Nghề chơi cũng lắm công phu - những bộ sưu tập hay (Phần 2)

Discussion in 'Âm nhạc' started by no1knows, 22/1/21.

  1. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Death/Grind là dòng nhạc đã xuất hiện từ thập kỷ 80s với những tài năng lớn khởi đầu như Napalm Death, Carcass, Terrorizer. Dòng nhạc này có liên hệ mật thiết với Death Metal và tiếp tục phát triển rất mạnh trong suốt thập niên 90s về sau này. Chúng ta sẽ tới với một số band Death Grind tiêu biểu trong bộ sưu tập.

    Brutal Truth

    Brutal Truth là một ban nhạc Grindcore có trụ sở tại Thành phố New York, được thành lập vào năm 1990 bởi tay bass Dan Lilker của Anthrax và Nuclear Assault. Brutal Truth là một trong những band nhạc tiên phong của Grindcore, band nhạc sau đó đã đạt được thành công trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Nhật Bản và Úc. Nếu chúng ta chỉ nghe nhạc của Anthrax và Nuclear Assault thì sẽ thấy rất ngạc nhiên với âm nhạc của Brutal Truth vì nó mang nhiều âm hưởng của nhạc core( tức là bài hát rất ngắn). Thực ra thì Lilker còn là thành viên của S.O.D, một band nhạc Crossover Thrash (lai giữa Thrash và Hardcore) và âm nhạc của Brutal Truth là sự tiếp nối của S.O.D pha thêm những ảnh hưởng của Death Metal.

    Ban đầu, nhóm ký hợp đồng với hãng thu âm Earache, và phát hành 2 albums kinh điển là Extreme Conditions Demand Extreme Responses -92 và Need to Control-94 và một EP mang tên Perpetual Conversion. Ngoài ra còn có một đĩa đơn 7 inches cho bài hát" Godplayer ". Ngoài ra nhóm còn làm các video clips cho các bài hát "Ill Neglect", "Collateral Damage" và "Godplayer". Các albums này đều chơi theo phong cách Grindcore kết hợp với Death Metal khá hay và rất thành công.

    Thậm chí, Brutal Truth đã được sách kỷ lục Guinness trao "Video ca nhạc ngắn nhất" cho video "Collateral Damage" dài 2,18 giây và bao gồm 48 hình ảnh tĩnh liên tiếp theo sau là một đoạn clip về một vụ nổ. Với một band Extreme Metal, những thành tích trên là không tệ, nhưng nó chưa đủ so với mong ước của Dan Lilker. Cảm thấy thất vọng với hãng đĩa Earache Records, band nhạc quyết định chuyển sang một hãng đĩa rất nổi tiếng khác là Relapse Records và ở lại hãng này cho tới khi band nhạc sụp đổ.

    Tại Relapse, họ đã phát hành album EP - Kill Trend Suicide, một album studio Sounds of the Animal Kingdom -1997 và một album live kết hợp với tuyển chọn có tên Goodbye Cruel World -99. Band nhạc cũng đã phát hành nhiều đĩa đơn dạng 7 inches trên các hãng đĩa nhỏ hơn, phần lớn những đĩa này hiện tại rất khó tìm.

    Brutal Truth tan rã vào năm 1999 sau những vấn đề về quản lý band nhạc và tài chính. Band nhạc sau đó đã tái hợp vào 2006, và phát hành 2 albums: Evolution Through Revolution -2009 và End Time -2011 theo phong cách Grindcore có chất lượng chỉ ở mức tạm ổn. Tới năm 2014, vào ngày 18 tháng 10 năm 2014, tức là sinh nhật lần thứ 50 của Dan Lilker, ông này tuyên bố từ giã sự nghiệp âm nhạc và đó cũng là điểm kết thúc của Brutal Truth.

    Brutal Truth là một trong những band Grindcore thành công nhất trong lịch sử. Những albums của nhóm đều được các fan hâm mộ của dòng nhạc này tôn thờ, nhất là tại Nhật Bản và Úc.

    Bộ sưu tập có 2 albums:
    Extreme Conditions Demand Extreme Responses -92, Sounds of the Animal Kingdom -1997;
    Brutal truth1.jpg

    Và bản single rất hiếm: Walking Corpse 2112
    Brutal Truth fl.jpg
     
    tienhoangmanh and Wildbird like this.
  2. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Exhumed

    Exhumed là một ban nhạc goregrind đến từ Hoa Kỳ. Nhóm thành lập vào năm 1991, khi linh hồn của nhóm là Matt Harvey mới 15 tuổi, Exhumed đã dành phần lớn thời gian của thập kỷ 90s để tìm đường đi cho riêng mình bằng nhiều bản demo, Split CD và EP. Phải tới năm 98, nhóm mới có thể tung ra album đầu tay -Gore Metal. Album là sự kết hợp rất tinh tế của OldschoolDeath Metal với Grindcore, vốn đã được rèn giũa trong các bản thu của bản demo cuối cùng của họ và split CD ("Horrific Expulsion of Gore" và "In the Name of Gore"). Album này có chất lượng rất tốt và khiến cho tên tuổi của Exhumed bắt đầu trở nên nổi tiếng và được biết tới rộng rãi tại Mỹ.

    Lúc này họ bắt đầu xuất hiện tại các lễ hội âm nhạc lớn tại Hoa Kỳ. Sau khi có nhiều thay đổi trong đội hình, band nhạc tiếp tục phát hành đĩa hát thứ hai Slaughtercult vào năm 2001. Album đã pha trộn những phong cách Thrash Metal Extreme được tôn thờ (của những band như Slayer) vào thứ Deathgrind của riêng họ và có chất lượng khá tốt. Sau album này band nhạc đã có thể thực hiện ba chuyến lưu diễn tại Hoa Kỳ và một chuyến lưu diễn châu Âu đầu tiên của họ, tại đây họ đã tham gia các lễ hội âm nhạc gây chú ý như Fuck the Commerce và Obscene Extreme, đặc biệt là tại lễ hội âm nhạc rất lớn Wacken Open Air.

    Band nhạc đã phát triển hơn nữa với album thứ ba của họ, Anatomy is Destiny năm 2003, bổ sung thêm những đoạn chuyển soạn, phối khí và sản xuất phức tạp hơn vào phong cách Gore Metal – phong cách âm nhạc tự phong của band. Với lối chơi kỹ thuật và những bài hát có giai điệu rất tốt, đây được coi là album hay nhất trong sự nghiệp của nhóm. Tuy nhiên, sau albums này, hàng loạt thành viên gạo cội rời khỏi nhóm do bất đồng, khiến nhóm tạm dừng hoạt động trong thời gian dài.

    Phải tới năm 2010, Exhumed mới tái hợp và tiếp tục tung ra các albums như: All Guts, No Glory -2011, Necrocracy -2013, Death Revenge -2017 và Horror -2019 đều nghiêng nhiều hơn sang Death Metal và có chất lượng rất tốt, đặc biệt là Death Revenge.

    Exhumed là một band nhạc khá hay trong Grindcore, band nhạc có những album với chất lượng rất tốt.

    Bộ sưu tập gồm 4 albums:
    Death Revenge -2017, Slaughtercult -2001;
    Anatomy is Destiny- 2003, Gore Metal -98;
    Exhumed1.jpg

    Và single 7 inches :
    The Beginning After The End -2013

    Exhumedfl.jpg
     
    tienhoangmanh and Wildbird like this.
  3. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Lock Up

    Lock Up là một dự án phụ kiểu side project dạng siêu nhóm của hàng loạt các thành viên thuộc những band rất mạnh của Death Metal gồm các thành viên như: Shane Embury (Napalm Death), Peter Tägtgren (Hypocrisy), Jesse Pintado quá cố (Napalm Death, Terrorizer) và Nicholas Barker (Cradle of Filth, Dimmu Borgir).

    Lock Up được miêu tả là "... một sự quay trở lại với mức độ tàn bạo thô sơ trước khi xuất hiện Death Metal giữa những năm 1980." Có lẽ đây là một dự án tự phát, vui vẻ và ít toan tính. Band nhạc đã phát hành Pleasures Pave Sewers vào năm 1999 và Hate Breeds Pain vào năm 2002, với giọng ca mới Tomas Lindberg (At the Gates). Các album này đều theo phong cách Deathgrind và có chất lượng rất ổn. Thế nhưng cái chết của Pintado vào năm 2006 (do tiểu đường và nghiện rượu) đã khiến cho band nhạc dừng hoạt động trong một thời gian dài.

    Các thành viên còn lại của band đã cố gắng tái hợp vào năm 2009 với Anton Reisenegger (thành viên của band Pentagram (Chile), và Criminal), một người bạn lâu năm của band nhạc đảm nhiệm vai trò guitar. Cuộc tái hợp đã thành công tốt đẹp và band nhạc khá thành công với album rất hay Necropolis Transparent -2011 nên đã tiếp tục sự nghiệp kể từ đó. Sau đó họ có sự tham gia của Kevin Sharp (Brutal Truth) vào năm 2014.

    Tuy nhiên, do chỉ là dự án phụ, Lock Up rất ít khi lưu diễn. Năm 2009, ban nhạc thông báo rằng họ sẽ chơi Lễ hội Damnation vào năm đó. Đội hình có Embury, Barker, Lindberg và Reisenegger và được dự định là live show cuối cùng của band nhạc; tuy nhiên, do khá thành công, họ đã tiếp tục các buổi biểu diễn cho năm 2010 và 2012. Trong năm 2012, họ thậm chí có một chuyến lưu diễn nhỏ tại Hoa Kỳ, lần đầu tiên trong lịch sử band nhạc.

    Album thứ tư, Demonization, được phát hành vào tháng 3 năm 2017 thông qua Listenable Records. Lần này Kevin Sharp (Brutal Truth, Venomous Concept đảm nhận vai trò hát chính. Vào tháng 4 năm 2020, có thông báo rằng tay trống Nick Barker đã rời ban nhạc. Anh được thay thế bởi Adam Jarvis. Vào tháng 2 năm 2021, cựu ca sĩ Tomas Lindberg được thông báo đã gia nhập lại band nhạc và sẽ đảm nhận nhiệm vụ hát chính cùng với ca sĩ hiện tại Kevin Sharp. Nhóm đang trong quá trình chuẩn bị cho một album mới.

    Bộ sưu tập có single 7 inches
    Infinite in Its Nothingness -2012
    Lockup!.jpg

    Mortician

    Mortician là một band nhạc Death metal / Grindcore đến từ Yonkers, New York. Họ được thành lập vào năm 1989 với tên gọi Casket, nhưng sau khi viết bài hát đầu tiên là "Mortician", họ quyết định đổi tên band nhạc. Họ lấy cảm hứng sáng tác từ các bộ phim kinh dị và hầu hết các bài hát trong album của họ đều bắt đầu hoặc kết thúc bằng âm thanh lấy từ những bộ phim của thể loại này. Vì tôn trọng tay trống cũ và không thể tìm được người thay thế xứng đáng, họ đã chọn sử dụng drum machine khi thu âm các albums của mình, nhưng họ thuê một tay trống thực sự trong các buổi biểu diễn trực tiếp.

    Phần lớn trong sự nghiệp của mình, nhóm gắn bó với hãng Relapse, nhưng gần đây nhóm tách khỏi hãng này và phát hành album mới nhất qua hãng riêng của họ, Mortician Records. Đây cũng là một trong những nhóm nhạc huyền thoại của New York City (trong nhóm có đuôi -tion).

    Tuy nhiên, khác với những nhóm như Suffocation, Incantation hay Immolation, vai trò của Mortician gây rất nhiều tranh cãi. Âm nhạc của nhóm cũng rất khác với các nhóm khác khi nghiêng về Grindcore kết hợp với Brutal Death Metal và sử dụng trống điện tử. Họ không có kỹ năng chơi nhạc đỉnh cao như những band -tion cùng thời. Điều này nó cũng có 2 mặt: nhiều fan hâm mộ thích nhóm vì nhạc khác biệt, còn đối với rất nhiều người khác, Mortician là một sự thất bại và không thể so sánh với những bands – tion huyền thoại, đặc biệt là nhưng fan của Brutal Death Metal. Đối với những fan hâm mộ của Nile, Cryptopsy, Suffocation hay Immolation, thật khó hiểu khi coi Mortician cùng đẳng cấp với những band này. Họ coi Mortician chỉ là những tay amateur, không thực sự biết chơi nhạc cụ, cố tình đẩy âm nhạc lên tốc độ cao để gây chú ý, lời hát tào lao và vì không thể tìm được tay trống chơi đủ nhanh, nhóm buộc phải sử dụng drums machine. Để che giấu sự kém cỏi trong sáng tác vì các bài hát quá ngắn, nhóm dở chiêu lấy những đoạn samples trong phim kinh dị vào cho bài hát dài thêm.

    Đa phần những band nhạc Metal đều sử dụng nhiều cú riff nhưng Mortician thì không, trong các albums của họ có khi chỉ có vài cú riff ngắn. Vì thế âm nhạc khác biệt (so với những nhóm khác) nhưng không khác biệt so với chính họ (rất khó phân biệt các bài hát). Tuy nhiên, có rất nhiều fan hâm mộ Deathgrind lại thích cách tiếp cận này và họ cũng có một số albums rất được yêu thích như: Chainsaw Dismemberment -99 hay Domain of Death -2000.

    Bộ sưu tập có album Domain of Death -2000

    Mortification.jpg
     
    tienhoangmanh and Wildbird like this.
  4. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    Em lê lết thử nghe Colored Sands của Gorguts trên mạng. Hơi nặng với gu của em nên ko nghe lâu dc, nhưng phải nói nhạc của họ tuyệt vời.
     
    no1knows likes this.
  5. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Những band Progressive Death đều là các quái kiệt và tài năng. Những bands trong thập kỷ 90s đều rất hay. Kể cả sau này, cũng có rất nhiều bands tốt.
     
  6. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Nasum

    Nasum là band nhạc Grindcore nổi tiếng nhất của đất nước Thụy Điển. Tuy nhiên số phận band nhạc cũng đầy đau khổ và mất mát. Band nhạc được thành lập vào cuối năm 1992 bởi Anders Jakobson (guitar) và Rickard Alriksson (trống / hát) lúc này cả 2 đều là thành viên của band Death Metal - Necrony. Band lúc này chỉ là một dạng side project vì 2 thành viên thấy ấn tượng với âm nhạc Grindcore trong những albums đầu tay của Napalm Death.

    Vì chỉ là một dự án side project, trong những năm đầu sự nghiệp, Nasum thu âm rất nhiều những albums dạng demo và Eps để tìm kiếm hợp đồng với hãng đĩa. Nhóm cũng đi lưu diễn khá nhiều tại châu Âu.

    Sau rất nhiều albums dạng này, thì cuối cùng nhóm cũng nhận được sự chú ý từ một hãng đĩa Mỹ rất tiếng tăm là Relapse Records. Hãng rất ấn tượng với âm nhạc của nhóm nên đã đề nghị hợp đồng cho một album studio. Nasum nhận lời ngay lập tức và bắt tay vào ghi âm albums đầu tay. Họ tung ra albums kinh điển Inhale / Exhale vào năm 98. Đây là một albums theo phong cách punk (với 38 bài hát và kéo dài 45 phút), bạo lực, giọng hát kiểu Death và có chất lượng rất tốt. Đây là một trong những albums hay nhất trong lịch sử của Grindcore và khiến cho band nhạc trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới.

    Trong những năm sau đó, Nasum kết nạp thêm thành viên và trở thành một band nhạc chính thức. Band tiếp tục phát triển rất mạnh với những albums kinh điển như: Human 2.0 – 2000 và Helvete -2003. Nhóm cũng có nhiều chuyến lưu diễn lớn vòng quanh châu Âu và tham gia những đại nhạc hội cực lớn tại cả hai bên bờ của Đại Tây Dương.

    Nasum lúc này nổi tiếng tới mức, album Helvete giành được giải thưởng album Metal hay nhất của Grammis Thụy Điển. Sau khi tung ra album rất hay tiếp theo là Shift -2004, Nasum đã trở thành lá cờ đầu của Grindcore thế giới. Thế nhưng, câu chuyện của Nasum lại kết thúc hết sức đột ngột vì một tai nạn tại Thái Lan. Trong khi đang nghỉ mát tại đây, trong dịp mừng sinh nhật lần thứ 30 với bạn gái, Mieszko Talarczyk, tay guitar và vocal của nhóm đã bị trận sóng thần lịch sử cuốn đi vào ngày 26 tháng 12 năm 2004. Thi thể của anh chỉ được tìm thấy sau gần hai tháng. Mất mát quá lớn khiến các thành viên còn lại của Nasum quyết định kết thúc band nhạc. Dù album Shift của họ tiếp tục nhận được đề cử cho album Metal xuất sắc nhất.

    Trong khi câu chuyện về Nasum với tư cách là một ban nhạc hoạt động hoàn toàn giờ đã kết thúc, Nasum sẽ luôn sống mãi thông qua âm nhạc của họ, được ghi lại trên những CD, Vinyls hoặc các trang web. Một band nhạc rất hay và tài năng của Grindcore.
    Bộ sưu tập có các albums:
    Inhale / Exhale -98;
    Human 2.0 – 2000 và Helvete -2003;
    Nasum.jpg

    Rotten Sound

    Ban nhạc Grindcore Rotten Sound được thành lập tại Vaasa, Phần Lan vào năm 1993 và là một trong những band nhạc thành công nhất của Death/Grindcore Scandinavia trên toàn thế giới.

    Sau một loạt các bản phát hành underground như demo, đĩa đơn và EP, band nhạc này đã có hợp đồng với hãng đĩa Repulse của Tây Ban Nha và tung ra 2 albums Under Pressure -1997 và Drain- 1998. 2 albums này có chất lượng khá tốt và khiến cho nhóm có hợp đồng với hãng đĩa Necropolis của Mỹ. Tại đây, nhóm tung ra EP Still Psycho -2001 với chất lượng cực tốt theo phong cách lai giữa Oldschool Death và Grindcore hiện đại. Dù là một album ngắn EP, nó vẫn nhận được rất nhiều lời khen ngợi của người hâm mộ và giới chuyên môn trên toàn thế giới.

    Năm 2002, Rotten Sound phát hành Murderworks là một trong những album kinh điển của Grindcore hiện đại. Sau album kinh điển này, nhóm thậm chí đã có thể có những chuyến lưu diễn vòng quanh châu Âu và BẮc Mỹ. Ablum tiếp theo là Exit-2005 tiếp tục rất thành công khi lên tới vị trí 22 trong bảng xếp hạng chính thức của Phần Lan và nằm trong bảng này 3 tuần. Sau khi phát hành album, Rotten Sound đã đi lưu diễn ở Scandinavia và Hoa Kỳ, và thực hiện chuyến lưu diễn rầm rộ thứ hai ở châu Âu vào tháng 1 năm 2006.

    Sau những albums rất hay này, Rotten Sound có hợp đồng với một trong những hãng Metal có uy tín nhất của Mỹ là Relapse và tiếp tục tung ra các albums như: Circles -2008, Cursed -2011 nhưng chất lượng albums có phần giảm hơn một chút so với những albums kinh điển trước đó.

    Album gần đây nhất của nhóm là Abuse to Suffer -2016 chỉ có chất lượng ở mức vừa phải.

    Với phong cách Grindcore hiện đại nhưng lại pha trộn thêm Death Metal cổ, Rotten Sound thực sự đã trở nên nổi tiếng và có nhiều albums rất hay mà những fan hâm mộ của Extreme Metal không thể bỏ qua.

    Bộ sưu tập có EP Still Psycho -2001

    Rotten Sound.jpg
     
    Wildbird and tienhoangmanh like this.
  7. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Pig Destroyer

    Pig Destroyer là một band nhạc có trụ sở tại Alexandria, Virginia, được thành lập vào năm 1997. Đây cũng là band nhạc Grindcore quan trọng nhất của Mỹ trong những năm cuối thập kỷ 90s, đầu 2000s. Âm nhạc của họ là sự kết hợp giữa yếu tố nhanh, mạnh vào bạo lực của Grindcore cổ trong thập kỷ 80s với Doom và Thrash Metal. Sự kết hợp tuyệt vời này đã vượt qua ranh giới của Grindcore và giúp cho nhóm có một lượng rất lớn fan hâm mộ mặc dù nhóm không sử dụng bass guitar trong những albums phòng thu của mình.

    Band nhạc được thành lập vào năm 1997 với giọng ca J.R. Hayes (cựu giọng ca của nhóm Enemy Soil), tay guitar Scott Hull (Agoraphobic Nosebleed, Anal Cunt, Japanese Torture Comedy Hour, v.v.) và tay trống Brian Harvey gia nhập vào năm 1998.

    Band nhạc, trong những ngày đầu tiên thường xuyên hát về các vấn đề mang tính chính trị, với tư tưởng chính là phản đối luật pháp và chính quyền. Nhóm đã từng cân nhắc những cái tên “Cop Killer” và “Cop Destroyer” nhưng những tên này quá thẳng thắn và trực diện (dễ bị cấm) nên mới sử dụng tên Pig Destroyer (“Pig” là một từ lóng của giới tội phạm gọi cảnh sát). Lego của band nhạc cũng bắt nguồn từ một nguồn phi âm nhạc, nhưng cũng cực đoan như âm thanh của band nhạc, được tạo ra từ một hình minh họa từ tạp chí nổi tiếng tiêu cực Answer Me!.

    Sau khi có hợp đồng với hãng đĩa nổi tiếng Relapse, band nhạc phát hành album đầu tay Explosions in Ward 6 vào năm 98. Dù sau này trở thành một thế lực rất lớn của Grindcore. Album đầu tay này của nhóm không thực sự quá ấn tượng, nó chỉ gồm những bài hát rất ngắn theo phong cách Grindcore cổ, Hardcore với một chút ảnh hưởng của Sludge cũng như Thrash Metal.

    Tuy có khởi đầu khá hứa hẹn nhưng có một điều rất bất ngờ là âm nhạc của Pig Destroyer thăng tiến tới mức chóng mặt trong 2 albums tiếp theo là : Prowler in the Yard -2001 và Terrifyer-2004. Trong 2 albums này nhóm phát triển một thứ Grindcore kết hợp với Dark Ambient, Sludge, Metalcore, Death, Experimental và đặc biệt là với rất nhiều cú riff kiểu Groove Metal. Những album này được cả người hâm mộ và giới chuyên môn đánh giá là kinh điển (Prowler được tạp chí Terrorizer bầu là album hay thứ 3 trong lịch sử của Grindcore, Terrifyer còn khủng hơn khi được tạp chí nổi tiếng nhất về âm nhạc là Rolling Stone bầu ở vị trí 88 trong top 100 albums Heavy Metal hay nhất trong lịch sử và tạp chí Kerrang bầu là album Grindcore quan trọng thứ 4 trong toàn bộ lịch sử của dòng nhạc).

    Sau album có chất lượng rất tốt là Phantom Limb -2007 thì sự nghiệp của Pig Destroyer bắt đầu đi dần xuống với những albums chất lượng kém hơn như: Bookburner -2012 và Head Cage-2018.

    Tuy sự nghiệp có đi xuống, Pig Destroyer vẫn là một trong những band nhạc quan trọng và có nhiều ảnh hưởng nhất trong dòng nhạc Grindcore.

    Bộ sưu tập có 3 albums:
    Terrifyer-2004 (bản special Edition CD+DVD)
    Prowler in the Yard -2001 và 38 Counts of Battery-2001 (Compilation gồm album đầu tiên và các EPs, demo);
    Pig Destroyer.jpg
    Và single 7 inches: The Cavalry -2019
    Pigdesflexi.jpg
     
    Last edited: 17/10/21
    Wildbird and tienhoangmanh like this.
  8. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Agoraphobic Nosebleed

    Agoraphobic Nosebleed (viết tắt là ANb) là một ban nhạc Grindcore của Mỹ được thành lập vào năm 1994 tại Springfield, Massachusetts, Hoa Kỳ. Nói là một band nhạc nhưng thực chất đây là một dạng side project của Scott Hull, là tay guitar/programme của nhóm nhạc huyền thoại Pig Destroyer. Trong những thời điểm khởi đầu, Hull tự sáng tác các bài hát rồi chơi guitar, lập trình trống điện và mời một số vocalist đến hát cùng. Đây chính là band Grindcore sử dụng trống điện nổi tiếng nhất và có rất nhiều ảnh hưởng tới các band nhạc Grindcore khác sau này.

    Phong cách chơi nhạc Grindcore kết hợp với nhạc điện tử của Anb, sau này đã được phát triển thành một nhánh riêng biệt hơn nữa gọi là Cybergrind, trong đó Abn là một trong những band tiên phong (cùng với Catasexual Urge Motivation của Nhật và The Berzeker của Úc). Ngoài những ảnh hưởng của Electronic, thì band còn chịu rất nhiều ảnh hưởng của Doom và Sludge Metal.

    Trong suốt sự nghiệp của mình Anb rất ít khi biểu diễn live vì là một band nhạc dạng side project. Vào khoảng năm 2003, nhóm mới biểu diễn lần đầu tại liên hoan Metal and Hardcore ở New England. Vì sự xuất hiện này không được lên lịch trước nên Pig Destroyer đã cắt ngắn phần biểu diễn của mình để Agoraphobic Nosebleed có thể chơi hai bài hát và một đoạn giới thiệu. Phải tới 12 năm sau, band nhạc mới có cơ hội chơi trọn bộ buổi biểu diễn đầu tiên của chính họ tại lê hội Maryland Deathfest vào năm 2015 và sau đó là tại lế hội hội Horror Festival Part III in San Antonio ở San Antonio, Texas. Trong những buổi biểu diễn này, họ vẫn sử dụng trống lập trình để phù hợp với thẩm mỹ của band nhạc mà không có một tay trống thực sự nào.

    Do tính chất của một nhóm side project, nhóm cũng ít ra các albums chính thức (chỉ có 3 albums) mà chủ yếu ra những albums kiểu demo, EP hoặc Split với nhiều band nhạc khác. Do đó bù lại thì band nhạc có rất nhiều những album kiểu này và có một số albums khá nổi tiếng như The Poacher Diaries -99, Altered States of America -2003 (album với 100 bài hát nhưng chỉ kéo dài có 21 phút). Tuy nhiên, việc tìm được các albums của nhóm này cũng không hề đơn giản nếu không muốn nói là rất khó kiếm.

    Dù là một dạng band nhạc phụ, nhưng AnB khá nổi tiếng và được rất nhiều những fan hâm mộ tôn thờ vì tính tiên phong trong âm nhạc của họ đối với Cybergrind.
    Bộ sưu tập gồm:
    Album: The Poaches Diaries-1999 (Album Split với band Metalcore Converge)
    Agoraphobic Nosebleed1.jpg
    EP 7 inches: The Honkey Reduxtion (EP) -2015

    Agoraphobic Nosebleed2.jpg
    Single 7 inches: Merry Chrystmeth -2012

    Agoraphobic Nosebleed3.jpg
    Single 7 inches: Make A Joyful Noise-2011

    Agoraphobic Nosebleed4.jpg
     
    Last edited: 18/10/21
    Wildbird likes this.
  9. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Circle of Dead Children

    Circle of Dead Children (CODC) là một ban nhạc deadthgrind Mỹ đến từ Washington, Pennsylvania. Được thành lập vào năm 1998, tên của họ có nguồn gốc từ một cơn ác mộng giữa ban ngày của giọng ca Joe Horvath. Band nhạc đã phát hành bản demo cùng tên vào năm 1998, album này có chất lượng khá tốt và gần như được bán hết ngay lập tức. Với khởi đầu ấn tượng, band nhạc ngay sau đó có hợp đồng với một hãng đĩa nhỏ là Willowtip Records và tung ra album đầu tay "Starving the Vultures" vào năm 1999. Đây là một album khá hay, dù là Grindcore, nó lại mang nhiều tính giai điệu rất riêng của CODC. Sau đó band nhạc còn tiếp tục tung ra một album EP có chất lượng rất tốt là Exotic Sense Decay.

    Sau thành công của 2 albums, CODC đã tạo dựng được tên tuổi khá tốt và có một số hãng đĩa lớn hơn. Sau nhiều cân nhắc, band quyết định ký hợp đồng với hãng đĩa Deathvomit, là chi nhánh của hãng Necropolis khá nổi tiếng. Tại đây nhóm tung ra một album rất hay khác là The Genocide Machine -2001. Trong albums này, âm nhạc của nhóm đã thay đổi rất nhiều khi tích hợp những ảnh hưởng của Electronic, Industrial, Noise… vào Grindcore. Album này rất khác biệt và mang nhiều tính đột phá, nó cũng rất thành công khi bán hết chỉ trong vòng 1 tháng (lúc này chỉ có 3500 bản được sản xuất). Tuy nhiên, ngay sau thành công của album thứ hai thì có những rạn nứt trong mối quan hệ giữa band nhạc và hãng đĩa.

    Band sau đó chuyển sang hãng Martyr và tung ra album thứ ba là Human Harvest với tính bạo lực và tốc độ cao hơn rất nhiều so với các albums trước. Album này cũng rất hay và thực tế được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Nhưng đây lại là điểm khởi đầu cho sự đi xuống của band nhạc. Sau khi ghi âm một album EP có chất lượng vừa phải Zero Comfort Margin -2005, nhóm bắt đầu có sự lục đục và mất đi tay trống. Sau đó, do không tìm được người thay thế, nhóm tạm ngưng hoạt động. Vào năm 2007, khi nhóm khởi động trở lại để thực hiện album mới thì các thành viên chính lại có vấn đề về sức khỏe. Phải tới năm 2010, nhóm mới tung ra được album tiếp theo là Psalm of the Grand Destroyer nhưng chất lượng không được tốt. Sau đó, nhóm gần như dừng hoạt động.

    COCD là band nhạc khá đặc biệt, thường chơi theo phong cách kết hợp các trường phái khác nhau của Extreme Metal: Grindcore, Death, Crust Punk, Black Metal, Doom và đôi khi thêm cả phong cách Atmospheric trong một số bài hát. Các bài hát đa phần viết theo phong cách Grindcore truyền thống tức là rất ngắn, ví dụ: sáu giây cho bài hát "White Trash Headache". Tuy nhiên, âm nhạc của họ khá phức tạp, có một số bài phát triển khá dài tới 6 phút. Tạp chí Metal Maniacs, vào năm 2005, đã đăng một bài báo của Wade Gosselin, trong đó hai band nhạc Grindcore mà ông tin rằng đã đẩy dòng nhạc này lên tới tầm mức cao hơn trong số những band nhạc hiện tại, 2 band nhạc đó là Circle of Dead Children và Antigama

    Bộ sưu tập có album The Genocide Machine -2001;
    Circle of Dead Children.jpg
    HatePlow

    HatPlow thực chất là một dự án kiểu side project của tay guitar Rob Barrett. Chúng ta đã từng gặp tay guitar này trong những bài viết trước vì anh này vốn là thành viên sáng lập của hai nhóm Solstice và Malevolent Creation, một band nhạc theo trường phái Thrash/Death, band còn lại là Oldschool Death ở thập kỷ 90s. Sau khi ghi âm album đầu tay là Retribution với Malevolent Creation, Barrett nhận được lời mời tham gia Cannibal Corpse và cùng với band này thu âm các albums kinh điển như The Bleeeding, Vile.

    Tuy đã tham gia Cannibal Corpse nhưng mối quan hệ của Barett với các thành viên còn lại của Malevolent vẫn rất tốt. Năm 1994, Barrett thành lập ban nhạc Grindcore/Death metal HatePlow cùng với tay guitar Phil Fasciana và tay trống quá cố "Crazy" Larry Hawke, cả hai đều là thành viên của Malevolent Creation. Mặc dù ban đầu dự định HatePlow chỉ là một dự án phụ mang tính vui nhộn, bộ ba đã thu âm một bản demo bốn bài hát. Tuy nhiên bản demo này có chất lượng rất tốt và đã trở nên phổ biến rộng rãi trong toàn bộ thế giới Metal underground.

    Vào khoảng năm 1997, giữa Barett và các thành viên còn lại của Cannibal Corpse (tức band chính của anh này) phát sinh mâu thuẫn về đường hướng phát triển. Mâu thuẫn lớn dần và Barett cuối cùng rời khỏi band nhạc này (thay thế bằng tay guitar Pat O’Brien). Sau khi rời Cannibal Corpse, Barrett quay trở lại với HatePlow và biến band nhạc này trở thành band chính thức của mình. Tên tuổi của Cannibal Corpse rất nổi tiếng và band dễ dàng có hợp đồng với hãng đĩa Pavement. Trong những năm tiếp theo, band nhạc liên tiếp tham gia ghi âm các album Everybody Dies và The Only Law Is Survival lần lượt ra mắt vào năm 1998 và 2000. Âm nhạc trong những albums này theo phong cách Deathgrind với những bài hát có giai điệu khá tốt. Tuy nhiên, với lời lẽ có phần bệnh hoạn, mang nhiều tính nghiệp dư (chủ yếu là về tình dục), band không nhận được nhiều sự chú ý.

    Lúc này Barett cũng quay trở lại với nhóm Malevolent Creation và ở lại nhóm này trong 6 năm. Sau đó, vào năm 2005, Barett viết thư cho các thành viên của Cannibal Corpse với mong muốn trở lại band nhạc huyền thoại này. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Cannibal Corpse đồng ý để anh này trở lại để thay Jack Owen, người chuyển sang Deicide. Từ đây thì HatePlow cũng dừng hoạt động.

    Bộ sưu tập có album The Only Law Is Survival -2000.

    HatePlow.jpg
     
    Last edited: 19/10/21
    tienhoangmanh, pachinko and Wildbird like this.
  10. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Sau Deathgrind, chúng ta sẽ tới với nhánh nhạc xuất hiện cuối cùng trong thập kỷ 90s của Death Metal là Melodic Death. Đây là nhánh nhạc phát triển rất mạnh và rất được những fan hâm mộ yêu mến.

    Melodic Death Metal

    Melodic Death Metal là một phong cách riêng của Death Metal sử dụng hòa âm guitar và âm thanh mang nhiều tính giai điệu của Heavy Metal cổ, trong khi vẫn giữ những đặc điểm chính của Death Metal, đặc biệt là những guitar bị méo tiếng nặng nề, chói tai, hung hãn. Melodic Death Metal chứa nhiều đoạn guitar và solo hơn Death Metal truyền thống. Đôi khi, guitar acoustic cũng được sử dụng. Họ cũng ít sử dụng phong cách đánh trống điên loạn blast beat hơn so với những dòng Death Metal khác. Một số band nhạc cũng thêm keyboards vào âm nhạc để tăng tính giai điệu cho âm nhạc của họ. Riêng về giọng hát thì họ vẫn sử dụng phong cách Extreme kiểu Death, tức là giọng trầm gầm gừ, nhưng đôi khi sử dụng cả clean vocal và la hét (screaming).

    Những band nhạc tiên phong của Melodic Death Metal đều tới từ châu Âu: tại Anh Quốc (với Carcass) và đặc biệt là Thụy Điển (với những bands như Dark Tranquility, In Flames, At the Gates). Chính vì thế, dòng nhạc này nhiều khi còn được gọi là Gothenburg Metal – thành phố mà những band nhạc tiên phong của dòng nhạc này khởi nguồn và phát triển mạnh mẽ. Hiện tại, Melodic Death đã phát triển ra toàn thế giới, nhưng những bands nhạc huyền thoại của dòng này chủ yếu đến từ Thụy Điển.

    At The Gates

    At The Gates là một band nhạc đến từ Gothenburg, Thụy Điển. Đây cũng là một trong những band nhạc tiên phong trong việc hình thành Melodic Death Metal và trở thành một trong những huyền thoại của dòng này. Mặc dù so với những bands nhạc tiên phong cùng thời như In Flames, Dark Tranquility, Hypocrisy, Soilwork và nhiều bands nhạc khác, họ có sự nghiệp rất ngắn ngủi.

    Band nhạc này thành lập vào năm 1990 (tức là cùng thời gian với những bands nhạc Death Metal tiên phong của Thụy Điển như Entombed) trên cơ sở là những cựu thành viên của band nhạc Grotesque. Khởi đầu họ chơi một thứ Death Metal rất kỹ thuật, nguyên bản và độc đáo khi kết hợp Progressive, Heavy Metal, Black, Folk, Thrash vào Death Metal. Điều này thể hiện rất rõ trong album đầu tay : The Red in the Sky Is Ours -92.

    Nhưng sau đó thì họ phát triển phong cách Death Metal theo phong cách có giai điệu du dương của những bands Metal cổ (Heavy Metal cổ nghiêng nhiều về tính giai điệu - Melodic). Điều này có nghĩa là các bản phát hành sau của họ có nhiều giai điệu hơn và cấu trúc của các bài hát ít phức tạp hơn. Trong những albums sau đó là With Fear I Kiss the Burning Darkness -93 và Terminal Spirit Disease nhóm chuyển dần từ phong cách Technical Progressive Death sang Melodic Death nhưng chưa thực sự nhận được nhiều thành công. Tức là lúc này những albums của họ chỉ ở mức khá và chưa nhận được nhiều sự quan tâm của giới chuyên môn.

    Sau khi tay guitar Alf Svensson (vốn là người sáng tác chính những cú riff) rời khỏi band nhạc vì hết hứng thú, thì những thành viên còn lại của At the Gates đã quyết định cắt bỏ tất cả các khía cạnh kỹ thuật, độc đáo, sáng tạo trong những albums trước đó của họ và tập trung vào việc viết các bài hát ít phức tạp hơn cho album Slaughter of the Soul, phát hành vào năm 1995. Trớ trêu thay, album này lại trở thành tác phẩm hay nhất, nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhất của họ, đặc biệt là trong thế giới của dòng nhạc Melodic Metalcore sau này. Album ảnh hưởng đến hầu hết các band nhạc trẻ như Darkest Hour, The Black Dahlia Murder, và Himsa.

    Tuy nhiên, sau khi gặt hái được rất nhiều thành công với Slaughter of the Soul (nhóm đã có những chuyến lưu diễn vòng quanh Bắc Mỹ) thì band nhạc này lại tan rã do sự bất đồng về hướng phát triển của band nhạc. Các thành viên chủ chốt của band nhạc này đã thành lập rất nhiều những band nhạc Metal quan trọng khác của Thụy Điển: Alf Svensson thành lập Oxiplegatz; tay trống Adrian Erlandsson, tay bass Jonas Björler và tay guitar Anders Björler đã thành lập The Haunted – một band nhạc Thrash Metal huyền thoại, trong khi giọng ca Tomas Lindberg tham gia nhiều nhóm bao gồm Skitsystem, Disfear, The Crown, Lock-Up, Nightrage và The Great Deceiver. Sau này Erlandsson rời The Haunted để gia nhập nhóm nhạc Black Gothic của Vương quốc Anh là Cradle of Filth.

    Sau rất nhiều năm tan rã, khoảng năm 2007 thì nhóm tái lập trở lại và chủ yếu đi lưu diễn vòng quanh thế giới. Phải tới năm 2014, nhóm mới tung ra albums mới tiếp theo là At War with Reality. Đây cũng là một trong những album comeback rất hay của nhóm theo phong cách Melodeath. Tiếp nối thành công, nhóm còn tung ra một album rất hay nữa là To Drink from the Night Itself -2018, lần này là theo phong cách Death Metal cổ. Album gần đây nhất của nhóm là The Nightmare of Being -2021 cũng có chất lượng tạm ổn. Lần này là theo phong cách Progressive Death.

    Dù sự nghiệp khá ngắn ngủi nhưng At The Gates là một trong những band nhạc có nhiều ảnh hưởng nhất của Metal Thụy Điển. Album Slaughter Of The Souls của nhóm có ảnh hưởng rất lớn tới cả Melodic Death và Metalcore sau này.

    Bộ sưu tập có 5 albums của nhóm gồm:
    With Fear I Kiss the Burning Darkness -93, Suicidal Final Art -2001 (album tuyển chọn Compilation);
    Slaughter of the Soul -95, To Drink from the Night Itself -2018, At War with Reality -2014;
    At The Gates.jpg

    Và single 7''
    Raped By The Light Of Christ (2018)
    At The Gate flexi.jpg
     
    tienhoangmanh and Wildbird like this.
  11. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Dark Tranquillity

    Dark Tranquillity (DT) là một ban nhạc Melodic Death metal đến từ Gothenburg, Thụy Điển. Band nhạc này thành lập năm 1989 với tên gọi Septic Broiler sau đó mới đổi tên thành Dark Tranquility. Không giống như các band nhạc khác họ đã có một đội hình khá ổn định trong suốt sự nghiệp.

    DT cũng chính là 1 trong 3 bands nhạc tiên phong và lớn nhất của MeloDeath, cùng với At The Gates và In Flames. Tuy nhiên, so với những bands kể trên thì DT kém nổi tiếng và cũng ít ảnh hưởng hơn. Bù lại, họ luôn trung thành với Melodeath, trong khi At The Gates thì chuyển giữa khá nhiều thể loại còn In Flames chuyển dần sang phong cách Alternative Metal. Vì thế , đây cũng là band nhạc thuần chất và có nhiều albums Melodeath hay nhất trong lịch sử của nhánh này.

    DT cũng có rất nhiều liên hệ với In Flames, nhất là trong giai đoạn đầu. Trong album đầu tay của DT là Skydancer -93, giọng ca chính của nhóm là Anders Fridén, còn trong album đầu tay của In Flames là Lunar Strain thì Mikael Stanne là giọng ca chính. Sau 2 album này, thì 2 bands đổi giọng ca chính cho nhau và ổn định tới tận bây giờ.

    Sau khi phát hành album Skydancer, một trong những album sớm nhất trong lịch sử của Melodeath, thì DT ổn định lại đội hình và vươn tới đỉnh cao trong sự nghiệp với siêu album The Gallery -95, đây có lẽ là album Melodeath hay nhất trong lịch sử của Metal Thụy Điển. Nhưng album sau đó của họ là The Mind’s I -97 chỉ ở mức tốt mà chưa đạt tới tầm của The Gallery.

    Trong những năm sau đó, DT tiếp tục thử nghiệm một số phong cách như kết hợp thêm nhiều âm hưởng của Electronics (bằng việc kết hợp một tay keyboards vào nhóm) trong những album như Projector -99 hay Haven -2000. Tuy có kết hợp thêm nhưng thực tế âm nhạc của họ vẫn mang tính Melodeath là chủ đạo.

    Sau những albums thử nghiệm gây nhiều tranh cãi, DT quay trở lại rất mạnh mẽ với những album Melodeath thực sự trong thập kỷ 2000s như: Damage Done -2002, Character -2005 và Fiction -2007. Tất cả những albums này đều rất hay và nhanh chóng trở thành những albums kinh điển của nhóm.

    Bước vào thập kỷ 2010s nhóm tiếp tục tung ra có chất lượng rất tốt là : We Are the Void -2010, Construct -2012, Atoma -2016 và Moment -2020.

    Dark Tranquility được biết đến là band nhạc tiên phong và trung thành nhất của Melodeath. Với một đội hình ổn định, họ chơi nhạc rất có phong cách và chưa bao giờ xuống phong độ. Sau rất nhiều năm hoạt động, cuối cùng họ thậm chí đoạt giải thưởng Grammis (giải tương đương Grammy) của Thụy Điển cho album Moment vào năm 2021.

    Bộ sưu tập có các albums:
    The Gallery -95, Skydancer -93, Damage Done -2002;
    Character -2005, Atoma -2016 (SE 2CDs) và Fiction -2007;
    Dark TRanquillity1.jpg

    Ngoài ra còn có bản Promotion của album Fiction -2007
    Dark Tranquillity.jpg

    Và Single 7''
    Sorrow's Architect -2013

    Dark TRanquillity -fl.jpg
     
  12. pachinko

    pachinko Advanced Member

    Joined:
    27/9/12
    Messages:
    756
    Likes Received:
    445
    Location:
    Cầu Giấy - Hà Nội
    DT band hay, cùng dòng với In flames... e có mấy cd của band này.
     
  13. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    In Flames

    In Flames là band nhạc tiên phong cuối cùng của Melodeath Thụy Điển và cũng là band nhạc thành công nhất về mặt thương mại của Melodeath. Đến thời điểm hiện tại khoảng gần 3 triệu đĩa nhạc của nhóm đã được bán ra. Sự thành công này, rất tiếc là một phần lớn do nhóm dần chuyển sang phong cách Alternative Metal trong những năm 2000s trở về sau này. Nhóm này đạt mức phổ biến cao tới mức đã từng 4 lần đoạt giải Grammis và là một trong những band nhạc nổi tiếng nhất của Thụy Điển của mọi thể loại. Band có 8 albums trong top 5 của Thụy Điển (4 albums đứng hạng 1), và có 3 albums đứng Top 30 của Mỹ.

    In Flames (IF) thành lập năm 90 tại Gothenburg, bởi nghệ sĩ guitar Jesper Strömblad. Lúc đầu, đây chỉ là một dự án kiểu side project vì Stromblad lúc này vẫn là thành viên chính thức của Ceremonial Oath, một band nhạc Death Metal khác của Thụy Điển. Lúc này, Stromblad muốn thử nghiệm phong cách nghiêng nhiều về giai điệu (hay chính là tiền thân của Melodic Death), điều không được chấp nhận ở Ceremonial Oath.

    Trong những năm đầu của band nhạc, In Flames có rất nhiều nhạc sỹ chơi cùng. Trong album đầu tiên của họ là Lunar Strain -94, một trong những album kinh điển đầu tiên của Melodeath, tay guitar Mikael Stanne của Dark Tranquillity đảm nhận vai trò hát chính. Nhưng sau đó, Stromblad rời khỏi Ceremonial Oath và quyết định biến band nhạc này trở thành một dự án chính thức. Sau đó, band ổn định đội hình và mời Anders Fridén – giọng ca chính của Dark Tranquillity hát chính. Với đội hình này, nhóm tung ra một loạt những albums kinh điển như: The Jester Race -96, Whoracle -97, Colony -99 và Clayman -2000. Những albums này đã biến IF trở thành một trong ba bands lớn nhất của Melodeath Thụy Điển.

    Nhưng đến đây thì âm nhạc của IF bắt đầu thay đổi, trong album phòng thu thứ sáu của họ là Reroute to Remain – 2002, band hướng tới một phong cách âm nhạc mới hơn, rời xa Melodic Death metal và gần gũi hơn với Alternative metal. Quyết định này đã bị chỉ trích bởi những người hâm mộ âm thanh metal mạnh mẽ hơn của nhóm; tuy nhiên, nó đã làm tăng lượng khán giả chính của band nhạc và thúc đẩy doanh số bán album của họ. (Lúc này âm nhạc của họ như là sự pha trộn giữa Melodeath và Nu Metal – đặc biệt là Korn). Phong cách pha trộn này tiếp tục trong album Soundtrack to Your Escape -2004, nơi họ bắt đầu gặt hái những thành công rất lớn khi lọt vào Top 3 albums của Thụy Điển và có mặt trên hầu hết các bảng xếp hạng trên toàn thế giới, kể cả Mỹ - ở vị trí 14.

    Kể từ đây thì họ chuyển hẳn sang Alternative Metal và trở thành một trong những band nhạc Metal hàng đầu thế giới. Những albums tiếp theo của họ như: Come Clarity-2006, A Sense of Purpose -2008, Sounds of a Playground Fading -2011 (dù đã mất đi Stromblad), Siren Charms -2014, Battles -2016, I, The Mask -2019 tiếp tục gặt hái những thành công rất lớn về mặt thương mại và biến band nhạc này trở thành một thế lực lớn của Metal thế giới.

    Dù giai đoạn sau của sự nghiệp không còn theo đuổi Melodic Death và bị những người hâm mộ band nhạc phản đối, IF vẫn là band nhạc thành công nhất trên thế giới của Death Metal Thụy Điển. Đây cũng là một trong những band nhạc Metal nổi tiếng nhất của đất nước này ở thời điểm hiện tại.

    Bộ sưu tập gồm trọn bộ các albums của nhóm:
    In Flames.jpg

    Những albums đầu tay theo phong cách Melodeath
    Lunar Strain -94, The Jester Race -96, Whoracle -97
    Colony -99 và Clayman -2000 (gồm 2 bản của Nga và Châu Âu)
    In Flames6.jpg

    Những albums pha trộn giữa Melodeath và Nu Metal (alternative)
    Reroute to Remain – 2002, Soundtrack to Your Escape -2004 (Special Edition).
    Single The Quiet Place -2004, Soundtrack to Your Escape -2004 (Bonus DVD)

    In Flames4.jpg

    Các albums chuyển hẳn sang Alternative Metal
    Come Clarity-2006 (Digipack), Come Clarity (Promotion)
    A Sense of Purpose -2008 (digipack), The Mirror's Truth (EP) -2008

    In Flames3.jpg

    Các albums gần đây:
    The Tokyo Showdown (album live 2CDs) -2001
    Battles -2016 (bản Special Edtion CD+DVD) và bản thường
    Siren Charms -2014 (Digibook), Sounds of a Playground Fading -2011 (Special Edtion CD+DVD)

    in flames2.jpg
     
    kikiriki, Wildbird and tienhoangmanh like this.
  14. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.898
    Bộ sưu tập thật công phu và tốn kém
     
    no1knows likes this.
  15. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Thú chơi đôi khi cũng rất mất thời gian và công sức mà bác. Tốn kém thì tùy từng người, theo em thì có tới đâu chơi tới đấy. Cái chính là mình yêu thích.
     
    lenamvl likes this.
  16. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Arch Enemy

    Arch Enemy là một band nhạc Melodic Death metal của Thụy Điển đến từ Halmstad, được thành lập vào năm 1996. Band nhạc này thực chất là một siêu nhóm (supergroup) được thành lập bởi nghệ sĩ guitar của Carcass là Michael Amott cùng với Johan Liiva, cả hai vốn đều xuất thân từ band nhạc Death metal có ảnh hưởng lớn Carnage và em trai của Michael là Christopher (từ band Armageddon). Band nhạc này cũng gặt hái được rất nhiều thành công đặc biệt là tại Nhật Bản và nhiều nước châu Á (trong đó có Việt Nam). Ngoài ra, họ còn rất phổ biến tại Phần Lan và Đức nhưng không quá phổ biến tại Thụy Điển, quê hương của họ. Đây cũng là một trong những band nhạc Extreme Metal có vocalist là nữ thành công nhất.

    Arch Enemy thực chất là đứa con tinh thần của Michael Amott (cựu thành viên của Carcass, Carnage và Spiritual Beggars), được anh này thành lập sau khi rời Carcass. Band nhạc theo đuổi "một nỗ lực kết hợp giai điệu với sự hung hăng và tính kỹ thuật. "- như lời của Michael Amott. Band nhạc này chia làm ba thời kỳ rõ rệt với sự xuất hiện của 3 vocalist khác nhau (2 người sau là nữ).

    Thời kỳ đầu tiên của nhóm kéo dài từ năm 96 tới 2000 với giọng ca chính là Liiva. Sau khi ổn định đội hình, band nhạc bắt tay vào ghi âm album đầu tiên là Black Earth, và tung ra vào năm 1996 qua hãng đĩa Wrong Again Records (hiện hãng đã phá sản và không còn tồn tại). Album này đạt thành công khá lớn tại Nhật Bản với đĩa đơn "Bury Me an Angel". Nhưng tại quê hương của nhóm là Thụy Điển, album không mấy thành công. Tại thời điểm này, Arch Enemy chỉ là một "nỗ lực solo" hơn là một band nhạc đầy đủ: Michael Amott tự viết tất cả các bài hát và thậm chí chơi bass trong album, mặc dù trong quyển booklet có ghi ca sỹ Liiva chơi bass. Amott sau đó tiết lộ rằng anh làm như vậy để cho album có vẻ như là một nỗ lực của "band nhạc". Nhiều người coi đây là album mạnh mẽ và giận dữ nhất của band nhạc, một tính chất đã mờ đi dần ở trong những album tiếp theo. (Nhưng không bao giờ bị mất hẳn).

    Sau khi phát hành Black Earth, band nhạc đã chuyển sang hãng mới là Century Media. Năm 1998, Arch Enemy phát hành Stigmata, album này đã thu hút sự chú ý của đông đảo khán giả, trở nên phổ biến ở cả Châu Âu và Châu Mỹ. Đây cũng là album đầu tiên của Arch Enemy được phát hành trên toàn thế giới. Tiếp theo sau là những albums rất tốt: Burning Bridges -99, album live Burning Japan Live 1999, ban đầu chỉ được phát hành giới hạn ở Nhật Bản, nhưng sau đó được phát hành trên toàn thế giới do yêu cầu của người hâm mộ. Lúc này, các albums đánh dấu sự thay đổi trong âm thanh cốt lõi của Arch Enemy, giờ đây họ đã chọn cách tiếp cận mang nhiều tính Melodic hơn so với album đầu tiên chơi khá mạnh.

    Vào tháng 11 năm 2000, giọng ca Johan Liiva được yêu cầu rời khỏi band nhạc. Michael Amott cho rằng band nhạc cần nhiều động lực hơn từ vị trí ca sĩ và màn trình diễn live của Liiva không bằng với phần còn lại của band nhạc. Thay thế cho Liiva là một nữ nhà báo nghiệp dư người Đức, một giọng ca Death metal nghiệp dư là Angela Gossow. Trong một cuộc phỏng vấn vào đầu năm 2000, Angela đã đưa một đoạn băng demo cho Christopher Amott và band nhạc khá ấn tượng với cô. Gossow đã chứng tỏ là một ca sĩ có năng lực và đã trở thành một biểu tượng nữ quyền của Extreme Metal, một thể loại thường gắn với các vocalist nam.

    Cùng với Gossow, band nhạc tiếp tục gặt hái được rất nhiều thành công lớn hơn với những albums kinh điển như: Wages of Sin -2001, Anthems of Rebellion -2003, Dead Eyes See No Future -2004 (EP) và Doomsday Machine -2005. Sau những albums này, Arch Enemy trở nên rất nổi tiếng và họ thậm chí có thể đi lưu diễn với những bands khổng lồ như Slayer hay Motorhead.

    Những albums sau đó của Arch Enemy là: Rise of the Tyrant -2007, The Root of All Evil -2009 và Khaos Legion -2011 tiếp tục những thành công của band nhạc và giúp cho nhóm ngày càng trở nên phổ biến hơn trên toàn thế giới. Tuy nhiên, trái ngược với sự thành công về mặt thương mại, giới chuyên môn không đánh giá cao những albums này. Có lẽ nó cũng là động lực để Arch Enemy chia tay Gossow và đón nhận giọng ca mới là Alissa White-Gluz, giọng ca nữ của band nhạc Metalcore đến từ Canada- The Agonist.

    Gluz khởi đầu rất ấn tượng với 2 albums: War Eternal -2014 và Will To Power -2017, trong đó War Eternal có lẽ là album có chất lượng cao nhất từ trước tới nay của Arch Enemy.

    Bộ sưu tập gồm khoảng 11 albums và 1 single 7''
    Arch Enemy1.jpg

    3 albums đầu tay với giọng ca chính Liiva
    Black Earth -96
    Stigmata -98 (bản đặc biệt remastered - slipcase), Burning Bridges -99(remastered - slipcase);
    Arch Enemy3.jpg
    Những albums dưới thời giọng ca nữ Gossow:
    Wages of Sin -2001, Anthems of Rebellion -2003;
    Rise of the Tyrant -2007, The Root of All Evil -2009;

    Arch Enemy2.jpg
    Những albums gần đây với giọng ca nữ chính White-Gluz
    War Eternal -2014 và Will To Power -2017;

    Arch Enemy4.jpg
    Ngoài ra còn có:
    Dead Eyes See No Future -2004 (EP), two song sampler -2005

    Arch Enemy5.jpg
    Và single 7''
    Nitad -2019
    Arch Enemy fl.jpg
     
    Last edited: 23/10/21
  17. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.898
    Đây đúng là ban có nhiều bài hay
    Theo mình thì nếu so với Carcass thì vẫn thua 1 bậc
     
  18. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Cái này cũng rất khó đánh giá. Nếu so về những bài hát dễ nghe và không quá sâu sắc thì Arch Enemy làm tốt hơn. Vì thế nhóm rất nổi tiếng, đặc biệt tại các nước châu Á. Đây chắc là nhóm Death Metal nổi tiếng nhất tại Nhật.
     
    lenamvl likes this.
  19. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.898
    Bạn nói đúng. Carcass nhạc sâu sắc hơn và phức tạp hơn nên nghe lâu không chán thậm chí càng nghe lâu càng thấy hay
     
  20. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Hypocrisy

    Band nhạc Death metal Thụy Điển Hypocrisy được thành lập bởi Peter Tägtgren vào năm 1990 khi anh trở về từ Florida, nơi anh đã được truyền cảm hứng từ Oldschool Death metal (từ các band nhạc như Morbid Angel, Deicide, Death và Obituary). Bản demo đầu tiên của Hypocrisy được thu âm toàn bộ bởi chính một mình Tägtgren. Sau khi có hợp đồng thu âm, anh mới tuyển dụng một đội hình để biểu diễn live còn bản thân anh này quyết định tập trung vào chơi guitar. Đội hình này tung ra 2 albums theo phong cách Oldschool Death Metal là Penetralia -92 và Obsculum Obscenum -93. Sau đó, do có sự thay đổi thành viên nên Tägtgren quyết định đảm nhận vai trò hát chính.

    Lúc này nhóm chỉ còn 3 thành viên nhưng lại là thời điểm mà Hypocrisy bắt đầu đạt được thành công với những albums như: The 4th Dimension -94, Abducted -96 và The Final Chapter -97. Âm nhạc trong các albums này đã chuyển sang Melodic Death. Những năm sau đó, Tägtgren phát triển sự nghiệp với tư cách là nhà sản xuất cho các band nhạc như Dimmu Borgir, Immortal và Dark Funeral.

    Do công việc mới quá bận Hypocrisy chính thức tan rã sau khi The Final Chapter được phát hành. Tuy nhiên, sự quan tâm của người hâm mộ đã thuyết phục Tägtgren xem xét lại việc từ bỏ âm nhạc. Việc phát hành một album live, Hypocrisy Destroys Wacken -99 đạt được thành công lớn là một dấu hiệu báo trước cho những điều sắp phải xảy ra. Band nhạc tái hợp không lâu sau đó và tung ra 2 albums mới Hypocrisy -99 và Into the Abyss -2000 đều có chất lượng rất tốt theo phong cách Melodeath.

    Sau những albums rất hay này, Hypocrisy tiếp tục hoạt động trở lại rất mạnh mẽ với những albums có chất lượng rất ổn như: Catch 22 -2002, The Arrival -2004, Virus -2005, A Taste of Extreme Divinity -2009 và End of Disclosure -2013 khá đều tay và mang nhiều tính thử nghiệm hơn. Thành công của những albums này đã giúp cho nhóm có rất nhiều chuyến lưu diễn Bắc Mỹ với những bands lớn như: Killswitch Engage, Soilwork, Scar Culture, Dimmu Borgir, Nevermore, Children of Bodom, Cannibal Corpse, Exhumed, Vile với rất nhiều buổi biểu diễn cháy vé.

    Trong những năm gần đây, Hypocrisy có nhiều thay đổi trong đội hình và buộc phải nghỉ ngơi trong 8 năm. Album mới của nhóm là Worship sẽ được tung ra cuối năm 2021.

    Tuy sự nghiệp có nhiều thăng trầm và không quá phổ biến (chủ yếu được biết tới rộng rãi tại Nhật Bản) nhưng Hypocrisy là một band nhạc chất lượng với nhiều albums khá đều tay.

    Bộ sưu tập có các albums:
    The 4th Dimension -94, The Final Chapter -97;
    Into the Abyss -2000, The Arrival -2004;
    Hypocrisy.jpg

    Và bộ 3 albums bản Nhật Bản hơi khó tìm:
    Hypocrisy Destroys Wacken -99 (Live), The Final Chapter -97;
    Hypocrisy -99;

    hypocrisy2.jpg
     
    Last edited: 24/10/21
    Wildbird likes this.
  21. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Thực sự thì Carcass là band nhạc có độ sâu lớn hơn nhiều so với Arch Enemy. Âm nhạc của họ không theo một khuôn mẫu thực sự nào cả. Nghe nhưng rất cần suy ngẫm. Mỗi albums lại chơi theo một kiểu hoàn toàn khác biệt. Tuy Mike Amott là cựu thành viên của Carcass nhưng vai trò của anh này ở nhóm không mạnh mẽ bằng nhiều thành viên khác. Arch Enemy gần như là một dự án solo của anh này. Âm nhạc không quá đột biến.
     
    lenamvl likes this.
  22. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.898
    Chuẩn luôn không cần chỉnh
     
  23. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Soilwork

    Soilwork là một ban nhạc Melodic Death Metal khá nổi tiếng của Thụy Điển. Nhóm được thành lập vào cuối năm 1995 tại Helsingborg, ban đầu có tên là Inferior Breed. Năm 1996, họ đổi tên thành Soilwork để phù hợp hơn với âm thanh mới của họ. Âm thanh độc đáo của họ là sự kết hợp giữa Gothenburg Metal kinh điển với những đoạn riff rất mạnh và lặp lại của Heavy Metal cuối những năm 1970, đầu 1980 của Anh và Châu Âu. Trong các album gần đây nhất, họ cũng đã kết hợp các yếu tố từ Alternative Metal của Mỹ và nghiêng nhiều hơn về phía giai điệu đẹp. Các tác phẩm gần đây nhất của họ sử dụng vocal nhiều hơn và giai điệu nhẹ nhàng hơn so với tác phẩm trước đó. Họ cũng trau chuốt hơn trong khâu sản xuất để làm nổi bật sức mạnh của tiếng trống.

    Trong những năm đầu sự nghiệp Soilwork đã tung ra những albums đầu tay có chất lượng rất tốt bao gồm: Steelbath Suicide -98, The Chainheart Machine -2000, A Predator's Portrait -2001, Natural Born Chaos -2002. Đây là những albums theo phong cách Melodeath truyền thống của Thụy Điển và có chất lượng rất tốt. Giúp cho nhóm có hợp đồng với hãng đĩa lớn Nuclear Blast và quảng bá tên tuổi của nhóm như một trong những band Melodic Death hàng đầu (cùng với In Flames). Trong những albums này, nhóm đã kết nạp cả một tay keyboards chính thức để tăng tính giai điệu cho những bài hát.

    Tuy nhiên, sau những albums khá thành công, nhóm có quan hệ rất mật thiết với nhóm In Flames (cùng hãng đĩa) và bắt đầu học tập theo phong cách (dẫn tới thành công rất lớn của nhóm này) là tích hợp thêm Alternative Metal và sau này là cả Metalcore vào những albums tiếp theo như: Figure Number Five -2003, Stabbing the Drama -2005, Sworn to a Great Divide -2007 và The Panic Broadcast -2010. Tức là âm nhạc nhẹ nhàng hơn, và nghiêng nhiều về phía giai điệu. Band nhạc khá thành công với phong cách mới này về mặt thương mại. Album năm 2005 của nhóm bắt đầu gặt hái được những thành công nhỏ tại Hoa Kỳ. Stabbing the Drama lần lượt đạt vị trí số 12 và 21 trên bảng xếp hạng Billboard Heatseeker (bảng xếp hạng cho những nghệ sỹ chưa bao giờ có albums vào được Top 100) và Independent album (do những hãng đĩa nhỏ underground phát hành). Thành công này giúp cho nhóm có mặt tại Ozzfest (lễ hội Metal uy tín nhất của Mỹ do Ozzy tổ chức) năm 2005 cùng với In Flames.

    Con đường mà Soilwork đi khá giống với In Flames, nhưng bước ngoặt tới với họ trong thập niên 2010s. Lúc này nhóm không tiếp tục đi theo Alternative và Metalcore nữa mà quay trở lại với Melodic Death thuần chất và mạnh mẽ hơn (sau khi đã tạo dựng tên tuổi). Các albums như: The Living Infinite -2013, The Ride Majestic -2015 và Verkligheten -2019 đều là những albums đầy mạnh mẽ và tham vọng theo đúng phong cách Melodic Death, loại bỏ hết những ảnh hưởng của Alternative và Metalcore. Các albums có chất lượng rất tốt và cũng rất thành công. Album The Linging Infinite (dù là album kép 2CDs) nhưng đạt được hạng 60 tại Mỹ và 19 tại Thụy Điển. Đây cũng là những thứ hạng cao nhất trong lịch sử của band nhạc.

    Trước đây, Soilwork cũng gây ra nhiều ý kiến trái chiều trong lòng người hâm mộ Melodic Death, tuy nhiên, những album hiện tại của họ xứng đáng là những albums kinh điển của dòng nhạc này.

    Bộ sưu tập gồm 12 albums:
    Live in the Heart of Helsinki -2015 (Live - 2CDs +Blu Ray SE Boxset);
    Verkligheten -2019 (Digipack), The Ride Majestic -2015, Natural Born Chaos -2002
    Stabbing the Drama -2005 (digipack), Death Resonance -2016 (compilation, digipack), Figure Number Five -2003;
    The Chainheart Machine -2000, A Predator's Portrait -2001 (digipack), Sworn to a Great Divide-07(SlipcaseCD+DVD)

    soilwork1.jpg
    Và 2 albums:
    The Living Infinite -2013 (digipack 2CDs), The Panic Broadcast -2010 (SE Digipack CD+DVD);
    Soilwork2.jpg
     
    Wildbird and tienhoangmanh like this.
  24. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    The Great Deceiver

    The Great Deceiver là một trong số rất nhiều band nhạc có sự góp mặt của Tomas Lindberg, giọng ca chính của nhóm nhạc huyền thoại At The Gates. Sau khi At the Gates tan rã, Lindberg đã tham gia tầm 10 bands khác nhau và phát triển âm nhạc theo nhiều hướng riêng biệt. The Great Deceiver là một dự án mà tại đây, anh này phát triển Melodic Death với sự pha trộn của Punk, Hardcore và Heavy metal. Band nhạc ban đầu có tên là Hide, và được thành lập một tuần sau khi At The Gates tan rã. Vài năm sau, họ đổi tên thành The Great Deceiver.

    Nhóm nhạc này sau đó đã tung ra lần lượt 3 albums: A Venom Well Designed -2002, Terra Incognito -2004 và Life Is Wasted on the Living -2007. Cả 3 albums đều khá lạ và có chất lượng khá tốt. Tuy nhiên, band nhạc không mấy thành công về mặt thương mại. Điều này khiến cho Lindberg mất dần cảm hứng và không tiếp tục theo đuổi dự án này nữa.

    Sau này, trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Decibel, Tomas Lindberg đã nói một câu đầy ẩn ý: "Band nhạc này có thể tồn tại vĩnh viễn trên băng." Và từ đó thì cũng không có nhiều tin tức về sự hồi sinh hay âm nhạc của band.

    Bộ sưu tập có album: Terra Incognito -2004 (bản đặc biệt Digipack)
    Great Deceiver.jpg
    Armageddon

    Được thành lập tại Halmstad, Thụy Điển, vào năm 1997 bởi Christopher Amott, tay guitar của Arch Enemy như một dự án kiểu side project. Armageddon bắt đầu khi Arch Enemy được mời đến Nhật Bản để ký hợp đồng thu âm mới với hãng đĩa Toy's Factory sau khi phát hành album Black Earth (album rất thành công của Arch Enemy tại Nhật). Tại đây, Christopher đã có được hợp đồng thu âm của riêng mình cho một dự án solo, dự án này sau đó trở thành Armageddon. Khi trở về Thụy Điển, anh đã chiêu mộ tay trống Peter Wildoer (Darkane, Majestic), tay bass Martin Bengtsson, và giọng ca Jonas Nyrén (In Thy Dreams) để hoàn thiện band nhạc.

    Band nhạc đã phát hành album đầu tay năm 1997, Crossing the Rubicon, qua hãng W.A.R. ở Châu Âu và trên Toy's Factory Records ở Nhật Bản. Crossing the Rubicon chủ yếu tập trung vào âm thanh Melodeath, nhưng có kết hợp thêm các nhạc cụ và các phần hiệu ứng đặc biệt giữa mỗi bài hát. Album được phát hành bởi chính hãng đã phát hành album đầu tiên của Arch Enemy ở châu Âu, nhưng hãng này sau đó phá sản khiến cho album trở nên rất khó tìm. Cho đến tận bây giờ, Crossing the Rubicon chưa bao giờ được phát hành bên ngoài châu Âu và Nhật Bản.

    Sau Crossing the Rubicon, Peter Wildoer và Martin Bengtsson đều tham gia Arch Enemy, ghi âm và phát hành Stigmata vào năm 1998 cùng với Christopher. Họ tập trung vào Arch Enemy trong ba năm, và không quay lại Armageddon cho đến năm 2000. Lúc này họ phát hành album thứ hai Embrace the Mystery năm 2000 qua hãng đĩa Toy's Factory của Nhật. Âm nhạc của nhóm chuyển dần sang Progressive Metal. Trong album thứ 3 là Thress, nhóm tiếp tục thay đổi âm nhạc khi chuyển sang Hard Rock và Metal truyền thống. Album này một lần nữa được Toy's Factory phát hành và chỉ ở Nhật Bản.

    Sau đó, nhóm nhạc tiếp tục rơi vào tình trạng dừng hoạt động. Chỉ tới năm 2012, Christopher Amott một lần nữa rời khỏi Arch Enemy, và quay trở lại để cải tổ Armageddon một lần nữa. Band tung ra album Captivity & Devourment -2015 và thu âm lại album đầu tay năm 97 'Crossing The Rubicon'. Cả 2 albums đều theo phong cách Melodeath.

    Vì Amott không thể dành thời gian cho Armageddon, vào năm 2019, các thành viên cũ Hämäläinen, Concepcion, Claudius, Pevny và tay trống Yanni Sofianos đã thành lập Daughter Chaos, một band nhạc dự định trở thành band kế vị về mặt tinh thần của Armageddon.

    Bộ sưu tập có album: Captivity & Devourment -2015
    Armaggedon.jpg
     
    tienhoangmanh and Wildbird like this.
  25. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Amon Amarth

    Bắt nguồn từ Melodic Death Metal nhưng với ca từ xoay quanh lịch sử Viking và thần thoại Bắc Âu khác biệt hẳn so với những band nhạc Death Metal khác, Amon Amarth dẫn tiến tới một vị trí siêu sao trong làng nhạc Metal thế giới. Band nhạc (trước đây gọi là Scum) được thành lập vào năm 1992 tại Tumba, Thụy Điển, một vùng ngoại ô phía nam của Stockholm. Họ bắt đầu viết các bài hát theo phong cách Melodic với những giai điệu, hòa âm và lời bài hát về người Viking và Pantheon norse. Vào mùa hè năm 1993, họ thu âm bản demo Thor Arise nhưng không thực sự thành công. Sau đó band tiếp tục tập luyện và viết bản demo thứ hai, The Arrival of the Fimbul Winter. Lần này band nhạc đã hài lòng hơn nhiều với âm thanh và các bài hát và bắt đầu được biết tới khá nhiều trong thế giới underground. Bản demo nhận thứ hai được sự quan tâm rất lớn, nhanh chóng bán hết trong lần phát hành đầu tiên và giúp cho nhóm có hợp đồng với Pulverized Records của Singapore. Sau khi thu âm MCD Sorrow Through the Nine Worlds vào năm 95, nhóm đã phát triển rất mạnh và được nhiều hãng quan tâm. Sau nhiều cân nhắc, band nhạc đã chọn ký hợp đồng với Metal Blade.

    Cùng với hãng đĩa này, Amon Amarth đã lần lượt tung ra các albums: Sent From the Golden Hall-98, The Avenger -99, The Crusher -2001, Versus the World -2002 và Fate Of Noms -2004. Các albums này đều có chất lượng khá tốt và chơi ngày càng lên tay, đã giúp cho band nhạc dần trở thành một thế lực của Death Metal thế giới. Cùng với những chuyến lưu diễn vòng quanh châu Âu và Bắc Mỹ đầy năng lượng, số lượng fan hâm mộ của nhóm ngày càng tăng. Những năm đầu 2000, Amon Amarth thậm chí đã có thể tự tổ chức những buổi lưu diễn vòng quanh châu Âu cho riêng mình.

    Nhưng đây dường như chỉ là những sự khởi đầu cho sự nghiệp của nhóm này, sự nghiệp của nhóm vươn tới đỉnh cao đầu tiên với album kinh điển With Oden on Our Side, album rất mạnh mẽ này đã đứng đầu trên top album Heavy Metal của rất nhiều tạp chí và giúp nhóm bắt đầu có mặt trên bảng xếp hạng của Mỹ.

    Sau khi gia hạn hợp đồng thu âm với Metal Blade Records cho ba album nữa, band nhạc đã phát hành album thứ bảy là Twilight of the Thunder God-2008. Với sự xuất hiện của khách mời là Lars-Göran Petrov của Entombed, Roope Latvala của Children of Bodom và band nhạc cello metal Apocalyptica, Twilight of the Thunder God được coi là album đột phá của band nhạc đạt vị trí thứ 50 tại Mỹ, thứ 6 ở Đức, số 10 ở Phần Lan, số 11 ở Thụy Điển, số 14 ở Áo, số 21 ở Thụy Sĩ. Đến cuối năm, album được bầu ở vị trí thứ 7 trong Top 20 Album của Tạp chí Metal danh tiếng Revolver năm đó.

    Cùng với sự phát triển vượt bậc, những albums sau đó của nhóm như: Surtur Rising -2011, Deceiver of the Gods -2013, Jomsviking -2016 và Berserker -2019 đều có chất lượng rất tốt và thậm chí lọt vào Top 1 tại các nước như Đức, Thụy Sỹ và Áo. Tại Mỹ, các albums của họ cũng lọt vào Top 20 chính thức. Một thành tích quá tốt cho một band nhạc Metal.

    Với cách tiếp cận khác biệt khi hát về chủ đề Viking, Amon Amarth dần trở thành một thế lực rất lớn của Metal thế giới.

    Bộ sưu tập có 3 albums:

    Versus the World -2002 ;
    Twilight of the Thunder God-2008 (SE Digipack CD+DVD), With Oden on Our Side -2006
    Amon Amath.jpg
     
    Wildbird and tienhoangmanh like this.

Share This Page

Loading...