A Sound of Thunder A Sound of Thunder là một band nhạc Heavy metal của Mỹ. Được thành lập tại Washington DC vào năm 2008. Tên của nhóm nhạc được lấy ý tưởng từ một truyện ngắn khoa học viễn tưởng của Ray Bradbury. Đội hình của họ bao gồm Nina Osegueda (hát), Josh Schwartz (guitar), Jesse Keen (bass, keyboard) và Chris Haren (trống). Mặc dù âm nhạc cốt lõi của A Sound of Thunder luôn duy trì âm thanh heavy metal truyền thống, họ còn tích hợp thêm khá nhiều thể loại vào thứ Heavy Metal của riêng mình. Tùy theo thời điểm và albums, có thể là hard rock, power metal, doom metal và progressive metal. Nhóm đã phát hành EP đầu tay cùng tên vào năm 2009. Tiếp theo là đĩa đơn từ thiện không thuộc album Justice at Last, được phát hành vì lợi ích của West Memphis Three, một vụ án rất nổi tiếng trong nước Mỹ, với 3 chàng trai ở tuổi teen bị kết tội giết 3 cậu bé theo nghi lễ Satanist vào năm 93. Tuy nhiên, vụ án này có rất nhiều uẩn khúc và ngụy tạo chứng cứ nên sau này đã phải xét xử lại và trả tự do cho 3 người này sau 18 năm ngồi tù, với một thỏa thuận kỳ lạ là cả 3 phải nhận tội và không được kiện ngược nhà nước mặc dù họ vẫn tuyên bố mình vô tội. Trở lại với A Sound of Thunder, band nhạc sau đó đã phát hành album dài đầu tay của họ, Metal Renaissance, vào năm 2011. Nhưng album này chất lượng không được tốt lắm. Sau đó band nhạc đã ký hợp đồng với Nightmare Records cho album tiếp theo của họ, Out of the Darkness, vào năm 2012, lần này thì với chất lượng tốt hơn rất nhiều. Tuy nhiên đây là một mối quan hệ ngắn ngủi khi EP tiếp theo của họ vào cuối năm, EP Queen of Hell, được phát hành độc lập như đã xảy ra với các bản phát hành trước đó của họ. Sau đó A Sound of Thunder có hợp đồng với hãng đĩa nhỏ là Mad Neptune và tiếp tục phát hành thêm hai album phòng thu, Time's Arrow vào năm 2013 và The Lesser Key of Solomon vào năm 2014. Cả 2 albums này đều có chất lượng rất tốt. Sau đó nhóm vẫn tiếp tục hoạt động và tung ra nhiều albums có chất lượng. Bộ sưu tập có 2 albums: Time's Arrow 2013 và Out of the Darkness -2012
Dân Mĩ hay thích hát/nhạc phản đối các vụ bị cho là tòa xử oan. Chắc nổi nhất bài Hurricane của Bob Dylan:
Adrenaline Mob Adrenaline Mob được thành lập vào mùa hè năm 2011, gồm Mike Portnoy -trống (Dream Theater), Russell Allen - vocals (Symphony X), Mike Orlando – guitar, Paul DiLeo -bass (Fozy) và Rich Ward -guitar (Stuck Mojo). Buổi hòa nhạc đầu tiên của họ được tổ chức tại The Hiro Ballroom, thành phố New York, ngày 24 tháng 6. Nhìn vào đội hình của band nhạc chúng ta cũng biết rằng đây là một siêu nhóm. Nhưng những thành viên lại thuộc rất nhiều thể loại âm nhạc: từ Progressive, sang Power, solo guitars, Heavy và Rap Metal. Phong cách của họ không thực sự giống với bất kỳ band nhạc nào khác của các thành viên, mà thay vào đó là sự đơn giản hơn với chất liệu Heavy Metal hiện đại, mạnh mẽ và dễ tiếp cận. Âm nhạc như là sự pha trộn giữa Heavy Metal với Groove. Sau khi phát hành album khá hay đầu tay Omerta vào năm 2012 , nhóm bắt đầu có những sự xáo trộn về nhân sự khi Portnoy rời đi, và được thay thế bởi một huyền thoại chơi trống khác, A.J. Pero của Twisted Sister. Nhóm tiếp tục tung ra các albums có chất lượng khá tốt như: Men of Honor -2014 và We Are The People -2017. Vào ngày 14 tháng 7 năm 2017, khi đang đi đến St.Petersburg, Florida cho một buổi hòa nhạc, chiếc RV (ô tô kiểu nhà di động) của band nhạc đã gặp tai nạn do nổ lốp. Sau đó nó bị một xe đầu kéo đâm vào, giết chết ngay lập tức tay bass David Zablidowsky. Các thành viên ban nhạc Mike Orlando, Russell Allen và Jordan Cannata cũng bị thương nặng trong vụ tai nạn nhưng may mắn qua khỏi. Janet "Jane Train" Rains, người quản lý tour du lịch của nhóm, cũng bị thương nặng trong vụ tai nạn, bị bỏng rất nặng, và cũng qua đời sau đó 5 tuần. Sau tai nạn này, không có bất kỳ tin tức gì về band nhạc này nữa. Bộ sưu tập có album Omerta -2012
Cuộc sống vốn là vô thường mà bác. Mấy tay này sau khi hồi phục thì trở về band nhạc chính và vẫn đi lưu diễn bình thường. Nếu không lưu diễn thì chẳng kiếm được tiền. Còn band nhạc này chắc sợ đen đủi nên nghỉ.
Holy Grail Holy Grail là một ban nhạc heavy metal của Mỹ đến từ Pasadena, California. Ban nhạc được thành lập vào năm 2008 bởi các cựu thành viên của White Wizzard. White Wizzard là band nhạc của Los Angeles chơi theo phong cách Metal cổ của những năm 80s. Sau khi phát hành EP cùng tên, họ đã ký hợp đồng với Earache Records. Tuy nhiên, ngay khi mọi thứ đang đi đúng hướng, thì căng thẳng nảy sinh trong band nhạc. Người sáng lập ra band là Jon Leon cuối cùng đã sa thải tất cả ba người còn lại trong nhóm. Không nản lòng, bộ ba đó đã cùng nhau thực hiện một dự án mới, và tại đây Holy Grail đã được thành lập, với mục tiêu tương tự là mang lại âm thanh của kim loại cổ điển của thập niên 80. Âm nhạc của Holy Grail thì có sự khác biệt một chút so với White Wizzard, nó là một thứ Metal cổ pha lẫn với Power Metal. Điều này có nghĩa là một phong cách heavy metal với tính giai điệu với đôi khi có tiết tấu nhanh và mang tính trường ca thường thấy của Power. Những đoạn hòa âm guitar thực sự không khác quá xa so với tác phẩm guitar của một nghệ sĩ đương đại như Avenged Sevenfold, nhưng Holy Grail dựa nhiều hơn vào các phẩm chất truyền thống của heavy metal hơn (chơi mạnh hơn) là Avenged Sevenfold được định hướng nghiêng về mainstream. Do đó luôn có sự so sánh giữa 2 band nhạc này, vì cả hai đều nghiêng về giai điệu cuối bóng bẩy và du dương hơn của Heavy Metal.Với nhịp điệu mạnh mẽ như phi mã, guitar lead rực lửa và những đoạn hòa âm guitar xuất sác, kết hợp với một giọng ca chính với chất giọng khỏe, Holy Grail thực sự là một band nhạc rất đáng nghe. Bộ sưu tập có các albums: Times Of Pride And Peril 2016 (bản thường) Ride The Void 2013 (bản thường) Và các albums: Crisis in Utopia 2010 Times Of Pride And Peril 2016 (bản SE Digipack), Ride The Void 2013 (bản SE Digipack)
Haunt Haunt là một band nhạc Heavy Metal đến từ Fresno, California, Hoa Kỳ. Tuy có tên như một band nhạc, mọi thứ ở đây đều được thực hiện bởi Trevor William Church, người không chỉ phát hành các albums dưới cái tên Haunt, mà còn có các bands khác như Inside the Sun, Worship of Keres hoặc BEASTMAKER. Mặc dù tham gia rất nhiều dự án, Trevor luôn cố gắng giữ chất lượng tốt cho âm nhạc của mình. Ngoài ra, Trevor còn có sự sáng tạo rất lớn, mặc dù dự án Haunt này chỉ mới bắt đầu từ năm 2018 nhưng tính tới thời điểm hiện tại, họ đã tung ra được 8 albums studio chính thức. Điều kỳ lạ hơn là nhiều album trong số này có chất lượng rất tốt. Âm nhạc của Haunt là một thứ Metal cổ kiểu Judas Priest, Iron Maiden hoặc Ozzy Osbourne với những bài hát dễ nghe, những đoạn riff tuyệt vời, đoạn điệp khúc hấp dẫn và những câu luyến láy sáng giá, với một số bài hát có thêm sự trợ giúp tinh tế và thú vị của keyboards luẩn khuất đâu đó. Do có nhiều albums, các albums thường khá ngắn, tuy nhiên nó khiến cho người nghe cảm thấy dường như chưa thực sự cảm thấy đã mà đã kết thúc album. Nhưng chính vì thế, ta nên nghe album tiếp theo của nhóm. Đây thực sự là một nhóm rất thú vị của Heavy Metal trong những năm gần đây. Bộ sưu tập có single 7'' Ghosts 2018
Band nhạc cuối cùng trong chùm viết về dòng nhạc Heavy Metal sẽ là 3 Inches Blood. 3 Inches of Blood 3 Inches of Blood được thành lập vào năm 2000 tại Vancouver, Canada. Ban đầu chơi heavy metal theo phong cách thập niên 80s theo phong cách các band nhạc như Running Wild và Judas Priest. Sau đó, nhóm kết nạp thêm ca sĩ Heavy Cam Pipes và tung ra album đầu tay Battlecry Under a Winter Sun năm 2002 thông qua hãng đĩa nhỏ Teenage Rampage. Bản phát hành này hầu như không được chú ý cho đến khi hãng phân phối của band nhạc tại Vương quốc Anh quyết định đưa band nhạc vào vị trí hỗ trợ cho chuyến lưu diễn với band nhạc Hard Rock rất nổi tiếng tại Anh Quốc là The Darkness. Sự tiếp xúc này đã thu hút được nhiều sự chú ý và ca ngợi của giới phê bình trong thế giới underground metal, và họ đã được ký hợp đồng với công ty con của hãng khổng lồ của Heavy Metal là Roadrunner Records vào năm 2004. Roadrunner đã đưa ra một chiến dịch quảng cáo rất mạnh mẽ và ca khúc Deadly Sinners từ bản phát hành thứ hai của band nhạc là Advance and Vanquish -2004, xuất hiện trên nhiều đĩa CD sample, tuyển chọn compilation và thậm chí là một trò chơi điện tử (Tony Hawk's Underground 2), tạo ra một sự khuếch trương thanh thế rất lớn trên báo chí cho band nhạc khiến mức độ nổi tiếng của họ tăng vọt. Sau đó họ có một vị trí trong chuyến lưu diễn Road Rage năm 2005 và thu hút được nhiều người hâm mộ mới. Phong cách vocal mạnh mẽ và giọng hát rất cao của band nhạc (lấy cảm hứng trên giọng hát của band nhạc The Winter Massacre), tức là giọng hát kiểu Rob Halford-esque, kết hợp với sự xuất hiện của họ trong các bức ảnh chính thức của các hãng thời trang đương thời như Atticus, mang lại nhiều nét chấm phá hơn cho "bối cảnh" Metal hiện đại. Mặc dù ở ngoài đời ăn mặc thời trang, điều thú vị là khi biểu diễn trực tiếp, band nhạc ăn mặc theo phong cách của một band nhạc heavy metal thực sự. Band nhạc sử dụng hai giọng ca chính, một người cung cấp những tiếng hét (screaming), trong khi người kia là giọng rất cao, chói tai. Về mặt âm nhạc, thì chủ yếu là phong cách kiểu Iron Maiden, với hai cây đàn ghita hòa âm và tiếng trống ấn tượng của Matt Wood. Hiển nhiên, âm nhạc của họ chịu nhiều ảnh hưởng của Metal cổ những năm đầu 80, nhưng vẫn có một số khía cạnh hiện đại trong sáng tác, mang lại cho người nghe cảm giác tươi mới (trên thực tế, nếu band nhạc này chọn một ca sĩ hát giọng khàn và quát tháo kiểu Hardcore, họ có thể chơi tốt trong thể loại metalcore). Bộ sưu tập có các albums: Advance and Vanquish 2004 Fire Up The Blades 2007 Và cuối cùng là album quan trọng nhất: Advance and Vanquish 2004 với chữ ký của tất cả các thành viên của nhóm. Do nhóm có nhiều thành viên nên chữ ký trên bìa ngoài không đủ chỗ, 1 thành viên phải ký ra vỏ của CD. Đây có lẽ là hàng độc nhất vô nhị trên thế giới. Hiện tại nhóm đã tan rã và các thành viên tham gia nhiều nhóm nhạc khác nhau nên việc xin chữ ký rất khó.
Để kết thúc phần viết về Heavy Metal, chúng ta sẽ đến với một số đĩa nhạc mới được cập nhật trong bộ sưu tập: 1. Scorpions: có thêm 3 singles 7'' mới gồm The Zoo / Holiday 1980 Rhythm Of Love / We Let It Rock (You Let It Rock) 1988 Wind Of Change / Restless Nights 1990 2. Iron Maiden : Iron Maiden có thêm một loạt những đĩa nhạc rất hay, độc, một số cực hiếm - Các single 7 '': Wildest Dream 2003 (Green) khá hiếm, 2 mặt với 2 tốc độ khác nhau (mặt A 45rpm, B 33rpm) RainMaker 2003 (Blue) cũng khá hiếm, 2 mặt 2 tốc độ ( A 45rpm, B 33rpm) Các single Promotional định dạng CDs: From Here to Eternity 1992 (rất hiếm) Bring Your Daughter To The Slaughter 1990 (rất hiếm) No Prayer For The Dying 1990 (rất hiếm, rất đắt) Tailgunner 1990 (cực hiếm, cực đắt)
Tiếp theo chúng ta sẽ đến với một dòng nhạc rất hay là Crossover Prog. Đây cũng là một nhánh nhỏ của Prog Rock. Có nhiều band rất hay Crossover Prog Crossover Prog là một nhánh nhỏ trong Prog Rock, nhánh nhạc này mặc dù chứa nhạc progressive rock, có thể là 100% Progressive, nhưng lại tích hợp thêm vào những mối liên hệ âm nhạc với các thể loại nhạc khác, đặc biệt là Pop. Vì yếu tố Prog và Pop lẩn khuất trong âm nhạc, nên những band nhạc theo trường phái này thường ít có những sáng tác hoành tráng và ít ảnh hưởng từ âm nhạc cổ điển, jazz và Folk, thay vào đó là nhạc mainstream. Tuy nhiên, các sáng tác vẫn thể hiện mức độ tính túy rất cao, đôi khi cực kỳ phức tạp, và kỹ năng cũng như kỹ thuật chơi nhạc cụ điêu luyện thường không kém gì so với các nghệ sĩ Prog tên tuổi. Giống như các dòng nhạc khác trong Prog, các band nhạc trong dòng này sẽ kết hợp nhiều phần chính của những gì đặc trưng cho Prog rock: đó sự kết hợp giữa rock với các cấu trúc và khuôn phép của âm nhạc truyền thống hơn, sử dụng nhiều syntheisizers, công nghệ mới, các chủ đề thông minh, và sự mở rộng của dạng thức âm nhạc. Như vậy có thể thấy, đặc điểm nổi bật của Crossover Prog là ảnh hưởng từ nhạc Pop mà phần lớn bị bỏ trống trong các band nhạc prog rock điển hình. Các bài hát có xu hướng trình bày ngắn gọn hơn, súc tích hơn mặc dù vẫn vượt ra ngoài cấu trúc âm nhạc điển hình: verse, bridge, chorus. Vì định nghĩa của Crossover như thế cũng rất rộng, nhưng các cấu trúc hòa âm, tính giai điệu và nhịp điệu có thể dễ dàng được chấp nhận hơn với fan hâm mộ của Prog Rock, trong khi không làm mất đi tính toàn vẹn của âm nhạc mà người nghe khó tính và chuyên nghiệp mong đợi. Các nghệ sĩ Crossover Prog cũng có nhiều điểm khác biệt với Art Rock. Trong khi những nghệ sĩ Art Rock chủ yếu là nhạc Pop có tính thương mại cao nhưng có pha thêm một số ảnh hưởng của Prog Rock thì các nghệ sĩ Crossover Prog chủ yếu là Prog kết hợp với các yếu tố của âm nhạc đại chúng. Theo những định nghĩa nêu trên, các nghệ sĩ Prog Rock tiêu biểu có thể kể đến: The Moody Blues, Procol Harum, Mike Oldfield, Supertramp, Peter Gabriel, Kate Bush trong thập kỷ 60-70s. Sau này, dòng nhạc cũng có những nghệ sĩ rất lớn như Steven Wilson, Big Big Train, Phideaux… Theo trình tự thời gian, chúng ta sẽ đến những năm cuối thập kỷ 60s và gặp gỡ những nghệ sĩ gạo cội, trước tiên là The Moody Blues The Moody Blues Được thành lập vào năm 1964 tại Birmingham, Vương quốc Anh - Tạm ngừng hoạt động từ năm 1974 đến năm 1977 - Vẫn hoạt động tính đến năm 2017 Sự bắt chước. Sự đổi mới. Cảm xúc. Đó là những điều có thể tổng kết về giai đoạn đầu tiên của THE MOODY BLUES. Album đầu tiên ra mắt năm 1965 của họ, "The Magnificent Moodies", là đĩa nhạc không có nhiều đột phá, theo đúng tiêu chuẩn của British Invasion trong thập kỷ 60s. Album bao gồm các bản cover R & B và các bài hát gốc của Mike Pinder và Denny Laine, bao gồm một đĩa đơn đoạt vị trí số 1 trước đó, "Go Now". Nhưng tới năm 1967 mọi chuyện hoàn toàn thay đổi, Justin Hayward và John Lodge thay thế Laine và Rod Clarke, và điều tiếp theo là album kinh điển tuyệt vời "Days of Future Passed". Một album dạng concept, với bản nhạc kinh điển mà gần như ai cũng biết, Night In White Satin, phức tạp nhưng đầy cảm xúc, hơn nữa lại đạt được những thành công cực lớn đã góp phần quan trọng trong việc hình thành một thể loại âm nhạc mới, phức tạp và mang nhiều tính nghệ thuật hơn: đó chính là Prog Rock. Với sự chuyển soạn cho dàn nhạc giao hưởng và giới thiệu đến người nghe những âm sắc siêu việt của mellotron, album này gần như một mảnh kim chỉ nam, một tay tạo tiền đề cho phong trào Progressive Rock sẽ nở rộ trong những năm tiếp theo của thập kỷ 60 và 70s. Cho tới thời điểm hiện tại, rất nhiều người hâm mộ của Prog Rock vẫn cho rằng Days Of Future Passed là album Prog Rock đầu tiên trong lịch sử (đây cũng là một vấn đề còn nhiều tranh cãi vì tại thời điểm này đã có những album của Pink Floyd, Procol Harum, The Nice hay Frank Zappa). Các album tiếp theo khẳng định vị thế hàng đầu của band nhạc tại nước Anh: "On The Threshold of a Dream", "A Question of Balance", "Every Good Boy Deserves Favor" và "Seventh Sojourn" đều đạt vị trí số 1 và thành công trên toàn thế giới với hàng triệu album bán ra. Nhưng sau đó, khi mà Prog Rock vươn tới đỉnh cao thì The Moody Blues lại rơi vào một kỳ ngủ đông vào giữa những năm 70, khi mỗi thành viên của band nhạc theo đuổi và phát hành các album solo (Hayward và Lodge thành công nhất với nỗ lực năm 1975 của họ, "BLUE JAYS")! Band nhạc sau đó tái hợp lại vào những năm 80s và tiếp tục tại chính nơi họ đã dừng lại với "Long Distance Voyager" -1981. Trái ngược với phong trào Prog Rock đang chết dần, The Moody Blues tiếp tục gặt hái được những thành công về mặt thương mại trong thập kỷ 80s mặc dù chất lượng những albums không thực sự quá tốt. Vào những năm 90s, Moodies ít có sức mạnh thương mại hơn so với các band nhạc đình đám khác, nhóm vẫn đi lưu diễn và thình thoảng phát hành các album (bao gồm cả "Strange Times" năm 1999). Sự pha trộn giữa chủ nghĩa đa cảm và chủ nghĩa hiện sinh của họ vẫn gây được tiếng vang đối với người nghe nhạc cho tới tận ngày nay, một điểm có lẽ được thể hiện rõ nhất khi band nhạc được mời biểu diễn những bài hát của chính họ trên chương trình truyền hình hợp thời nhất, The Simpsons. Bộ sưu tập có khoảng 34 đĩa nhạc của The Moody Blues - Các albums định dạng CD (9 albums) Days of Future Passed 1967, Question Of Balance 1968,On the Threshold of a Dream 1969 ; In Search of the Lost Chord 1968, To Our Children's Children's Children 1969, Seventh Sojourn 1972; The Present 1983, Sur la Mer 1988, A Night At Red Rocks 1994 (live); Các đĩa nhạc định dạng LP (5) In Search of the Lost Chord 1968 On the Threshold of a Dream 1969 To Our Children's Children's Children 1969 Seventh Sojourn 1972 Octave 1978
Tiếp theo là các single 7'' của nhóm (20): Go Now / It’s Easy Child 1964 I Don’t Want To Go On Without You / Time Is On My Side 1964 Nights In White Satin 3 bản khác nhau: - Nights In White Satin bản gốc - bản bìa trắng - Bản tái bản của hãng đĩa Old Gold Watching And Waiting / Out And In 1969 Ride My See Saw / Voices In The Sky 1968 Everyday / You Don’t (All The Time) 1965 Voices In The Sky / Dr. Livingstone, I Presume 1968 Question / Candle Of Life 1970
Single 7'' tiếp Isn’t Life Strange / After You Came 1972 Question / Candle Of Life 1970 (Old Gold) Steppin’ In A Slide Zone / I’ll Be Level With You 1978 I’m Just A Singer (In A Rock Band) / For My Lady 1972 Talking Out Of Turn / Veteran Cosmic Rocker 1981 I Know You’re Out There Somewhere / Miracle 1988 The Voice / 22,000 Days 1981 Gemini Dream / Painted Smile 1981 Blue World / Going Nowhere 1983 Bye Bye Bird / And My Bab’s Gone 1982
Procol Harum Procol Harum thành lập năm 1967 tại Southend-on-Sea, Essex, Vương quốc Anh – tan rã năm 1977 – tái hợp năm 1991 và vẫn hoạt động tính đến tận ngày nay. PROCOL HARUM bước ra từ đống tro tàn của một band nhạc có tên là PARAMOUNTS có nguồn gốc từ năm 59 (!!) và đã tan rã vào đầu năm 66. Gary Brooker gặp nhà viết lời Keith Reid và bắt đầu viết các bài hát chung. Đến năm 1967 mọi việc trở nên rõ ràng là cặp đôi này sẽ cần sự giúp đỡ từ các đồng nghiệp cũ của họ từ PARAMOUNTS để thành lập band nhạc mới mang tên PROCOL HARUM. Họ đã phát triển một âm thanh thực sự mới với hai Keyboards (piano cho Brooker và Hammond organ cho Fisher) và một nghệ sĩ guitar phụ có tên là Robin Trower, người đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi JIMI HENDRIX EXPERIENCE. Nhóm sau đó nhanh chóng trở thành một trong những band nhạc tiền thân của progressive rock (cùng với MOODY BLUES và The NICE), pha trộn một số ảnh hưởng cổ điển (tiêu biểu là BACH trong "Whiter Shade of Pale") và bán được hàng triệu đĩa đơn cũng như album. Họ trở thành band nhạc đầu tiên xây dựng một bản nhạc kiểu multi-movement suite (tổ khúc nhiều chương) kéo dài cả một mặt của đĩa LP vào đầu năm 68 trong album thứ hai "Shine on Brightly", bài hát có tên In Held Twas in I, bài hát này sau đó đã trở thành niềm cảm hứng rất lớn cho những band nhạc Prog Rock sau này và có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Đến album thứ tư "Home", âm thanh đã phát triển thành gần như hard-rock nhưng sau đó, tay guitar Robin Trower đã rời bỏ nhóm nhạc và theo đuổi sự nghiệp solo lâu dài đầy thành công, để lại Brooker một mình lèo lái con thuyền Procol Harum. Từ album "Grand Hotel" trở đi, âm thanh sẽ trở nên dễ nghe, và khá nhẹ nhàng chỉ đôi khi mới có sự bùng nổ mạnh mẽ. Nhưng dù có thay đổi hướng đi, các albums sau này vẫn có nhiều đĩa đơn rất ăn khách. Cho đến khi họ dừng lại vào năm 77, khi Punk Rock trỗi dậy và họ trở thành nạn nhân khốn khổ của làn sóng mới này. Sau này, họ thường xuyên có sự tái hợp xung quanh bộ đôi Brooker-Reid và Fisher để thu âm một số album mới và tham gia các chuyến lưu diễn nhỏ. Album gần đây nhất của họ là vào năm 2017, cũng có chất lượng khá tốt. PROCOL HARUM là một trong những band nhạc rất quan trọng đối với những người hâm mộ Prog Rock. Đặc biệt là những proghead quan tâm đến nguồn gốc và sự ra đời của dòng nhạc này, cũng như việc sử dụng sáng tạo một dàn nhạc giao hưởng như một nhạc cụ thực sự trong âm nhạc của họ. Bộ sưu tập có khoảng 12 albums của nhóm: định dạng CD Những albums đầu tiên Shine On Brightly 1968, Home 1970; Broken Barricades 1971, Grand Hotel 1973; A Salty Dog 1972, A Whiter Shade Of Pale 1967 ( bản gốc) 4 albums Exotic Birds And Fruit 1974, Procol's Ninth 1975; Something Magic 1977, The Well's On Fire 2003; Các albums bản SE 2 CDs A Salty Dog 1972, A Whiter Shade Of Pale 1967
Supertramp Thành lập năm 1969 tại London, Anh Quốc - Tan rã năm 1988 - Tái hợp một số lần trong thời gian ngắn từ 1996 đến 2002 – Tái hợp và cải tổ lại vào năm 2010/11 cho chuyến lưu diễn vòng quanh Châu Âu. Supertramp chơi một thứ âm nhạc rất đặc biệt, nó là một biến thể của progressive rock mà một số người gọi là sophisto-rock. Với sự pha trộn nhạc Pop một cách vô cùng tinh vi, liên tục bật ra những bài hát rất hay, dễ nghe, dễ nhớ, nhưng cũng đầy cảm xúc. Âm nhạc của họ được mô tả là hay thay đổi, vui nhộn, mềm mại và có rất nhiều các biến thể khác nhau, một thứ âm nhạc tuyệt vời mà người nghe sẽ bật lên để thư giãn sau bữa tối với những thứ nhạc êm dịu và trữ tình. Một điều khá khác biệt là họ cũng có khả năng đưa một số tính hài hước vào âm nhạc của mình một cách rất nhẹ nhàng và tinh tế. Một thứ nhạc Prog Rock mà hầu hết các bài hát trong album của họ lại là các bài hát chủ lực của đài phát thanh rock. Đây là một thứ rất đặc biệt và rất khó để tìm thấy. Dù là một band nhạc Prog, band nhạc này đã trở thành siêu sao khi album kinh điển Crime Of The Century -74 của họ trở thành một trong những album bán chạy nhất năm 1974. Trong album này, band nhạc đã cải tiến âm thanh của họ bằng cách sử dụng keyboards làm nhạc cụ chủ đạo và tạo ra một album được đánh giá cực tốt. Album "Even In The Quietest Moments ..." có thể là tác phẩm hay nhất trong sự nghiệp của họ. Nhưng album thành công nhất về mặt thương mại của họ với hơn 18 triệu bản bán được cho đến nay, "Breakfast In America" là một trong những album Melodic pop / rock vĩ đại nhất của thập niên 70. Tuy nhiên, sau album này, SUPERTRAMP tiếp tục phát triển âm nhạc theo một phong cách mang hương vị R & B nhiều hơn; sự thay đổi này đã thành công trong "Famous Last Words" năm 1982, nhưng họ nhanh chóng đi vào ngõ cụt khi không còn có những bản hits và dần đi xuống trong thập kỷ 80s. SUPERTRAMP sau này vẫn tiếp tục sự nghiệp, nhưng chủ yếu là với các chuyến lưu diễn không thường xuyên và thỉnh thoảng mới tung ra các album, nhưng đều không mấy thành công. Tuy nhiên, các bản phát hành trong thập kỷ 70s của họ thực sự là những album đầy chất lượng và rất đáng nghe. Bộ sưu tập có các album định dạng CD (7): Supertramp 1970, Crisis!What Crisis 1975, Event In The Quietest Moment 1977; Breakfast In America 1979, Greatest Hits 1978, Famous Last Worlds 1982; Album Crime Of The Century 1974
Ngoài ra còn có các single 7'' (9) Still In Love / No Inbetween 1985 The Logical Song / Goodbye Stranger 1979 I’m Beggin’ You / No Inbetween 1987 Dreamer / Bloody Well Right 1974 Lady / You Started Laughing When I Held You In My Arms 1975 Give A Little Bit / Downstream 1977 The Logical Song / Just Another Nervous Wreck 1979 Breakfast In America / Gone Hollywood 1979 It’s Raining Again / Bonnie 1982
Barclay James Harvest Barclay James Harvest cái tên như của một ngân hàng (viết tắt BJH) cũng là một band nhạc chủ chốt của Crossover Prog. Band nhạc được thành lập tại Oldham, Vương quốc Anh vào năm 1966 – tách ra vào năm 1998. Sau đó thì tái lập thành 2 band khác nhau với tên gọi "John Lees 'BJH" và " BJH featuring Les Holroyd" từ năm 2002. Do 2 thành viên chủ chốt dẫn đầu. Năm 1966, hai band nhạc R & B địa phương ở Oldham (Anh) hợp nhất để tạo thành band nhạc blues THE BLUES KEEPERS. Với sự tài trợ từ một doanh nhân địa phương (cũng là người quản lý của họ), họ đã thuê một trang trại từ thế kỷ 18, để làm nơi tập luyện rộng rãi, rồi dần dần chuyển sang phong cách progressive rock lúc này đang bắt đầu chiếm lĩnh thị trường của Anh Quốc. Sau khi chuyển sang chuyên nghiệp, cái tên BARCLAY JAMES HARVEST đã được thông qua và đội hình ổn định thành JOHN LEES (guitar, vocal), LES HOLROYD (bass, beat guitar, vocal), STUART "WOOLLY" WOLSTENHOLME (keyboard, vocal) và MEL PRITCHARD (trống). Sau khi phát hành đĩa đơn đầu tiên của họ vào tháng 4 năm 1968, ban nhạc gia nhập nhãn hiệu Progressive huyền thoại là HARVEST. Tại đây, họ nhanh chóng mở rộng tầm nhìn âm nhạc, chủ yếu bằng cách thử nghiệm các cấu trúc bài hát và phát triển theo hướng tận dụng dàn nhạc để tạo thành những bài hát dài hơn. Ban đầu, họ sử dụng các bộ gỗ (woods), bộ dây (strings) và bộ đồng (brass) trước khi mua một dụng cụ mới là MELLOTRON. Nhưng vào thời điểm phát hành album đầu tiên 'Barclay James Harvest' vào năm 1970, họ đã sử dụng một dàn nhạc, có tên hoành tráng là BARCLAY JAMES HARVEST SYMPHONY ORCHESTRA do ROBERT GODFREY, người sau này trở thành thành viên của THE ENID, chỉ huy. Mặc dù sản xuất một số tác phẩm Progressive du dương hay nhất của họ vào thời điểm này, dàn nhạc đã tỏ ra quá đắt đỏ và gần như khiến band nhạc phá sản. Nhưng vào năm 1973, việc chuyển sang hãng POLYDOR đã chứng kiến sự khởi sắc trong sự nghiệp của họ. Với sự thành công ngày càng tăng về mặt thương mại, âm nhạc của họ bắt đầu phát triển theo hướng cấu trúc bài hát đơn giản hơn với cách chuyển soạn mạnh mẽ hơn. Những người gièm pha thì gọi họ là 'The Poor Man's Moody Blues'! Vì sự tương đồng trong âm nhạc. Đến năm 1979, WOOLLY rời band nhạc vì ông này vỡ mộng rằng họ đã rời xa nguồn gốc Prog của mình quá nhiều. Band nhạc vẫn tiếp tục vào những năm 1980 với tư cách là một band gồm 3 thành viên nhưng được tăng cường bởi các nhạc sĩ thời vụ khác. Và với một chuỗi các album AOR du dương cuối cùng đã tạo nên bước đột phá về mặt thương mại ở châu Âu, đặc biệt là ở Đức, nơi họ chơi một số buổi hòa nhạc lớn ngoài trời, khởi đầu bằng một buổi hòa nhạc miễn phí lớn trên các bậc thang của tòa nhà lịch sử Reichstag (nơi diễn ra các cuộc họp của quốc hội Đức tới những năm 1933, năm mà nó bị đốt cháy và dẫn tới việc thành lập phát xít Đức) vào tháng 8 năm 1980. Vào cuối thập kỷ 80s, sự nổi tiếng của band nhạc bắt đầu suy yếu. Tới những năm 1990, một vụ kiện kinh hoàng và sự khác biệt về âm nhạc giữa các thành viên trong band nhạc đã gây ra hậu quả nghiêm trọng. Năm 1998, hai nhạc sĩ HOLROYD và LEES đã đồng ý đi theo con đường riêng trong khi tiếp tục hoạt động dưới cái tên ban nhạc cũ. Vì vậy, hai band nhạc tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay đã được sinh ra: BJH featuring Les Holroyd kiên trì với phong cách AOR trong tác phẩm sau này của họ; trong khi John Lees 'BJH (JLBJH) đã quay trở lại với công việc mang định hướng Prog hơn của những năm 1970, bao gồm cả việc hợp tác trở lại với Woolly Wolstenholme. Thành viên còn lại MEL PRITCHARD đáng buồn là đã qua đời vào năm 2004. Bộ sưu tập có các albums định dạng CDs (11) Their First Album 1970, Once Again 1971, Baby James Harvest 1972; Octoberon 1976, Gone to Earth 1977, Time Honoured Ghosts 1975; XII 1978, Welcome to the Show 1990, North 2013; Ngoài ra còn có các albums tuyển chọn Compilation: The Compact Story of BJH 1985, BJH Through The Eyes Of John Lees: Brave New World 2002; Và album dưới định dạng Vinyls LP: Barclay James Harvest and Other Short Stories 1971
ELO ELO là Electric Light Orchestra – dàn nhạc giao hưởng điện, được thành lập tại Birmingham, Vương quốc Anh vào năm 1970 – nhóm này tan rã vào năm 1986 - Tái hợp một thời gian ngắn vào năm 2000/2001 - Cải tổ lại từ năm 2014 (với tên gọi "Jeff Lynne's ELO"). ELO là một trong những band nhạc Rock thành công nhất trong thập kỷ 70-80 với một chuỗi các album lọt vào Top 10 của Anh (2 albums đầu bảng) và bán ra hàng chục triệu bản, thành công tại cả Anh và Mỹ. 2 album thành công nhất của nhóm là : Discovery lấy cảm hứng từ disco (1979) và album concept với chủ đề khoa học viễn tưởng Time (1981) ELO được thành lập từ mong muốn của Lynne và Wood là tạo ra các bài hát rock (Prog) và pop hiện đại với những âm thanh từ nhạc cổ điển. Nó bắt nguồn từ một nhánh của band nhạc trước đây của Wood,là The Move, trong đó Lynne và Bevan cũng là thành viên. Trong suốt những năm 1970 và 1980, ELO đã phát hành một chuỗi 10 album và đĩa đơn hàng đầu. ELO đã phát triển mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Lynne, thu âm 12 album phòng thu đầu tiên gần như liên tục và phát hành 28 đĩa đơn ăn khách không chỉ riêng ở Anh. Vào thời kỳ đỉnh cao của họ từ năm 1974 đến 1981, ELO đã tích lũy chuỗi chín album vàng, bạch kim và nhiều lần bạch kim liên tiếp. Band nhạc chính là một trong những nhóm Arena Rock lớn nhất trong suốt những năm 70 và đầu những năm 80, với những buổi biểu diễn ngoạn mục bao gồm dàn sân khấu hình đĩa bay đồ sộ, ánh sáng và màn hình laser rực rỡ. Ban đầu là một dự án dạng thử nghiệm năm 1970 của band nhạc có nhiều bản hit, The Move. Tại đây, ban đầu Lynne chỉ định tạo ra một band nhạc rock với sự có mặt của một bộ dàn dây (string) để tìm kiếm thành công. Mặc dù các đĩa đơn đầu tiên như "Showdown" và "Ma-Ma-Ma-Belle" đều là hit, các album của ELO đã không thể lọt vào các bảng xếp hạng ở Anh và nhóm hầu như không thể đi lưu diễn trực tiếp tại Anh Quốc. Chính Hoa Kỳ là nơi đầu tiên chấp nhận ELO, nhờ những chuyến lưu diễn dài ngày từ bờ biển bên này sang bờ biển bên kia. Việc lưu diễn liên tục đã giúp đưa các đĩa đơn như 'Evil Woman' và 'Strange Magic' và các album 'On The Third Day', 'Eldorado' và 'Face The Music' tiến vào bảng xếp hạng của Mỹ. Sự chấp nhận của Vương quốc Anh cuối cùng cũng đến vào năm 1976 với 'A New World Record' và Top 10 single 'Livin' Thing ',' Rockaria! ' và 'Telephone Line'. Với một album kép tuyệt tác, 'Out Of The Blue' năm 1977 đã thành công vang dội trên toàn thế giới với hàng triệu đơn đặt hàng từ trước khi đĩa nhạc được tung ra. Album nổi bật với các bản hit toàn cầu 'Turn To Stone', 'Wild West Hero', 'Sweet Talkin' Woman cùng với bài hát mà Lynne cho là thành tích ELO lớn nhất của anh ấy, 'Mr. Blue Sky'. Bài hát này gần đây vẫn được công chúng bình chọn là "Anthem Of The Midlands", và tiếp tục xuất hiện trong các bản nhạc phim và quảng cáo cho đến tận ngày nay. Chuyến lưu diễn năm 1978 huyền thoại của band nhạc đã lập kỷ lục về lượng khán giả tham dự ở bất cứ nơi biểu diễn nào và đưa ELO trở thành một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất thế giới. "Discovery" năm 1979 củng cố thành công đó với các đĩa đơn "Shine A Little Love" (được đưa trở lại bảng xếp hạng năm 2005 bởi The LoveFreekz), "Don't Bring Me Down", "The Diary Of Horace Wimp" và "Confusion". Trong khi các album tiếp theo là "Xanadu", "Time", "Secret Messages" và "Balance Of Power" đều bán rất chạy, cùng với các bản hit sau này là "Hold On Tight" và "Rock" N "Roll Is King". Vào khoảng năm 1986, Lynne quyết định cho ELO tan rã để tìm những thử thách mới hơn. Trong năm 2000, Lynne quyết định kích hoạt lại ELO với 'Flashback', một bộ 3 CD mang tính hồi tưởng. Một năm sau đó là album mới 'Zoom' và đĩa đơn 'Alright' cùng với một DVD của các chương trình trực tiếp đầu tiên của ELO trong hơn 15 năm. , được quay ở Los Angeles. Điều đáng kinh ngạc hơn là sau 50 năm kể từ khi thành lập, âm nhạc của ELO vẫn nổi tiếng như ngày nào. Trên khắp thế giới, mọi người yêu nhạc vẫn đang nghe và điều chỉnh âm thanh của ELO qua radio, internet, rạp chiếu phim và TV. Những bài hát bất hủ của trưởng nhóm ELO Jeff Lynne thậm chí còn được xuất hiện lại trong các bảng xếp hạng đĩa đơn, nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn của các nhạc sĩ trẻ ngày nay lấy nguyên mẫu âm nhạc gốc của họ để pha trộn với âm nhạc mới và thu hút một thế hệ người hâm mộ hoàn toàn mới. Bộ sưu tập có các albums định dạng CD (8): ELO 1971, ELO 2 1973, Eldorado 1975; Face The Music 1975, Discovery 1979, Greatest Hits 1979; Secret Messages 1983, Electric Light Orchestra Part Two 1991;
Ngoài ra còn có các single và EP 7'' (25): 10538 Overture / First Movement (Jumping Biz) 1971 Roll Over Beethoven - Queen Of The Hours 1972 Showdown / In Old England Town 1973 Roll Over Beethoven / Showdown 1973 Ma-Ma-Ma Belle / Oh No Not Susan 1974 Livin’ Thing / Fire On High 1976 Rockaria! / Poker 1976 Telephone Line / Poorboy (The Greenwood), King Of The Universe 1976 Turn To Stone / Mister Kingdom 1977 The ELO EP 1974
Single 7'' (tiếp theo): Don’t Bring Me Down / Dreaming of 4000 1979 Last Train To London / Confusion 1979 I’m A Live / Drum Dreams 1980 Evil Woman / 10538 Overture 1976 The Way Life’s Meant To Be / Wishing 1981 Don’t Walk Away / Across The Border 1980 Hold On Tight / When Time Stood Still 1981 Twilight /Julie Don’t Live Here 1981 Don’t Bring Me Down / Dreaming Of 4000 1979 Rock ‘n’ Roll Is King / After All 1983
Single 7'' (tiếp theo) Mr. Blue Sky / One Summer Dream 1977 Wild West Hero / Eldorado 1977 Sweet Talkin’ Woman / Bluebird Is Dead 1978 Shine A Little Love / Jungle 1979 The Diary Of Horace Wimp / Down Home Town 1979
ELO là ban nhạc mình thích nghe, nhưng chỉ có vài đĩa: Time, Greatest Hits và CD của Jeff Lynne: Alone in the Universe. Trong đĩa Time có bài The lights go down mình rất thích . Thích cách viết kiểu này của bạn khi giới thiệu về ELO. Nêu được nhiều tác phẩm hay qua các thời kỳ của họ. Bộ sưu tập về ELO của bạn quá tuyệt.
Lục tủ thì em có 2 cái Supertramp, 1 cái BJH và 1 cái Moody Blues. Tc đây mấy chương trình nhạc tuyển soft rock hay có các bài dễ nghe của mấy bands này.
ELO cá nhân em rất thích. Thích nhất có lẽ là Can't Get It Out Of My Head, nghe khá ám ảnh và rất dễ nhớ.
Mấy band Crossover này nhiều fan hâm mộ của Prog không thích lắm. Nhưng Supertramp, ELO, Moody Blues lại là những band em yêu thích nhất. Even In The Quietest Moments... của Supertramp có lẽ cũng là một trong những albums em nghe nhiều nhất.