Nghề chơi cũng lắm công phu - những bộ sưu tập hay (Phần 2)

Discussion in 'Âm nhạc' started by no1knows, 22/1/21.

  1. Hatdo

    Hatdo Advanced Member

    Joined:
    22/4/15
    Messages:
    249
    Likes Received:
    14
    Location:
    Trương Định - Hà Nội
    Pentagoria cái tên nghe lạ hoắc luôn, nghe qua khá hay!
    Cemetary có vẻ cũng là band thú vị, dù khá cổ
     
  2. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Về cơ bản, chúng ta đã kết thúc những bài viết về Death Metal. Tiếp theo chúng ta sẽ chuyển sang Eclectic Prog, một trong ba dòng nhạc chính của Prog Rock trong thập kỷ 60-70. Hai dòng nhạc còn lại là Symphonic Prog và Space Rock chúng ta đã gặp trong những phần trước với những tên tuổi tiêu biểu như Genesis, Yes hay Pink Floyd. Trong Eclectic Prog Rock chúng ta sẽ gặp tiếp ông lớn còn lại của Prog Rock là King Crimson và rất nhiều band nhạc hay khác nữa. Dưới đây sẽ là bộ sưu tập các band nhạc và album của Eclectic Prog.

    Eclectic Prog

    Thuật ngữ 'Eclectic' trong progressive rock mô tả sự tổng hợp các yếu tố từ nhiều nguồn âm nhạc khác nhau, cũng như tầm ảnh hưởng và con đường sự nghiệp của các band nhạc thuộc nhiều thể loại hoặc phong cách. Thuật ngữ 'Eclectic Prog' có ý nghĩa đặc biệt để chỉ các band nhạc vượt qua ranh giới của các thể loại Progressive Rock đã được thiết lập (hoặc pha trộn nhiều ảnh hưởng).

    Như ta đã biết, Prog Rock phát triển từ cuối thập niên 60s và bùng nổ ở những năm đầu thập niên 70s rồi sau đó lụi tàn ở cuối thập kỷ này. Sau đó, dòng nhạc lại tiếp tục hồi sinh với Neo Prog ở thập niên 80s trước khi suy tàn rồi lại hồi sinh một lần nữa trong thập niên 90s và tiếp tục phát triển mạnh tới thời điểm hiện tại. Dòng nhạc mang nhiều tính nghệ thuật này sau đó đã được giới chuyên môn tổng hợp lại và chia thành rất nhiều nhánh nhỏ (sub- genre) như: Symphonic Prog, Space Rock, Zeuhl, Canterbury Scene, Heavy Prog, Post Rock, Prog Metal, RPI …

    Eclectic Prog là một trong số những dòng nhạc phức tạp. Chủ yếu kết nạp những band nhạc chơi Prog Rock nhưng quá riêng biệt để tạo thành một thể loại riêng. Những band nhạc này không thuộc bất kỳ dòng nhạc nào như Symphonic, Space… họ chỉ chơi Progressive với những đặc tính riêng của dòng nhạc này. Trước đây tất cả những band này đều gọi là Prog Rock cùng với những band Symphonic, Space hay Canterbury nhưng do Prog Rock trở thành tên chung của cả dòng lớn nên những band này được tách riêng và đưa vào Eclectic Prog. Chúng ta cũng không nên nhầm lẫn với những band nhạc thuộc một nhánh nhỏ khác là Crossover Prog, những band nhạc thuộc nhánh Crossover là những band chơi nhạc đa phong cách. Có album chơi Symphonic, có album chơi Space, chơi Canterbury v.v còn những band Eclectic thì những album của họ không thể xếp vào bất kỳ dòng nhạc nào kể trên. Trong số các band nhạc Eclectic tiêu biểu có KING CRIMSON, VAN DER GRAAF GENERATOR, và GENTLE GIANT. Đây cũng là những band nhạc lớn nhất của nhánh này.

    Trước tiên, ta tới với King Crimson (bài viết hơi dài mong các bác thông cảm)

    King Crimson

    "Khi bạn muốn biết âm nhạc sẽ đi đến đâu trong tương lai, bạn nên nghe một album của King Crimson."- đó chính là lời của tay trống huyền thoại Bill Bruford vào năm 1995.

    Sau tất cả những lần tan rã, giai đoạn không tồn tại và sự thay đổi lớn trong âm nhạc, King Crimson vẫn là một trong số những band nhạc hấp dẫn nhất chơi trong lĩnh vực nhạc rock cho đến ngày nay. Được công nhận rộng rãi là những người khai phá thể loại art-rock với album hoành tráng năm 1969 "In The Court Of The Crimson King" (siêu phẩm Prog Rock đầu tiên trong lịch sử), họ đã mở đường cho các band nhạc art-rock / progressive rock sáng tạo như Yes, ELP, v.v. vào đầu những năm 70 cũng như truyền cảm hứng cho các band nhạc Progressive gần đây như Tool và The Mars Volta thông qua những album Post – Progressive của họ vào đầu những năm 80 và 90. Còn hơn cả một phong cách, âm nhạc của King Crimson đã không ngừng tìm kiếm sự sáng tạo thông qua việc kết hợp của các hình thức âm nhạc hiện có, tránh xa mọi khuôn mẫu đương đại, xóa bỏ mọi quan niệm rằng cần phải tuân thủ các công thức đã được chứng minh để có thể tạo ra âm nhạc thành công về mặt thương mại.

    Ngay từ khi mới thành lập ở Bournemouth, Anh vào cuối những năm 60, ánh sáng dẫn đường vững chắc của King Crimson đã không ngừng phát ra từ trí tuệ uyên bác của nghệ sĩ guitar Robert FRIPP. Mặc dù ông này khẳng định rằng mình không phải là linh hồn band nhạc và cho rằng khả năng tồn tại lâu dài của nhóm là do sự xuất sắc của tập thể các thành viên riêng lẻ, mặc dù band nhạc dường như liên tục tan rã và cải tổ trước cây đũa thần của ông này. Fripp bắt đầu chơi guitar ở tuổi 11 với nghệ sĩ nhạc Jazz truyền thống Acker Bilk cung cấp cho ông này nguồn cảm hứng từ rất sớm. Năm 18 tuổi, ông chơi với một band nhạc trong khách sạn ở quê nhà Bournemouth, biểu diễn tại bar-mitzvahs và các đám cưới trong khi phát triển phong cách guitar đặc biệt của mình kết hợp nhiều kỹ thuật của nhạc cổ điển. Những ảnh hưởng đầu tiên của ông này là Bartok, Debussy và Django Reinhardt, ông lại đặc biệt bị thu hút bởi bài hát "A Day In The Life" năm 1967 của The Beatles mà ông tuyên bố, đã ảnh hưởng đến ông theo những cách tương tự như các nhà soạn nhạc cổ điển. Những ý tưởng đầu tiên của ông cho King Crimson bắt đầu hình thành. Vào đầu năm 67, sau khi chơi với những band nhạc pop địa phương khác, ông đã gặp hai anh em Michael GILES và Peter GILES lần lượt chơi trống và bass / vocal. Đến tháng 10 năm 1967, sau khi đổi tên nhóm thành GILES, GILES & FRIPP, họ đến London để thu âm các bản demo cho một album nhạc pop kỳ quặc mang tên "The Cheerful Insanity Of Giles Giles & Fripp" cùng với một số các nhạc sĩ khách mời. Album này đã được phát hành trên hãng thu âm Deram Records đầy táo bạo của Vương quốc Anh vào tháng 9 năm '68.

    Bất chấp một phong cách Folk hài hước và đáng suy ngẫm với những dòng guitar vui nhộn của Fripp, doanh số bán hàng rất ảm đạm chỉ khoảng 600 bản. Vào tháng 6 năm '68, họ đã kết nối với nghệ sĩ đa nhạc cụ Ian McDonald, người đã được đào tạo chính thức về âm nhạc trong Quân đội Anh, cùng với bạn gái của anh ta, giọng ca Judy Dyble, người trước đây đã là thành viên của Fairport Convention. Dyble chỉ ở lại vài tuần trước khi rời khỏi để tham gia band nhạc Folk - Trader Horne. Khi đó, một đồng nghiệp cũ của McDonald's, Peter SINFIELD, đến làm trở thành người viết lời mới. Mặc dù Sinfield, McDonald và Dyble không tham gia vào album "Cheerful Insanity". album, đã được phát hành lại nhiều lần trên cả đĩa nhựa và CD, sự tham gia của họ có trong một album CD tuyển chọn năm 2001 của những tác phẩm thu được từ thời kỳ này được gọi chung là "The Brondesbury Tapes", biên tập bởi Peter Giles.

    Nhưng tại thời điểm này nhóm chưa thành công, Peter Giles thất vọng đã rời đi vào tháng 10 năm 68 để theo đuổi sự nghiệp máy tính và gần như ngay lập tức bị thay thế bởi Greg LAKE, một người bạn thời thơ ấu của Fripp từ Bournemouth, người vừa rời khỏi band nhạc Gods bao gồm Lee Kerslake và Ken Hensley, người sẽ tiếp tục thành lập Uriah Heep. Bộ tứ (cộng với người viết lời và sau này là người điều hành chương trình ánh sáng Sinfield) sẽ sớm đổi tên họ thành King Crimson, đó là ý tưởng của Sinfield vì ông muốn thứ gì đó nghe có vẻ mạnh mẽ hơn Giles, Giles & Fripp. Trong tập sách đi kèm từ box set năm 1991 "Frame By Frame", Fripp giải thích ý nghĩa sâu sắc hơn: "Cái tên King Crimson là từ đồng nghĩa với Beelzebub, là một dạng viết tắt của cụm từ Ả Rập Bi`l Sabab. Điều này có nghĩa rằng, theo nghĩa đen, là người đàn ông có mục tiêu và đó cũng chính là phẩm chất dễ nhận biết của King Crimson". Vì vậy, King Crimson được hình thành vào tháng 11 năm 1968 (Fripp cho rằng band nhạc chỉ mới có ý tưởng được hình thành vào ngày này, và thực sự được ra đời vào ngày 13 tháng 1 năm 1969).

    Band nhạc tập luyện lần đầu tiên tại tầng hầm của một quán cà phê ở London vào ngày 13 tháng 1 năm 1969, lúc đó McDonald mở rộng kho vũ khí nhạc cụ của mình, bao gồm các nhạc cụ thuộc bộ gió gỗ (woodwind) khác nhau cũng như một nhạc cụ bàn phím điện tử mới lạ, Mellotron, loại đàn đi tiên phong trong kỹ thuật âm thanh, sample, trong khi giọng nam cao sắc sảo của Greg Lake đã tạo thêm không khí tinh tế cho âm thanh thần thánh của band nhạc sẽ phát triển trong những tháng tới.

    Band nhạc có hợp đồng với EG (sự hợp tác giữa hai doanh nhân, David Enthoven và John Gaydon), một nhãn hiệu sẽ tồn tại cho đến khi đầu những năm 90, King Crimson biểu diễn live show đầu tiên của họ tại Câu lạc bộ Speakeasy ở London vào đầu tháng 4 năm 1969, sau đó là tại Câu lạc bộ Marquee, nơi nhanh chóng giúp họ có vị thế trong giới âm nhạc underground ở London. Âm nhạc tiên phong đầy suy ngẫm của họ tránh xa những đặc điểm của nhạc pop thông thường, nghiêng về cấu trúc và hình thức của âm nhạc cổ điển kết hợp với sự điên cuồng ngẫu hứng của nhạc jazz trên nền nhạc rock. Tuy nhiên, cuộc thử lửa chỉ xảy ra khi họ biểu diễn như một band hỗ trợ tại buổi hòa nhạc miễn phí của Rolling Stones ở Hyde Park, London trước sự chứng kiến của hơn nửa triệu khán giả là khán giả sành điệu nhất của London. Tác động của nó là vô cùng to lớn, với việc Jimi Hendrix bắt tay Fripp. Sau đó các công ty thu âm đã tranh giành hợp đồng với Island Records ở Anh và Atlantic Records ở Bắc Mỹ nổi lên như những người chiến thắng.

    LP đầu tiên của họ, "In The Court Of The Crimson King (An Observation By King Crimson)", được phát hành tại Anh vào ngày 10 tháng 10 năm 1969, sẽ trở thành một trong những album debut tàn khốc nhất trong lịch sử nhạc rock. Được trang trí bằng tác phẩm nghệ thuật theo phong cách tân gothic đáng ngại của Barry Godber, một người bạn của Pete Sinfield, nó cũng sẽ trở thành một trong những bìa đĩa nhạc Rock nổi tiếng nhất cùng với "Dark Side Of The Moon" của Pink Floyd và "White Album" của The Beatles. Điều đáng buồn là, Godber đã chết vì một cơn đau tim vào tháng 2 năm 1970 ở tuổi 24. Âm nhạc, với ca từ da diết, những đoạn Mellotron kiều không gian Spacies và những dòng guitar góc cạnh đầy tính tiên phong và mang âm hưởng của nhạc giao hưởng đầy u ám. Bầu không khí thanh tao yên tĩnh với những nét chấm phá baroque được xen kẽ với những đoạn cao trào rồi giảm dần độ kịch tính xuất hiện trong hầu hết các tác phẩm. Trong khi phong cách psychotic be-bop hỗn loạn tâm thần nổi bật trong ca khúc mở đầu, "21st Century Schizoid Man", thể hiện sức mạnh âm nhạc của band nhạc. Bản nhạc này sẽ trở thành thương hiệu của band nhạc trong vài năm tới và gợi lên đủ sự hủy diệt, u ám và khó hiểu có thể sánh ngang với bất kỳ band nhạc prototype metal nguyên mẫu nào trong thời điểm này.

    Vào tháng 11 năm 1969, "In The Court Of The Crimson King" đạt vị trí thứ 5 tại Anh và band nhạc bắt đầu chuyến lưu diễn ở Hoa Kỳ để hỗ trợ việc phát hành trên Atlantic Records. Bất chấp sự đón nhận nhiệt tình mà band nhạc nhận được, Fripp & nhóm đã quay trở lại Vương quốc Anh ngay trước Giáng sinh khi tay trống Michael Giles và keyboard / reed-man Ian McDonald xin từ bỏ với lý do là sự khác nghiệt của chuyến lưu diễn và định hướng âm nhạc khác biệt. Trong một nỗ lực để giữ band nhạc lại với nhau, chính Fripp đã đề nghị mình sẽ từ bỏ band nhạc để giữ 2 thành viên ở lại! Nhưng điều này vô ích và Giles và MacDonald đã rời đi, phát hành một album tầm thường (báo chí nhạc rock khá thích nó, nhưng khán giả thì không, và đĩa không bán được) cùng nhau vào năm 1970. Sau đó McDonald trở thành thành viên sáng lập của Foreigner và sau này xuất hiện trong thời gian rất ngắn trong album "Red" năm 1974 của King Crimson.

    Sự cố này khiến tương lai của King Crimson bị nghi ngờ vào đầu năm 1970 giữa những tin đồn rằng Fripp sẽ thay thế Peter Banks trong Yes hoặc tham gia cùng Aynsley Dunbar trong Blue Whale. Greg Lake cũng đã thảo luận về khả năng thành lập một band nhạc với Keith Emerson vào đầu tháng 12 năm 69 khi cả hai gặp nhau ở hậu trường tại một buổi biểu diễn tại Fillmore West ở San Francisco. Tuy nhiên, vận may đã mỉm cười khi Lake và Giles đồng ý tiếp tục thu âm các phần của album mới. Trong vài tháng tiếp theo, các nhạc sĩ khác đã được tuyển dụng làm khách mời, đáng chú ý nhất là nghệ sĩ piano jazz Keith Tippett và Mel Collins trên woodwinds với Peter Giles trở lại chơi bass. Gordon Haskell, một người bạn thời thơ ấu của Fripp, cũng góp giọng hát trong một ca khúc (chỉ vì Greg Lake rời đi trước khi bài này được sáng tác). Vào tháng 3, một đĩa đơn khác lạ đã được phát hành mang tên "Cat Food" sử dụng nền tảng nhạc jazz của Tippett để tạo lợi thế với giọng hát của Lake, gợi nhớ đến giọng hát của John Lennon trên các bài hát của Beatles như "Come Together" và "Helter Skelter". Một album dài LP, "In The Wake Of Poseidon" được tiếp nối vào tháng 5 và có vẻ mang tiếng xấu vì quá giống album trước đó với phong cách tân cổ điển, các đoạn Mellotrons (hiện do Fripp đảm nhận) cũng như bản nhạc bắt chước "21st Century Schizoid Man " có tên "Pictures Of A City ", được sáng từ tác trước đây bởi Fripp và Ian McDonald. Đây hẳn nhiên không phải là tập hợp các nhạc sĩ vào chơi chung, nhưng rõ ràng là thiếu sự ăn ý khi ra mắt, "In The Wake Of Poseidon" đã vấp phải sự chỉ trích từ báo chí âm nhạc, nhưng được sản xuất tốt, bán chạy cao ngất ngưởng, xếp hạng 4 tại Vương quốc Anh.

    Vào tháng 8 năm 1970, King Crimson một lần nữa trở thành một band nhạc đầy đủ với Mel Collins và Gordon Haskell (vocal & bass) trở thành thành viên cố định cùng với tay trống Andy McCulloch, người được Keith Emerson tiến cử với Fripp, với sự hỗ trợ từ Greg Lake. Kết quả là album "Lizard" có âm thanh giống Canterbury hơn và cũng mang màu sắc jazz nặng hơn một phần do sự tham gia tiếp tục của Keith Tippett. Fripp cũng mời các nhạc sĩ thời vụ khác, những người đã làm cho dự án trở nên phức tạp hơn. Ông cũng sáng tác một tổ khúc (suite) gồm 4 chương chiếm trọn một mặt đĩa LP với giọng hát hùng hồn của Jon Anderson -Yes (vì giọng hát trong bài nằm ngoài ngưỡng hát của Gordon Haskell). Fripp cũng downtuned cây đàn guitar của mình để ủng hộ những bức tường âm thanh của Mellotron và chơi cả guitar acoustic khá thường xuyên hơn với những bài hát chịu nhiều ảnh hưởng của nhạc cổ điển, trong khi ca từ u ám của Sinfield đạt đến độ sâu lắng làm liên tưởng đến tác phẩm của Lewis Carroll cũng như The Beatles. Tuy nhiên, dù rất phức tạp cả về âm nhạc lẫn chủ đề, tác phẩm hoàn thành đều không đáp ứng được nguyện vọng nghệ thuật của Haskell và McCulloch và cả hai đều gói ghém đồ đạc vào tháng 10 năm 1970 trước King Crimson (Mark III) có cơ hội biểu diễn trực tiếp. (Haskell rời đi vì không thích hướng đi của KC, McCulloch bỏ cuộc vì bầu không khí độc hại). Haskell đã tham gia sự nghiệp solo trong khi McCulloch tham gia Greenslade trong 3 albums từ năm '72 đến '75. "Lizard" được phát hành vào tháng 12 năm 1970 và chắc chắn là bản thu âm "nghệ thuật" nhất của band nhạc và trong khi nhiều người coi nó như con cừu đen trong sự nghiệp của King Crimson, dù gì nó vẫn có sức hấp dẫn đặc biệt đối với những người sành sỏi về Rock nghệ thuật đầu thập niên 70.

    Trải qua 3 albums với 3 đội hình, Fripp đã quá quen với việc thành viên bỏ đi, ông bắt đầu gần như ngay lập tức để lấp đầy khoảng trống mà Haskell và McCulloch để lại. Sau khi từ chối một số ứng viên tiềm năng, bao gồm Brian Ferry (sau này là giọng ca chính của Roxy Music), cuối cùng ông đã quyết định chọn Raymond "Boz" Burrell với vai trò hát chính và Ian Wallace chơi trống. Wallace đã chơi support cho một số band nhạc ở lục địa châu Âu vào cuối những năm 60, trở lại London vào đầu những năm 70, nơi ông làm việc với nhiều nghệ sĩ khác nhau trên sân khấu trực tiếp. Mặc dù Burrell có nền tảng nhạc blues / jazz nhưng chỉ có kiến thức thô sơ về guitar, Fripp đã quyết định dạy ông này bass với sự hỗ trợ từ Wallace. Một lần nữa King Crimson là một band nhạc thực thu và đi lưu diễn, đội hình mới đã biểu diễn hợp đồng đầu tiên của họ tại Đức vào tháng 4 năm 1971, bao gồm các bài hát mới cũng như các tác phẩm được chọn từ ba album trước. Đến tháng 12 năm 1971, đội hình này đã phát hành một album mang tên "Islands", các bài hát khác biệt, ít tập trung và mang âm hưởng "Mỹ" hơn so với ba nỗ lực trước đó. Sau đó người viết lời Pete Sinfield đã bị sa thải khỏi band nhạc. Ông này tiếp tục làm việc với ELP và sản xuất album đầu tay của Roxy Music. Tuy nhiên, "Islands" đã có những khoảnh khắc riêng của mình, khi tiến vào lãnh thổ kết hợp nhạc jazz với guitar bùng nổ của Fripp trên "The Sailor's Tale" trong khi ba bài hát theo hướng jazz-rock khác liên quan đến phụ nữ, đặc biệt là ca khúc "Ladies Of The Road" mang nhiều tính hài hước. Ca khúc chủ đề Islands có lẽ là ca khúc thể hiện giọng hát đẹp nhất của King Crimson từng được thu âm, truyền tải những hình ảnh mùa đông miền biển, xoay quanh phần đệm piano tinh tế của nhạc sĩ khách mời Keith Tippett. Đội hình này tiếp tục lưu diễn ở Mỹ vào đầu năm 1972, trong thời gian đó Fripp gần như bị truất quyền khi Burrell, Wallace và Collins bị hấp dẫn hơn với phong cách nhạc blues, R&B và jazz của Mỹ. Điều này được thể hiện khá rõ ràng trong album live năm 1972 "Earthbound" dù được thu âm kém, ghi lại một số buổi biểu diễn trực tiếp trong thời kỳ này. Tuy nhiên, band nhạc tiếp tục biểu diễn cùng nhau cho đến tháng 4 năm 1972 khi Burrell, Wallace và Collins rời khỏi KC để gia nhập band nhạc Snape với huyền thoại nhạc blues người Anh Alexis Korner. (Burrell sau này trở thành một phần của Bad Company và Collins một thời gian ngắn trở thành một phần của Camel trước khi trở thành một nghệ sĩ thời vụ nổi bật). KC một lần nữa dừng lại nhưng trái tim của Fripp vẫn đang tràn ngập nhiệt huyết để tạo ra âm nhạc đầy thử thách và nhiều suy ngẫm hơn. Ông đã bình luận với báo chí theo cách Bohemian điển hình của mình, "Sau khi nhận ra những gì mọi người trong band muốn làm, tôi thấy mình không muốn làm theo họ".

    Trớ trêu thay, lúc này thể loại Prog Rock, thể loại âm nhạc mà KC đã giúp định hình, lại trở nên hào nhoáng và thịnh hành với nhiều band nhạc tiến lên thống trị âm nhạc của nước Anh, còn chính nhóm nhạc tiên phong này lại rơi vào khủng hoàng. Âm nhạc mãnh liệt và nghiêm túc của họ, cũng đầy hào hứng, nhanh chóng bị lu mờ bởi sự rực rỡ và linh hoạt được thể hiện bởi các band nhạc như ELP, Uriah Heep và Genesis. Tất cả sự bất ổn và không chắc chắn đã không giúp được gì cho band nhạc, nhưng Fripp không bỏ cuộc, ông nghiên cứu biện pháp khắc phục để dẫn đến sự phục sinh tiếp theo của KC. KC mark IV, trong tâm trí của cả người hâm mộ và các nhà phê bình, là đội hình KC đáng sợ nhất trong lịch sử của band nhạc.
     
    Last edited: 15/1/22
  3. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Đến tháng 7 năm 72, band nhạc bao gồm Fripp chơi guitar và Mellotron, Bill Bruford chơi trống (người đã bỏ một công việc an toàn với Yes để tham gia nhóm), David CROSS, một nghệ sĩ violin và người chơi keyboard được đào tạo chính quy, người đã chơi với nhiều band Fok và Rock của Vương quốc Anh. John WETTON về bass và vocal (đây là một người bạn thời thơ ấu khác của Fripp's, người trước đây đã chơi với Mogul Thrash và Family) và một thành viên rất gây sự tò mò - Jamie Muir, có nền tảng là Avant Garde của London, chơi đủ loại bộ gõ percusion và các thiết bị âm nhạc khác từ finger cymbals, chimes, whistles và thậm chí cả bát đầy hạt dẻ, điều này sẽ tạo thêm sức hút cho âm thanh đáng sợ mà đội hình mới sẽ tạo ra. Richard Palmer-James cũng được thêm vào như một thành viên ma để cung cấp lời bài hát và nguồn cảm hứng.

    Các buổi biểu diễn đầu tiên mà band nhạc mới trình diễn ở Đức vào tháng 10 năm 1972 thật mê hoặc và mặc dù chúng chứa đựng các yếu tố của các version KC trước đó, nhưng họ đã kết hợp thêm dàn nhạc giao hưởng để làm nổi bật mỗi nhạc cụ riêng lẻ với những đoạn chạy guitar điên cuồng, những đường bass âm trầm quá say mê, tiếng violon gào thét, tiếng trống súc tích và Jamie Muir luôn rình rập với dàn thiết bị âm nhạc kỳ quái của ông này, giống như một sinh vật nguyên thủy điên cuồng nào đó. Những màn ngẫu hứng đầy khiêu khích vốn sẽ trở thành một yếu tố chính trong các buổi biểu diễn trực tiếp của band nhạc cũng rất được chú ý trong những buổi trình diễn đầu tiên này. Mặc dù âm nhạc tập trung nhiều hơn vào phần trình diễn nhạc cụ, việc John Wetton chuyển tải những ca từ siêu thực của Richard-Palmer James cũng không kém của Greg Lake và mạnh mẽ hơn nhiều so với giọng hát của Haskell hoặc Burrell. Vào đầu năm 1973, album đầu tiên trong số ba albums kinh điển tiếp theo của nhóm (3 albums được phát hành liên tiếp trong vòng 18 tháng), "Larks 'Tongues in Aspic" (một câu hát do Muir thốt ra) tiếp tục rất thành công và gây ra một cơn sốt mới và có chất lượng không hề kém so với album đầu tay. Nhưng sự bất ổn của KC lại tiếp tục khi Muir rời khỏi band vào đầu năm 73 bằng cách gửi cho Fripp một bức thư giải thích ý định của ông này muốn sống một cuộc đời tâm linh trong tu viện ở Scotland, dù KC là "một sự mở rộng tổng thể của rất nhiều khả năng và thú vui âm thanh". Những đóng góp của ông này tuy ngắn ngủi nhưng vô cùng quý giá, giúp KC trở lại với đỉnh cao của chính họ.

    Vì có chất lượng quá tốt, mang tầm vượt thời đại, album đã lọt vào bảng xếp hạng gần như ngay lập tức và KC cuối cùng đã được báo chí âm nhạc xem xét nghiêm túc hơn khi nhận được những đánh giá khích lệ trên các tạp chí nhạc rock lớn. Các nội dung và cấu trúc không chính thống của nó nghe có vẻ không giống bất cứ thứ gì được sản xuất bởi bất kỳ band nhạc nào khác vào thời điểm đó mặc dù không thể tránh khỏi những so sánh với Mahavishnu Orchestra vì nhạc cụ tương tự như nhau. Sự thật mà nói, điểm chung duy nhất mà King Crimson mới có chung với dự án đầy tham vọng không kém của McLaughlin, vốn chứa đựng nhiều "sự hoành tráng" hơn, là tiềm năng ngẫu hứng của âm nhạc. Mặc dù âm thanh tiên phong dịu nhẹ của nó có những khoảnh khắc bùng nổ với tiếng guitar than khóc và các hợp âm đầy quyền lực, những phần này đã được cân nhắc kỹ lưỡng một cách linh hoạt và được tiếp cận với kỷ luật và sự kiềm chế thận trọng. Điều này đã đúng với ca khúc chủ đề, "Larks 'Tongues In Aspic", đã khéo léo mở và kết album thành hai phần, với phần giọng hát nằm ở vị trí cốt lõi của tác phẩm. Bản thân chúng chứa những phần đệm nhạc cụ phức tạp với Mellotron giữ vai trò nổi bật trên bản nhạc "Easy Money" đầy hoài nghi nhưng bản thân nó giống như một riêng biệt hơn là một sự thay thế cho phần đàn dây, vốn là cách mà nhiều band nhạc lúc bấy giờ như Moody Blues sử dụng nó.

    Trong năm tiếp theo, nhóm đã lưu diễn không ngừng ở cả Châu Âu và Hoa Kỳ, đó là cách mà Fripp tin rằng band nhạc nên được trải nghiệm. Trên sân khấu, band nhạc là một sự hỗn loạn, âm lượng và những khả năng không thể đoán trước được vì họ không bao giờ chơi từng sáng tác theo cách hoàn toàn giống nhau, dẫn đến hàng chục bản thu âm live được sản xuất trong thời kỳ này. Nhiều bản live ngẫu hứng của họ cũng trở thành nguyên mẫu cho các bản thu âm phòng thu hoặc thậm chí trở thành bản thu âm chính thức! Do đó, album tiếp theo "Starless & Bible Black", phát hành vào tháng 3 năm '74, chỉ chứa hai bản nhạc được thu hoàn toàn trong phòng thu với bản thân ca khúc chủ đề được lấy ngay từ một bản ngẫu hứng được ghi lại trong một buổi hòa nhạc ở Amsterdam cùng với bản nhạc hòa tấu phức tạp " Fracture "với khán giả cực kỳ yên lặng, có vẻ như đã được chỉnh sửa lại. Các bài hát khác được xử lý trong phòng thu, đặc biệt là "The Great Deceiver" rất hấp dẫn và "Lament" u ám tiếp tục tạo khoảng cách với sự hào nhoáng của các đồng nghiệp art-rock của họ, đồng thời tránh xa bất kỳ quan niệm hàng đầu nào. ... KC đứng một mình, với sự sáng tạo của riêng họ.

    Mặc dù KC sẽ biểu diễn buổi biểu diễn cuối cùng của họ tại Vương quốc Anh vào tháng 10 năm 73, nhưng họ vẫn tiếp tục đi lưu diễn Châu Âu và Bắc Mỹ, nơi họ được tôn thờ bởi những người hâm mộ cuồng tín, những người đã nâng họ lên địa vị giống như thần thoại. Vào khoảng tháng 6 năm đó, band nhạc đã phát triển âm thanh to hơn và thậm chí nặng hơn thông qua các bản ứng tác trên sân khấu của họ và khi chơi live, họ thường không thể nghe thấy tiếng nhạc cụ của nhau vì chơi quá mạnh. Người chơi, có lẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi điều này là nghệ sĩ vĩ cầm David Cross, người ngày càng cảm thấy khó cạnh tranh với tiếng bass sấm sét của Wetton và tiếng guitar đinh tai nhức óc của Fripp. Do đó, ông rời band nhạc sau buổi biểu diễn ở Central Park -NYC vào tháng 7 năm 1974. Một album mới lúc này đang được thực hiện vào giữa mùa hè mà Cross cũng tham gia cùng với các thành viên khác của Crimson là Mel Collins và Ian McDonald với soprano và tenor saxophones. Mặc dù album, "Red", có hai trong số những sáng tác dữ dội và được giới phê bình đánh giá cao nhất từ trước đến nay, ca khúc chủ đề hòa tấu rất Heavy, "Red" và "Starless" với phần trình diễn Mellotron hùng vĩ và phần kết bằng tiếng saxophone rực rỡ, "Red" chính là siêu album cuối cùng của KC trong thập kỷ 70s.

    Fripp, người đang ngày càng bất mãn với ngành kinh doanh âm nhạc cả về chuyên môn lẫn cá nhân cũng có những cảm xúc lẫn lộn về hướng đi của nghệ thuật / rock nói riêng. Ông gọi các band nhạc trong thể loại này là "những con khủng long" đã chạy theo lộ trình của họ và vào ngày 18 tháng 10 năm 1974, ông tuyên bố với báo chí âm nhạc rằng bản thân King Crimson "đã kết thúc mãi mãi". Đội hình "Red" chưa bao giờ lưu diễn mặc dù "Starless" đã được biểu diễn trực tiếp khá thường xuyên vào năm 1974, thu hút sự hưởng ứng nhiệt tình của khán giả. Điều thú vị là, ca khúc chủ đề "Red" sẽ được tích hợp vào các set nhạc sống của Crimson trong tương lai cả những năm 80 và 90, nơi mà nó có vẻ mang tính cách mạng như khi được nghe lần đầu trên đĩa hát vào năm 1974. Một album trực tiếp đã được phát hành sau đó vào đầu '75 mang tên "USA", lấy tư liệu từ chuyến lưu diễn '74 cũng như album tổng hợp, "A Young Person's Guide To King Crimson," phát hành vào năm '76.

    Phần nào bị suy sụp, các thành viên riêng lẻ đã đi theo con đường riêng của họ với Bill Bruford đóng góp ngắn gọn cho Gong và Pavlov's Dog cũng như lưu diễn với Genesis. Ông này cũng đã giúp thành lập band nhạc UK, trước khi thành lập nhóm solo thành công của riêng mình, bao gồm Alan Holdsworth và tay bass Jeff Berlin. David Cross đã solo và dẫn dắt band nhạc của riêng mình cho đến ngày nay cùng với John Wetton gia nhập Uriah Heep cũng như UK trước khi tham gia vào siêu nhóm Asia bên cạnh những thành công với tư cách nghệ sĩ solo. Fripp, người đã từng liên kết với Matching Mole và Van Der Graf Generator cũng đã hợp tác với cha đẻ của ambient là Brian Eno, trong album No Pussyfooting năm 1973 mang tính cách mạng và trừu tượng, nơi ông bắt đầu phát triển phương pháp guitar mà ông gọi là "Frippertronics ". Điều này liên quan đến việc chơi các đoạn sampled tapes mà qua đó ông đặt ra các dòng guitar tối giản ngẫu hứng để đạt được các tác phẩm âm thanh bí truyền mà ông cũng sẽ đưa vào các tác phẩm King Crimson trong tương lai. Ông sau đó đã làm việc với các nghệ sĩ như David Bowie, Blondie, The Talking Heads, Peter Gabriel cũng như Brian Eno trên album Evening Star. Ngoài hai album solo khác vào cuối những năm 70, ông cũng trở lại biểu diễn trực tiếp với một band nhạc sau này trở thành New Wave có tên là The League Of Gentlemen vào năm 1980.

    Năm 1981, Fripp thành lập một band nhạc có tên là Discipline theo khuôn khổ art rock với ý nghĩa lấy ý tưởng từ các nguồn nhạc nước ngoài bao gồm các yếu tố nhịp điệu của âm nhạc Java kết hợp với phong cách rock và pop. Để đạt được sự tương phản với kỹ thuật guitar độc đáo của riêng mình, ông đã nhờ Adrian Belew, người đang lưu diễn với The Talking Heads vào thời điểm đó tham gia cùng và cựu tay trống King Crimson Bill Bruford cùng với tay bass bậc thầy Tony Levin trong nỗ lực âm nhạc mới nhất để hồi sinh KC. Không chỉ những ý tưởng âm nhạc mới mẻ được tìm kiếm mà những đổi mới trong công nghệ cũng được khai thác với việc sử dụng bộ guitar synthesisers, electric drums và việc Levin sử dụng Chapman Stick, một nhạc cụ nhiều dây, trên đó các dây bass và hợp âm có thể được chơi đồng thời bằng cách kỹ thuật tapping technique. Âm thanh thu được là "cực kỳ nguy hiểm" và chiếm một vùng xám ở đâu đó giữa Talking Heads và thể loại Metal có thể là khởi điểm của grunge và industrial music, những thể loại bắt đầu xuất hiện vào đầu những năm 80. Nó cũng thể hiện nhiều khía cạnh của King Crimson trước đó, bao gồm khả năng ngẫu hứng với trọng tâm là kỹ năng chơi nhạp phức tạp của nhạc cụ cùng với, có lẽ quan trọng nhất, là sự tự do nghệ thuật trong nỗ lực của một tập thể. Trước khi phát hành album đầu tiên, nhóm đã quyết định đổi tên thành King Crimson, do đó mở ra một kỷ nguyên âm nhạc mới sẽ tiếp tục tàn phá thế giới.

    Album mới mang tên "Discipline" phản ánh chính xác tư duy cần thiết để thực hiện tính chất khắt khe của các sáng tác khác nhau. Với những time signatures bất khả, đa nhịp điệu và những câu guitar thôi miên của họ cũng sẽ tạo tiêu chuẩn cho hai albums tiếp theo rất thành công là "Beat" và "Three Of A Perfect Pair". Cùng với giọng hát và sự trình diễn lôi cuốn của Belew trên sân khấu, gợi lại những chiêu trò của Jamie Muir trong đầu những năm 70. Quan điểm hướng đến nhạc pop hơn cùng với các thành phần của World Beat đã thể hiện rõ trong các album mới và lúc đầu, những người hâm mộ cũ của KC không thích thú lắm vì đang mong đợi sự tái xuất của KC trong những năm '72 -'74 . Nhưng thời thế đã thay đổi đáng kể và KC nhanh chóng tìm được khán giả mới, cả già lẫn trẻ. Một số bóng ma của quá khứ đã thực sự tồn tại trong âm nhạc mới như trong ca khúc song sinh ác quỷ của ca khúc chủ đề, "Indiscipline". Với những hợp âm guitar mạnh mẽ, cho đến nay đây là bài hát mạnh nhất mà band nhạc ghi âm cho đến nay (ý nghĩa của nó rất đơn giản là chỉ về một tác phẩm điêu khắc mà vợ của Belew đã tạo ra!) Những màn trình diễn live của band nhạc này cũng rất hay và đầy ấn tượng.

    Album tiếp theo vào tháng 6 năm 1982, Beat, phần lớn bị ảnh hưởng bởi tầm nhìn Beatnik – một khuôn mẫu truyền thông phổ biến trong những năm 40s -50s với các tác phẩm của Jack Kerouac, album bao gồm cả những kỹ thuật và nghệ thuật thậm chí còn vượt xa những giới hạn âm nhạc. Vào tháng 3 năm 84 "Three Of A Perfect Pair" được phát hành theo phong cách đối lập. Nhiều bản nhạc "dễ tiếp cận", dễ nghe hơn được trình bày trên một mặt của đĩa Vinyl và những bản khác khó tiếp cận, "quá mức" hơn ở mặt kia. Một bản nhạc dance lạ dài sáu phút được tạo ra từ một trong những "giai điệu" dễ nghe trong album, Bài hát với tiếng bass dẫn dắt "Sleepless" nhưng vẫn cung cấp một liều lượng âm thanh thỏa mãn dưới dạng hai tác phẩm trừu tượng thử nghiệm khác, "Nuages" và " No Warning " chắc chắn là sáng tác thử nghiệp của Fripp.

    Tuy nhiên sau 3 albums rất hay này, KC tiếp tục số phận của mình khi Fripp cho biết rằng nhóm một lần nữa, sẽ bị đình chỉ hoạt động vô thời hạn bằng cách thông báo, "khi mục tiêu đã được thực hiện hoặc cam kết đã hoàn thành, bất kỳ nhóm nào xứng đáng với cái tên này đều sẽ tan rã." Họ đã chơi 2 buổi hòa nhạc cuối cùng tại Spectrum ở Montréal, Canada vào ngày 11 tháng 7 năm 1984 và sau đó được phát hành vào năm 1998 dưới dạng CD live mang tên " Absent Lovers ".

    Trong suốt 3 năm rưỡi này, King Crimson đã lưu diễn ở Châu Âu, Nhật Bản và Bắc Mỹ và là đội hình duy nhất tồn tại sau nhiều hơn một album phòng thu. Tiếp theo đó là 10 năm dừng hoạt động trước khi phục sinh một lần nữa. Trong thời gian này, các thành viên đều dành thời gian cho các dự án solo và các công việc không liên quan đến KC, trong khi Fripp dành thời gian cho giáo dục âm nhạc. Ông này cũng thành lập một công ty thu âm độc lập là Digital Global Mobile để phục vụ cho việc phát hành âm nhạc của King Crimson cũng như các dự án liên quan khác.

    Cuối năm 1994, Fripp tiếp tục đánh thức KC một lần nữa, lần này với 2 nhóm trio bao gồm việc ghép nối các nhóm nhạc cụ. Band nhạc trở lại cùng với Trey Gunn, một sinh viên của các bài giảng Guitar Craft của Fripp, Pat Mastellotto về trống, người trước đây đã từng làm thời vụ cũng như chơi trong band nhạc pop 'Mister Mister '. Cả hai cũng đã chơi với Fripp trong khi kết hợp với nghệ sĩ Avant- Garde, David Sylvain. Tiền thân của một album đầy đủ được phát hành vào cuối năm 94 dưới dạng mini - CD "VROOOM" chủ yếu là các bài hát pop theo kiểu của Beatle-esque nhưng cũng chứa một số đoạn hòa tấu Heavy mà Bill Bruford so sánh với âm nhạc của Megadeth, Pantera và Metallica.

    Bản thân Fripp đã ví dòng nhạc hòa tấu Heavy mới, thể hiện sự trưởng thành hơn về mặt âm nhạc và khả năng chơi nhạc tốt hơn so với heavy metal chính thống với "117 cây guitar gần như đánh cùng một hợp âm đồng thời". Các âm thanh loạn nhịp mở rộng được lấy từ các khái niệm "Frippertronics" của Fripp đã mang đến cho album full length, "THRAK", phát hành vào tháng 3 năm '96 đầy hào quang được tạo ra bởi Mellotron trong Crimsons đầu những năm 70. Như trước đây, sân khấu nhạc live mang đến cho Crims một cơ hội cực lớn, dẫn đến những màn ngẫu hứng hỗn loạn gây kinh ngạc mà một nhà phê bình gọi là "tình trạng vô chính phủ có kiểm soát". Ngoài ra, người chơi sẽ tự tách mình ra khỏi bộ ba kép để biểu diễn và ghi lại trong các nhóm nhỏ hơn hoặc "fractal" được gọi chung là "projekcts" sẽ đóng vai trò là phương tiện nghiên cứu và phát triển, nuôi dưỡng toàn bộ sinh vật King Crimson với một dòng chảy tươi mới với các ý tưởng liên tục. Đây đã trở thành quy trình hoạt động tiêu chuẩn cho KC đến năm 99 khi Bill Bruford quyết định rời đi để tập trung vào dự án New Jazz Earthworks. Tony Levin cũng rời đi để tập trung vào band nhạc solo của riêng mình bên cạnh công việc thời vụ một lần nữa để biến King Crimson xuống còn nhóm tứ tấu để đối mặt với những thách thức của thiên niên kỷ mới.


    Nhiều người hâm mộ Crimson lâu năm coi album tiếp theo, "The Construkction Of Light" năm 2000, là album yếu nhất của band nhạc kể từ album "Islands" năm 1972. Tuy nhiên, nó chứa một số tác phẩm vocal giàu trí tưởng tượng nhất của Adrian Belew kể từ album 'Discipline'. Các bản hòa tấu khác, đáng chú ý nhất là bản guitar "Frakctured", một người anh em họ xa của "Fracture" từ album 'Starless và Bible Black' của '73, tiếp tục thúc đẩy band nhạc phát triển ít nhiều cho đến "Power To Believe" năm 2003 đến với một sự báo thù ngọt ngào. Đúng như tiêu đề của album, một âm thanh mạnh mẽ hơn đã xuất hiện với tất cả các cây đàn guitar đã được mã hóa để đạt được công suất tối đa! Giọng hát của Belew đôi khi trở nên hoài nghi và hoàn toàn kỳ lạ, phản ánh một số triết lý đương đại của band nhạc thông qua âm nhạc hướng tới tương lai của họ. Không lâu sau khi phát hành The Power To Believe, Trey Gunn đã từ bỏ band nhạc để theo đuổi nỗ lực solo cùng với Tony cùng với tay trống của Porcupine Tree, Gavin Harrison.

    Như Robert Fripp đã tuyên bố vào năm 1994 khi được tái tạo nhóm trio kép, "King Crimson sống trong các cơ thể khác nhau vào những thời điểm khác nhau và hình dạng cụ thể của nhóm sẽ thay đổi. Khi thể loại âm nhạc mới xuất hiện mà chỉ King Crimson mới có thể chơi được, King Crimson sẽ trở lại và chơi thứ âm nhạc này". Sau đó một đội hình mới gồm Belew / Fripp / Harrison / Levin / Mastellotto hình thành. Tuy nhiên, với đội hình đầy sức mạnh này, band phần lớn chơi live và không có tài liệu mới nào được ra mắt. Nó cũng khiến nhiều fan hâm mộ thất vọng, nhưng các buổi hòa nhạc dù sao cũng được chào đón nhiệt liệt.

    Một lần nữa, tương lai của band nhạc trở thành một đề tài quanh co nhất khi con thú Crimson đi vào giấc ngủ đông và chờ sự can thiệp thần thánh của ........... The Crimson King.

    Bộ sưu tập gồm 15 albums của King Crimson
    King Crimson 6.jpg
    3 albums đầu tay:
    In The Court Of The Crimson King -1969 (bản đầu gốc);
    In the Wake Of Poseidon-1970, Lizard -1970 (đều là 2 bản kỷ niệm 30 năm remastered)

    King Crimson 4.jpg
    4 albums tiếp theo là bản 30 năm digipack gồm:
    Islands 1971, Lark's Tongues In Aspic 1973;
    Red -1974, Starless And Bible Black-1974

    King Crimson 5.jpg
    3 albums trong thập kỷ 80s (cả 3 đều là bản 30 năm resmastered):
    Discipline 1981;
    Beat 1982,Three Of A Perfect Pair 1984;

    King Crimson 3.jpg

    Các album sau này gồm:
    The Power To Believe 2003 (bản gốc) và Thrak 1995 (bản digipack kỷ niệm 30 năm remastered)

    King Crimson 1.jpg
    Các albums live:
    Cirkus -1999 (digipack), USA-1975 (digipack -30th anniversary remastered)
    Live At The Orpheum 2015 (SE Digipack CD+DVD)

    King Crimson 2.jpg
     
    Last edited: 15/1/22
  4. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Robert Fripp

    FRIPP được biết đến nhiều nhất với tư cách là người sáng lập và là thành viên duy nhất liên tục của KING CRIMSON trong suốt sự nghiệp trải dài từ thập kỷ 60s cho tới tận ngày nay. Dĩ nhiên ông là linh hồn của King Crimson với những tư tưởng âm nhạc rất vĩ đại, nhưng sự nghiệp của King Crimson gặp quá nhiều những bước thăng trầm và có rất nhiều những lúc band nhạc này ngừng hoạt động. Dù một tay chèo lái con thuyền King Crimson vượt qua rất nhiều sóng gió, Fripp vẫn có những thời gian rảnh rỗi và theo đuổi những công việc khác. Đặc biệt là những hoạt động trong âm nhạc và sự hợp tác với nhiều nghệ sĩ gạo cội khác.

    Những sự hợp tác và đóng góp nổi tiếng của ông có thể kể đến: các albums "No Pussyfooting" (1973) và "Evening Star" (1975) của FRIPP & ENO, "Nerve Net" (1993) của ENO, ba album đầu tiên của Peter GABRIEL, "Heroes" của David BOWIE (1977) và "Scary Monsters" (1980), "Sacred Songs" của Daryl HALL (1979), và The Roches (1979 & 1982). Trong các albums khác nhau này, Fripp cũng thể hiện rất nhiều những đóng góp vào nhiều thể loại âm nhạc rất khác biệt như Ambient, Rock, Glam…

    Ngoài việc kết hợp với các nhạc sĩ, FRIPP còn rời ngành công nghiệp âm nhạc từ năm 1984 đến năm 1991 để thành lập chương trình hội thảo Guitar Craft, chương trình này tiếp tục diễn ra trên khắp thế giới.

    Fripp cũng có một sự nghiệp solo đáng kể với khoảng 20 albums theo nhiều phong cách khác nhau. Nổi tiếng nhất có lẽ là album Exposure -79.

    Bộ sưu tập có các albums:
    Exposure -79 (digipack - remastered 30th anniversity SE)
    Fripp1.jpg

    Fripp kết hợp với David Sylvian - The First Day -1993;
    Fripp& Sylvan.jpg

    Fripp & Eno album tuyển chọn compilation 2CDs: Beyond Even -2007
    Fripp & Eno.jpg
     
  5. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Còn một album nữa của Fripp kết hợp với Theo Travis là Thread vào năm 2008

    Travis & Flipp.jpg
     
  6. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    KC là band nhạc thay đổi liên tục nên hơi khó theo, nhưng mà nhạc thì thật tuyệt vời! Em có mấy cái này:

    16423458197917698700056170112630.jpg
     
    no1knows likes this.
  7. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    Em có 1 cái Flipp chơi với Andy Summers (cựu thành viên của Police), nhạc hòa tấu 2 guitars như kiểu chamber music vậy:

    16423461833624407401458163411476.jpg
     
    no1knows likes this.
  8. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Thực ra bác cũng có gần đủ bộ của KC rồi. Band này thập kỷ 70s có 7 đĩa, 80 có 3 và sau này thêm 3 nữa. Album chơi live thì nhiều lắm. Đây đúng là một band rất hay và nghe nhạc thì không bị lạc hậu, nhiều album sau mấy chục năm nghe nhạc vẫn rất hiện đại (đi trước thời đại).
     
  9. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Fripp hợp tác với nhiều nghệ sĩ và chơi đủ thể loại nhạc. Đa phần cũng có chất lượng rất khá.
     
  10. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Van Der Graaf Generator

    Được thành lập vào năm 1967 tại Manchester, UK - Dừng hoạt động từ năm 1972 đến năm 1975 - Tan rã vào năm 1978 - Tái hợp vào năm 2004.

    Van Der Graaf Generator là một ban nhạc Eclectic Progressive rock của Anh với giọng ca chính Peter HAMMILL đến từ 'thời kỳ vàng’ của Prog và được coi là một trong những band nhạc quan trọng nhất của thể loại progressive.

    Tại Anh, năm 1967, Chris Judge SMITH thành lập 'Van Der Graaf Generator', nhưng sau khi ông rời đi, Peter HAMMILL (vocal, keyboard, guitar), Hugh BANTON (organ, bass on organ), David JACKSON (sax, sáo) và Guy EVANS (trống) đã biến nhóm này trở thành một trong những band nhạc phát triển mạnh mẽ và độc đáo nhất của dòng nhạc Progressive rock. Đây cũng là band nhạc Prog đầu tiên có hợp đồng với hãng đĩa uy tín và nổi tiếng.

    Band nhạc được đặt tên theo dụng cụ khoa học the Van de Graaff generator, được sử dụng để tích lũy điện áp cao vào các quả cầu. Ở đây chúng ta thấy có lỗi chính tả trong cách viết của band nhạc, không đúng so với tên gốc của nhà khoa học người Hà Lan.

    Van Der Graaf Generator (viết tắt là VdGG) nổi tiếng với những bài hát với tính– extrovert dynamics (bài hát thường phát triển từ từ, chậm rãi, nhẹ nhàng, ôn hòa sau đó tiến lên đến dữ dội và nặng nề). Với một giọng hát đặc biệt, nhiều người yêu nhưng cũng lắm người ghét – tùy vào khẩu vị- của Peter HAMMILL: mãnh liệt và đầy cảm xúc, đóng góp rất nhiều và quan trọng trong việc mở rộng các sáng tác từ Prog Rock sang Psychedelic tới, Jazz, cổ điển và Avant Garde hoặc thậm chí cả những ảnh hưởng của Acid Rock. Hơn thế nữa, VdGG có thể được coi là band nhạc đầu tiên kết hợp Progressive với những cảm xúc rất cá nhân, trong khi các band nhạc Prog Rock khác thường lấy chủ đề về những điều trừu tượng và giả tưởng. Peter HAMMILL có tài hát ra những đoạn mạnh mẽ, tức giận, hoảng sợ và bối rối trong khi vẫn có đoạn ấm áp, nhẹ nhàng đi vào lòng người. Band nhạc này không bao giờ thực sự phù hợp với phân nhánh Symphonic Progressive vì phong cách rất độc đáo cũng như tầm ảnh hưởng rất lớn trong Prog Rock của nhóm, mặc dù band nhạc này vẫn có khuynh hướng Symphonic với những bài hát rất dài trong suốt sự nghiệp của mình. Điều khác thường lớn với một band nhạc Rock vào thời điểm bấy giờ là họ chủ yếu sử dụng organ, trống và sax, trong khi vào những năm 60-70s, guitar và bass đã đóng một vai trò rất quan trọng trong dòng nhạc này.

    Đây là một trong những band nhạc chính, đóng vai trò chủ đạo trong giai đoạn đầu tiên của Prog Rock với việc phát hành các album được đánh giá cao từ năm 1970 đến năm 1975. Ý tưởng mạnh mẽ 'H to He Who am the only one' (1970), 'Pawn Hearts' đầy tính sáng tạo và táo bạo(1971), 'Godbluff' (1975) ảm đạm đau khổ, và 'Stilllife' (1976) đầy trưởng thành và suy ngẫm, thường được coi là những kiệt tác của thể loại Prog Rock. Bên cạnh VdGG, sẽ có một sự nghiệp solo rất thú vị cho Peter HAMMILL, người thường xuyên mời các thành viên của band nhạc đến và tham gia vào các bản thu âm thập niên 70 của ông này, một số trong số đó được coi là 'album VdGG bị thất lạc'. VdGG sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến rất nhiều Progressive Rock của Ý, một đất nước mà họ đặc biệt được đón nhận và trở thành mainstream. Band nhạc đã ngừng biểu diễn trong đội hình kinh điển của mình sau năm 1976, mãi đến năm 2005 mới trở lại.

    Album VdGG đầu tiên (mặc dù không có David JACKSON) 'The Aerosol Grey Machine' thực sự được dự định là album đầu tiên của Peter HAMMILL, nhưng đã được thu âm dưới nhãn hiệu VdGG do các điều khoản hợp đồng. Chỉ có bài hát cuối cùng 'Octopus' có những đặc tính sau này sẽ là 'âm thanh VdGG' trong khi hầu hết nội dung là Psych cuối thập niên 60 với một số giai điệu tiền Progressive và thậm chí là proto-metal (do tiếng riff bass nặng nề của Keith). Album được thu âm trong hai ngày và nghe có vẻ không chuyên nghiệp lắm, nhưng nếu coi là một bản thu âm nhạc psychedelic rock những năm sáu mươi thì nó khá ổn.

    Vào năm 1970, band nhạc phát hành 'The Least We Can Do Is Wave To Each Other', giới thiệu âm thanh VdGG với sáng tác trí tuệ, nhiều tâm trạng, hơi méo mó và những đoạn đau khổ dữ dội, tối tăm. Hơn nữa, tay sax David JACKSON sẽ tham gia để hoàn thành band nhạc với cách chơi double sax đặc biệt của ông này. Vào thời điểm này, band nhạc đã thu hút cho mình một lượng người hâm mộ đình đám, mặc dù không có sự thành công đáng kể về mặt thương mại ở Anh.

    Album thứ hai vào năm 1970, bài hát có tên lạ lùng là 'H To He Who Am The Only One' (những từ đầu tiên đề cập đến phản ứng nhiệt hạch trong mặt trời để biến Hydro thành Heli) cho thấy band nhạc đã phát triển theo hướng rực rỡ với lời bài hát hay nhất về nỗi cô đơn rắc rối của Peter HAMMILL và sáng tác kiểu epic tuyệt vời trong 'The Emperor in his War Room' và 'Pioneers over C' nổi tiếng. Band nhạc sau này sẽ đưa việc sáng tác nhạc bằng hình ảnh ẩn dụ và triết học lên một tầm cao mới. Trong studio, Robert FRIPP, của King Crimson, tham gia để thêm một số đoạn guitar vào bản phối. Do sự ra đi của Nic POTTER, tiếng bass sẽ được chơi bởi organ bởi Hugh BANTON trong một nửa album và trong các chuyến lưu diễn.

    Vào năm 1971, band nhạc trở lại với một bản thu âm thậm chí còn táo bạo và mạo hiểm hơn, 'Pawn Hearts' được rất nhiều fan hâm mộ Prog Rock tôn thờ và kính trọng. Thứ Psychedelic đầy tối tăm đã được sử dụng đến mức tối đa, không có bất kỳ một đoạn nhạc nào lại không chịu ảnh hưởng lớn bới Progressive đầy cảm hứng. Điều này sẽ làm cho album trở thành kinh điển vừa được yêu thích vừa lại vừa bị ghét bỏ (với một bộ phận fan hâm mộ) của Prog (requiring the taste). Album có một bản Epic dài 23 phút 'A Plague Of Lighthouse Keepers'. Sau album này, do mệt mỏi với việc gánh vác việc của cả band nhạc Peter HAMMILL chuyển hướng tập trung vào sự nghiệp solo của mình. Ông phát hành 'Chameleon In the Shadow Of The Night' (1973), 'The Silent Corner And The Empty Stage' (1974) và 'In Camera' (1974) với sự tham gia của nhiều các thành viên VdGG khác. Những album này được hầu hết các fan của VdGG coi là những bản ghi âm Progressive đỉnh cao. Các bản ghi âm VdGG được thực hiện trong những năm này sẽ được phát hành với tên gọi 'Time Vaults' (1982).

    Năm 1975, VdGG trở lại là một band đầy đủ với tác phẩm kinh điển tiếp theo 'Godbluff' chỉ có 4 bài hát dạng Epic, mỗi bài dài mười phút thể hiện một VdGG phức tạp, nhưng ít tính Psychedelic và tự do hơn. Sự phát triển nhạc cụ và lời hát của bốn bài hát này là một hiện tượng và tính chất rộng mở của band nhạc đã được đề cập trước đó tiếp tục tiến triển đến mức tối đa. Sau đó, ban nhạc đã nhanh chóng thu âm "Still Life" (1976), khi âm thanh của band nhạc đã trưởng thành hơn với phần dàn dựng và chuyển soạn chắc chắn hơn. Năm 1976, band nhạc cũng ghi âm "World Record", thường được coi là một sự thụt lùi trong sự nghiệp của nhóm với ba bài hát kém Prog hơn ở một mặt và bản epic mạnh mẽ 'Meurglys III, The Songwriter's Guild' đã bị mắc kẹt bởi một đoạn jamming dài không mục đích ở phần cuối. Cuối năm này, Hugh BANTON rời VdGG và sau đó David JACKSON, vì tình hình tài chính của band nhạc có vấn đề.

    Năm 1977, band nhạc đã được hồi sinh với sự trở lại của Nic POTTER về bass và sự bổ sung của Graham SMITH trên violin. 'The Quiet Zone', hay còn được gọi là 'The Pleasure Dome' đã thể hiện một band nhạc khác với âm thanh khác hẳn. Năm 1978, album live đầu tiên của band nhạc được phát hành, đĩa đôi 'Vital', David JACKSON xuất hiện với tư cách nhạc sĩ khách mời và sự bổ sung của Charles DICKIE trên cello và synth. Do một đội hình khác và một trào lưu khác đã xuất hiện (sự trỗi dậy của punk), âm thanh sẽ lại khác với âm thanh VdGG cổ điển, có hiệu ứng đặc biệt đối với hầu hết các bài hát. Sau đó, Peter HAMMILL một lần nữa tập trung vào sự nghiệp solo của mình.

    Sự trở lại của Generator với dòng sản phẩm kinh điển sẽ là sự kiện chính đối với fan hâm mộ của Prog Rock trong năm 2005. Album mới 'Present' (2005) được đón nhận nồng nhiệt và album live 'Real Time' nổi tiếng sẽ có các bản thu âm trực tiếp tuyệt vời của hầu hết các badn nhạc Prog kinh điển. Buổi hòa nhạc đầu tiên tại Royal Festival Hall ở London (nơi ghi hình 'Real Time') sẽ có sự tham gia của người hâm mộ từ 32 quốc gia với vé chợ đen tăng lên đến 1000 đô la, một con số đáng kinh ngạc trên Ebay. Sau sự ra đi của David JACKSON, họ tiếp tục thu âm "Trisector" vào năm 2008 và "A Grounding In Numbers" vào năm 2011. Năm 2012, band nhạc phát hành một album mới khác với tư cách là bộ ba, "ALT".

    Van Der Graaf Generator luôn luôn quá nhỏ để có thể trở thành một band thành công và được công nhận rộng rãi (như Genesis hoặc Yes chẳng hạn), nhưng band lại quá lớn để trở thành một band underground. Band nhạc với được một số thành viên đã cống hiến trong suốt nhiều năm và ngày nay được coi là một trong những band lớn nhất của lịch sử progressive rock, với số lượng rất lớn bài đánh giá và tranh luận trên các trang web về Prog Rock. Đối với rất nhiều người trong chúng ta, âm nhạc của họ đã được chứng minh là rất khó để tiếp cận, nhưng sẽ còn khó sống hơn một khi bạn đã yêu thích band nhạc mà thiếu âm nhạc của họ. Cách band nhạc kết hợp những thứ rất cá nhân với âm thanh trừu tượng của Prog Rock tạo nên một sức hút sống động và cách Peter HAMMILL đặt tâm hồn mình vào âm nhạc dường như vượt qua mọi nhạc sĩ khác.

    Bộ sưu tầm gồm các album bản gốc:
    The Aerosol Grey Machine -68, H To He Who Am The Only One -70, The Least We Can Do Is Wave To Each Other -70, Pawn Hearts -71, Godbluff -75;
    Vital (Live) -78, The Quiet Zone -77, World Record -76, Now And Then -87, Still Life -76;
    Present -2005, Trisector -2008, A Grounding In Numbers -2011;

    Van 2.jpg
    Các album remastered bản 30th anniversary với nhiều bonus track và âm thanh rất tốt:
    Vital (Live) -78, The Least We Can Do... -70, World Record -76; Still Life-76;
    The Quiet Zone -77, H To He Who Am The Only One -70, Pawn Hearts -71;

    Van 3.jpg
    Album The Least We Can Do... -70 bản Nhật cực hiếm
    Van 6.jpg 4 albums mới sau khi tái hợp 2005:
    Present -2005, Trisector -2008;
    A Grounding In Numbers -2011; Alt -2012;

    van 7.jpg
    Và album mới nhất Do Not Disturb -2016
    Van Der Graff 11.jpg
     
    Last edited: 17/1/22
  11. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    Em có vẻ hợp hơn với giai đoạn 70s nên chắc phải mua thêm In the Wake Of Poseidon và Lizard. KC em thích nhất là Red, sau đến In the Court ... Trước thì thấy đoạn sau KC chơi hơi nặng nhưng giờ tập nghe nặng hơn thấy như Thrak cũng rất hay. Em thấy bác viết kỹ về KC là hoàn toàn xứng đáng với band này -- trước đây với em Pink Floyd là vợ cả nhưng càng nghe càng thấy King Crimson đang nhăm nhe chiếm mất vị trí này :)
     
  12. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Mấy band Eclectic này phải nghe lâu mới thấy hay. Em nghĩ những band như Van Der Graaf Generator hay Gentle Giant tài năng của họ cũng không thua kém gì Top 4 cả đâu. Có điều họ không gặp may thôi. Toàn là những band rất kinh khủng cả.
     
  13. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    VdGG em nghe cái đầu là World Record thì chưa thấy hay. Cái thứ 2 mua là Still Life bắt đầu vào. Đến cái thứ 3 là Pawn Hearts thì thấy hay, cái album này nó ám ảnh kinh khủng - cứ nhắm mắt là lại thấy nó hiện ra :) Giờ đang thử tiếp Godbluff.

    1642466284549198418083890388480.jpg
     
    tienhoangmanh, no1knows and Wildbird like this.
  14. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Peter Hammill

    Peter HAMMILL là một trong những vocalist độc đáo và có ảnh hưởng nhất trong prog. Ông là nhân vật quan trọng trong Van Der Graaf Generator (viết tắt là VDGG) thành lập năm 1967 tại Đại học Manchester. Nỗi ám ảnh về tình yêu đã mất, niềm tin lạc lối, thời gian, không gian và sự tồn tại của bản thân là những nền tảng trong toàn bộ sự nghiệp âm nhạc của ông với band nhạc và các album solo. Ông cũng là người viết hầu như tất cả các bài hát của VDGG. Đội hình kinh điển của band này là tổ hợp HAMMILL, Banton, Jaxon, Evans đã tạo ra các album đỉnh cao "Pawn Hearts", "Still Life" và "Godbluff". Nhưng sau đó, ông chuyển sang solo và đã phát hành ít nhất 30 albums. Những album này thường được đánh dấu bằng ca từ sâu sắc nhất (trong phần lớn các trường hợp) và không bao giờ thỏa hiệp. Âm nhạc phức tạp của ông, thường trữ tình nhưng cũng không kém phần tàn bạo, dường như không thực sự ăn nhập với những phần khác của Progressive Rock. Trên tất cả, ông là một nhân vật thú vị mà các album chắc chắn xứng đáng để nghe ..!

    Sự nghiệp solo đầu tiên của ông là bộ ba albums kinh điển trong lịch sử nhạc progressive rock, "Chameleon" ... và các bản đồng hành của nó "The Silent Corner and the Empty Stage" và "In Camera", đều tuyệt hay, nếu không muốn nói là hay hơn nhiều album của VDGG. Hammill sau này theo đuổi rất nhiều phong cách khác nhau từ Prog Rock tới Avant Garde rồi sang Post Punk, Ambient….!

    Bộ sưu tập có khoảng 22 albums của Hammill
    Hammill 12.jpg

    Ngay từ những năm 71, Hammill đã solo với album Fools Mate (lúc đang còn ở VdGG). TRong thời điểm band nhạc này tạm nghỉ, Hammill tiếp tục solo theo phong cách Prog với album đỉnh cao
    The Silent Corner And The Empty Stage -75. (Tuy là solo nhưng vẫn mời các thành viên VdGG vào chơi cùng nên những album này không khác quá nhiều so với âm nhạc của VdGG).
    Bộ sưu tập có Fools Mate -71 và The Silent -75 bản Nhật rất đẹp.

    Hammill 11.jpg

    Cũng là solo nhưng album Chameleon in the Shadow of the Night -73 lại mang nhiều tính Psychedelic và thử nghiệm .

    Hammill 10.jpg

    Còn In Camera -74 lại mang nhiều tính thử nghiệm và Art Rock hơn
    Hammill 9.jpg

    Các album theo trường phái Prog Rock nhưng bắt đầu pha trộn:
    Nadir's Big Chance -75 (bắt đầu pha Punk), Over -77
    The Future Now -78 (pha Experimental), pH7 -79 (pha chút New Wave)

    Hammill 6.jpg
    Các album theo trường phái thử nghiệm Experimental với nhiều trường phái khác nhau
    A Black Box -80 (New Wave), Loops and Reels -83 (ambient)
    Sitting Targets -81 (Post Punk, New Wave)

    Hammill 8.jpg
    Các album theo trường phái Art Rock
    Enter k -82 (pha chút New Wave), Patience (pha Post Punk)

    Hammill 7.jpg

    Các albums trong thập kỷ 90s dần sang Art Rock
    Out Of Water -90 (pha Folk), The Noise -93 (pha Hard Rock, Post Punk)

    Hammill 5.jpg

    Sang thập kỷ 2000s, âm nhạc của Hammill chuyển về Art Rock nhưng nhẹ nhàng hơn
    Singularity -2006 (pha Pop), Thin Air -2009 (pha Acoustic)

    Hammill 4.jpg

    Sang thập kỷ 2010s, Hammill tiếp tục chơi đa phong cách
    Consequences -2012 (art Rock), All That Might Have Been -2014 (Ambient)

    Hammill 3.jpg
     
    Wildbird and shrekfiona like this.
  15. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Ngoài ra còn có các album live của Hammill
    Room Temperature -1990 (2CDs), Veracious -2006;
    Hammill 2.jpg
    Và album kết hợp với Gary Lucas
    Other World -2014
    Hammill.jpg
     
    Wildbird and tienhoangmanh like this.
  16. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Lúc đầu em cũng thích cái Pawn Hearts nhưng về sau này thì lại thích cái Godbluff hơn. Nghe bài Undercover Man luôn nghĩ tới cảnh một người đàn ông trong căn phòng tối với ngọn nến leo lắt sắp tắt. Nó cũng gây ám ảnh.
     
  17. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Gentle Giant

    GENTLE GIANT (GG)được biết đến như một band nhạc progressive rock kiểu mẫu. Với tài năng âm nhạc không ai có thể so sánh được, họ đã đi xa chưa từng có vào những nền tảng chưa từng được khám phá trong nền âm nhạc Progressive, từ phong cách đối nghịch bất hòa (dissonant) qua nhạc thính phòng cổ điển thế kỷ 20, nhạc vocal thời trung cổ, jazz và rock. Khả năng chơi đa nhạc cụ của các nhạc sĩ đã mang lại sự năng động cho âm nhạc của họ, điều này thiết lập các tiêu chuẩn hoàn toàn mới cho toàn bộ thế hệ tiếp theo của Prog Rock cho đến tận ngày nay. Họ đã khám phá cách sử dụng Moogs, Mellotrons và Fender Rhodes với sự uy nghiêm hoành tráng như vậy! Chưa kể đến các nhạc cụ khác như oboes, violin, cello và kèn cũng như vô số những loại khác.

    Gentle Giant được bắt đầu bởi ba anh em nhà Shulman gồm: Derek (vocal), Phil (trumpet, sax..) và Ray (bass), sau đó kết nạp thêm keyboardist / vocalist Kerry Minnear, guitarist Gary Green và tay trống Martin Smith. Trước khi thành lập Gentle Giant, anh em nhà Shulman đã khá thành công với band soul / pop Simon Dupree & Big Sound (band nhạc này có bài hát Kites đạt Top 10 tại Vương quốc Anh năm 1967). Nhưng những thành công này chỉ làm cho anh em nhà Shulman mệt mỏi và ngày càng không hài lòng với định hướng âm nhạc mà hãng đĩa của họ đang thúc đẩy. Để dứt bỏ quá khứ Pop của mình, ba anh em quyết định theo đuổi một thứ âm nhạc phiêu lưu mạo hiểm hơn rất nhiều và họ tạo ra Gentle Giant. Một band nhạc không có ranh giới nào có thể giam cầm tâm trí sáng tạo của họ.

    Có thể thấy rõ ràng ngay từ đầu rằng, Gentle Giant không chỉ là kẻ đẩy giới hạn lên tới cực điểm mà còn là kẻ phá vỡ ranh giới. Thật đáng ngạc nhiên khi họ có thể kết hợp rất nhiều phong cách âm nhạc và ảnh hưởng khác nhau vào âm nhạc của mình một cách tài tình và đầy sáng tạo. Hầu hết các thành viên của nhóm đều là những người chơi đa nhạc cụ và do đó chúng ta có thể thưởng thức âm thanh của guitar điện, guitar acoustic 12 dây, bass, trống, bộ gõ, cello, violin, saxophone, trumpet, các loại bàn phím cổ điển khác nhau và ngoài giọng hát thông thường, cũng có một số phần hòa âm hợp xướng nhiều lớp trong album.

    Trong album đầu tay cùng tên vào năm 70, âm nhạc của họ là sự pha trộn chiết trung giữa nhạc bluesy hard rock riffing, với những tiết tấu bán vui nhộn, kết hợp với ảnh hưởng từ âm nhạc thính phòng cổ điển và trung cổ, cùng với phong cách Avant Garde phá cách bắt đầu manh nha xuất hiện. Tuy nhiên, lúc này họ chưa thực sự lột xác hoàn toàn mà âm nhạc trong album vẫn mang tính Hard Rock là chủ đạo và album có chất lượng khá tốt.

    Phải tới album thứ hai là Acquiring the Taste -71 thì phong cách progressive và experimental của họ mới chuyển hẳn sang một tầm cao mới. Do các thành viên trong nhóm đều là những người chơi đa nhạc cụ nên album này đã tạo ra một bức tường âm thanh với rất nhiều nhạc cụ khác nhau như: electric piano, piano, organ, mellotron, vibraphone, Moog, piano, celeste, clavichord, harpsichord, tympani, maracas, cowbells, alto & tenor sax, clarinet, trumpet, claves, violin, viola, electric violin, Spanish guitar, tambourine, 12 string guitar và organ bass pedals. Với một phong cách pha trộn đầy ngẫu hứng giữa jazz rock, classical music, avant garde rock, blues và progressive rock với lối sáng tác thông minh, nhịp điệu rất phức tạp nhưng lại có giai điệu khá hay, album đã trở thành một trong những siêu phẩm đầu tiên của Prog Rock. Tuy nhiên, tại đây thì những rắc rối như có ma quỷ phá đám bắt đầu diễn ra với band nhạc đầy tài năng này. Bài hát trùng tên album lúc này có một lỗi rất nặng, có lẽ do master tape của họ bị hỏng mà không ai phát hiện ra, sau này đã khiến hãng đĩa phải thu hồi và bị lỗ rất nặng. Điều này khiến cho sự nhiệt tình của các hãng đĩa với band nhạc suy giảm thấy rõ.

    Ngay sau đó, tay trống của họ rời đi và band nhạc buộc phải thuê một tay trống mới. Mặc cho những rắc rối ngoài âm nhạc, band tiếp tục tung ra tuyệt phẩm thứ hai trong sự nghiệp là Three Friends -72, một album concept nói về 3 người bạn thân từ khi còn nhỏ, sau đó do những nguyên nhân ngẫu nhiên đã khiến họ chia xa, khi trưởng thành, họ trở thành một người đào đường, một nghệ sĩ và một viên chức cổ cồn. Trong quá trình này, họ mất khả năng liên hệ với nhau và không thể hiểu được lối sống của nhau nữa. Sự phát triển và số phận của mỗi nhân vật được thể hiện qua âm nhạc bằng những phong cách riêng biệt nhưng hòa quyện với nhau, nó thay đổi từ phong cách Hard rhythm-and-blues rock đến phong cách cổ điển giao hưởng. Đây tiếp tục là một album rất hay với nhiều giai điệu đẹp.

    Ngay sau album thứ ba, tay trống mới của nhóm lại bị tai nạn motor và nhóm buộc phải tìm một tay trống khác. Nhưng mặc cho những rắc rối, nhóm tiếp tục tung ra một siêu phẩm nữa có tên là Octopus -72, album có những giai điệu và tiết tấu tuyệt vời, thậm chí còn vượt xa cả 3 albums trước đó mặc dù vẫn duy trì lối chơi đầy tính ngẫu hứng và kỹ thuật.

    Nhưng những sự đen đủi chưa dừng lại với band nhạc này, lần này sự việc còn phức tạp hơn rất nhiều vì dù tung ra những albums rất hay và đầy sáng tạo nhưng band nhạc lại gần như không tạo được bất kỳ một thành công nào về mặt thương mại. Mâu thuẫn lúc này tiếp tục nảy sinh giữa anh em nhà Shulman, rất nhiều lần Phil với những người anh em ruột của mình đã định lao vào tẩn nhau. Cuối cùng thì Phil tuyên bố từ bỏ band nhạc. Đây thực sự là một cú shock cực lớn đối với tất cả các thành viên của band nhạc vì không ai có thể tưởng tượng rằng bộ ba này lại có lúc rời bỏ nhau, việc tìm người thay thế là không thể nhưng nhóm vẫn tiếp tục.

    Dù gặp mất mát cực lớn, GG vẫn có đủ tài năng để tung ra những tuyệt phẩm kế tiếp, lần này là cặp đôi In The Glass House -73 và The Power And The Glory -74. Âm nhạc trong 2 albums đều mang nhiều tính thử nghiệm nhưng The Power And The Glory dễ nghe hơn nhiều so với In The Glass House, một album mà khởi đầu và kết thúc bằng những tiếng kính vỡ. Chính vì thế, khi nghe thử album này hãng đĩa Capitol chủ quản của band nhạc thấy không thể có tính thương mại được nên quyết định trả lại master tape cho band nhạc đồng thời tống cổ nhóm ra khỏi hãng. Tới tận năm 2004, người hâm mộ của Mỹ chỉ có thể mua đĩa nhạc này thông qua con đường nhập khẩu từ châu Âu, với giá cao gấp đôi. Mặc dù vậy, điều trớ trêu là album bán được rất tốt tại Mỹ và liên tục có người mua tới tận những năm 2000, khi bản remastered CD quay trở lại bán chính thức tại Mỹ.

    Tuyệt phẩm cuối cùng của GG chính là album Free Hands vào năm 75. Mặc dù trong album này, âm nhạc của nhóm đã trở nên dễ nghe và dễ nhớ hơn, độ phức tạp trong album không kém gì so với những album trước đó. Đây có lẽ là điều mà chỉ có GG mới có thể thực hiện được. Chính tại thời điểm này, họ bắt đầu trau chuốt và đơn giản hóa một chút các bài hát của mình để dễ tiếp cận, nhằm mang âm nhạc tới nhiều khán giả hơn (đặc biệt là người Mỹ). Những nỗ lực của họ dường như đủ thành công để đưa Free Hand vào Top 50 của bảng xếp hạng album tại Hoa Kỳ. Bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi âm nhạc của thời kỳ Phục hưng và Trung cổ cũng như nhạc jazz-rock, các bài hát trong album phản ánh về tình yêu đã mất và các mối quan hệ bị tổn thương, bao gồm cả sự đổ vỡ trong mối quan hệ của band nhạc với người quản lý cũ của họ. Album trở thành một trong những bản phát hành phổ biến và dễ tiếp cận nhất của band nhạc.

    Nhưng chính những thành công này đã làm hại GG, album tiếp theo của họ là Interview bắt đầu chuyển dần sang phong cách đơn giản hóa âm nhạc (dù đây vẫn là một album khá tốt) trước khi trở thành một band nhạc Rock tầm thường vào những năm cuối thập niên 70s và đầu 80s (khi mà Prog Rock đã dần bị thay thế bởi Punk Rock). Tuy nhiên, những album sau này dù có chuyển hướng, vẫn không thành công.

    Mặc dù band nhạc đã trải qua những năm 70 thăng hoa và duy trì một đẳng cấp vượt trội về âm nhạc của họ. Âm nhạc tuy thay đổi phong cách qua từng album nhưng vẫn giữ được chất lượng cực cao, điều mà chỉ một vài band nhạc có thể làm được. Trong sự nghiệp đầy huy hoàng của họ, tất cả các album từ "Acquiring the Taste" đến "Playing the Fool" đều là những albums nhạc progressive rock cần phải có đối với bất cứ fan hâm mộ nào của dòng nhạc này (ngoại lệ duy nhất có thể là "Interview" là hơi yếu hơn một chút nhưng vẫn là một album rất hay). Phần đỉnh cao này trong sự nghiệp của band nhạc sẽ có một kết thúc tuyệt vời trong album live "Playing the Fool" trước khi đi vào suy tàn và sụp đổ trong thập niên 80s. Còn điều gì để nói nhiều hơn về những bậc thầy của dòng nhạc Progressive?

    Trước những năm 2005, do âm nhạc của nhóm rất khó kiếm, GG không thực sự phổ biến. Sau đó, do những tiến bộ về công nghệ, đặc biệt là internet khiến cho âm nhạc của họ ngày càng phổ biến và được giới hâm mộ đánh giá rất cao. Trong những năm gần đây, band nhạc thậm chí còn thành công hơn cả thời kỳ họ hoạt động khi liên tiếp ra lại những albums remastered cả CD lẫn Vinyl để phục vụ nhu cầu của giới mộ điệu. Điều này hoàn toàn xứng đáng với tài năng rất lớn của họ.

    Bộ sưu tập gồm khoảng 35 cd (11 albums và 1 boxset)
    Gentle 1.jpg

    Phải tới những năm 2005, khi Gentle Giant quyết định Remastered lại một số albums của họ thì âm nhạc mới trở nên phổ biến hơn. Rất tiếc do nhiều mâu thuẫn với hãng đĩa cũ nên 4 albums đầu tiên không thể có bản quyền và gần như rất khó mua.
    Bộ sưu tập có
    Gentle Giant -70 (phiên bản Nhật), Acquiring the Taste -71 (phiên bản Nhật);
    Three Friends -72, (Nhật Bản) và Octopus -72 (châu Âu);
    4 album dau.jpg

    5 albums mà nhóm còn có bản quyền để remastered lại năm 2005:
    Free Hand -75, In The Glass House -73;
    The Power And The Glory -74, Interview -76 và album live Playing the Fool -78;

    5 album Remastered.jpg

    Những albums sau này nhóm chuyển dần sang Pop Rock không thành công, dù có bản quyền nhưng không dám remastered lại năm 2005 mà chỉ ra lại dưới định dạng Cd (reissue)
    The Missing Pieces -77, Giant For A Day! -78;
    2 album ra lai.jpg

    Đến năm 2019, do yêu cầu lớn từ người hâm mộ nhóm đã tung ra 1 boxset có tên là Unburried Treasure với 22 Cds gồm toàn bộ âm nhạc trong sự nghiệp của nhóm (lúc này đã mua lại được bản quyền) gồm các albums studio và những bản chơi live quý hiếm còn giữ hoặc sưu tầm lại được.
    Boxset 2019.jpg

    Trong đó có 16 albums live chưa từng được chính thức tung ra trước đây.
    Live unreleased.jpg

    Ngoài ra còn có đĩa đầu tiên Gentle Giant -70 được remastered lại dưới dạng Bluray Audio 5.1 (Steven Wilson remastered)
    Album audio 5.1 bluray.jpg

    Cuối cùng, không kém phần quan trọng là một poster có chữ ký tươi của tất cả các thành viên band nhạc.
    anh co chu ky.jpg
     
  18. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    Em có 5 albums và 1 cái live thu trong studio của BBC. Nhạc của Gentle Giant quả là lạ ko giống bất kỳ ai. Thường thì khi nhạc để đệm lời hát. Hội này em cảm giác lời hát cũng như từng nhạc cụ như có 1 cuộc sống riêng và cứ thế chạy, mà chả biết làm thế quái nào cuối cùng họ lại khớp dc tất cả với nhau!

    16426070242827936492276509868495.jpg
     
    Wildbird and no1knows like this.
  19. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Chúng ta đã đến với 3 ông lớn của Eclectic Prog, tiếp theo sẽ là một số band nhạc tiêu biểu trong thập kỷ 60-70. Trước tiên là Traffic, một band rất hay và nổi tiếng của nhánh này.

    Traffic

    Được thành lập tại Birmingham, UK, năm 1967 – Tan rã năm 1975 - Tái hợp một phần, với Winwood và Capaldi, vào năm 1994.

    TRAFFIC được thành lập vào năm 1967 bởi Steve Winwood, Chris Wood, Jim Capaldi và Dave Mason. Winwood trước đây đã trở nên nổi tiếng trong SPENCER DAVIS GROUP với đĩa đơn ăn khách nhất là "Keep on running". Mặc dù âm thanh của Traffic sau đó vẫn còn rất nhiều dấu ấn của giai đoạn lịch sử này, nhưng sự tập trung vào keyboards của Winwood và các nhạc cụ winds của Wood đã khiến họ khác biệt với các đồng nghiệp khác (thường chơi guitar).

    Traffic khởi đầu sự nghiệp bằng những đĩa đơn khá thành công. Đĩa đơn đầu tiên của band nhạc "Paper Sun", đã mang lại cho họ thành công ngay lập tức trên bảng xếp hạng, đạt vị trí thứ 5 tại Anh. Phần tiếp theo, "Hole In My Shoe" của Mason, có lẽ là đĩa đơn được biết đến nhiều nhất của họ, là một bản nhạc psychedelic nhẹ nhàng gây cười. Winwood sau này được cho là không ấn tượng với thành công của bài hát, cho rằng nó đã đi sai so với tầm nhìn của band nhạc.

    Album đầu tiên, "Mr Fantasy" ra đời năm 67, nhưng trước khi nó được phát hành, Mason đã rời đi. Lúc này vị trí của Winwood với tư cách là thành viên thống trị của band nhạc đã được xác lập rõ ràng, định hướng nhạc jazz của ông này (và cả Wood và Capaldi) trái ngược với phong cách du dương nhẹ nhàng hơn của Mason. Tuy nhiên, Mason nhanh chóng quay trở lại để thu âm album thứ hai của band nhạc là "Traffic" vào năm 1968, viết hoặc đồng sáng tác nhiều bài hát trong đó có "Feelin 'Alright" rất thành công và thường được chính ông này sau đó cover lại. Có vẻ như band nhạc đã nhận ra rằng vào thời điểm đó nếu không có Mason, họ sẽ gặp khó khăn trong việc viết đủ các bài hát để đáp ứng cho hợp đồng với hãng đĩa của họ.

    Mason sau đó đã bị đuổi khỏi band nhạc vào năm 1969, Winwood thông báo rằng band nhạc vẫn đang hoạt động tốt. Island Records đã phát hành những gì có vẻ như là một album còn lại của thời kỳ Mason gồm b-side, đĩa đơn, các bản thu âm trong phòng thu và bản thu âm trực tiếp dưới cái tên rất phù hợp là album "Last Exit".

    Mặc dù Mason đã bỏ đi, Winwood và đồng nghiệp vẫn còn hợp đồng với Island cho 2 album nữa, vì vậy năm sau ông bắt đầu thực hiện một album solo, nhờ Wood và Capaldi hỗ trợ. Cái tên TRAFFIC nhanh chóng được hồi sinh, và album, "John Barleycorn Must Die", được phát hành. Đối với nhiều người, đây là album hay nhất của Traffic. Trong khi tiêu đề được lấy từ một bài hát dân gian truyền thống, âm nhạc là sự pha trộn tuyệt vời của prog, jazz, rock và Folk.

    Sau khi phát hành album đó, Rick Grech (cựu thành viên của FAMILY) tham gia, để giảm bớt áp lực cho Winwood vì chơi quá nhiều nhạc cụ. Nhiều sự bổ sung và thay đổi tiếp theo đã diễn ra, bao gồm cả một sự trở lại khác của Mason. Album live "Welcome To The Canteen" (kỳ lạ là không có tên của Traffic mà có tên của từng thành viên band nhạc) cung cấp một bản tóm tắt tốt về công việc của họ trong thời gian này.

    Mặc dù có những thay đổi về đội hình, vốn không ảnh hưởng đáng kể bằng việc Winwood mắc bệnh viêm phúc mạc, hai album kinh điển khác là "The Low Spark Of High Heeled Boys" và "Shootout At The Fantasy Factory" đã được phát hành đều nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt, album đầu tiên sẽ đạt giải vàng ở Mỹ (tuy nó không thành công trong bảng xếp hạng ở Anh).

    Một album "cuối cùng" khác, "When The Eagle Flies" khá thất vọng xuất hiện vào năm 1974, và một lần nữa band nhạc kết thúc. Đáng buồn thay, Chris Wood qua đời vì bệnh gan vào năm 1983. Sau này cả Capaldi và đặc biệt là Winwood đều đạt được thành công trong sự nghiệp solo của họ, trước khi tái hợp vào năm 1994 để hoạt động lại dưới cái tên TRAFFIC. Tại thời điểm này họ đã cho ra đời album "Far From Home" khá ưng ý.

    Traffic được đưa vào Đại sảnh Danh vọng Rock & Roll vào tháng 3 năm 2004. Năm tháng sau, Jim Capaldi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối. Capaldi và Winwood dự định thu âm và lưu diễn một lần nữa với tên Traffic vào cuối năm 2004, nhưng buộc phải hủy bỏ khi Capaldi bắt đầu điều trị bệnh loét dạ dày. Vào tháng 1 năm 2005, sau một thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư dạ dày, Capaldi qua đời ở tuổi 60 tại một phòng khám ở London. Đáng buồn thay, đây thực sự là kết thúc con đường cho band nhạc tuyệt vời này.

    Khởi đầu là một band Psychedelic Rock, Traffic sau đó đã chuyển hướng trở thành một band Progressive với lối chơi khá riêng biệt. Band này rất thành công tại Mỹ với hàng triệu albums được bán ra.

    Bộ sưu tập gồm 8 albums của nhóm gồm:
    Mr. Fantasy-1967, Last Exit -1968, Traffic-1968;
    John Barleycorn Must Die-1970, Welcome To The Canteen -1971(live),When The Eagle Flies-1974;
    Shoot Out At The Fantasy Factory-1973, The Low Spark Of High Heeled Boys-1971;

    Traffic.jpg
     
    shrekfiona and Wildbird like this.
  20. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    UK

    Ở một khía cạnh nào đó, UK đại diện cho cả giai đoạn cuối cùng của thời kỳ vàng son của nhạc Prog Rock và trở thành tiêu chuẩn để đánh giá tất cả các siêu nhóm khác sau đó. Độ chính xác cực cao, kỹ thuật hoàn hảo, sự chuyển soạn phức tạp nhưng hiện đại và những buổi biểu diễn trực tiếp đầy năng động đã khiến họ trở thành huyền thoại chỉ sau một đêm và danh tiếng đã vượt xa sự tồn tại ngắn ngủi của họ. Không có siêu nhóm nào khác, thuộc dòng Progressive hay các dòng khác, có tác động tức thì và lâu dài như vậy.

    Band nhạc được thành lập vào năm 1978 bởi tay bass John WETTON và tay trống Bill BRUFORD, cả hai đều mới từ chuyến lưu diễn Hoa Kỳ (và kèm theo album live) của KING CRIMSON (KC). Nghệ sĩ keyboard & violin Eddie Jobson cũng đã chơi trong chuyến lưu diễn và album KC, nhưng được biết đến nhiều hơn với tác phẩm xuất sắc của ông này trong chuỗi album ROXY MUSIC, cũng như album live trong thập kỷ 70s của họ, "Viva!". Wetton trong một thời gian ngắn đã thuyết phục phù thủy guitar Eric Johnson chơi cho band nhạc, nhưng dự án riêng của Johnson (album solo "Seven Wonders") và những mâu thuẫn pháp lý đi kèm với nó, khiến Johnson nhanh chóng rút lui và được thay thế bằng một nghệ sĩ guitar điêu luyện khác, Allan HOLDSWORTH, người đã từng làm việc với SOFT MACHINE và GONG, và solo khá thành công trước khi gia nhập UK. Đây là thay đổi đầu tiên trong một loạt các thay đổi về đội hình trước khi band nhạc tan rã trong vòng chưa đầy hai năm sau đó.

    Đội hình toàn sao không gặp khó khăn gì để có được hợp đồng thu âm, và Polydor đã phát hành album debut cùng tên của họ trên E.G. năm 78. Đây thường được coi là album phòng thu thành công đầu tiên trong lịch sử của supergroup rock từ trước đến nay. Âm nhạc được đặc trưng bởi sự tổng hợp nhiều lớp nhạc cụ, guitar và bass lấy cảm hứng từ nhạc jazz, và nói chung là kỹ năng và sự phối hợp rất khéo léo bởi những nghệ sỹ với kỹ thuật chơi nhạc chất lượng cao đặc biệt. Band nhạc tiếp nối thành công với một chuyến lưu diễn quảng cáo kéo dài.

    Bruford sẽ phát hành một vài album dưới tên BRUFORD BAND sau chuyến lưu diễn này, và cuối cùng sẽ trở lại đội hình KING CRIMSON cho bản phát hành "Discipline" vào năm 1981. Holdsworth cũng xuất hiện trong các bản phát hành của BRUFORD BAND, và sau đó sẽ phát hành một loạt album solo. Terry Bozzio (FRANK ZAPPA) sẽ thay thế Bruford, và bộ ba phát hành album phòng thu thứ hai và cuối cùng của band nhạc một năm sau ("Danger Money"). Do không có sự thay thế cho Holdsworth, album này với tiếng violin và keyboard làm chủ đạo và không có nhiều guitar. Band nhạc đã tan rã sau chuyến lưu diễn quảng bá tại Nhật Bản. Một album live của chuyến lưu diễn này được phát hành ngay sau đó, nhưng số phận band nhạc đã chấm dứt.

    Có tin đồn về một cuộc tái hợp vào những năm 90, nhưng mặc cho thực tế là hầu hết các thành viên vẫn làm việc cùng nhau sau khi band nhạc sụp đổ, không có sự tái hợp nào của UK. Wetton tiếp tục thành công về mặt thương mại với ASIA, và Bozzio cũng muốn làm giàu với MISSING PERSONS.

    UK đã tạo ra một làn sóng rực rỡ cho công chúng khi họ thành lập vào cuối thập kỷ của Prog Rock. Nhưng thị hiếu thay đổi nhanh chóng và công chúng cũng thay đổi theo, áp lực của hãng thu âm phải thương mại hóa âm thanh của họ và các cơ hội sinh lợi khác, tất cả kết hợp lại để dẫn tới sự kết thúc nhanh chóng cho một đội hình hấp dẫn. Các nhóm như GTR, ASIA và một số bands khác sẽ đi theo con đường siêu nhóm của UK, nhưng không có band nào làm được điều đó tốt và phong cách hơn nhóm nhạc này.

    UK xứng đáng có một vị trí quan trọng vì lý lịch ấn tượng của các thành viên khác nhau, album ra mắt ấn tượng kinh điển mà họ phát hành vào năm 1978. Ảnh hưởng của họ đối với toàn bộ thế hệ nhạc sĩ rock và Prog hàng đầu bằng cách thử nghiệm khái niệm một nhóm siêu nhạc sĩ được tập hợp lại với mục đích duy nhất là tận dụng kỹ năng âm nhạc của nhau một cách hoàn hảo.

    Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm:
    UK -78 và Danger Money -79;
    UK.jpg
     
  21. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    Các đội này hay chơi lung tung với nhau nhỉ, em lang thang trên mạng thì thấy Steve Winwood của Traffic cũng chơi với đội cũ của King Crimson ver. 1 (trừ Fripp) trong bài này:

     
    Last edited: 21/1/22
  22. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Các đội này cũng thường xuyên chơi và kết hợp với nhau các bác. Traffic là một band rất hay. Không phải đơn giản mà một band có thể vào sảnh Hall Of Fame.
     
  23. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    B
    Bác nên mua thêm cái Three Friends và đặc biệt là cái In The Glass House, cực đỉnh luôn.
     
    shrekfiona likes this.
  24. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Spring

    Band nhạc thành lập tại Leicester, Vương quốc Anh năm 1970 - Giải tán năm 1972

    Tuy có sự nghiệp ngắn ngủi, đây là một band nhạc huyền thoại của Phong trào nhạc Prog rock đầu tiên của Anh. Nhóm ngũ tấu SPRING bao gồm Pat Moran (hát chính, Mellotron), Ray Martinez (guitar chính, Mellotron, guitar 12 dây), Adrian Maloney (guitar bass), Pique Withers (trống, Glo Chickenpiel) và Kips Brown (piano, organ và Mellotron). Đây là band nhạc kiểu one-shot đã phát hành album "Spring" vào năm 1971 và đưới định dạng CD qua hãng Laser's Edge vào năm '92. Bản CD chứa 3 bonustrack chưa được từng phát hành trước đó. Nhà sản xuất Gus Dudgeon (sau này nổi tiếng với Eric Clapton, David Bowie và Elton John) đã qua đời vài năm trước và tay trống Pique Withers trở nên rất nổi tiếng với Dire Straits.

    Âm thanh của SPRING là 'thiên đường của Mellotron', không dưới ba thành viên sử dụng nhạc cụ tuyệt vời này! Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi album này được truyền tải bằng Mellotron (ngoài ra còn có tiếng sáo - và tiếng violin) nhưng nó không hề gây hại cho các tác phẩm, không lạm dụng kỹ thuật vượt quá mức cần thiết. Tất cả 8 bài hát trong LP gốc từ năm '71 đều có âm thanh ấm áp và du dương với giọng hát khỏe, nhiều tiếng đàn organ, guitar điện nhạy cảm và cách chơi guitar 12 dây đan xen đẹp mắt. Một điều đáng ngạc nhiên, 3 bản nhạc bonus lại không có Mellotron. Điểm nhấn trong những bài hát này là tiếng đàn organ có nhịp điệu trôi chảy với tâm trạng dễ chịu, hơi thay đổi.

    Bản ghi âm thứ 2 của họ không có tên, và cũng không được phát hành, tưởng như đã thất truyền trong thời gian dài. Nhưng sau đó, nhóm nhạc đã tìm lại được và phát hành năm 2007. Spring chắc chắn là một trong những viên đá quý, rất được yêu thích của những fan ruột của Prog Rock.

    Bộ sưu tập gồm 2 albums:
    Spring -71 và Spring 2 -2007 (ghi âm năm 72);
    Spring.jpg
    Gnidrolog

    Band nhạc này thành lập tại Luân Đôn, Vương quốc Anh năm 1969 - Giải tán năm 1972 – Tái hợp lại một thời gian ngắn vào năm 1999.

    GNIDROLOG là một trong những band nhạc ít được chú ý đã tham gia vào sự bùng nổ của dòng nhạc progressive rock ở Anh vào khoảng năm 1971-73. Âm nhạc của band phức tạp, đặc biệt và rất khó phân loại. Âm nhạc của họ là sự pha trộn của sự kết hợp giữa nhạc blues, Prog Rock, Symphonic, với các nhạc cụ kèn và giọng hát mãnh liệt. Họ có thể thu hút người hâm mộ GENTLE GIANT, JETHRO TULL và VDGG. Trong thời gian hoạt động đầu tiên, nhóm chỉ tung ra được hai albums là "In Spite of Harry's Toenail" và "Lady Lake" đều vào năm 1972 trước khi tan rã. Sau một thời gian dài (27 năm!), GNIDROLOG đã tái hợp lại và thực hiện một album phòng thu mới, "Gnosis", vào năm 2000.

    Band nhạc đáng chú ý vì không hề có một tay keyboards trong đội hình của họ. Với cái tên hết sức kỳ quặc và không có ý nghĩa, band nhạc hẳn làm nhiều fan hâm mộ ngạc nhiên. Vậy, làm thế nào mà họ nghĩ ra được cái tên kỳ quái đó? Thực ra là họ đã trộn các chữ cái của tên các thành viên trong nhóm với nhau và sắp xếp chúng để tạo thành cái tên Gnidrolog, nghe giống như một thế giới tưởng tượng nơi sinh sống của yêu tinh hoặc troll.

    Album đầu tiên của họ, cái tên kỳ lạ "In Spite of Harry's Toenail" (1972) hầu như không được chú ý vào thời điểm phát hành và album "Lady Lake" (1972) cũng không khả quan hơn. Mặc dù vậy, cả 2 albums này đều có chất lượng rất tốt. Album "Lady Lake" còn có bìa album đặc biệt rất đẹp. Tuy không thành công tại thời điểm tung ra, nhờ có sự thần kỳ của internet và sự phục sinh của Prog trong thập kỷ 2000s đã khiến cho band nhạc bất ngờ trở nên nổi tiếng và trở thành những tuyệt phẩm bị lãng quên (rồi được tái khám phá lại) của dòng nhạc này.

    Band nhạc tan rã ngay sau khi phát hành "Lady Lake", do doanh thu đáng thất vọng, nhưng họ đã trở lại với album thứ ba "Gnosis" 27 năm sau vào năm 1999.

    Âm nhạc của Gridrolog luôn tồn tại yếu tố Folk và nghe giống như sự giao thoa giữa Van Der Graaf Generator và Jethro Tull. Vì vậy nếu ai thích hai band nhạc này thì có lẽ sẽ thích Gridrolog. Trên thực tế, giọng hát của band nhạc này nghe rất giống Peter Hammill của VDGG. Ngoài ra phần kèn, đặc biệt là tenor sax, cũng gợi nhớ đến VDGG. Dù có sự nghiệp ngắn ngủi, đây thực sự là một band nhạc rất hay.

    Bộ sưu tập gồm 2 albums:
    In Spite of Harry's Toenail -72 và Lady Lake -72
    Gridrolog.jpg
     
    Wildbird and tienhoangmanh like this.
  25. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Manfred Mann’s Earth Band

    Khi MANFRED MANN đang dần cạn kiệt ý tưởng (nhóm nhạc R & B của thập niên 60, nhóm nhạc này rất thành công với bản Hit là bài hát của Bob Dylan – Mighty Quinn, thậm chí lên cả Top 1 của Anh Quốc), trưởng nhóm của họ là Manfred Mann cùng tay trống Mike Hugg để tạo ra band nhạc mới Manfred Mann Chapter Three theo phong cách Jazz Fusion. Nhóm nhạc này sau đó cũng phát hành được 2 albums Volume 1 và Volume 2 vào 2 năm 69 và 70 trên hãng Vertigo do Hiseman của Colosseum nổi tiếng sản xuất. Tuy nhiên việc 2 albums này không thành công buộc cả hai phải gấp rút thử nghiệm một công thức khác.

    Nhóm mới sẽ được đặt tên là EARTH BAND (MMEB) và bắt đầu chuyển hướng sang Progressive Rock với những ảnh hưởng của Jazz qua lối chơi Syntherizer của Manfred Mann đồng thời nghiêng nhiều về hướng giai điệu. Những album đầu tiên của nhóm chỉ có chất lượng trung bình nhưng với mỗi album mới, các yếu tố Progressive ngày càng trở nên quan trọng, nên khi tới album SOLAR FIRE -1973, họ đã trở thành một ban nhạc Art-rock.

    Tuy nhiên, MMEB sẽ luôn được nhớ đến vì sự chuyển soạn những bài hát theo phong cách Pop Rock của Bruce Springsteen và Bob Dylan sang phong cách Prog Rock của riêng họ hơn là những bài hát do chính họ sáng tác. Đặc biệt với album đầu tiên của SPRINGTEEN, MMEB đã thực hiện ba bản cover bán chạy nhất: "Spirits In The Night", "Blinded By The Light" và "For You".

    Sau khi có một số albums khá hay vào những năm giữa thập kỷ 70s, họ đã cố gắng sống sót vào cuối những năm 70 s bằng cách điều chỉnh âm thanh của họ chuyển dần về Rock vào những năm 80 và chuyển sang hát về chính trị với những tuyên bố mạnh mẽ chống lại chủ nghĩa Apartheid tại quốc gia gốc của Manfred, Nam Phi. Điều này khiến ông không thể quay lại quê hương của chính mình. Cho tới thời điểm hiện tại MMEB vẫn đang tiếp tục lưu diễn.

    Bộ sưu tập gồm các albums:
    The Roaring Silence 1976, Watch 1978;
    Messin' 1973, Nightingales and Bombers 1975, Angel Station 1979;

    Manfredman.jpg

    Album: Solar Fire 1973;
    Manfredman 4.jpg

    Single 7 '': California/Chicago 1977

    Manfredman 2.jpg

    Single 7'' Blinded by the Light/Starbird No2 1977
    Manfredman3.jpg
     

Share This Page

Loading...