Ngoài việc rất nổi ở VN thì Scorpions cũng là 1 tg số ít bands nhạc rock nổi tiếng phương Tây đã sang VN trình diễn. Xem người HN hát vang Still loving you cùng band nhạc thật là đáng nhớ. Chỉ có điều khi họ chuyển sang mấy bài nặng hơn, kể cả Rock you like a hurricane thì bà con im bặt
Ban này rất thành công ở Mỹ nhưng không thành công tại Anh. Bản thân mình thấy ban nhạc này nhạc không sâu sắc nên mới nghe thấy được nhưng càng nghe càng thấy nhạt ..Mình cũng có duy nhất một album của ban Bò Cạp
Vì dân Việt Nam mình nói chung ít khi nghe hết cả album, chọn mấy bài nổi tiếng nghe mà ít khi chú ý những bài khác. Thực ra những band kiểu Prog Rock mà nghe từng bài thì không thể thấy hết mức độ hay của âm nhạc. Nhưng cũng chả sao, Việt Nam mình có mấy ai nghe Prog Rock đâu.
Band này cũng khá thành công tại Anh, nhưng cũng không quá quan trọng. Đến bây giờ vẫn còn rất nhiều người nghe Wind Of Change, Still Loving You sau 40 năm, điều đó mới có ý nghĩa.
Vâng e có mấy cái bán chạy của band :d , hnay e vừa bếch đc mấy cái của band : focus, wishbone ash, it bites one ảound world, gentle giant Sent from my iPhone using VNAV Community
Trong số những người mình quen biết thì có 1/2 thích Scorpions, và cũng 1/2 không thích. Cũng chẳng có gì mới lạ cả . Fleetwood Mac cũng chung số phận như vậy. Trong khi mình sưu tầm cho đủ bộ thì một vài người nói nghe nó kỳ kỳ . Mình mê mẩn Queen nhưng anh bạn thân của mình lại không thích. Riêng Dire Straits, Deep Purple, Pink Floyd, Eton John ...thì tất cả đều mê mẩn
Heavy Load Heavy Load là một band nhạc heavy metal của Thụy Điển được thành lập vào năm 1976. Band nhạc đã thu âm album đầu tay của họ vào năm 1977, và nó được phát hành một năm sau đó trên Heavy Sound Records trước khi hãng này phá sản. Họ thành lập hãng đĩa riêng mang tên Thunderload Records và phát hành thêm hai album trước khi tan rã vào năm 1983. Họ tái thành lập vào năm 1985 và một lần nữa vào năm 1987, nhưng sau đó tan rã cho đến năm 2017. Band nhạc hiện đang làm lại các album của họ. Heavy Load là một trong những ban nhạc metal Scandinavia sớm nhất và gặt hái được thành công, với phong cách có thể gợi nhớ đến band nhạc Manowar ở thời đại nguyên thủy. Lời bài hát và hình ảnh của họ, vốn bắt nguồn từ truyền thống và thần thoại Viking / Bắc Âu, ngày nay có thể hơi lỗi thời và quá lỗi mốt, nhưng thương hiệu anthemic power metal gây ấn tượng mạnh của họ đã thực sự thành công. Anh em nhà Wahlquist hiện là nhà sản xuất và chủ sở hữu của Thunderload Records ở Thụy Điển, đã có lúc sản xuất cho Veni Domine. Nhóm đã xem xét phát hành một album mới, tuy nhiên cũng đã nhiều năm trôi qua nhưng album vẫn chưa ra mắt. Bộ sưu tập có album đầu tay (định dạng CD) Full Speed At High Level 1978 Trust Trust là một band nhạc hard rock và heavy metal của Pháp, tuy nhiên âm nhạc của họ cũng dựa trên punk rock. Nhóm đã phát hành album đầu tay của họ, một album có tên trùng với tên band nhạc (sau này được biết đến với cái tên L'Élite), vào năm 1979. Band nhạc này chủ yếu hoạt động từ năm 1977-1984, sau đó đã tan rã và tái hợp rất nhiều lần. Band nhạc đã phát hành tổng cộng 11 album phòng thu, (tính cả phiên bản tiếng Pháp và tiếng Anh của một số album như những bản phát hành riêng biệt). Đội hình của họ luôn xoay quanh nghệ sĩ guitar Norbert "Nono" Krief và giọng ca chính Bernard "Bernie" Bonvoisin. Âm nhạc của nhóm thường là pha trộn giữa Hard Rock và Metal, tùy vào album. Giọng hát của Bonvoisin mang nhiều âm hưởng của AC/DC. Mặc dù có sự nghiệp khá lâu dài, band nhạc này có lẽ được biết đến nhiều nhất trong sân khấu hard rock và metal quốc tế vì có sự góp mặt của Clive Burr và Nicko McBrain, những tay trống nổi tiếng của Iron Maiden, trong đội hình của nhóm vào những thời điểm đầu những năm tám mươi. Band nhạc thrash metal Anthrax của Mỹ cũng đã cover các bài hát của Trust Antisocial và Les Sectes. Trust có lẽ là band nhạc Metal đầu tiên của Pháp. Bộ sưu tập có album (Vinyl) Repression 1980
Tại nước Mỹ, nhạc Hard Rock và Heavy Metal phát triển rất mạnh. Tại thời điểm trong thập niên 70s rất nhiều band nhạc tốt đã xuất hiện như Alice Cooper, Aerosmith, Kiss... Tuy nhiên, sau này khi phân tích kỹ ra Hard Rock và Metal thì những nhóm nhạc kể trên lại rơi vào Hard Rock. Điều dẫn tới Mỹ không có nhiều đại diện của Metal trong thập kỷ đầu tiên. Band nhạc thực sự chơi Metal đầu tiên tại Mỹ lại là Riot, một band nhạc rất hay nhưng lại ít người biết tới. Sau đó có lẽ là band nhạc Cirith Ungol. Riot Riot (sau này được gọi là Riot V) là một ban nhạc metal đến từ Brooklyn, NY, Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1975 bởi nghệ sĩ guitar Mark Reale với đội hình ban đầu được hoàn thiện bởi Guy Speranza (hát chính), Phil Feit (bass) và Peter Bitelli (trống). Âm nhạc của họ trong suốt sự nghiệp rất đa dạng từ hard rock đến Heavy Metal sang Power Metal của Mỹ. Sau khi thành lập, nhóm đã cùng nhau thu âm một bản demo bốn ca khúc với nỗ lực đưa vào danh sách tổng hợp các band nhạc rock mới, tuy nhiên đã bị từ chối. Nhưng Riot đã được nhà sản xuất Billy Arnell và Steve Loeb ký hợp đồng với hãng Fire-Sign Records. Sau đó có một số thay đổi về đội hình, với việc giới thiệu tay guitar thứ hai Louie Kouvaris và tay bass Jimmy Iommi. Sau tất cả những khó khăn Riot phát hành album đầu tay của họ, Rock City, vào năm 1977. Ngay sau đó, Riot đã đánh mất động lực mà họ đã đạt được và vào năm 1979, họ đang đứng trước bờ vực của sự tan rã. Nhưng lúc này, Làn sóng Heavy Metal của Anh Quốc (NWoBHM) bắt đầu thành công. DJ Neal Kay bắt đầu lan truyền thông tin về Riot ở Anh và họ dần trở nên nổi tiếng tại quốc gia này. Những người hâm mộ Anh Quốc bắt đầu nhập khẩu các bản sao của album Rock City và thành công bất ngờ này khiến Arnell & Loeb đã đồng ý thu âm album thứ hai của Riot, Narita, được phát hành vào năm 1979. Bản phát hành đã giới thiệu tay guitar mới Rick Ventura. Riot cũng đã ký một thỏa thuận với Capitol Records để phát hành Narita trên toàn thế giới, vì hãng đang tìm kiếm một nhóm nhạc trẻ tuổi để hỗ trợ Sammy Hagar trong chuyến lưu diễn. Tuy nhiên, hãng đĩa sau đó đã từ bỏ Riot bất chấp việc Tour lưu diễn rất thành công. Mặc dù vậy, nhờ những nỗ lực của Arnell & Loeb đã giúp Riot xuất hiện và phát sóng trên nhiều đài phát thanh nhất có thể, Capitol Records đã xem xét lại và chọn lựa album tiếp theo của Riot, tức là album thứ ba của họ Fire Down Under, nhưng rồi mối quan hệ này cũng không duy trì được sự tốt đẹp, sau khi band nhạc kết thúc ghi âm album, hãng đã từ chối phát hành vì âm nhạc quá nặng và không thể chấp nhận được về mặt thương mại. Bất chấp việc không chấp nhận album mới, Capitol lại từ chối giải phóng Riot khỏi hợp đồng của họ, dẫn đến việc album không được phát hành cho đến năm 1981 khi Elektra Records đạt được thỏa thuận với Capitol và phát hành album. Các thành viên mới cho bản thu âm là Kip Leming (bass) và Sandy Slavin (trống). Đây cũng là lần phát hành cuối cùng với giọng ca Guy Speranza, người gặp khó khăn trong việc chơi nhạc cho nhóm với niềm tin tôn giáo của mình. Ông này đã qua đời vào năm 2003 vì ung thư tuyến tụy . Người lãnh đạo mới của band nhạc là Rhett Forrester, người đã thu âm hai album tiếp theo của Riot cùng với ban nhạc, Restless Breed vào năm 1982 và Born in America năm 1983. Ông đã làm việc với Riot cho đến năm 1984, đó là năm mà band nhạc tan rã sau những rắc rối và thất bại của các album này. Một số lý do được cho là do sự sụp đổ của band nhạc bao gồm hành vi thất thường của Forrester, chia tay Elektra và thành công của band nhạc Quiet Riot vào năm 1983 với đĩa đơn Cum on Feel the Noize (hai band có tên dễ gây nhầm lẫn). Sau này nhóm tái hợp lại khá nhiều lần và tiếp tục tung ra những album rất hay như: ThunderSteel -88, Armor of Light -2018 nhưng lúc này theo phong cách Power Metal kiểu Mỹ. Bộ sưu tập có 3 albums: Narita -79 (Vinyl) ThunderSteel -88 (CD) va album Armor of Light -2018 (CD)
Đến đây thì chúng ta bước sang thập kỷ 80s, nơi một loạt anh tài cực lớn của Metal xuất hiện, rất nhiều band trong thập kỷ này trở thành những biểu tượng bất hủ của Heavy Metal. Trước tiên, ta có Iron Maiden. Iron Maiden Iron Maiden là một band nhạc heavy metal Anh Quốc được thành lập tại Leyton, phía đông London vào năm 1975 bởi tay bass kiêm nhạc sĩ chính Steve Harris. Hiện tại band nhạc đã có trên 40 albums lớn nhỏ bao gồm 17 albums studio, hơn 10 albums live, 4 EP và rất nhiều albums tuyển chọn compilation. Chúng ta có lẽ cũng không cần giới thiệu quá nhiều về Iron Maiden vì đây là band nhạc nổi tiếng thứ hai trong lịch sử của Heavy Metal, chỉ sau Metallica. Đây cũng là band nhạc tiên phong và dẫn đầu một trào lưu Heavy Metal mới tại Anh Quốc, có tên là New Wave Of British Heavy Metal (NWOBHM). Trở lại một chút với lịch sử của Heavy Metal, trong thập niên 70s Metal không phát triển quá mạnh, nhưng có rất nhiều band hay, đến cuối thập kỷ này thì những band tiên phong như Black Sabbath, Budgie bắt đầu xuống phong độ và mất dần tính sáng tạo và chuyển sang Hard Rock, dòng nhạc kém sáng tạo hơn. Rất may là còn những band như Judas Priest hay Motorhead, nhưng tại thời điểm này, các nhóm này chưa đạt được nhiều thành công về mặt thương mại. Tương lai của dòng nhạc rất đáng lo ngại. Tuy nhiên, sự xuất hiện của làn sóng mới, với hàng nghìn band nhạc lớn nhỏ, trong số đó có rất nhiều band hay và sẽ thống trị thế giới Metal sau này, đã giúp cho Metal dần trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Mặc dù trào lưu NWOBHM này chỉ diễn ra trong thời gian ngắn (chỉ khoảng đầu tới giữa những năm 80s) trước khi sụp đổ với hầu như tất cả các band tan rã để nhường chỗ cho hai trào lưu khác là Thrash và Glam Metal nhưng có một số band nhạc vẫn vươn lên để trở thành những người khổng lồ trong Metal, và tất nhiên ngôi sao sáng nhất của trào lưu này chính là Iron Maiden. Sau 2 albums đầu tiên với giọng ca chính Paul Di’Anno gặt hái được những thành công ban đầu, nhóm thay giọng ca chính bằng Bruce Dickinson và tiếp tục phát triển rất mạnh. Những năm 82-85 khi mà trào lưu NWOBHM sụp đổ, Iron Maiden vẫn đạt được thành công rất lớn khi liên tục phát hành một loạt album đạt chứng chỉ vàng và bạch kim của Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, bao gồm The Number of the Beast năm 1982, Piece of Mind 1983, Powerslave năm 1984, bản phát hành trực tiếp Live After Death năm 1985, Somewhere in Time -1986 và Seventh Son of a Seventh Son -1988. Nhưng rồi bước sang thập kỷ 90s thì Iron Maiden mất dần động lực trong những albums không quá tốt như No Prayer For The Dying -1990, Fear Of The Dark -1992. Điều này đã dẫn tới sự ra đi của giọng ca chính Dickinson. Sau 2 albums với giọng ca khá tốt Blaze Bayley nhưng không quá thành công, Maiden đã cải tổ lại với sự trở lại của giọng ca chính Bruce Dickinson và nghệ sĩ guitar Adrian Smith vào năm 1999. Band nhạc sau đó đã nổi tiếng trở lại với những albums mới rất hay như Brave New World -2000, Dance Of Death - 2003,A Matter Of Life And Death -2006. Thậm chí những album mới nhất của họ cũng đạt được những thành công cực lớn trên toàn thế giới như The Final Frontier -2011, đạt vị trí số 1 tại 28 quốc gia khác nhau, The Book of Souls -2015, đạt vị trí số 1 tại 24 quốc gia, Senjutsu -2021, đạt vị trí số 1 tại 23 quốc gia và nhận được sự hoan nghênh rộng rãi của giới phê bình. Được coi là một trong những band nhạc heavy metal thành công nhất trong lịch sử, Iron Maiden đã bán được hơn 85 triệu đĩa trên toàn thế giới mà gần như không có sự hỗ trợ của các đài phát thanh hoặc truyền hình. Band nhạc đã giành được Giải thưởng Ivor Novello cho thành tích quốc tế năm 2002, và cũng được giới thiệu vào Hollywood RockWalk ở Sunset Boulevard, Los Angeles, California trong chuyến lưu diễn Hoa Kỳ của họ vào năm 2005. Tính đến tháng 8 năm 2011, band nhạc đã chơi gần 2000 chương trình trực tiếp trong suốt sự nghiệp của họ. Trong hơn 40 năm qua, biểu tượng linh vật Eddie của band nhạc đã trở thành một trong những hình ảnh phổ biến nhất của Heavy Metal trên toàn thế giới. Linh vật này đã xuất hiện trên hầu hết các bìa album và đĩa đơn cũng như trong các chương trình live trực tiếp của họ. Bộ sưu tập rất lớn bao gồm khoảng 150 albums, đĩa nhạc khác nhau ở tất cả các loại định dạng vật lý, bao gồm: CD, Vinyl 12’’, Vinyl 7’’, DVD, Bluray, cassette… trong đó có nhiều đĩa rất quý hiếm. Trước tiên là những album Studio và live định dạng CDs Các albums với giọng ca chính Di’Anno : Iron Maiden -80 và Killers -81 (bản remastered 1998) Các albums với giọng ca chính Dickinson (giai đoạn 82-92) các bản remastered 1998 The Number of the Beast -1982, Piece of Mind -1983, Powerslave -1984, Somewhere in Time -1986 và Seventh Son of a Seventh Son -1988 (x2). No Prayer For The Dying -1990, Fear Of The Dark -1992 Các albums với giọng ca chính Bayley: The X Factor -1995, Virtual -1998; Các albums với sự trở lại của Dickinson (giai đoạn 2000- tới nay) Brave New World -2000, The Final Frontier -2011, Dance Of Death - 2003; A Matter Of Life And Death -2006 (1 bản thường, 1 bản SE CD+DVD), The Book of Souls -2015 (2CDs) Album Senjutsu -2021 Các albums live Live After Death – 1985, A Real Live Dead One -1993, Rock In Rio -2002; Album tuyển chọn: Edward the Great: The Greatest Hits 2002 Một số albums riêng gồm: Seventh Son of a Seventh Son -1988 (bản gốc), Fear Of The Dark -1992 (bản gốc) Piece of Mind -1983 (Digipack – Remastered -2018) The Final Frontier -2011 (bản gốc) Ngoài ra còn có các albums dưới định dạng cassette Somewhere in Time -1986 A Real Dead One -1993
Nhân kỷ niệm 10 năm trong sự nghiệp, vào năm 1990, Iron Maiden đã cho ra lại toàn bộ 20 single và Ep đầu tiên của nhóm dưới định dạng CD và Vinyl 12’’. Định dạng CDs gồm 10 đĩa, mỗi đĩa gồm 2 singles (artwork của mỗi single làm trên một mặt bìa đĩa) kết hợp thêm với đoạn review từng single của tay trống McBrain vui tính gồm: 2 Minutes to Midnight & Aces High Can I Play With Madness & The Evil That Men Do Flight of Icarus & The Trooper Purgatory & Maiden Japan (EP) Run to the Hills & The Number of the Beast Running Free & Sanctuary Running Free (Live) & Run to the Hills (Live) The Clairvoyant (Live) & Infinite Dreams (Live) Wasted Years & Stranger in a Strange Land Women in Uniform & Twilight Zone
The First Ten Years còn định dạng Vinyl 12’’. Định dạng này gồm 10 đĩa Vinyl 12’’ kép (kiểu Gatefold), mỗi đĩa cũng gồm 2 singles tương tự CD (tuy nhiên ở đây có 20 đĩa thay cho 10 đĩa như CDs) Khán giả có thể mua riêng lẻ từng đĩa, mỗi đĩa sẽ có 1 Voucher tên đĩa, nếu thu thập được 10 Voucher này sẽ đổi được một hộp đựng đĩa rất lớn và đẹp (có 2 hộp riêng cho CD và Vinyls, các hộp này chỉ có ở UK). Ngoài 20 đĩa Vinyls bộ sưu tập còn có hộp đựng đĩa dành riêng cho Vinyls (gần như mới): Hình ảnh đĩa Vinyls 12'' được đựng trong hộp Ngoài ra còn có 3 Voucher chưa sử dụng (hiện cũng thuộc dạng cực hiếm và được săn lùng trên toàn thế giới). Ngoài ra còn có một đĩa CD 2 Minutes to Midnight & Aces High (có 2 bản)
Iron Maiden cũng là band nhạc có nhiều single bán rất chạy (vì âm nhạc chuyên về tính giai điệu rất dễ nghe). Trong thập kỷ 80-90, nhóm chủ yếu ra single dưới dạng Vinyl 7’’ 45rpm (Vinyl 45rpm thường có chất lượng cao hơn so với 33rpm) Dưới đây là bộ sưu tập các single dạng 7’’ gồm: Running Free 1980 Sanctuary 1980 Women in Uniform 1980 Run to the Hills 1982 The Number of the Beast 1982 The Trooper 1983 2 Minutes to Midnight 1984 Aces High 1984 Run To The Hills 1985 (2 bản)
Và các single 7'': Running Free" (Live) 1985 Stranger in a Strange Land 1986 Wasted Years 1986 Can I Play With Madness 1988: 2 bản của Anh Và của Đức The Clairvoyant" (Live) 1988 The Evil That Men Do 1988 có 2 bản:bản cardboard và bản có bìa đĩa có hình Infinite Dreams" (Live) 1989
Những bản single 7'' của năm 90 và 92 Holy Smoke 1990 Bring Your Daughter To The Slaughter 1990 Be Quick Or Be Dead 1992
Từ năm 1988 trở đi thì Iron Maiden phát hành thêm các single dưới định dạng CDs. Bộ sưu tập cũng có một lượng single khá lớn gồm: The Clairvoyant" (Live) 1988 The Evil That Men Do 1988 From Here to Eternity 1992 Be Quick Or Be Dead 1992 Wasting Love 1992 (bản đặc biệt chỉ ra tại Hà Lan, cực hiếm) Fear Of The Dark Live 1993 (bản Limited Edition, số 14958) Hallowed Be Thy Name (Live) 1993 (cũng rất hiếm) Từ năm 1995 trở đi, mỗi single định dạng CDs thường làm 2 phần để cho dân sưu tầm: Man On The Edge 1995 gồm 2 CDs Lord Of Flies -1996 (chỉ ra tại châu Âu và rất hiếm) Virus CD 1996 là single không nằm trong album studio mà là bài hát mới trong album tuyển chọn Best of the Beast. Single gồm 2 CDs trong một hộp giấy.
Các single định dạng CDs (tiếp theo) - do mỗi post chỉ được 10 ảnh nên ta tiếp tục: Futureal -1998: Một trong những bài hát yêu thích nhất của Iron Maiden dưới thời Bayley. Single cực hiếm The Angel and the Gambler -1998 (gồm CD1x2 và CD2) Out of the Silent Planet 2000: gồm 2 bản Limited Edition (Số 03228) và bản promo cả 2 đều rất hiếm The Wicker Man -2000: cũng gồm 2 CD khác nhau: một bản là picture disk, bản còn lại bình thường x2 Rain Maker -2003: gồm 2 bản 1 định dạng CD, một định dạng DVD Wildest Dream 2003 gồm 3 bản: bản promo và bản thông thường định dạng CD và DVD Run To The Hills -2005: một số single dù đã phát hành trước khi CD ra đời, nhưng do yêu cầu quá lớn của người hâm mộ, sau này lại được ra lại dưới định dạng Cds. Run To The Hills ra lại định dạng CD vào năm 2002 và 2005 gồm 2 bản: bản gốc và bản chơi live The Number Of The Beast 2005: tương tự Run To The Hills, Number Of The Beast ra lại định dạng Cd vào năm 2005 Different World 2006: gồm 2 bản CD +DVD The Reincarnation of Benjamin Breeg 2006: gồm 2 bản Promo và thông thường.
Sau những năm 2010, các band nhạc thường không sản xuất single nữa mà chuyển sang phát hành single dưới định dạng nhạc số, vì thế những single của nhóm ở định dạng vật lý thường có số lượng hạn chế (để quảng bá) và rất khó tìm. Năm 2010, Iron Maiden tung ra album The Final Frontier, nhóm tung ra các single thuộc dạng quảng bá (promo) với số lượng rất ít. Bộ sưu tập có 2 single dạng CD nhưng art work lại 7’’ rất hiếm gồm: Eldorado 2010 Satellite 15....The Final Frontier 2010 Năm 2015 nhóm tung ra album The Book Of Soul và có tung ra 2 single gồm 1 bản exclusive (duy nhất) cho Best buy. Đó là single Speed of Light 2015 với voucher giảm giá và một áo phông có hình album side XXL. Ngoài ra còn có single dạng Vinyl 12’’ là Empire of the Clouds- 2016 với chỉ 5500 bản phát hành, hiện giờ rất hiếm Năm 2021 nhóm tung ra album Senjutsu và single dưới dạng Bluray là The Writing On The Wall chỉ Bonus ở bản Special Edition với giá 100 bảng. The Writing On The Wall (Bluray) 2021
Ngoài các albums và single thì Iron Maiden còn có một số sản phẩm cực kỳ độc đáo dành cho những người hâm mộ. Dưới đây là một số đồ hay của nhóm. Năm 2004, nhóm tung ra album Dance Of Death và có kèm một EP (Iron Maiden chỉ có 4 EP trong toàn sự nghiệp kéo dài hơn 40 năm). EP này gồm một CD trong hộp và một Wristband (là một kiểu trang sức bằng vải đeo ở cổ tay giống như các vận động viên chơi tennis hay đeo để lau mặt có chữ Iron Maiden). No More Lies – Dance of Death Souvenir EP -2004 Năm 2002 nhóm tung ra bộ boxset lưu niệm Eddie Archives, gồm một hộp kim loại có biểu tượng Eddie như một dạng rương chứa kho báu của hải tặc ngày xưa Với mục đích chỉ dành cho những nhà sưu tập, boxset này chứa những thứ cực kỳ quí hiếm gồm 6 CDs gồm những albums live cực hiếm (chỉ xuất bản duy nhất trong sự nghiệp của band nhạc) gồm: BBC Archives 2CDs, Beast over Hammersmith 2CDs, Best of the 'B' Sides 2CDs Ngoài ra trong đó còn một chiếc cốc mà nhìn từ trên xuống sẽ thấy trong cốc có hình Eddie với đôi mắt đỏ rực lửa Một cuộn giấy (scroll) trong đó có gia phả tất cả các thành viên band nhạc của Iron Maiden và các dự án solo trong suốt các thời kỳ. Ngoài ra còn một chiếc nhẫn có hình Eddie Tất cả đặt trong một chiếc rương có biểu tượng Eddie bằng thiếc. Do nhu cầu quá lớn sau này nhóm có tái bản lại. Bản gốc có bìa xốp giữ toàn bộ đồ vật màu xanh da trời, còn bản tái bản lại có xốp đựng đĩa màu đỏ. Cả hai bản này đều được săn lùng trên toàn thế giới. Bộ sưu tập có bản gốc đầu tiên (phía trong hộp màu xanh) Ngoài ra còn một số đồ nữa sẽ update sau.
Iron Maiden thời kỳ đầu rất siêu. Toàn những albums rất chất lượng. Sau đó thì bị đi vào lối mòn nên trong một album chỉ có 1 hoặc 2 bài hay. Thời gian sau này có Dance Of Death là nhiều bài hay
Bộ này cũng có rất nhiều cái hay và hiếm lắm, Cảm ơn bác. Bộ này cũng có rất nhiều cái quí hiếm, không dễ tìm được. Em cũng phải bỏ rất nhiều công sức thì mới có được nó.
Saxon Saxon là một band nhạc heavy metal của Anh Quốc, được thành lập ở Barnsley, Anh vào năm 1976. Đây là band nhạc tiên phong trong làn sóng NWOBHM vào đầu những năm 80s và vẫn đang tiếp tục hoạt động cho tới thời điểm hiện tại. Thực ra, Saxon đúng ra phải xuất hiện trong thập kỷ 70s vì album đầu tiên của nhóm tung ra vào năm 79, nhưng để trình bày thành hệ thống NWOBHM nên ta để họ sau một chút. Band nhạc này đã có một thời kỳ nổi tiếng và được biết tới rộng rãi ở Anh Quốc (bao gồm cả thành công trên bảng xếp hạng chính thức) và Châu Âu vào đầu những năm 1980s sau đó là Nhật Bản, nhưng rất tiếc do nhiều lý do đáng tiếc mà band nhạc này không thể gặt hái được thành công tại Hoa Kỳ, thị trường âm nhạc lớn nhất thế giới. Saxon bắt đầu sự nghiệp ở Nam Yorkshire, Vương quốc Anh với tên gọi SOB trong năm 1976 với các thành viên sáng lập Graham Oliver và Steve Dawson. Band nhạc lúc này kết hợp với một band nhạc địa phương khác có tên là Coast, với Biff Byford về giọng hát và Paul Quinn về guitar. Hai band nhạc sau đó hợp nhất với nhau để tạo thành một band nhạc hoàn chỉnh khi các thành viên đã ở tuổi 26-27. Tên đầu tiên của band nhạc là Son Of A Bitch, nhưng sau đó, do quá đụng chạm nên band nhạc từ bỏ tên này và đặt là Saxon. Vào thời điểm này, họ đang chơi các câu lạc bộ nhạc rock nhỏ và có các hợp đồng biểu diễn như band nhạc hỗ trợ cho Ian Gillan (giọng hát chính của Deep Purple), Heavy Metal Kids (band Glam Rock) và một số band nhạc khác. Trong các buổi biểu diễn này, họ chỉ chơi những bài hát do chính họ sáng tác. Lúc này, do chưa có hợp đồng, band nhạc tự thu các băng demo và tìm mọi cách để đạt được sự chú ý của một hãng đĩa bất kỳ. Sau một vài tháng, band nhạc cuối cùng đã nhận được phản ứng thuận lợi từ Peter Hinton, một thành viên của hãng đĩa nổi tiếng EMI. Ông này đã đến Barnsley để xem band nhạc biểu diễn tại Tòa thị chính của thị trấn. Ông này quá ấn tượng và giới thiệu SAXON cho Claude Carrere, ông chủ của hãng đĩa mới, Carrere Records. Claude quyết định đề nghị hợp đồng với band sau khi nghe băng demo của nhóm. Sau album đầu tay Saxon -79 có chất lượng khá tốt, thì Saxon lập tức vươn lên đỉnh cao với cặp albums kinh điển: Wheels Of Steel và Strong Arm of the Law đều vào năm 80. Những album này không chỉ có chất lượng cực tốt mà còn rất thành công về mặt thương mại khi xếp hạng 5 và 11 tại UK. Lúc này thành công của Saxon còn vượt rất xa Iron Maiden và họ được coi là một trong những người dẫn đầu phong trào NWOBHM non trẻ. 2 albums tiếp theo là Denim and Leather – 81 và Power & the Glory -83 tiếp tục được coi là những album kinh điển của NWOBHM. Mặc dù đội hình đã thay đổi qua năm tháng, nhưng cách tiếp cận âm nhạc của Saxon vẫn là thứ Heavy Metal cổ điển không thay đổi, đã giúp họ thu hút được sự quan tâm từ người hâm mộ, đặc biệt là tại Anh Quốc. Sau 4 albums kinh điển thì là lúc mà NWOBHM đi xuống khi hầu như các band nhạc trong trào lưu tan rã, nhưng Saxon thì không. Họ vẫn trụ lại được với những albums có chất lượng khá tốt trong thập kỷ 80-90 nhưng thành công về mặt thương mại thì không còn. Những album trong thập kỷ 90 của nhóm thậm chí không vào được Top của UK. Đầu những năm 2000, một cuộc chiến pháp lý xảy đã xảy ra giữa đội hình hiện tại (do các thành viên ban đầu là Byford và Quinn dẫn đầu) và các thành viên cũ Oliver và Dawson, về quyền đối với cái tên Saxon. Một thời gian sau khi rời Saxon, Oliver và Dawson mong muốn thành lập một ban nhạc mới để tiếp tục truyền thống Saxon cũ mà họ tin rằng đã giảm dần trong thời gian. Ban đầu, band nhạc mới này lấy tên cũ là Saxon (), phát hành album Victim You vào năm 1996. Sau đó, họ quyết định muốn lấy tên Saxon thực sự cho chính mình, và một cuộc chiến pháp lý xảy ra sau đó. Một cuộc dàn xếp cuối cùng của tòa án đã đạt được vào tháng 10 năm 2003, trao quyền đặt tên cho nhóm của Biff, với phe còn lại được phép tiếp tục với cái tên Oliver Dawson Saxon. Tới những năm 2004, Saxon thậm chí phải sản xuất và phát hành album của mình mà không có hãng đĩa. Nhưng band nhạc không bỏ cuộc và tiếp tục xây dựng lại thương hiệu với những albums trong thập niên 2010s (các albums này đều có mặt trong top UK với vị trí ngày càng cao). Album Thunderbolt -2018 là một trong những album rất hay của nhóm. Saxon chủ yếu thành công tại UK nhưng đây thực sự là một band nhạc rất tốt. Bộ sưu tập cũng khá lớn gồm khoảng 40 đĩa với các albums định dạng Cds, Vinyls và các single vinyl 7''. Với khoảng 27 CDs: 9 albums đầu tay của nhóm cho hãng Carrere (9 albums này đều là bản remastered năm 2009) gồm: Destiny 1988; Saxon 1979, Wheels Of Steel 1980, Strong Arm Of The Law 1980, Denim and Leather 1981; Power & the Glory 1983, Crusader 1984, Innocence Is No Excuse 1985, Rock The Nation 1986; Ngoài ra còn có một số album bản original: Saxon 1979; Strong Arm Of The Law 1980, The Eagle Has Landed 1982 (album live huyền thoại) Những albums sau này của nhóm, dù gặp nhiều khó khăn đều là những albums có chất lượng tốt gồm: Solid Ball of Rock 1991, Forever Free 1992, Call To Arms 2011; Dogs of War 1995, Lion Heart 2004, Battering Ram 2015 Các albums live: The Eagle Has Landed Vol III 2006, Warriors of the Road 2014 (Live 2DVD+CD) Các albums dạng promo: Into the Labyrinth 2009, Unleash the Beast 1997; Các albums dạng tuyển chọn: Greatest Hits Live 1990 Bộ tuyển chọn gồm tất cả cả albums của hãng Carrier trong 4 CDs: The Carrere Years - 2012
Các đĩa Vinyl 12'' gồm có: Album Innocent Is No Excuse 1985 Album live: The Eagle Has Landed 1982 Album Power & the Glory 1983; Album Denim And Leather 1981; Single Back on the Streets 1985 Single 747 (Strangers in the Night) 1980 Single Rock 'n' Roll Gypsy 1986
Cuối cùng là các single 7'': Wheels Of Steel 1980 (2 bản) Power & The Glory 1983, Sailing To America 1984 Strong Arm Of The Law 1980, Big Teaser 1980; 747 (Strangers In The Night) 1980, And The Bands Played On 1981;