Axel Rudi Pell Axel Rudi Pell là một nghệ sĩ guitar heavy metal đến từ Đức, người đã phát hành một số lượng lớn album solo kể từ khi rời Steeler vào năm 1989. Âm nhạc của ông này là âm thanh heavy metal truyền thống của Châu Âu, với Dio, Deep Purple, Rainbow và Yngwie Malmsteen nằm trong số những ảnh hưởng lớn nhất. Ngoài các album phòng thu và live truyền thống, Pell đã phát hành một số bộ sưu tập ballad độc quyền, nằm trong số những album nổi tiếng nhất của mình. Band nhạc metal Đức Steeler đã phát hành bốn album theo phong cách power metal phong phú, nếu không muốn nói là khá điển hình, vào những năm 80, nhưng rồi cuối cùng, những vấn đề cá nhân của họ đã nảy sinh, khiến tay guitar Axel Rudi Pell phải ly khai để bắt đầu sự nghiệp solo, mang theo người bạn / tay bass Volker Krawczak với ông này. Steeler đã không bao giờ thu âm nữa, nhưng hơn 30 năm sau, sự nghiệp của Pell vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ, với một chuỗi các album nhạc power metal / speed melodic truyền thống và cổ điển được ghi nhận với sự góp mặt của một số nhạc sĩ nổi tiếng trong những năm qua bao gồm giọng ca Jeff Scott Soto và tay trống điên cuồng trong công việc là Jörg Michael và nhiều người khác nữa. Phong cách của ông này, như chúng ta có thể đoán được là đậm chất guitar nhưng ít hào nhoáng hơn Yngwie Malmsteen, với nhiều điểm nhấn vào những bản ballad nhẹ nhàng hơn. Bộ sưu tập có 5 albums: Wild Obsession 1989, Nasty Reputation 1991,Eternal Prisoner 1992; The Ballards III 2004,Mystica 2006;
Trong các albums Metal thì mình thấy chỉ có Metallica và Y Malmsteen là có những bản solo guitar không lời thần sầu quỷ khóc .Hay hơn nhiều hai tay G Guitarists khác trong G4
Cái này không phải là độc tấu guitar mà là Heavy Metal có lời hát bác nhé. Một số band tuy tay guitar cầm chịch nhưng vẫn có lời hát như bình thường. Chỉ có một số chơi kiểu hòa tấu instrumental thôi. Đa phần là kết hợp giữa những bài có lời và hòa tấu. Cũng có một số hoàn toàn là có lời như band Axel Rudi Pell.
Sau Đức ta sẽ sang Đan Mạch, nơi có một loạt band nhạc hoành tráng của Metal thế giới bắt đầu xuất hiện trong những năm 80s. Trước tiên là band nhạc huyền thoại Mercyful Fate Mercyful Fate Mercyful Fate là một band nhạc heavy metal của Đan Mạch đã giúp truyền cảm hứng cho black metal thông qua lời bài hát và hình ảnh của họ. Mặc dù chuyên hát về chủ để như Satan, kinh dị, đồng thời vẽ mặt trắng bệch kiểu xác chết rất đặc trưng kiểu Black (ảnh hưởng lớn tới hầu như tất cả những band Black Metal sau này) nhưng về mặt âm nhạc thì Mercyful Fate thực chất là Heavy Metal với nhiều tính giai điệu. Band nhạc được thành lập tại Copenhagen, Đan Mạch vào năm 1980 từ các thành viên còn lại của 2 band nhạc là Brats của Hank Shermann (guitar) và Black Rose của King Diamond (vocal). Vào đầu năm 1981, họ đã giúp đỡ Michael Denner với các bản demo cho band nhạc Danger Zone của ông này. Không lâu sau đó, Shermann, Denner, Diamond, và tay bass Timi Grabber của Denner nhận ra tiềm năng của họ với tư cách là một band nhạc và bắt đầu biểu diễn với cái tên Mercyful Fate. Band nhạc cũng đã trải qua những lần thay đổi thành viên (điều khá thông thường cho một band nhạc mới), khi Denner rời đi (và sau đó trở lại). Ngoài ra, vị trí tay trống cũng liên tục thay đổi, nhưng Kim Ruzz cuối cùng đã khẳng định được tài năng của mình. Vào đầu năm 1982, band nhạc đã đóng góp vào album tuyển chọn Metallic Storm của hãng Ebony Records. Cuối năm đó, Mercyful Fate đã thu âm bài hát đầu tiên, Mercyful Fate, trên đĩa nhựa vinyl cho hãng Rave On của Hà Lan. Bản phát hành bao gồm bài hát nặng nề và độc ác mà sau này sẽ truyền cảm hứng cho thể loại black metal (mặc dù Venom và Bathory đều được coi là tổ tiên của black metal). Sau EP, band nhạc đã phát hành album đầu tay Melissa vào năm 1983 và Don't Break the Oath vào năm 1984. Đây là những album cực hay và hiện được nhiều người coi là kinh điển ở cả hai thể loại Heavy Power metal và black metal. Tuy nhiên, phong cách hát Satanist của King Diamond đã khiến band nhạc gặp nhiều rắc rối. Sau chuyến lưu diễn đầu tiên họ tại Hoa Kỳ để quảng bá cho album Don't Break the Oath, Diamond chia tay với Mercyful Fate vào tháng 4 năm 1985 do thất vọng về sự khác biệt sáng tạo với Hank Shermann. Cùng ra đi với ông này, Diamond đã mang theo các thành viên band nhạc là Hansen và Denner thành lập một band nhạc mới dưới tên King Diamond. Band nhạc mới của Diamond tiếp tục phong cách Metal truyền thống của Mercyful Fate, nhưng với một sự thay đổi về lời hát (chủ yếu hát về những câu chuyện kinh dị), và mang nhiều tính Progressive hơn. Đáp lại, Hank Shermann thành lập band nhạc Fate, theo đuổi hướng Rock dễ nghe đại chúng AOR. Mặc dù King Diamond tiếp tục hết sức thành công và tung ra nhiều những albums kinh điển nhưng vào tháng 7 năm 1992, Mercyful Fate quyết định tái lập và ký hợp đồng với hãng đĩa Metal Blade của Brian Slagel. Tất cả đều là các thành viên ban đầu chỉ không có Kim Ruzz (được thay thế bởi Morten Nielsen) và phát hành In the Shadows vào năm 1993. Album có bản thu âm lại "Return of the Vampire", với tay trống của Metallica (cũng là người đam mê Mercyful Fate) Lars Ulrich chơi cùng. Trong những năm sau đó, band nhạc đã phát hành 4 album khác, với album cuối cùng là 9. Sau khi phát hành 9 (1999), King Diamond tạm dừng Mercyful Fate và tiếp tục sự nghiệp solo của mình. Shermann, Denner, Holm và Hal Patino đã thành lập Force of Evil, kết hợp nhiều chủ đề của Mercyful Fate gốc. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 3 năm 2008, King Diamond nói rằng Mercyful Fate hiện đang "ngủ đông", nhưng chưa bao giờ chia tay. Mặc dù không biết khi nào band nhạc sẽ hoạt động trở lại, nhưng ông này nói "Chắc chắn là nó vẫn chưa kết thúc, ít nhất là trong cuốn sách của tôi.". Bộ sưu tập có các albums sau: Melissa 1983, The Beginning 1987 (2 in 1), Don't Break The Oath 1984,Return of the Vampire 1992; In The Shadows 1993, Time 1994, Into The Unknown 1996; Dead Again 1998, 9-1999;
King Diamond King Diamond là band nhạc mà King Diamond (tên thật là Kim Petersen) thành lập sau sự tan rã của Mercyful Fate - sau khi Hank Sherman ra đi. Band nhạc này đã được hầu hết các thành viên của Mercyful Fate tham gia bởi vì nhóm nhạc này lúc đó không còn tồn tại. Phong cách âm nhạc của King Diamond vẫn là kiểu Heavy Metal cố nhưng lúc này đã mất đi phần lớn phong cách proto-black metal. Những phần lyrics tập trung vào Satanic đã được thay thế bằng những câu chuyện kinh dị. Chất liệu ban đầu của King Diamond là phần tiếp theo của âm hưởng Mercyful Fate, với một chút nghiêng hơn về giọng hát vốn đã rất đặc biệt của Diamond và bớt ồn ào hơn một chút. Trong thập niên 80-90s, King Diamond đã tung ra rất nhiều những albums có chất lượng cực tốt, hiện tại cũng là hàng sưu tập quý hiếm. Mỗi album của nhóm thường chứa một câu chuyện được kể xuyên suốt các bài hát; một số câu chuyện trải dài hơn một album. Chỉ có 2 albums là Fatal Portrait và The Spider's Lullaby là có chút khác biệt, với chỉ một nửa số bài hát tạo thành một câu chuyện trong khi các bài hát khác là độc lập. Giọng hát theo phong cách falsetto cực cao của King Diamond là điều rất đáng chú ý của nhóm nhạc này. Sau một thời gian, Mercyful Fate đã tái hợp trở lại nhưng King Diamond không từ bỏ band nhạc solo. Và King hát trong cả hai band nhạc và liên tục tung ra các albums cùng nhau. Vào thời điểm hiện tại, thì Mercyful Fate vẫn đang ở trạng thái dừng hoạt động, trong khi King Diamond vẫn tiếp tục sự nghiệp. Bộ sưu tập gồm 15 albums cực hiếm của King Diamonds gồm: 5 albums đầu tiên có thể coi là kinh điển của Metal thế giới: Fatal Portrait 1986, Abigail 1987; Them 1988, Conspiracy 1989, The Eye 1990; Các albums sau khi King Diamond tái hợp với Mercyful Fate (chơi cả 2 bands): The Spider's Lullabye 1994,Voodoo 1998, House of God 2000 Abigail 2 2002, The Puppet Master 2003, Give Me Your Soul… Please 2007; King Diamond còn có rất nhiều album tuyển chọn (compilation): A Dangerous Meeting-92 (cả 2 bands KD và MF),The Best of King Diamond 2003; Dreams of Horror 2014 (2CDs), Deadly Lullabyes Live 2004;
Mình cũng có một, hai albums của 2 ban nhạc trên. Nói chung nghe tạm được khi còn ít CD .Sau này khi đã mua được nhiều CD của nhiều ban khác nổi tiếng hơn thì mình ít nghe lại nhạc của 2 ban trên
Pretty Maids Pretty Maids là band nhạc Heavy Metal lấy cảm hứng từ NWOBHM (New Wave Of British Heavy Metal) được thành lập tại Horsens, Đan Mạch, bởi Ronnie Atkins và Ken Hammer vào năm 1981. Tại sao một band nhạc metal bao gồm những người đàn ông lại tự đặt tên mình là Pretty Maids? "Bởi vì đó là những gì chúng tôi nghĩ về", hay những từ có liên quan đến điều đó, là câu trả lời mà họ đưa ra khi được hỏi trong những ngày đầu tiên của band nhạc. Pretty Maids đã trở thành một trong những band nhạc metal lâu đời nhất của Đan Mạch họ hoạt động kinh doanh hơn 40 năm nay và vẫn tiếp tục sử dụng phong cách Metal châu Âu truyền thống dễ tiếp cận. Âm nhạc của họ khá dễ nghe, với giai điệu tốt nhưng có vẻ hơi thiếu đột biến. Có lẽ band nhạc này thành công nhất tại Nhật Bản, nơi thứ âm nhạc nghiêng về giai điệu của họ được tôn thờ và phù hợp hơn với khẩu vị của người châu Á. Trong những năm qua, Pretty Maids đã bán được hàng trăm nghìn đĩa hát, nhưng chưa bao giờ có những thành công đột phá. Họ đã lưu diễn hỗ trợ những bands rất nổi tiếng như Black Sabbath, Deep Purple, Alice Cooper, Saxon, Nazareth và cũng đã chơi tại đại nhạc hội nổi tiếng Monsters of Rock phiên bản Đức năm 1987, nơi Metallica và Deep Purple là những band nhạc chính. Bộ sưu tập gồm 7 albums của nhóm: Stripped 1993; Pretty Maids 1984,Red, Hot and Heavy 1984,Future World 1987; Jump The Gun 1990, Sin-Decade 1991, Offside 1992;
Krokus Krokus là một ban nhạc hard rock / heavy metal đến từ Thụy Sĩ. Krokus được thành lập tại Solothurn, Thụy Sĩ vào năm 1974. Sau đó, họ có rất nhiều sự thay đổi thành viên và không còn một thành viên ban đầu nào trong band nhạc khi họ bước vào thời kỳ hoàng kim. Họ đã trở nên nổi tiếng vào những năm 1980 thông qua việc tiếp xúc với kênh MTV và các video đã đưa Krokus trở thành band nhạc rock Thụy Sĩ thành công nhất trên toàn thế giới. Ở Châu Âu, họ đã lưu diễn với Nazareth và ở Hoa Kỳ với AC / DC, Motörhead, Rush, và Judas Priest. Album Headhunter của họ đạt chứng chỉ đĩa vàng ở Hoa Kỳ. Tất cả các album còn lại của họ đều đạt đĩa bạch kim ở Thụy Sĩ. Các rocker kỳ cựu người Thụy Sĩ được biết đến nhiều nhất với âm thanh kiểu AC / DC độc đáo và những bản hit đầu những năm 80 của họ như "Long Stick Goes Boom" và "Ballroom Blitz" (một bản cover ngọt ngào). Vật liệu ban đầu của họ (trong những năm đầu thập kỷ 80s thời của album Metal Rendezvous) có phần nguyên bản hơn và có bản chất là Heavy Metal Châu Âu, với phong cách AC / DC trở nên thịnh hành của Hard Rock. Mặc dù band nhạc đã trải qua hàng loạt thay đổi về đội hình trong những năm qua, nhưng đội hình hiện tại của họ có bốn trong số năm chàng người đã từng ở trong thời kỳ hoàng kim của họ vào đầu những năm 80. Bộ sưu tập có 2 albums: Metal Rendez-Vous 1980 Headhunter 1983
Vengeance Đa số những fan hâm mộ Metal trên thế giới không biết tới cái tên Vengeance, mặc dù đây là một band nhạc gạo cội của Hà Lan. Tuy nhiên, đây là band nhạc khởi đầu của Arjen Anthony Lucassen – người sáng lập ra band nhạc Progressive/Opera/Electronics Metal rất nổi tiếng là Ayreon (có lẽ không có fan hâm mộ Progressive Metal nào lại không biết tới band nhạc này). Arjen Lucassen là một trong những nhạc sĩ progressive rock / metal được kính trọng nhất Hà Lan, nhưng ông này tạo dựng tên tuổi vào đầu những năm 80s với các band nhạc Metal truyền thống hơn như Bodine và Vengeance. Trên thực tế, Vengeance chơi theo phong cách heavy metal truyền thống, đến từ Waalwijk, North Brabant, được thành lập vào năm 1982. Band nhạc đã phát hành một loạt album phòng thu gồm Vengeance- 84, We Have Ways To Make You Rock -86, Take It Or Leave It -87, Arabia -89, The Last Of The Fallen Heroes -94. Các albums này đều có chất lượng khá tốt nhưng không mấy thành công nên sau đó Lucassen đã từ bỏ band nhạc. Các thành viên còn lại tung ra Back From Flight 19 -97 rồi tan rã. Trong khi Lucassen chuyển sang Prog Metal theo phong cách Opera lai với Electronics rất thành công với Ayreon thì các thành viên còn lại đã cố gắng tái lập nhóm Vengeance và tiếp tục thu âm một số albums theo phong cách Metal truyền thống nhưng cũng không thực sự thành công. Bộ sưu tập có 3 albums: Vengeance 1984; Arabia 1989, The Last Of The Fallen Heroes 1994;
Sau các nước tại châu Âu, chúng ta sẽ chuyển sang châu Á. Tại Nhật Bản bắt đầu xuất hiện những band nhạc Metal đầu tiên. Kuni Kuni là một trong những band nhạc Metal đầu tiên của Nhật Bản, thực chất là dự án solo của nghệ sĩ guitar Kuni Takeuchi. Vào khoảng giữa những năm 80s, nghệ sĩ được coi là anh hùng guitar của Nhật Bản này quyết định tham gia thị trường âm nhạc thế giới với sự trợ giúp của một loạt những nghệ sĩ khá có tiếng tăm từ Anthrax, Quiet Riot, Steeler, Mr. Big… Năm 1986, band nhạc này tung ra album đầu tay là Masque, một album rất thú vị. Âm nhạc trong album là sự kết hơp rất nhuần nhuyễn giữa Melodic Metal và phong cách solo kiểu anh hùng guitar thường thấy. Giọng hát chủ yếu trong album là của John Purdell. Bản thân Kuni có kỹ thuật tốt, nhưng không thể so sánh với những anh hùng guitar nổi tiếng, nhưng ông này đã viết những bài hát hay và độc tấu. Với những giai điệu tuyệt vời và những đoạn solo guitar hay, đây là một album có chất lượng rất tốt với những fan hâm mộ của Heavy Metal. Một điều đáng tiếc rằng album này không thành công và đến ngày nay, nó gần như bị lãng quên. Hai năm sau KUNI phát hành một lp khác và ở đó ông này có sự giúp đỡ của Mike Terrana và Jeff Scott Soto cũng có chất lượng rất tốt mặc dù cũng không thành công. Bộ sưu tập có album Masque -1996 X Japan Band nhạc này thành lập vào năm 1982 tại Chiba dưới cái tên đơn giản là X (sau đó được đổi thành X JAPAN vào năm 1992 để tránh nhầm lẫn với ban nhạc punk X của Mỹ). Đây được cho là một trong những band nhạc có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nền âm nhạc Nhật Bản. X ban đầu được thành lập để chơi nhạc rock năng lượng cao. Bên cạnh việc là một trong những nghệ sĩ Nhật Bản đầu tiên đạt được thành công chính thống khi hoạt động trên một hãng độc lập, nhóm còn được ghi nhận rộng rãi vì đã đi tiên phong trong phong trào visual kei. Sau khi Yoshiki và Toshi tuyển dụng tay bass Taiji và các nghệ sĩ guitar Hideto và Pata, ban nhạc bắt đầu chuyển sang mạch indie. Họ đã thu hút được sự ủng hộ và người hâm mộ dồi dào trên khắp Nhật Bản với phong cách ăn mặc hở hang, sử dụng tóc dài, nhuộm và đồ da cùng với cách trang điểm để khiến bản thân gây sốc cho những người đi xem. Vẻ ngoài này và phong cách âm nhạc của họ là Heavy metal, Hard Rock và Speed Metal, pha trộn với những bản ballad nhẹ nhàng và đơn giản hơn, là những yếu tố cơ bản để xác định đặc tính của các band nhạc visual kei ngày nay. Tuy nhiên, vào năm 1996, sau khi phát hành album thứ năm và cũng là cuối cùng của họ, DAHLIA, Toshi tuyên bố rời khỏi band nhạc vì lý do riêng - được đồn đại là do vợ anh không thích band. Thay vì tiếp tục mà không có Toshi, năm sau X JAPAN thông báo họ sẽ tan rã, đó là cuối năm 1997. Bốn tháng sau, ngày 2 tháng 5 năm 1998, Hideto "Hide" Matsumoto, nghệ sĩ guitar chính của X Japan, được phát hiện đã chết, treo cổ bằng khăn buộc vào tay nắm cửa trong căn hộ ở Tokyo. Trong khi các nhà chức trách cho rằng cái chết của nghệ sĩ guitar là một vụ tự tử, một số bạn bè và đồng nghiệp của Hide nói rằng họ tin rằng đó là một tai nạn, giả thiết này được hỗ trợ bởi thực tế là không có thư tuyệt mệnh nào được tìm thấy. Sau này, X Japan còn tiếp tục tái hợp và lưu diễn trên toàn thế giới. Bộ sưu tập có album Blue Blood 1989
Anvil Anvil là một band nhạc heavy metal Canada, cũng là những người đã có ảnh hưởng đến nhiều nhóm nhạc trong đó bao gồm cả Slayer và Metallica. Nguồn gốc của Anvil bắt đầu từ tháng 4 năm 1973 tại Toronto, khi những người bạn trung học Steve "Lips" Kudlow và Robb Reiner bắt đầu chơi nhạc cùng nhau. Mãi đến năm 1978, đội hình đầu tiên trở thành Anvil được thành lập: Steve "Lips" Kudlow (hát chính, lead guitar), Robb Reiner (trống), Dave Allison (hát, guitar nhịp) và Ian Dickson (bass). Năm 1981, band nhạc phát hành một album độc lập mang tên Hard 'N Heavy. Ngay sau khi được Attic Records ký hợp đồng, họ đổi tên thành Anvil và album này được Attic phát hành trở lại và trở thành album đầu tay của họ. Năm 1987, họ được hãng đĩa Metal Blade Records của Mỹ tiếp cận. Họ đã phát hành ba albums với Metal Blade Records bắt đầu với Strength of Steel. Strength of Steel là đĩa hát thành công nhất về mặt thương mại của nhóm tại Hoa Kỳ, đạt vị trí thứ 191 trên bảng xếp hạng Billboard 200. Sau đó, Anvil chuyển sang Maximum Records, một nhãn hiệu độc lập của Canada được thành lập bởi William, quản lý của Helix. Lịch sử của band nhạc đã được ghi lại trong bộ phim Anvil! The Story of Anvil phát hành vào năm 2009. Bộ phim đã nhận được nhiều lời khen ngợi, điều này đã đưa Anvil trở lại với ý thức của công chúng, thúc đẩy họ tham gia một số liên hoan bao gồm cả Liên hoan Download vào năm 2009. Rolling Stone gọi bộ phim là "tác phẩm nhạc rock được khen ngợi nhất năm. " Band nhạc đã chơi "Cat Scratch Fever" với Slash và Scott Ian của Anthrax tại Liên hoan phim Sundance nơi bộ phim được công chiếu. Năm 2009, Bantam Press phát hành cuốn sách Anvil: The Story of Anvil của tác giả Kudlow và Reiner với lời tựa của Slash. Vào ngày 28 tháng 3 năm 2009, Kudlow và Reiner là khách mời nổi bật trên VH1 Classic's That Metal Show. Bộ sưu tập có 3 albums: Strength Of Steel 1987, Pound for Pound 1988; This Is Thirteen 2009;
Thor Thor là một ban nhạc hard rock / heavy metal có nguồn gốc từ Vancouver, British Columbia vào năm 1973. Band nhạc được dẫn dắt bởi Jon Mikl Thor, một vận động viên thể hình đã trở thành "Chiến binh Rock huyền thoại" đồng thời là một diễn viên, người thường tích hợp một số yếu tố trình diễn độc đáo, kỳ công, đầy sức mạnh vào các buổi hòa nhạc và sự xuất hiện trước công chúng của họ. Những pha nguy hiểm như bẻ cong thanh thép trong răng, đập vỡ bê tông vào ngự, và dùng phổi để thổi một chai nước nóng đến mức vỡ tung. Trong sự nghiệp của mình, nhóm đã phát hành hàng chục bản thu âm dưới các biến thể khác nhau của cái tên Thor. Về mặt âm nhạc, thì nhóm chơi theo phong cách pha trộn giữa Metal cổ, Speed Metal và Power Metal. Tuy nhiên, âm nhạc nghiêng nhiều hơn về phía của metal truyền thống. Âm nhạc của họ thường chứa các bài hát rất hấp dẫn, hoành tráng và có giai điệu hay kiểu Judas Priest hoặc Manowar. Ngoài giọng hát khỏe của Thor, thì band nhạc đệm cũng có rất nhiều tại năng với một số đoạn riff kiểu Metal với tốc độ tuyệt vời và thường gây ấn tượng với những bản solo ngắn nhưng ồn ào. Phần nhịp điệu rất chắc chắn và đôi khi bổ sung rất nhiều vào chất lượng tổng thể của các bài hát. Đối với những người quá coi trọng âm nhạc thì đây không phải là một band nhạc dành cho họ. Nhưng với những người thích thể loại âm nhạc có nụ cười trên môi và giơ nắm đấm lên trời thì hãy thử band nhạc này. Bộ sưu tập có single 12'' Thunder on the Tundra/Hot Flames 1984
Exciter Exciter thường được coi là một band nhạc Heavy Metal/ Speed Metal đến từ Ottawa, Ontario, Canada. Mặc dù có nhiều thay đổi về nhân sự, họ vẫn giữ được một lượng fan hâm mộ tuy nhỏ nhưng vô cùng tận tâm trong suốt những năm qua. Năm 1978, band nhạc Hell Razor thành lập tại Ottawa ON, Canada. Band nhạc bao gồm John Ricci (guitar), Dan Beehler (trống) và Allan James Johnson (bass). Năm 1980, họ đổi tên thành Exciter và thu âm một bản demo mà sau đó họ gửi cho Mike Varney của Shrapnel Records. Ngay sau đó Exciter đã được ký hợp đồng với Shrapel Records. Năm 1983, họ phát hành album đầu tay, Heavy Metal Maniac. Album có chất lượng khá tốt đã khiến Exciter có hợp đồng thu âm với hãng Megaforce Records lớn hơn của Jon Zazula. Năm 1984 họ phát hành album thứ hai, Violence & Force. Lúc này, họ đã có thể chơi mở màn cho Anthrax, Mercyful Fate. Album thứ 3 của nhóm có tựa đề Long Live the Loud có âm thanh heavy metal 'chính thống' hơn một chút so với speed / thrash metal của hai album đầu tiên. Sau khi phát hành album này, band nhạc đã đi lưu diễn châu Âu với Accept và sau đó là chuyến lưu diễn Hoa Kỳ với Motörhead và Megadeth. Sau đó họ đã phát hành EP gồm 3 ca khúc Feel the Knife, là bản phát hành cuối cùng từ đội hình nguyên gốc ban đầu. Không lâu sau khi phát hành, John Ricci rời khỏi band nhạc và được thay thế bởi Brian McPhee. Cùng với một nghệ sĩ guitar mới, là một âm thanh mới, du dương và mang nhiều tính giai điệu hơn. Album tiếp theo, Unveiling the Wicked, được phát hành vào năm 1986 trên hãng Music For Nations. Sau khi phát hành, band nhạc đã có một chuyến lưu diễn Châu Âu rất thành công với Motörhead và Manowar. Vào thời điểm này, Dan Beehler (người đã đảm nhiệm cả vài trò trống và hát chính kể từ khi thành lập band nhạc) đã được quyết định sẽ không tiếp tục hát nữa. Một giọng ca mới thay thế là Rob Malnati, người đã xuất hiện lần đầu tiên trong album năm 1988 Exciter (O.T.T.). Lúc này nhóm đã đẩy âm thanh lên mức giai điệu cao hơn nữa. Sau chuyến lưu diễn Canada, band nhạc đã tạm thời ngừng hoạt động. Năm 1991, band nhạc tái xuất với Dan Beehler chơi trống và hát chính một lần nữa. Nghệ sĩ guitar gốc John Ricci cũng quay trở lại. Nhiệm vụ bass do David Ledden đảm nhiệm. Năm 1992, band nhạc ký hợp đồng với hãng đĩa Noise Records của Đức và thu âm album thứ sáu của họ mang tên Kill after Kill. Nhóm nhạc sau đó đã có chuyến lưu diễn châu Âu ba tuần với Rage. Năm 1993, họ phát hành album trực tiếp đầu tiên, Better Live than Dead, được thu âm trong chuyến lưu diễn Canada năm 1991. Album chỉ bao gồm các bài hát lấy từ ba album đầu tiên. Sau bản phát hành này, band nhạc biến mất lần thứ hai. Phải ba năm nữa họ mới quay trở lại. Vào tháng 3 năm 1996, một đội hình gần như hoàn toàn mới đã được công bố. Nghệ sĩ guitar, John Ricci, là thành viên ban đầu duy nhất trở lại. Jacques Bélanger là giọng ca mới và Rick Charron và Marc Charron (không liên quan) sẽ đảm nhận nhiệm vụ trống và bass. Đội hình mới đã chơi một số chương trình được đón nhận nồng nhiệt ở Canada trước khi thu âm album mới mang tên The Dark Command. Album này được phát hành vào năm 1997. Với một trong những album mạnh nhất của họ trong nhiều năm, band nhạc đã thực hiện chuyến lưu diễn châu Âu cùng với Anvil và Flotsam và Jetsam. Từ năm 1998 đến năm 2000, band nhạc về cơ bản không hoạt động với chỉ hai lần xuất hiện tại lễ hội trong khoảng thời gian 2 năm. Mùa hè năm 2000 chứng kiến sự ra mắt của phần tiếp theo của The Dark Command mang tên Blood Of Tyrant. Album mới nặng nề hơn và mạnh mẽ hơn so với album trước đó. Sau đó nhóm lại tan rã và chỉ trở lại vào năm 2008 với việc phát hành thêm 2 albums mới. Bộ sưu tập có album Exciter 1988
Chúng ta đã kết thúc những phần viết về Metal của Canada và chuyển sang quốc gia cuối cùng, cũng là nơi có thị trường âm nhạc lớn nhất thế giới - nước Mỹ. Tại đây bắt đầu xuất hiện những tên tuổi bất hủ của Metal thế giới. Trước tiên chúng ta tới với Cirith Ungol. Cirith Ungol Cirith Ungol là một band nhạc Heavy metal của California, thành lập vào năm 1972 và tan rã vào tháng 5 năm 1992. Band nhạc này chịu ảnh hưởng từ các nhóm metal, Hard Rock tiên phong như Black Sabbath, Thin Lizzy, cũng như Iggy And The Stooges. Album đầu tiên của họ, "Frost and Fire", gần giống với sự kết hợp giữa hard rock và metal những năm 1970 với các bài hát được viết bởi tay bass / guitar lúc bấy giờ là Greg Lindstrom và tay trống Robert Garven. Thế nhưng kể từ album "King of the Dead" (1984) trở đi, họ đã chơi theo một phong cách Metal riêng biệt với rất nhiều ảnh hưởng của progressive rock và Doom metal với các bài hát chủ yếu được viết bởi giọng ca chính Tim Baker. Band nhạc này khởi đầu với Greg Lindstrom, Robert Garven, Jerry Fogle và Pat Galligan (người sau này tiếp tục chơi guitar cho Angry Samoans), khi các thành viên đang chơi trong band nhạc đầu tiên của họ có tên là "Titanic" ở trường trung học. Với mong muốn chơi nhạc nặng hơn, phần còn lại của band nhạc loại bỏ Pat và cải tổ vào năm 1972 với cái tên Cirith Ungol với giọng hát Neal Beattie. Nhưng mãi đến năm 1980, họ mới được hãng đĩa Enigma ký hợp đồng và phát hành đĩa hát đầu tiên "Frost and Fire" với giọng hát của Tim Baker. Sau album thứ tư "Paradise Lost" (1991), họ tan rã vì thất vọng với những rắc rối với công ty thu âm mới. Tới năm 2001 chứng kiến sự ra mắt của album tuyển chọn Servants Of Chaos mới bao gồm các bản demo, bài hát cũ và chưa được phát hành, nhưng không có các tài liệu mới. Phải tới tận năm 2020 nhóm mới tung ra album mới là Forever Black, album này có chất lượng khá tốt. Là một trong những band nhạc Heavy Metal được tôn thờ giữa những năm 80s, Cirith Ungol đã tạo ra một sự pha trộn độc đáo của semi-doom metal, đứng đầu là giọng hát khàn khàn độc đáo của Tim Baker, một giọng hát rất lạ: lắm người yêu nhưng cũng rất nhiều kẻ ghét. Giọng hát đặc biệt này đã cung cấp cho band nhạc dấu ấn độc đáo cần thiết trong suốt sự nghiệp của họ. Trong số bốn album mà họ đã phát hành, hai album giữa, King Of The Dead-84 và One Foot In Hell-86 có thể coi là có chất lượng tốt nhất của band nhạc. Còn album đầu tay thì chơi nhẹ hơn một chút và album cuối cùng (Paradise Lost) bao hàm những ý tưởng thử nghiệm mới. Mặc dù không bao giờ đạt được vị thế siêu sao, họ vẫn duy trì một sự nghiệp vững chắc và được tôn thờ trong giới Metal underground. Bộ sưu tập có 4 albums: One Foot in Hell 1986, King of the Dead 1984 Frost and Fire 1981, Servants of Chaos 2001 (tuyển chọn, SE 2CDs+1DVD) Và single 7'' Flexi Brutish Manchild 2020
Manilla Road Manilla Road là một band nhạc heavy metal của Mỹ đến từ Wichita, Kansas, được thành lập xung quanh bậc thầy về lead guitar Mark 'the Shark' Shelton (hát và guitar). Shelton dù không mấy thành công về mặt thương mại nhưng có thể coi là một trong những tay guitar được tôn trọng nhất trong lịch sử của dòng nhạc, một người sống và chết vì Heavy Metal theo đúng nghĩa đen của từ này. Manilla Road được Shelton tạo ra vào năm 1977 với những người bạn thời trung học gồm Benny Munkirs, Rick Fisher và anh em Robert và Scott Park. Sau khi chơi ở các quán bar địa phương, nhóm lần đầu tiên gây được sự chú ý với bài hát "Herman Hill", lấy cảm hứng từ cuộc bạo động ở Đồi Herman. Album đầu tiên của họ "Invasion" được phát hành vào năm 1980 trên nhãn hiệu riêng của band nhạc, Roadster Records. Giữa thời điểm này và album tiếp theo, band nhạc đã thu âm tài liệu cho một album có tựa đề "The Dreams Of Eschaton", tuy nhiên album này đã không được phát hành cho đến năm 2002 (dưới tên "Mark Of The Beast") vì họ không hài lòng với chất lượng âm thanh cuối cùng. Shelton đã giải thích rằng âm nhạc "không đủ tính Metal" và văng tục. Mặc dù vậy, khi "Mark of the Beast" phát hành, nó đã được giới phê bình đón nhận nồng nhiệt. Những album đầu tiên này có nhiều điểm chung với progressive rock và proto-heavy metal hơn là thứ âm thanh Heavy Metal mang tính trường ca (Epic) của band nhạc sau này. Đĩa hát tiếp theo là "Metal" vào năm 1982, bắt đầu xác định hướng đi âm nhạc trong tương lai của Manilla Road. Âm nhạc "kinh điển" của họ đã được củng cố với sự ra mắt hoành tráng của một loạt những albums cực hay của nhóm lần lượt là: Crystal Logic -83, Open The Gates -85, The Deluge -86, Mystification -87, Out Of The Abyss -88, The Courts Of Chaos -90. Cùng với "Crystal Logic" (1983), "Open the Gates" (1985) và "The Deluge" (1986), thường được coi là kinh điển trong lĩnh vực heavy metal. Chính trong ba album này, phong cách của Manilla Road đã được hình thành hoàn chỉnh. Lời bài hát thường có các yếu tố tuyệt vời từ thần thoại Bắc Âu, truyền thuyết Arthurian hoặc các nguồn văn học khác. Chúng thường được kết hợp trong một số bối cảnh, ví dụ như album concept "Atlantis Rising" (2001), lấy ý tưởng từ cuộc chiến giữa Æsir và Cthulhu, xoay quanh thành phố Atlantis. Mặc dù có những album rất hay nhưng band nhạc không thành công về mặt thương mại nên dẫn đến sự tan rã của nhóm. Năm 1992, Mark Shelton thu âm album solo "Circus Maximus" với Aaron Brown và Andrew Coss. Mặc dù chưa bao giờ được dự định là một album của Manilla Road, nó đã được phát hành dưới cái tên này theo sự ép buộc của công ty thu âm. Sau sự cố này, Mark Shelton đã dừng hoạt động âm nhạc gần một thập kỷ. Manilla Road tái thành lập và phát hành "Atlantis Rising" vào năm 2001, một lần nữa với Mark Shelton là thành viên ban đầu duy nhất. Tuy nhiên, trong dịp này, âm thanh đã phù hợp hơn nhiều với Manilla Road cũ và chính band nhạc đã quyết định tiếp tục sử dụng cái tên này. Các album mới nhất của họ là "Spiral Castle" xuất bản năm 2002, "Gates of Fire", năm 2005, "Voyager" -2008, Playground Of The Damned -2011, Mysterium -2013, The Blessed Curse -2015 và To Kill A King -2017. Ngoài ra còn có album live thứ hai mang tên "After Midnight Live", được thu âm trực tiếp, tại phòng thu radio KMUW, Wichita, Kansas vào tháng 12 năm 1979 ngay trước khi phát hành album đầu tay "Invasion". Điều kỳ lạ hơn là tất cả những albums này đều có chất lượng cực tốt và được những người hâm mộ Heavy Metal truyền thống đón nhận nồng nhiệt. Tới năm 2018, trong chuyến lưu diễn tại châu Âu, trước một buổi biểu diễn, Shelton qua đời vì cơn đau tim đột ngột ở tuổi 61. Không vợ con, không gia đình và cũng chẳng có tiền, người chiến binh già của Heavy Metal thế giới đã phải nhờ tới sự đóng góp của cộng đồng người hâm mộ Metal thế giới để đưa ông về an nghỉ tại nước Mỹ, quê hương của mình. Trong vòng 48 giờ, số tiền khoảng 40 000$ đã được quyên góp thông qua trang GoFundMe. Kể từ khi phát hiện ra Heavy Metal, Manilla Road không bao giờ từ bỏ dòng nhạc này dù cho thế giới có biến đổi như thế nào đi chăng nữa. Phong cách âm nhạc của họ thực sự không thay đổi nhiều trong những năm qua (có thể ngoại trừ album The Circus Maximus năm 1992, dự định là một dự án solo của Shelton). Thế nhưng phong cách đó thực sự rất đặc biệt, với tiếng guitar điều chỉnh thấp, giọng hát cộc cằn nhưng rõ ràng. Và với một cảm giác đen tối, sử thi, huyền bí hiếm khi bị trùng lặp. Tình yêu cho Metal của Shelton đã biến Manilla Road trở thành một trong những band nhạc metal underground vĩ đại nhất của Mỹ và thế giới. Một trong những nhóm nhạc chưa bao giờ vươn lên vị trí siêu sao nhưng lại vô cùng nổi tiếng với những người hâm mộ metal trên toàn thế giới. Do không nổi tiếng nhưng các albums lại cực hay nên hiện tại những albums của Manilla Road vẫn đang được các fan hâm mộ của Heavy Metal săn lùng trên toàn thế giới. Vì có số lượng không nhiều nên việc sở hữu trọn bộ những albums, đĩa nhạc của nhóm này là một giấc mơ khó trở thành hiện thực của rất nhiều người hâm mộ Heavy Metal thế giới. Bộ sưu tập có tất cả các albums của Manilla Roads. Trong đó có tất cả các albums studio Bao gồm: 2 albums đầu tay : Invasion 1980, Metal 1982; Bộ 3 albums kinh điển Crystal Logic 1983; Open The Gates 1985, The Deluge 1986; Những albums tiếp tục khẳng định tên tuổi của Manilla Road trước khi tan rã lần đầu gồm: Mystification 1987,Out of the Abyss 1988; The Courts of Chaos 1990,The Circus Maximus 1992; Các albums trở lại đầy ấn tượng ở thập kỷ 2000s: Atlantis Rising 2001,Mark of the Beast 2002 (thu âm 1981); Spiral Castle 2002,Gates Of Fire 2005; Các albums trong thập kỷ 2010s gồm: Mysterium 2013, The Blessed Curse, After the Muse 2015(cặp đôi album và EP); Roadkill Tapes & Rarities 2019 (đây là albums live ra lại của năm 1988), Voyager 2008; Albums cuối cùng của nhóm To Kill A King Deluxe Box 2017 gồm: Một lá cờ rất lớn, hộp đựng bằng sắt, album định dạng CD và single duy nhất trong lịch sử của nhóm In the Wake. Album Playground Of The Damned 2011 (Orange LP cực hiếm); Album thu live trực tiếp After Midnight 2010 (thu âm năm 1979); Cuối cùng là 3 albums phiên bản Nga: Gates Of Fire 2005 Voyager 2008, Mysterium 2013
Armored Saint Armored Saint là một band nhạc heavy metal truyền thống được thành lập tại Los Angeles, California vào năm 1982. Đội hình ban đầu bao gồm ca sĩ John Bush, tay bass Joey Vera, các nghệ sĩ guitar Dave Pritchard và Phil Sandoval, và tay trống Gonzo Sandoval. Âm thanh của họ bị ảnh hưởng nhiều bởi hard rock và metal Châu Âu như Thin Lizzy, Iron Maiden và Judas Priest. Tên của band nhạc lấy cảm hứng khi xem bộ phim có chủ đề thời trung cổ “Excalibur”. Lúc đầu tên này không được các thành viên của nhóm yêu thích nhưng cuối cùng thì họ vẫn được chấp nhận. Buổi biểu diễn đầu tiên của band nhạc Heavy Metal này, thật trớ trêu, diễn ra tại một trường trung học Công giáo toàn nữ. Sau khi thu âm một bản demo năm bài hát, họ đã may mắn có được bài hát "Lesson Well Learned" xuất hiện trong album tổng hợp của hãng Metal Blade là Metal Massacre II. Ấn tượng với nhóm, Metal Blade đã giúp quảng bá band nhạc hơn nữa bằng cách phát hành EP cùng tên, bao gồm ba bài hát từ bản demo của họ. Nhìn thấy tiềm năng của band nhạc, hãng Chrysalis Records đã ký hợp đồng với Armored Saint với hai album kèm theo tùy chọn cho album thứ ba. Album đầu tay của nhóm, March Of The Saint, được phát hành vào năm 1984. Một video quảng cáo đã được phát hành cho ca khúc “Can U Deliver”, và hãng đã thực hiện một chiến dịch quảng cáo rộng rãi để quảng bá đĩa hát. Tuy nhiên, band nhạc không hài lòng với cách sản xuất cầu kỳ của album, cho rằng bản thu âm đã được sản xuất thái quá. Vấn đề trở nên tồi tệ hơn sau đó khi họ biết rằng số tiền mà Chrysalis chi cho Armored Saint trong phòng thu âm về bản chất là một khoản vay mà họ phải trả lại. Đặt những vấn đề này sang một bên, band nhạc đã có thể tham gia một số chuyến lưu diễn vòng quanh đất nước lớn với những cái tên như Quiet Riot, Whitesnake, W.A.S.P., cũng như những người bạn tốt của họ, Metallica. Delirious Nomad, phát hành năm 1985, là phản ứng của band nhạc đối với những nỗ lực của Chrysalis Record nhằm thúc đẩy họ đi theo hướng của các band nhạc Top-40 như Def Leppard. Kết quả là một album nặng và thô hơn nhiều mà band nhạc cảm thấy hài lòng vì sự phản ứng của họ với hãng đĩa. Dù có những chuyến lưu diễn rất mạnh mẽ và thành công, nhưng công ty của họ bắt đầu mất hứng thú với band nhạc, vì vậy, Delirious Nomad ít được quảng bá hơn so với album trước. Tuy nhiên, rất đáng ngạc nhiên là Chrysalis đã chọn lựa chọn gia hạn hợp động của họ cho album thứ ba, và kết quả là Raise Fear vào năm 1987. Lúc này Armored Saint có những lo ngại rằng việc họ thường xuyên sử dụng các bộ áo giáp trong các buổi hòa nhạc sẽ khiến nhóm trở thành một band nhạc dựa trên hình ảnh khác lạ chứ không phải âm nhạc thực sự của họ. Để nhấn mạnh rằng âm nhạc là mối quan tâm số một của nhóm, họ đã từ bỏ hình ảnh thời trung cổ của mình vào thời điểm diễn ra chuyến lưu diễn quảng bá Raise Fear. Sau khi kết thúc hợp đồng với Chrysalis, Armored Saint trở lại Metal Blade và phát hành EP trực tiếp Saints Will Conquer vào năm 1988. Band nhạc hy vọng rằng EP này sẽ giúp họ tiến tới một hợp đồng hãng lớn khác. Thật không may, điều này không bao giờ xảy ra. Band nhạc bắt đầu viết tài liệu cho album phòng thu thứ tư của họ vào năm 1988, và sẽ tích lũy hơn 20 bài hát trong khoảng thời gian ba năm. Năm 1989, band nhạc cuối cùng đã đạt được mục tiêu chơi ở châu Âu khi họ có một suất tham dự lễ hội Dynamo ở Hà Lan. Đội hình bao gồm Savatage, Forbidden và Sacred Reich. Thật không may, ngay sau khi band nhạc trở về Hoa Kỳ, tay guitar Dave Pritchard được chẩn đoán mắc bệnh ung thư máu. Pritchard qua đời năm 1990. Bất chấp việc mất đi người bạn thân của mình, band nhạc vẫn tiếp tục làm việc dựa trên tài liệu được phát triển với Pritchard, và phát hành Symbol Of Salvation vào năm 1991. Lúc này Jeff Duncan và Phil Sandoval trở lại xử lý hầu hết các nhiệm vụ về guitar, bài hát "Tainted Past" bao gồm một bản solo của Pritchard được cất lên từ bản demo trước khi phát hành album. Như một lời tri ân bổ sung, một video clip, A Trip Thru Red Times, đã được phát hành để giới thiệu khoảng thời gian Pritchard hoạt động trong band nhạc. Do không thể cất cánh, năm 1992, John Bush nhận lời mời từ gã khổng lồ Anthrax, và trở thành ca sĩ mới của nhóm này. Các thành viên còn lại của Armored Saint quyết định chia tay và tập trung vào những nỗ lực khác. Nhóm tái hợp vào năm 1999 và thu âm Revelation (2000), sau đó là bản tổng hợp Nod To The Old School (2001). Họ xoay sở để tham gia nhiều chương trình trực tiếp giữa những cam kết của Bush với Anthrax. Sau một thời gian gián đoạn nữa, họ phát hành album phòng thu thứ sáu, La Raza, vào ngày 16 tháng 3 năm 2010. Sau gần 30 năm kể từ khi thành lập, các Saints tiếp tục là những kẻ đi chinh phục !! Bộ sưu tập có 3 albums của nhóm: Delirious Nomad 1985'; Raising Fear 1987, Symbol Of Salvation 1991;
Danzig Danzig là một band nhạc Mỹ, tiên phong trong kết hợp những ca từ và hình ảnh u ám với âm nhạc heavy metal lấy cảm hứng từ blues. Band nhạc phục vụ như một dự án solo cho ca sĩ / nhà soạn nhạc Glenn Danzig. Đây có thể được coi là chặng đường thứ ba trong sự nghiệp âm nhạc của Glenn Danzig, sau các band nhạc horror punk, hardcore The Misfits và Samhain. Tại đây chúng ta cũng cần phải nói tới Misfits. Misfits là band nhạc có ảnh hưởng rất lớn đối với nhạc punk, hardcore nói riêng và nhạc rock nói chung sau này. Hầu hết các bài hát của họ không được coi là Heavy Metal mà thuộc Punk hoặc Hardcore. Tuy không phải là một band nhạc Metal, The Mistfits vẫn luôn được coi là một phần quan trọng của vũ trụ Heavy Metal. Vì họ đã truyền cảm hứng cực kỳ lớn cho nhiều nhạc sĩ, những người sau này sẽ tạo ra thể loại thrash metal – như Metallica đã nhiều lần cover lại bài hát của The Misfits. Dù có ảnh hưởng rất rộng lớn và là một trong những band tiên phong của Hardcore, nhưng thực chất Misfits không mấy thành công về mặt thương mại nên band nhạc huyền thoại này sau đó nhanh chóng tan rã. Danzig chuyển sang nhóm nhạc Samhain, một band nghiêng nhiều về Metal. Vào ngày 14 tháng 7 năm 1986, band nhạc Samhain biểu diễn buổi cuối cùng của họ, tại khách sạn The Ritz ở thành phố New York. Tham dự có Rick Rubin, người đang tìm kiếm các band nhạc tiềm năng để ký hợp đồng với hãng thu âm mới của ông này, Def Jam. Khi xem phần trình diễn của Samhain, Rubin đã rất ấn tượng với cá tính sân khấu và khả năng thanh nhạc mạnh mẽ của Glenn Danzig. Ông tiếp cận Danzig và đề nghị ký hợp đồng. Lúc đầu, ông này chỉ muốn ký hợp đồng với riêng Danzig, với ý định biến ông này trở thành giọng ca chính cho một siêu nhóm nhạc heavy metal mà Rubin đã hình dung và có ý tưởng. Tuy nhiên, Danzig đã từ chối ký hợp đồng với công ty của Rubin nếu không có tay bass của Samhain, Eerie Von, người bạn đồng hành trung thành tuyệt vời của Glenn. Rubin chấp thuận và ký hợp đồng với Samhain, ông này bắt đầu đưa ra đề xuất về hướng đi mới mà band nhạc nên thực hiện. Rubin cảm thấy âm nhạc nên được loại bỏ bớt, và tài năng thanh nhạc của Glenn nên trở thành tâm điểm cho band nhạc. Vào năm 1987, band nhạc đã phát triển thành một nhóm heavy metal vững chắc, với sự bổ sung của John Christ trên guitar và Chuck Biscuits (trước đây là thuộc Black Flag, một nhóm Hardcore huyền thoại khác) trên trống. Để tránh một vụ kiện tiềm tàng về tiền bản quyền từ các thành viên Samhain trước đây, và cũng do sự thay đổi trong định hướng âm nhạc, Glenn quyết định đổi tên band nhạc thành Danzig. Vào năm 1988, band nhạc đã phát hành album đầu tiên của mình, có tựa đề đơn giản là Danzig, trên nhãn hiệu Def American mới thành lập của Rick Rubin (sau đó được đổi tên thành American Recordings). Album này có phần sản xuất trau chuốt của Rick Rubin, với những đoạn guitar nặng nề, dựa trên nền nhạc blues và phần trình diễn giọng hát du dương, mạnh mẽ của Glenn - một sự tương phản khắc nghiệt với cách sản xuất âm thanh thô mộc trong các album của Samhain. Album được phát hành và nhận được nhiều lời khen ngợi, và giờ đây đã được nhiều ấn phẩm heavy metal coi là một trong những album hard rock, Metal hay nhất mọi thời đại. Năm 1990, Danzig phát hành album thứ hai của họ, Danzig II: Lucifuge, đĩa LP đa dạng nhất của band nhạc. Ở đây, âm nhạc tiếp tục làm mờ ranh giới giữa blues cổ điển và hard rock, và nó giới thiệu một số màn trình diễn giọng hát hay nhất trong sự nghiệp của Glenn. Đến năm 1992, sự tham gia của Rick Rubin với band nhạc đã suy yếu và Glenn Danzig được công nhận là người sản xuất album thứ ba, Danzig III: How the Gods Kill, được nhiều người hâm mộ coi là đỉnh cao trong sự nghiệp của Danzig. Album tiếp tục âm hưởng độc đáo của hai bản thu âm đầu tiên, nhưng âm nhạc và lời bài hát trở nên u ám hơn, chứa nhiều âm hưởng của gothic. Trong thời gian này, Glenn bắt đầu thích hát với giọng trầm khàn mà theo ông này là lấy cảm hứng từ các ca sĩ nhạc blues cổ điển. Người hâm mộ gọi đùa phong cách hát này là giọng " cookie monster " của Glenn, do nó giống với chất giọng cộc cằn của Quái vật bánh quy trong Sesame Street. Phong cách giọng hát này có thể được nghe thấy nổi bật trong EP Thrall: Demonsweatlive, bao gồm một số bản nhạc trực tiếp từ chương trình Halloween năm 1992 của ban nhạc. EP "Thrall" có một cú hit bất ngờ cho band nhạc, khi phiên bản trực tiếp của Mother (ban đầu được thu âm trong album Danzig đầu tiên) trở nên phổ biến trên các đài phát thanh hard rock. Một phiên bản mới của video âm nhạc "Mother" đã được tạo ra bằng cách sử dụng cảnh quay trực tiếp và video này đã trở thành một hit ngay lập tức trên MTV, đưa Danzig trở thành một band nhạc mainstream. Khi Danzig trở thành tâm điểm, tranh cãi xung quanh bản chất lời bài hát và hình ảnh của Glenn Danzig ngày càng tăng. Các nhóm Cơ đốc giáo bảo thủ đã cáo buộc Danzig là một người theo chủ nghĩa Satan với ý định rõ ràng là thuyết phục những thanh niên có ấn tượng mạnh đi theo "con đường tay trái". Danzig coi cuộc tranh cãi là một sự khó chịu hài hước và thường muốn làm nhẹ nó đi. Glenn đã nhiều lần phủ nhận cáo buộc là một người theo chủ nghĩa Satan, nói rằng ông bị cuốn hút bởi bản chất của cái ác và chỉ đơn thuần thấy Satan là một nhân vật thú vị trong Thần học Cơ đốc. Vào tháng 10 năm 1993, band nhạc bước vào phòng thu để thu âm album phòng thu thứ tư của họ. Glenn đã nhận được áp lực từ các giám đốc điều hành thu âm để viết các bài hát giống như "Mother", nhưng ông kiên quyết không quay lại quá trình hoạt động âm nhạc của mình. Rick Rubin ngày càng trở nên xa cách với band nhạc và ít tham gia vào việc thu âm album thứ tư. Năm 1994, Danzig 4P được phát hành. Album tối hơn, mang không khí atmospheric hơn nhiều so với các bản phát hành trước của band nhạc và cũng mang tính thử nghiệm hơn. Mặc dù bán khá chạy, nhưng nó không có một bản hit ngang bằng với đĩa đơn "Mother". Đĩa đơn thứ hai của album, cantspeak, cũng không mấy thành công và không xuất hiện trên Hot 100. "Cantspeak" là đĩa đơn duy nhất của band nhạc ngoài "Mother" lọt vào bảng xếp hạng Billboard, do đó khiến band nhạc trở thành band nhạc two hits wonder của mainstream. Sau thất bại này, quan hệ của Danzig với Rubin xấu đi và nhóm bị đẩy ra khỏi hãng. Họa vô đơn chí là câu nói hoàn toàn chính xác tại thời điểm này của band nhạc. Sau khi mất hợp đồng, đội hình của band nhạc cũng bắt đầu tan rã. Đầu tiên, Chuck Biscuits rời đi do bất đồng tiền bản quyền với Glenn, khiến band nhạc phải dừng chuyến lưu diễn Danzig 4P. Ông này nhanh chóng được thay thế bởi Joey Castillo. Năm 1995, John Christ rời đi sau khi biết rằng Glenn đang tích cực tìm kiếm một nghệ sĩ guitar thay thế. Cùng lúc đó, Eerie Von ra đi theo con đường của riêng mình, kết thúc điều mà hầu hết người hâm mộ coi là kỷ nguyên kinh điển của band nhạc. Glenn Danzig đã nói rằng ông luôn có ý định có một đội hình quay vòng, nhưng đội hình ban đầu vẫn còn nguyên vẹn trong thời gian dài hơn nhiều so với dự kiến của ông này. Kể từ đây trở đi, mỗi album của Danzig đều có một đội hình band nhạc khác nhau. Năm 1996, album Danzig 5: Blackacidevil (một cách chơi chữ của cụm từ "Black as a Devil"), được phát hành, đã gây ngạc nhiên cho nhiều người bởi sự nhấn mạnh của nó vào thể loại rock Industrial – một thể loại Rock điện tử. Glenn đã tuyên bố rằng Rick Rubin đã ngăn ông thử nghiệm với thiết bị điện tử trong các albums Danzig phát hành trước đó, và vì vậy với album thứ năm, Glenn háo hức thưởng thức âm thanh Industrial mà không bị cản trở. Album chủ yếu là một nỗ lực solo của Glenn, mặc dù Jerry Cantrell của Alice in Chains chơi guitar chính trên ba bài hát của album, trong khi nhiệm vụ trống được đảm nhận bởi Joey Castillo, thành viên duy nhất vẫn còn trong band nhạc từ Tour 4p (Joey sẽ tiếp tục thu âm trên hai album Danzig nữa, khiến ông này trở thành thành viên ở lâu nhất trong band ngoài đội hình cổ điển). Hầu hết người hâm mộ Danzig đều thất vọng với album, có lẽ là do sự rời bỏ âm thanh Metal của bốn bản phát hành đầu tiên. Ngoài ra, nhiều người hâm mộ coi giọng hát của Glenn là điểm nhấn của band nhạc - và trong suốt phần lớn Blackacidevil, giọng hát của Glenn bị chôn vùi dưới nhiều lớp hiệu ứng. Những người hâm mộ khác đón nhận album và thấy Glenn trở lại với phong cách thử nghiệm hơn của Samhain. Album gây tranh cãi nhất trong toàn bộ sự nghiệp của band nhạc và âm nhạc trong đó thường được gọi là "techno Danzig". Vài năm tiếp theo, Danzig bị ràng buộc trong cuộc chiến pháp lý với Rick Rubin về quyền đối với tài liệu chưa phát hành mà band nhạc sản xuất theo yêu cầu của American Recordings. Sau khi giành lại bản quyền, Danzig bước vào phòng thu để thu âm album thứ sáu. Vào tháng 11 năm 1999, Danzig 6:66 Satan's Child được phát hành, với nhiều phản ứng trái chiều từ người hâm mộ và các nhà phê bình. Nó nổi bật với chất Metal đen tối và nặng nề được tạo điểm nhấn bởi thiết bị điện tử nhẹ, với Danzig hát bằng giọng thì thầm khắc nghiệt đặc trưng trong hầu hết album. Một số nhà phê bình và người hâm mộ đã mô tả âm thanh của album giống với nu metal, một thể loại nhạc Heavy mà Glenn Danzig nổi tiếng là căm ghét. Sự so sánh này thường liên quan đến thực tế là phần lớn album được sản xuất bởi Jay Gordon và Amir Derakh của ban nhạc electropop / nu metal, Orgy. Một trong những bài hát trên Danzig 6:66 Satan's Child là Thirteen, một bài hát mà Danzig viết cho Johnny Cash vào năm 1994. Đến năm 2000, đội hình của Danzig đã ổn định với sự bổ sung của tay guitar Todd Youth và tay bass Howie Pyro, cả hai đều là những thành viên kỳ cựu của làng nhạc punk ở Thành phố New York. Năm 2002, nhóm này phát hành album Danzig 777: I Luciferi. Album không có thiết bị điện tử và chứa một số bài hát đen tối và nặng nề nhất trong sự nghiệp của Danzig. Một số bài hát sau đó của I Luciferi đã trở lại với âm hưởng Metal cổ điển của band nhạc, và nhiều người hâm mộ đã báo trước đó là sự trở lại của phong cách Metal này, mặc dù thất vọng với chất lượng sản xuất của album. Năm 2004, Danzig phát hành album phòng thu thứ tám của họ, Circle of Snakes. Cùng với album trước, nhiều người hâm mộ coi đây là tác phẩm hay nhất của Glenn kể từ kỷ nguyên kinh điển của band nhạc. Trên Circle of Snakes, line up một lần nữa thay đổi: bây giờ có sự góp mặt của Tommy Victor từ Prong trên cây đàn guitar. Âm thanh đã phát triển trở lại và ở đây, tiếng guitar của Tommy Victor dường như trở thành lực lượng chủ đạo trong mỗi bài hát. Một số nhà phê bình đã gặp vấn đề với quá trình hòa âm của album, với lý do giọng hát và tiếng trống dường như bị chôn vùi dưới các bản nhạc guitar nhiều lớp. Danzig sau đó đã đặt tiêu đề cho chuyến lưu diễn Blackest of the Black trên khắp nước Mỹ. "The Blackest of the Black" là một tour lưu diễn do Glenn Danzig thiết lập như một cách để giúp một số band nhạc underground yêu thích của ông này được tiếp xúc nhiều hơn với công chúng, đồng thời cung cấp cho những người hâm mộ nhạc Metal một giải pháp thay thế cho Ozzfest, thứ mà Glenn cảm thấy đã trở nên quá bão hòa với việc thương mại hóa Nu Metal. Trong buổi trình diễn của Blackest of the Black năm 2005, khi diễn ra được nửa chặng đường, band nhạc có sự tham gia của Doyle Wolfgang von Frankenstein, nghệ sĩ guitar tiêu biểu nhất của Misfits, cho một loạt các bài hát Misfits kinhđiển. Những buổi biểu diễn này đã bán cháy vé. Mặc dù album đã ra mắt được gần 3 năm nhưng chuyến lưu diễn Blackest of the Black dường như vẫn tiếp tục diễn ra. Danzig đã chia sẻ tiền lãi với Doyle, nhưng đã chọn các band nhạc mới để chơi cùng với ông này từ khắp nơi trên thế giới, bao gồm cả Asesino từ Mexico, Belphegor từ Áo, The Haunted từ Thụy Điển và Lacuna Coil từ Ý. Glenn Danzig nói rằng ông này đã sẵn sàng tạm dừng các chuyến lưu diễn, có lẽ là vĩnh viễn, để làm việc cho các dự án khác và sản xuất cho các band nhạc khác. Nhưng tới năm 2010 thì nhóm quay trở lại và tiếp tục tung ra các albums mới. Chất lượng các albums chỉ ở mức khá. Bộ sưu tập có các albums: Dazig 1988, II-Lucifuge 1990; III-How The Gods Kill 1992, Circle Of Snakes 2004;
Cái này khó đấy bác ơi. Sưu tập đủ bộ phải tới tầm 500-600 đĩa, mà giá của nó nhiều cái trên mây xanh. Có những cái cả vài trăm đô đấy. Tay này đĩa hiếm lắm. Chúc bác may mắn.
Dio Dio là một trong những giọng ca có chất lượng tốt nhất trong lịch sử của Heavy Metal. Các fan hâm mộ của Heavy Metal thì cũng chẳng lạ gì Dio vì ông này từng chơi trong những band nhạc huyền thoại là Raibow, Black Sabbath và có một sự nghiệp solo rất khủng khiếp. Ông này có tên thật là Padavona và có nguồn gốc từ Ý, nghệ danh Dio có nghĩa là Chúa Trời trong tiếng Ý. Dio khởi đầu sự nghiệp vào năm 67 khi tham gia band nhạc Blues có tên là Elf. Band nhạc này không quá nổi bật và ít người biết tới với chỉ 3 albums, nhưng nó lại là sự khởi đầu tốt đẹp cho sự nghiệp của Dio. Elf thường xuyên chơi mở màn cho Deep Purple khi nhóm này đi lưu diễn tại Mỹ và ở đây Dio đã quen với Ritchie Blackmore. Năm 1975, Blackmore rời khỏi Deep Purple và thành lập band nhạc Metal - Rainbow. Blackmore mời Dio về hát chính trong 3 albums huyền thoại của band nhạc này. Nhưng vì Rainbow không thành công như mong đợi của Blackmore nên ông này sa thải Dio và chuyển hướng âm nhạc theo hướng thương mại hóa với những bài hát đơn giản. Nhưng ấn tượng của Dio để lại là rất lớn nên sau khi Black Sabbath sa thải Ozzy, ông này được liên hệ để hát chính trong Black Sabbath. Cùng với Sabbath, ông tung ra 2 albums rất hay là Heaven And Hell và Mob Rules nhưng rồi những sự khác biệt trong lối sống giữa người Anh và Mỹ nảy sinh và lên tới cực điểm khi thu âm album Live Evil. Trong đó, Iommi để tên của Dio là Ronnie Dio (đây là tên Dio cực ghét khi bỏ đi tên đệm của ông là Ronnie James). Dio từ bỏ Sabbath mang theo tay trống Appice và theo đuổi sự nghiệp solo. 2 albums đầu tay của Dio là Holy Diver -83 và The Last In Line -84 trở thành những album kinh điển của Heavy Metal thế giới và ảnh hưởng rất nhiều tới phong cách Power Metal sau này. Tuy nhiên, sau đó, band nhạc đã có rất nhiều sự thay đổi về nhân sự và khiến họ mất dần động lực. Các albums sau đó có chất lượng giảm dần, đỉnh điểm là những albums trong thập kỷ 90s. Sau này, ngoài sự nghiệp solo, Dio còn quay trở lại để ghi âm cùng Black Sabbath (album Dehumanizer -92) và dự án Heaven And Hell (đây dự kiến là một album của Black Sabbath nhưng do bị Ozzy kiện vì cái tên nên để tránh lằng nhằng, Black Sabbath đổi tên thành Heaven And Hell – là tên album đầu tiên của Sabbath với Dio). Dio qua đời vì bệnh ung thư vào năm 2010, để lại rất nhiều sự tiếc thương cho những người hâm mộ của Heavy Metal. Bộ sự tập có các đĩa sau: Trước tiên là định dạng CDs Hey Angel 1990 (single); Holy Diver 1983, The Last In Line 1984, Dream Evil 1987; Sacred Heart 1985, Lock Up The Wolves 1990, Master Of The Moon 2004; Single dưới định dạng Vinyl 7'' : Rock 'N' Roll Children 1985 Album dưới định dạng cassette: Sacred Heart 1985
Dio rất hay. Lúc đầu mình nghe chưa quen nhưng càng nghe càng thấy hay. Đúng là siêu nhân .Ông này đã làm Rainbow và Black Sabbath có những albums mà bây giờ nghe lại vẫn thấy hay, rất hay
e ngược lại với bác, nghe là mê luôn. Album đầu tiên nghe của thánh này là album Angry Machine ( '93 thì phải) nghe nó dũng mãnh, khỏe , chậm... đúng như tên album . DIo ra đi sớm quá, r.i.p
Fifth Angel Fifth Angel được thành lập ở ngoại ô Seattle vào cuối năm 1983, cụ thể là ở khu vực Bellevue. Đội hình ban đầu của ban nhạc bao gồm Ted Pilot (hát chính), James Byrd (guitar chính), Ed Archer (guitar nhịp), Ken Mary (trống) và Kenny Kay (bass). Pilot và Archer đã từng tham gia một dự án / band nhạc có tên là Glass vào đầu những năm 1980. Glass nổi bật với những cây đàn guitar méo tiếng và là một phong cách âm nhạc rất khác so với Fifth Angel. Trong thời gian của Pilot và Archer ở Glass, họ đã cùng nhau viết những bài hát quá nặng nên không thể sử dụng trong band nhạc này, vì vậy họ đã phát triển một đống bài hát / ý tưởng tồn đọng. Byrd, đã nghe Pilot hát trực tiếp trong band nhạc Ridge (Ridge là ban nhạc cover mà Pilot, Archer và Mary cũng tham gia chuyến lưu diễn khắp Washington, chơi các bài hát của Judas Priest, AC / DC, Rush, Angel City, Led Zeppelin, v.v. .), thích giọng hát của Pilot và yêu cầu anh ấy hát trong một dự án mà ông này đang thực hiện. Và Fifth Angel bắt đầu xuất hiện. Theo mô hình được sử dụng bởi Queensrÿche, một band nhạc metal khác ở khu vực Seattle gần đó đã ký hợp đồng với một hãng thu âm lớn (EMI Records), Fifth Angel tập trung vào việc sáng tác và hoàn thiện các bài hát gốc của họ, thay vì chơi trong mạng lưới các câu lạc bộ để tìm kiếm một hợp đồng thu âm . Kế hoạch này đã có kết quả, khi Mike Varney của Shrapnel Records, một hãng đĩa độc lập, đã ký hợp đồng với Fifth Angel để phát hành đĩa hát đầu tiên. Album đầu tiên cùng tên của Fifth Angel chính thức được phát hành vào năm 1986. Trong suốt hai năm, một số tạp chí nhạc rock nổi tiếng đã phỏng vấn band nhạc, bao gồm cả một bài đánh giá rất cao từ Kerrang ở Châu Âu - tạp chí đã khởi đầu sự nghiệp của Queensrÿche chỉ hai năm trước đó. Fifth Angel được giới truyền thông tôn vinh là "Next Big Thing" trong lĩnh vực metal và một lượng fan hâm mộ trung thành nhanh chóng phát triển. Bất chấp những đánh giá tích cực, sự nghiệp của nhóm phát triển không theo mong muốn. Chuyến lưu diễn "Riding on the Wings" 1986/1987 đã được lên kế hoạch để hỗ trợ cho album đầu tay, bao gồm một vị trí mở màn cho Iron Maiden, khi nhóm này lưu diễn tại bờ đông nước Mỹ. Tuy nhiên, thật không may, các chuyến lưu diễn không bao giờ thành hiện thực do nhiều yếu tố liên quan đến band nhạc và bên ngoài. Trên thực tế, Fifth Angel chưa bao giờ biểu diễn trước công chúng. Hai chương trình duy nhất mà ban nhạc từng biểu diễn là buổi giới thiệu nhãn hiệu cho Epic Records và buổi diễn tập / chụp ảnh tại Nhà hát Paramount ở Seattle. Sau khi nghe tin rằng album đầu tiên của Fifth Angel nhận được sự hoan nghênh từ giới phê bình như vậy, CBS / Epic Records đã để ý và thương lượng một hợp đồng gồm bảy album với Fifth Angel. Epic phát hành lại album đầu tay của ban nhạc vào năm 1988, để tạo tiền đề cho một bản thu âm tiếp theo. Nhưng khi tiền bạc và công chúng đến, band nhạc lại mất đi một thành viên sáng lập khác là tay guitar James Byrd. Nguyên nhân chủ yếu là vấn đề ăn chia tiền bản quyền sáng tác các bài hát. Mặc dù band nhạc đã xoay sở để tung ra album thứ hai khá hay là Time Will Tell -1989. Với sự ủng hộ của người hâm mộ và phương tiện truyền thông phía sau, Fifth Angel dường như đã sẵn sàng cho một chuyến lưu diễn thành công, nhưng band nhạc đã tan rã ngay sau khi Time Will Tell lên kệ. Nguyên nhân là do có sự thay đổi trong chiến lược của hãng chủ quản, với việc hợp nhất một số hãng nhỏ khác. Sau đó là sự thay đổi về nhân sự đẫn tới những lời hứa hỗ trợ và tài trợ cho Fifth Angel khi họ ký kết không thể trở thành hiện thực, khiến band nhạc đứng trước ngã ba đường. Khi nghe tin band nhạc không còn nằm trong danh sách ưu tiên của hãng đĩa mới, quyết định giải tán đã được đưa ra. Sau này, vào thập kỷ 2010s nhóm còn tái hợp và tung ra album thứ 3, với chất lượng ở mức vừa phải. Bộ sưu tập có single 7'' Fifth Angel -1986 (rất hiếm) Havoc Havoc là một dự án có tuổi thọ khá ngắn của Heavy Metal nước Mỹ trong những năm 80s. Band được thành lập vào năm 1982 và chỉ có một album duy nhất là The Grip vào năm 1985. Tuy nhiên, album này có chất lượng cực tốt và có thể nói là gần như ngang hàng với các tác phẩm kinh điển của Heavy Metal Mỹ vào thời điểm này. Âm nhạc của band trong album rất trực diện, mạnh mẽ mang âm hưởng Heavy Metal điển hình vào những năm 80s với một chút ảnh hưởng của Thrash Metal. Những người hâm mộ Metal Church, Feel the Fire, Freedom's Rise hay Discipline of Steel thực sự nên tìm hiểu nhiều hơn về band nhạc này. Nếu theo những tiêu chí hiện đại, âm nhạc của nhóm nghe có vẻ hơi lỗi thời nhưng tại thời điểm album tung ra, nó cũng mang nhiều tính đột phá và thú vị. Đây thực sự là một band nhạc rất đáng nghe của Metal Mỹ trong thập kỷ 80s. Bộ sưu tập có album định dạng CD The Grip -1985