nhóm đã trở thành một band thực sự với ý tưởng rõ ràng, kỹ năng chơi nhạc cũng được cải thiện và ăn ý hơn. Sau 2 albums rất hay, Transatlantic dừng hoạt động vì Morse chuyển sang sự nghiệp solo với Christian music như ta đã biết ở phần trên. Phải tới năm 2009, nhóm mới tập hợp lại để tung ra một albums tham vọng nhất trong sự nghiệp là The Whirlwind chỉ với một bài hát duy nhất dài 78 phút. Đây tiếp tục là một albums rất hay với vai trò nổi bật của tay bass Trewavas: thể hiện lối chơi rất nhanh và mạnh khác hẳn với cách chơi tại Marillion và những albums trước của . Đến năm 2014, nhóm tiếp tục tái hợp một lần nữa để tung ra album Kaleidoscope, album này cũng có chất lượng rất tốt. Đầu năm 2021, nhóm tiếp tục tung ra cặp đôi album The Absolute Universe cũng có chất lượng rất tốt. Transatlantic là một band nhạc kiểu super group gồm toàn những gương mặt chủ chốt của Prog Rock thế hệ thứ hai và thứ ba. Nhóm rất thành công tại châu Âu với những albums có chất lượng rất tốt (các albums đều nằm trong Top bán chạy hàng đầu trên nhiều bảng xếp hạng khắp châu Âu). Nhóm có những albums rất hay và chưa bao giờ có một album dở trong sự nghiệp. Trong đó 3 albums đầu tay đều thuộc loại kinh điển của Symphonic, đặc biệt là album thứ hai. Điều rất đáng ngạc nhiên với một band kiểu side project. Em có các albums thứ nhất SMPTE-2000 và thứ hai Bridge Across Forever-2001 Và album Kaleidoscope -2014, The Whirlwind -2009 và album SMPTE bản remastered 2003
Trong trào lưu mới của Symphonic Prog, nước Mỹ đã thay thế vai trò của Anh Quốc trở thành đầu tàu dẫn dắt nhánh nhạc tiến lên. Ngoài những band lớn, nước Mỹ có rất nhiều những band nhạc nhỏ khác, đa phần họ đều có tài dù ít được biết tới. Chúng ta sẽ điểm qua một số band trong bộ sưu tập. Trước tiên là Cairo. Cairo Band nhạc có tên là thủ đô của Ai Cập này cũng là một trong những band đầu tiên chơi Symphonic Prog của nước Mỹ trong những năm 90s. Band thành lập năm 1993 và tan rã vào năm 2001. Vào khoảng những năm đầu thập kỷ 90 thì tay keyboards Mark Robertson và tay trống Jeff Brockman muốn thành lập một band nhạc Symphonic Prog giống như trong thập kỷ 70s và đến năm 94 thì nhóm có hợp đồng với một hãng đĩa chuyên về Prog của Mỹ là Magna Carta. Nhóm ngay lập tức tung ra album đầu tay cùng tên vào năm này. Âm nhạc trong album này chịu nhiều ảnh hưởng của ELP, tức là lối chơi Symphonic dựa nhiều vào kỹ năng chơi keyboards kết hợp với lối chơi hiện đại hơn của Hard Rock những năm 90s. Với một band nhạc trẻ, album đây là một album khá tốt và nhận được nhiều lời khen ngợi của người hâm mộ. Album thứ hai của nhóm tung ra vào năm Conflict and Dreams -1998 chứng tỏ sự trưởng thành rất lớn của band nhạc. Âm nhạc trong album này không còn chịu quá nhiều ảnh hưởng của ELP nữa mà chịu ảnh hưởng của phong cách Neo Prog (Marillion, IQ) và Progressive Metal. Âm nhạc vì thế có phần dễ nghe hơn nhưng vẫn mang nhiều âm hưởng của Symphonic Prog với những bài hát rất dài. Album rất hay và khiến tên tuổi của Cairo được quan tâm nhiều hơn. Năm 2001, nhóm tung ra album cuối cùng trong sự nghiệp là Time Of Legends. Âm nhạc trong album này, một lần nữa lại thay đổi khi tích hợp thêm những âm hưởng của Ambient vào Symphonic Rock. Album này khá hay nhưng không đủ để giúp band nhạc. Những mâu thuẫn nội tại của band nhạc đã khiến nhóm tan rã (trong album cuối cùng nhóm thậm chí còn không có một tay bass và guitar chính thức), Đây là một nhóm khá hay với âm nhạc nghiêng nhiều về Metal trên nền Symphonci Prog (cách tiếp cận khá giống Magellan và Shadow Gallery, hai band sau này rơi vào Heavy Prog và Prog Metal). Em có album thứ hai Conflict and Dreams của nhóm IZZ IZZ là một band nhạc tới từ New York. Nhóm thành lập năm 96 bởi cặp anh em Tom (keyboards, vocal) và John Galgano (bass, guitar). Cặp đôi này, qua giới thiệu của các bạn bè đã thành lập một band nhạc khá lớn với 8 thành viên. Năm 98, nhóm tung ra album đầu tay là Silver Of A Sun. Đây là một album Symphonic Prog với rất nhiều ảnh hưởng từ Yes, Genesis, ELP, King Crimson, Renaissance kết hợp với Pop và nhạc Celtic, cổ điển, Funk, Jazz và cả Latin nữa. Album có chất lượng khá tốt và có nhiều bài hát với giai điệu dễ nhớ. Trong những năm sau đó, nhóm tiếp tục tung ra các albums khá hay với sự pha trộn của rất nhiều những thể loại khác nhau như I Move -2002, Ampersand -2004. Âm nhạc của nhóm bắt đầu thay đổi rất nhiều với sự có mặt của hai phụ nữ là Laura Meade va Ammarie Byrnes. Cả hai tham gia hát chính đồng thời sáng tác thêm nhạc cho nhóm. Âm nhạc của IZZ trở nên đặc biệt hơn rất nhiều so với những album trước. Trước đó, IZZ được coi như một band nhạc biểu diễn. Tức là khi biểu diễn thì âm nhạc của họ nghe còn hay hơn so với thu âm studio. Sau khi Meade và Byrnes tham gia, điểm yếu này của nhóm không còn nữa. Họ thường xuyên tung ra các album có chất lượng rất tốt. Trong đó có bộ 3 albums concept The Darkened Room -2009, Crush of Night -2012 (với sự giúp đỡ của tay guitar Gary Green – nhóm Gentle Giant), Everlasting Instant – 2015 hay album gần đây nhất của họ là Don’t Panic đều có chất lượng cao hơn hẳn so với những albums đầu tay. IZZ là một band nhạc phức tạp và rất khó để xếp họ vào thể loại gì. Nhưng âm nhạc của họ khá hay, và đang trên đường trở thành một trong những band Symphonic tiêu biểu của Mỹ. Em có album Crush of Night -2012 của nhóm.
Puppet Show Như đã phân tích, trong những năm cuối thập kỷ 90s, Symphonic đã hồi sinh mạnh mẽ. Tất nhiên, nó sẽ không phổ biến được như nhạc Pop nhưng tại mọi ngóc ngách của hành tinh đều có những band nhạc mới tài năng và họ đã giữ cho dòng nhạc này sống khỏe. Đó là bối cảnh cho sự ra đời của Puppet show. Nhóm nhạc này thành lập vào giữa thập kỷ 90s và tới năm 97 họ tung ra album đầu tay Traumatized. Âm nhạc trong album này chịu nhiều ảnh hưởng theo phong cách Symphonic Prog cổ của Genesis kết hợp với những giai điệu hay của Neo Prog và những ảnh hưởng rất mạnh mẽ của Prog Metal giai đoạn đầu (Dream Theater). Âm nhạc của Puppet Show lấy keyboards làm trung tâm kết hợp với một giọng hát đầy cảm xúc của giọng ca chính. Album đầu tay có chất lượng rất tốt và không quá khó nghe và kiếm cho họ một lượng khán giả trung thành. Nhưng trên thực tế, những khó khăn ngoài lề đã khiến cho Puppet Show không thể tập trung toàn tâm toàn ý vào âm nhạc. Họ chưa nổi tiếng như Spock's Beard để việc cơm áo gạo tiền đơn giản hơn. Việc chật vật tìm một nghệ sĩ chơi trống phù hợp với band nhạc cũng là một vấn đề lớn khác. Phải tới năm 2006, tức là 9 năm sau khi tung ra album đầu tay nhóm mới có thể tung ra The Tale Of Woe. Một album rất hay khác của nhóm với âm nhạc không quá nhiều sự thay đổi (mà phải mất 10 năm mới ra được 1 album với hầu hết các thành viên sáng lập – ngoại trừ tay trống mới). Nói một cách thật lòng thì không ai biết chính xác điều gì xảy ra với Puppet Show nhưng nếu họ tiếp tục tung ra các albums mới thì chắc rằng những albums này sẽ có chất lượng rất ổn. Đáng tiếc là tới tận thời điểm hiện tại họ vẫn chưa tung ra album mới. Lần này đã là 15 năm. Em có album thứ hai của nhóm là The Tale Of Woe -2006 Rocket Scientists Rocket Scientists đánh dấu sự khởi đầu của tay keyboards đầy tài năng Erik Norlander. Norlander sinh năm 67 và từ nhỏ đã theo học Cổ điển và Jazz. Nhưng trên thực tế, những người ảnh hưởng chính tới phong cách chơi nhạc của anh lại là những siêu sao nhạc Rock, đặc biệt là Symphonic Prog. Đó chính là Rick Wakeman (Yes), Jon Lord (Deep Purple), Keith Emerson (ELP), Mike Pinder (The Moody Blues) và Geoff Downes (The Buggles – band New Wave rất thành công trong thập kỷ 80s). Cũng dễ hiểu tại sao những gì gắn bó với Norlander đều liên quan tới Prog Rock. Ngoài sự nghiệp với Rocket Scientists, Norlander còn có sự nghiệp solo khá hoành tráng với nhiều album hay theo phong cách Neo Prog. Ngoài ra, anh còn có sự trợ giúp cô vợ xinh đẹp và nàng thơ của mình - Lana Lane. Người đã tung ra rất nhiều album theo phong cách Symphonic Rock rất hay (có chút ảnh hưởng chứ không phải Prog). Sau khi thành lập khoảng 4 năm, tức năm 1993, nhóm nhạc tung ra album đầu tiên là Earthbound với sự tham gia của cả Lana Lane. Album này khá đơn giản và dễ nghe so với những albums sau của nhóm. Đây gần như là một album solo của Norlander vì các thành viên còn lại chưa chính thức gia nhập band. Chỉ sau album đầu khá thành công, Norlander mới mời các thành viên chính thức và bắt đầu tung ra những album Symphonic Prog khá hay (với chút ít ảnh hưởng của Pop). Nó khởi đầu bằng album Brutal Architecture – 95, Oblivion Days -99 và Revolution Road -2006 đều có chất lượng rất tốt. Tuy nhiên, trong những năm sau đó, các thành viên của band nhạc chủ yếu tham gia sự nghiệp solo và nhóm gần như ngừng hoạt động. Mãi tới năm 2014, nhóm mới cho ra album mới Refuel với chất lượng rất cao. Em có albums Revolution Road -2006 của nhóm.
Shaun Guerin Shaun Guerin là một tay trống có tài và rất cá tính. Anh là con của tay trống huyền thoại John Guerin, người tiên phong theo phong cách Jazz Rock Fusion và cũng là một trong những tay trống xuất sắc nhất của dòng nhạc này. John từng chơi cho Frank Sinatra, The Beach Boys, George Harrison, Frank Zappa, The Animals, Joni Mitchell, Them, Thelonious Monk, Lou Rawls, Ray Conniff, George Shearing, Peggy Lee, Ella Fitzgerald, Linda Ronstadt, Nelson Riddle và vô số người khác. Thế nhưng, dù là con trai của John, Shaun – cũng giống như những người con đầy cá tính khác, hoàn toàn không thích bất kỳ band nhạc nào mà cha mình từng tham gia. Trong trái tim của anh chỉ có Genesis thời kỳ của Gabriel mới là âm nhạc đáng nghe, đáng để ngưỡng mộ. Là con của tay trống huyền thoại, từ nhỏ anh đã theo học trống (từ khi 7 tuổi) và trở thành tay trống tài năng. Nhưng Shaun còn là một nhạc sỹ, giọng ca chính và sử dụng keyboard rất điêu luyện. Khởi đầu Shaun chơi nhạc cho một band có tên là Cinema Show, chuyên cover các bài hát của Genesis. Sau 3 năm, anh quyết định tự sáng tác các album của chính mình. Anh tung ra album đầu tay “By The Dark Of Light” vào năm 2002 trong đó Shaun chơi tất cả các nhạc cụ kiêm hát chính. Năm sau đó, Shaun ra tiếp album thứ hai trong sự nghiệp là The Epic Quality Of Life với sự trợ giúp của các bạn bè trong band Cinema Show. Đây là một album khá hay, có chất lượng tốt hơn album đầu, và hứa hẹn một tương lai sáng sủa cho Shaun. Sau đó Shaun tham gia nhóm nhạc Clear Light và tung ra album Infinite Symphony -2003 và nhóm K2. Thế nhưng, sự nghiệp khởi đầu đầy hứa hẹn này đã kết thúc sau cái chết hết sức đột ngột của anh vào ngày 14 tháng 7 năm 2003. Em có album đầu tay của anh này. Fright Pig Fright Pig thực chất là một dự án solo của nghệ sỹ keyboards kiêm nhà soạn nhạc người Mỹ Josh Kirsch tại thành phố New York. Theo thông tin chính thức trên website của band nhạc thì: “band sinh ra sau một vụ nổ khủng khiếp và một ngọn lửa tàn khốc tại trang trại Sunnydale trước đây, Sau đó Fright Pig rút lui vào một lô cốt ngầm underground tại địa phương và suy ngẫm về số phận của mình. Quay cuồng với những ảnh hưởng của vụ nổ, band kết luận rằng thế giới không còn tôn kính sự phức tạp du dương của Progressive Rock và Fright Pig ngay lập tức bắt tay vào sửa chữa sai lầm này. .. Sau bảy năm tập luyện và tiêu thụ vài trăm gallon si rô ngô (thức uống yêu thích của Kirsch) nhóm tung ra một tác phẩm kiệt xuất của Progressive Rock. Album Out of the Barnyard -2013 mang đến một cái nhìn của âm nhạc vào thế giới đầy khó khăn của những giấc mơ và ác mộng của người nông dân. Đó là một thế giới hiếm khi được nhìn thấy và thậm chí còn khó tưởng tượng hơn, nhưng có những hiệu ứng giật mình tới bản chất của mỗi con người chúng ta. Band nhạc khá vui tính, nhưng âm nhạc của họ thì rất nghiêm túc. Âm nhạc trong album duy nhất của nhóm mang nhiều âm hưởng của ELP với tiếng guitar chói tai và giọng hát đầy mơ mộng. Ngoài tính Symphonic, âm nhạc trong album còn chịu nhiều ảnh hưởng của Folk và những âm thanh hiện đại hơn của Electronic. Dù mới tung ra vào năm 2013, đây được coi là một trong những album khởi đầu (debut) xuất sắc nhất trong lịch sử của Symphonic Prog. Tuy nhiên, không biết có phải do album đầu tay được đánh giá rất cao nên nhóm sợ khó vượt qua được hay không mà cho tới thời điểm hiện tại, Kirsch vẫn không thể tung ra được album thứ hai. Em có album rất hay của nhóm
Shadow Circus Sau 15 năm tích cực chơi trong một số ban nhạc trên sân khấu âm nhạc ở New York, nghệ sĩ guitar John Fontana bắt đầu sáng tác âm nhạc theo thời kỳ hoàng kim của Progressive Rock. Ý định ban đầu của anh là sáng tác các bản nhạc để tư mình thưởng thức và trình diễn cách chơi guitar khi thử giọng cho các band nhạc. Nhưng khi âm nhạc lọt vào tai của người bạn cùng band nhạc cũ là tay trống Corey Folta, Corey nhấn mạnh rằng thứ âm nhạc này cần phải được phát triển mạnh mẽ hơn với việc hình thành một ban nhạc mới. Ca sĩ chính David Bobick, được đào tạo và có bằng về Nhạc kịch, có nhiều uy tín với Rock trong hành trang của mình, bắt đầu viết lời và tăng tính giai điệu trong giọng hát. Sự kết hợp giữa sân khấu và ảnh hưởng rock-and-roll thô mộc hoàn toàn phù hợp với bối cảnh của âm nhạc, tăng thêm cảm giác pop với giai điệu hấp dẫn tức thì cho âm nhạc của nhóm. Lúc này, nhóm nhạc đã sáng tác được album đầu tiên. Trong khi luyện tập để thu âm album này, band đã được phát hiện ra tay bass Matt Masek, một tay bass có nền tảng là nghệ sĩ cello cổ điển. Anh này ngay lập tức kết hợp với tay trống Folta để tạo thêm những nhịp điệu hết sức mạnh mẽ cho band nhạc. Việc bổ sung Matt đã nâng tầm band nhạc rất nhiều và band nhạc liên tục lưu diễn. Lúc này, Fontana không còn có thể đảm đương nhiệm vụ của cả guitar và keyboards được nữa, vì vậy họ bắt đầu tìm kiếm một người chơi keyboards mới, người sẽ trở thành sẽ trở thành một anh hùng prog rock thực sự. Vượt lên thử thách là tay chơi keyboard Zach Tenorio, năm 17 tuổi đã chơi trên sân khấu tại lễ hội âm nhạc Moogfest cùng với Keith Emerson và Rick Wakeman, và từng lưu diễn với các huyền thoại Prog rock John Wetton (King Crimson, Uriah Heep), Tony Levin (King Crimson), Mike Keneally và nhiều người khác. Kỹ năng biểu diễn và tài năng không thể phủ nhận của Zach đã hoàn thiện đội hình của ban nhạc progressive rock mới đầy thú vị và nhiều cảm hứng này. Cùng với nhau, band nhạc đã hoàn thành 3 albums, Welcome to the Freakroom -2006, Whispers And Screams -2009 và On A Dark And Stormy Night -2012. Band nhạc càng chơi càng lên tay với các bài hát du dương, hấp dẫn, tràn ngập âm thanh thời kỳ hoàng kim của prog – với Mellotrons, Hammond, Moog, tiếng guitar bay bổng, tiếng trống phức tạp, chơi bass đầy giai điệu và giọng hát ấn tượng. Với những ảnh hưởng lớn từ nhạc cổ điển, Jazz và rất nhiều thể loại khác, các albums của nhóm đã thu hút rất nhiều người hâm mộ nhạc giao hưởng cổ điển, cũng như người hâm mộ nhạc rock đầy màu sắc và mang nhiều tính giải trí. Shadow Circus là một ví dụ điển hình về những nhạc sĩ tài năng, truyền nhân của Symphonic Prog trong thời đại hiện đại. Em có album kinh điển On A Dark And Stormy Night -2012 của nhóm.
Chúng ta đã kết thúc những band nhạc Symphonic Prog của Mỹ, nước dẫn đầu trong trào lưu mới. Tiếp theo, chúng ta sẽ đến với một số nhóm thuộc châu Mỹ. Trước tiên là hàng xóm của nước Mỹ -Canada cũng có một số band Symphonic Prog mới khá hay, một trong số này là Druckfarben. Druckfarben Câu chuyện của Druckfarben bắt đầu ở thành phố nhỏ Scarborough, thuộc vùng ngoại ô Toronto vào giữa những năm 1980, nơi nghệ sĩ guitar Ed Bernard và tay trống Troy Feener bắt đầu trao đổi về sở thích âm nhạc trong lớp nghệ thuật khi mới lớp 9. Ed đã giới thiệu cho Troy những bản nhạc progressive rock của Yes và Gentle Giant, ngay sau đó cả hai bắt đầu chơi nhạc cùng nhau. Một ngày nọ, trong hội trường của không gian diễn tập là một nhà máy bị bỏ hoang, các nhạc sĩ trẻ phát hiện ra một số thùng màu đen với một từ kỳ lạ được ghim trên đó -Druckfarben. Khi họ cố gắng tưởng tượng ra bên trong những chiếc thùng bí ẩn là cái gì, Ed nói đùa rằng một ngày nào đó họ sẽ thành lập một ban nhạc và sẽ gọi nó là Druckfarben (mực in theo tiếng Đức). Trong khi đó, tại một trường trung học khác gần đó, tay chơi keyboard trẻ tuổi Will Hare đang nghiên cứu về Bach và Rachmaninoff; còn tại Jarvis Collegiate ở trung tâm thành phố Toronto, tay bass trẻ tuổi Peter Murray đã nổi tiếng là người có thể chơi bản YYZ cực khó của Rush; và, xa hơn về phía nam ở Rochester, New York, ca sĩ Phil Naro đã là một nghệ sỹ chuyên nghiệp, thành viên chính thức trong band nhạc metal Talas, cùng với huyền thoại bass Billy Sheehan. Năm nghệ sĩ, hầu như vẫn chưa được biết đến nhau, có hai đặc điểm chung đáng chú ý: tất cả đều rất tài năng về nhạc cụ mà họ chọn, và tất cả đều là những người hâm mộ lớn của progressive rock. Nhiều năm trôi qua, và không ngạc nhiên khi cả năm đều trở thành nhạc sĩ chuyên nghiệp. Dù số phận của họ có phần khác nhau: người đã có hợp đồng, người đã có tiếng tăm, người chỉ chơi trong những band cover, người tham gia giảng dạy và viết lách, người thì bận rộn với công việc của studio. Tất cả đều trở nên rất được kính trọng tại địa phương họ hoạt động. Nhưng prog rock, thứ nhạc truyền cảm hứng ban đầu cho tất cả bọn họ, dường như đã bị bỏ lại phía sau: chỉ như một thứ của hoài niệm, tưởng tượng. Nó bất khả thi về mặt thương mại hoặc theo đuổi sự nghiệp âm nhạc chuyên nghiệp; để thành lập một ban nhạc chuyên về Prog Rock đơn giản là điều không tưởng. Ít nhất là trong thời gian đầy khó khăn này. Nhiều năm sau, Troy trở thành tay trống chính cho Classic Albums Live, một tập hợp các nhạc sĩ thực hiện cover các bản thu âm kinh điển trong lịch sử âm nhạc. Anh khao khát được tham gia một chương trình chuyên về Prog, và cuối cùng các những người có quyền lực đã đồng ý tổ chức thực hiện buổi cover các album của Yes: Close to the Edge và The Yes Album. Thật tình cờ, nhưng có thể đoán trước, tất cả các thành viên tương lai của Druckfarben đã được gọi cho hợp đồng biểu diễn này. Peter đã phải bỏ dở công việc vì lúc đó anh đang sản xuất một album ở Đức, nhưng anh đã trở về để tham dự buổi biểu diễn lịch sử tại Nhà hát Hòa nhạc Phoenix ở Toronto vào ngày 20 tháng 9 năm 2007. Việc biểu diễn thứ âm nhạc rực rỡ đầy thử thách này đã truyền cảm hứng cho việc thành lập một ban nhạc mới. .. và Druckfarben ra đời. Druckfarben bắt đầu trình diễn các bản cover các tác phẩm kinh điển của Yes, Genesis, King Crimson, Gentle Giant, Kansas, Rush và những người khác. Buổi tập đầu tiên của ban nhạc họ chơi Close To The Edge. Band nhạc sau đó có một hợp đồng biểu diễn hàng tháng tại Phòng Orbit của Toronto (do Alex Lifeson của Rush đồng sở hữu). Những người hâm mộ Prog Rock trong khu vực đã có nhiều điều để ăn mừng, khi một cộng đồng nhạc sĩ và người hâm mộ mới được tạo ra, với Druckfarben ở trung tâm. Danh tiếng của ban nhạc ngày càng tăng, người hâm hộ của nhóm có cả Kim Mitchell, Nick D‘ Virgilio (Spocks Beard), Terry Brown (nhà sản xuất Rush) và những người nổi tiếng khác. Mặc dù Druckfarben đã xây dựng phần trình diễn đầu tiên của mình dựa trên việc cover những tác phẩm kinh điển, nhưng band nhạc luôn có ý định tự sáng tác âm nhạc của riêng mình. Công việc khó khăn sớm bắt đầu, với Ed phụ trách sáng tác và sản xuất. Năm 2011, album đầu tay cùng tên được phát hành, band nhạc thực sự đã nổi lên với tất cả những gì vinh quang nhất. Đó là lời tri ân cho tình yêu lâu dài mà tất cả các thành viên của nhóm ngũ tấu này đã dành cho progressive rock kể từ những ngày còn học trung học. Có lẽ họ nên làm điều này từ trước ... nhưng có hai điều chắc chắn: thứ nhất, có thể không có đường tắt dẫn đến vị trí của Druckfarben bây giờ và ban nhạc là tổng hợp của kinh nghiệm tập thể đa dạng và phong phú. Và thứ hai: con đường phía trước còn dài và nhiều hứa hẹn! Sau 3 năm, band tiếp tục tung ra album thứ hai là Second Sound vào năm 2014, album này thậm chí có chất lượng tốt hơn album đầu. Âm nhạc của Druckfarben chịu nhiều âm hưởng của Yes, nhưng với giọng hát mạnh kiểu Metal. Đây là một trong những nhóm tiêu biểu cho Prog Rock Canada. Em có 2 albums của nhóm: Druckfarben -2011 và Second Sound -2014
Anima Mundi Sau khi sang Canada, chúng ta sẽ đến với một láng giềng và kẻ thù của nước Mỹ - đó chính là Cuba. Tại đây, rất bất ngờ, vẫn có nhóm nhạc đầy tài năng theo đuổi Symphonic Prog- đó chính là Anima Mundi. Anima Mundi là một biểu tượng sáng chói của sự hồi sinh của Symphonic Prog nói riêng và Prog Rock nói chung trên toàn thế giới. Ngoài xì gà, band nhạc đã trở thành một đầu tàu trong việc xuất khẩu và thu về ngoại tệ của đất nước đang bị Mỹ cấm vận toàn diện này. Với tài năng hiếm có của mình nhóm đã khiến cho hãng đĩa nổi tiếng chuyên về Prog Rock của Pháp là Musea phải lặn lội sang tận Cuba để mua bản quyền những albums của họ để phát hành trên toàn thế giới. Về mặt âm nhạc, nhạc của Anima Mundi rất khác biệt. Nó là sự kết hợp của Prog Rock với nhiều thể loại âm nhạc khác trong đó các nhạc Cuba, Celtic, New Age. Nhóm thường xuyên sử dụng những nhạc cụ ít thấy như bagpipes, recorder, clarinet và Bassoon trong các ablum của mình. Về mặt âm nhạc, phần Symphonic của Anima Mundi chịu ảnh hưởng của Yes, các thành viên trong nhóm đều có kỹ năng chơi nhạc rất tốt, lối chơi giàu cảm xúc. Band nhạc thành lập năm 96 tại La Habana, thủ đô của Cuba. Phải tới năm 2002, nhóm mới tung ra album đầu tay là Septentrion. Đây là một album khá tốt với những âm hưởng của Neo Prog và Folk. Dù hát bằng tiếng Tây Ban Nha, album được đánh giá khá cao và được hãng đĩa của Ý là Mellows Records mua lại bản quyền để phát hành tại châu Âu. Sau album đầu tiên khá thành công, Anima Mundi có hợp đồng với hãng đĩa Musea và sự nghiệp của nhóm tiếp tục cất cánh với 2 albums kinh điển là Jagannath Orbit -2008 và The Way -2010. Lúc này nhóm đã chuyển sang hát tiếng Anh. Cả 2 albums đều rất thành công và trở thành những biểu tượng mới của Symphonic Prog. Tuy những albums đều có chất lượng rất tốt, nhưng Anima Mundi không ra được quá nhiều albums. Thường là khoảng 3, 4 năm nhóm mới ra một đĩa. Gần đây nhóm tiếp tục ra những albums rất hay là The Lampligter -2013, I,Me, Myself-2016 và Insomnia -2018. Hiện tại, Anima Mundi đã trở thành một thế lực mới nổi của Symphonic Prog. Một band nhạc rất hay nhưng khá bí ẩn của thế giới. Em có 3 albums rất hay của nhóm gồm: Jagannath Orbit -2008, The Way -2010 Và I,Me, Myself-2016.
Lần đầu em dc biết Cuba cũng có band Prog, rất thú vị. Em đang nghe thử trên mạng, có vẻ cũng hay phết!
Vâng, những năm gần đây có rất nhiều bất ngờ và những band nhạc hay đến từ nhiều nơi trên thế giới. Anima Mundi là một trong số những band nhạc hay nhất của Symphonic Prog ở thời điểm hiện tại. Đây là một band rất đáng nghe.
Cast Cast là một band nhạc tới từ Mexico, nơi mà âm nhạc nói riêng và nghệ thuật nói chung thiếu sự hỗ trợ cần thiết từ Chính phủ. Những người này coi nghệ thuật đơn giản chỉ là một cách để thu thêm tiền thuế. Mục tiêu chính của họ là ưu đãi cho các hoạt động đầu tư từ nước ngoài. Do những khác biệt rất lớn về văn hóa, việc tiếp cận thị trường âm nhạc Hoa Kỳ hoặc Anh rất khó khăn. Việc một band nhạc Symphonic Prog Mỹ Latinh có một sự nghiệp lâu dài và sung mãn như Cast là hoàn toàn bất thường. Band nhạc đã có trên 30 năm hoạt động với 20 albums studio. Họ là một trong những ngoại lệ hiếm hoi chống lại các quy tắc thông thường. Câu chuyện của CAST bắt đầu vào năm 1978 khi kỷ nguyên vàng đầu tiên của Progressive Rock đang trở nên tồi tệ. Tay keyboards Alfonso Vidales có ý tưởng thành lập một ban nhạc Rock pha trộn những đoạn Symphonic để giữ cho dòng Prog yêu quý của mình sống sót. Có rất ít thông tin về 16 năm tồn tại đầu tiên của nhóm. Phải đến năm 1994 khi nhóm tự sản xuất và tung ra album "Landing in a Serious Mind", chúng ta mới biết tới một ban nhạc Symphonic nghiêm túc với âm thanh nguyên bản. Có lẽ vấn đề duy nhất của band là phát âm các trọng âm khi hát tiếng Anh. Năm 1994 và 1995 là những năm hoạt động tuyệt vời của CAST, ban nhạc đã phát hành 5 album, ngoài album đâu tiên đã được đề cập, còn có "Sound of Imagination", "Third Call", "Endless Sounds" và "Four Aces", do số lượng albums quá lớn và liên tục, khiến mọi người nghĩ rằng các album này đã được sáng tác, thu âm từ những năm trước đó. Âm nhạc trong các albums này chưa thực sự hay và là sự pha trộn giữa Symphonic với Neo Prog. 3 năm sau,nhóm tiếp tục tung ra hai albums rất hay là Beyond Reality -96 và Angels And Demons-97. Band nhạc bắt đầu được chú ý tới và có hợp đồng với hãng đĩa Musea để phát hành album "Imaginary Window" vào năm 1999. Lúc này band nhạc từ bỏ lại phía sau những ảnh hưởng Neo Prog để chuyển hẳn sang thể loại Symphonic Prog dạng hoàn chỉnh. Và đến đây thì sự nghiệp của Cast tiếp tục phát triển rất mạnh. Trung bình mỗi năm nhóm tung ra một album. Đáng ngạc nhiên hơn là các albums đều có chất lượng rất tốt. Càng về sau này, họ chơi càng lên tay hơn. Là một ban nhạc sung mãn và có sự nghiệp kéo dài như vậy, thật khó để xác định một phong cách riêng biệt của band nhạc. Bởi vì âm nhạc của họ đã phát triển trong nhiều thập kỷ với những ảnh hưởng từ nhạc Baroque, Trung cổ, Ethnic, Fusion, v.v., nhưng luôn giữ âm thanh độc đáo của Symphonic Prog mà chúng ta có thể tham khảo từ ELP, GENESIS và nhiều band khác. Chính xác mà nói, âm nhạc của họ chịu ảnh hưởng từ Symphonic những năm 70 nhiều hơn từ bất kỳ dòng nhạc nào khác. Bất kỳ một bộ sưu tập Prog Rock nào sẽ không thể hoàn chỉnh nếu không có ít nhất ba hoặc bốn album của ban nhạc Mexico này. Những người đã bất chấp nghịch cảnh để vươn lên và giành chiến thắng. Bộ sưu tập của em gồm các albums: Angels And Demons - 97, Infinity -2002 và Nimbus -2004