E nghe giai điệu và tiết tấu, nghe nhiều, có thể phân biệt đc dòng chút ít nhưng ko đi sâu như bác no1know đc.
Mấy ban trên rất hay và mình cũng có nhiều. Tóm lại có thể mình hợp với dòng Thrash hơn nên mua gần như đủ bộ. Nghe đi nghe lại vẫn thấy hay
Mình cứ thấy hay là nghe nên không để ý ban nhạc thuộc dòng này hoặc dòng kia . Có thể anh em ít nghe pop nhưng thấy hay, độc đáo thì vẫn nghe ,- hòa thượng thích đủ thứ
Sau phần về Crossover Thrash, chúng ta sẽ điểm qua một số band nhạc Thrash Metal tiêu biểu của châu Âu trong bộ sưu tập của em. Trước tiên là nhóm Artillery. Artillery Artillery là một trong những band nhạc tiêu biểu cho thế hệ đầu tiên của Thrash Metal châu Âu, nhóm thành lập năm 82 tại Đan Mạch và có liên hệ mật thiết với Lars Ulrich của Metallica. Âm nhạc của Artillery rất đáng chú ý vì nó thường tập trung vào những cú riff guitar, với tốc độ cao, lối chơi kỹ thuật nên có nhiều nét giống với Megadeth. Chỉ có điểm khác biệt lớn là giọng hát chính mang âm hưởng của NWOBH nên kén người nghe hơn. Về mặt sự nghiệp thì Artillery cũng có nhiều sự trồi sụt. Sau khi có hợp đồng với hãng đĩa thì nhóm tung ra 3 albums rất hay là Fear of Tomorrow -85, Terror Squad -87 và By Inheritance – 90. Trong đó By Inheritance có thể coi là một trong những album kinh điển của Thrash Metal với lối chơi đậm phong cách kỹ thuật và các bài hát rất hay. Nhưng ngay sau đó, band nhạc tan rã một cách hòa bình và các thành viên tham gia những dự án solo khác. Sau đó, Artillery tái hợp và tiếp tục tung ra một album khá hay là B.A.C.K. -99 trước khi lại tan rã một lần nữa. Sau đó đến năm 2007 nhóm lại tái hợp và tiếp tục tung ra các album có chất lượng khá ổn là When Death Comes -2009, My Blood-2011, Legions -2013, Penalty By Perception-2016 và The Face Of Fear -2018. Các albums đều có chất lượng rất tốt. Bộ sưu tập của em gồm các albums Fear of Tomorrow -85, Terror Squad -87, By Inheritance – 90, B.A.C.K. -99, When Death Comes -2009 và Penalty By Perception-2016
Sabbat (UK) Trước thời đại của Thrash Metal, Anh Quốc (UK) là quê hương và trung tâm của thế giới Metal. Chỉ sau khi Thrash Metal ra đời thì vị trí trung tâm mới chuyển dần sang nước Mỹ, lý do chính một phần rất lớn là do nước Anh không còn sản sinh ra những tài năng lớn để có thể cạnh tranh với những Metallica, Megadeth, Slayer hay Anthrax. Thực ra thì không hẳn là nước Anh không có những tài năng lớn nhưng họ không duy trì được phong độ trong thời gian dài và Sabbat là một trong những biểu tượng của band nhạc kiểu này. Trong trào lưu Thrash, Sabbat là tên tuổi lớn nhất, nhiều ảnh hưởng nhất và cũng là band nhạc có các album kinh điển. Tuy nhiên, sự nghiệp của họ chỉ kéo dài trong 5 năm với 2 albums kinh điển tuyệt hay là A History Of A Time To Come-88 và Dreamweaver-89. Âm nhạc của họ là một thứ Thrash Metal riêng biệt, tốc độ cao, bạo lực, khá nhiều tính kỹ thuật và chịu nhiều ảnh hưởng của phong cách Progressive. Mặc dù được giới chuyên môn và người hâm mộ đánh giá rất cao, số lượng đĩa bán được không tệ, Sabbat lại chịu ảnh hưởng cực lớn của việc không được quản lý tốt. Số lượng tiền band thu được quá ít ỏi từ hãng đĩa đã khiến mâu thuẫn về đường hướng phát triển của nhóm nảy sinh. Nhóm đã không thể giải quyết được những vấn đề này và tan rã vào khoảng năm 1991, để lại rất nhiều nuối tiếc cho người hâm mộ. Dù đã nhiều lần tái hợp, nhóm vẫn chưa thể ra thêm album mới. Bộ sưu tập của em gồm 2 albums kinh điển là A History Of A Time To Come-88 và Dreamweaver-89. Pariah Sự lớn mạnh của Thrash là một trong những nguyên nhân chính khiến NWOBHM sụp đổ. Trên thực tế, ngoại trừ một số tên tuổi lớn như Iron Maiden, Saxon, phần lớn những band NWOBHM đã gục ngã sau khi Thrash chiếm mất vị trí của họ. Pariah là một trong những nhân chứng sống cho sự mất phương hướng này của các band nhạc tới từ nước Anh. Họ thực ra chẳng xa lạ gì với những fan của dòng nhạc Metal vì tiền thân của họ là Satan, một trong những band nhạc hay nhất của dòng underground NWOBHM. Họ từng tung ra những albums rất hay, có thể coi là kinh điển như Court In The Act -83 hay Suspended Sentence-87. Nhưng rồi sự phát triển quá mạnh của Thrash khiến lượng fan hâm mộ của nhóm mất đi và nhóm buộc phải chuyển hướng. Band nhạc đổi tên thành Pariah và chuyển sang chơi Thrash Metal. Họ tung ra được 2 albums chất lượng khá tốt là The Kindred -88 và Blaze Of Obscurity-89. Sau đó, việc Sabbat tan rã ảnh hưởng trực tiếp tới Pariah khi 2 thành viên của nhóm gia nhập Skyclad cùng với giọng ca chính của Sabbat và Pariah tan rã theo. Đến năm 1997 họ có tái hợp và tung ra album Unity rồi tan rã một lần nữa. Bộ sưu tập của em gồm 3 albums The Kindred -88 ,Blaze Of Obscurity-89 và Unity -97. Horroscope Là một band nhạc thành lập từ những năm 96 nhưng Horroscope lại theo đuổi dòng nhạc tưởng như hết thời là Thrash Metal. Nhóm nhạc tới từ Ba Lan này trở thành một trong những ngọn ngờ đầu của Thrash Metal Đông Âu với những album khá chất lượng và khác biệt so với những band nhạc khác. Tuy ít người biết tới, Horroscope vẫn là band nhạc rất đáng nghe và có phong cách rất riêng. Em có album Picture Of Pain -2000 của nhóm
Pantera Sau phần viết về một số band nhạc châu Âu sẽ là phần viết về Groove Metal, nhánh nhạc nhỏ thành công nhất thời kỳ hậu Thrash. Như đã nói trong nhiều bài trước, thập kỷ 90s là thời điểm mà Thrash dần lụi tàn để nhường bước cho Grunge chiếm lĩnh thị trường. Với nhiều fan hâm mộ của Thrash thì thời điểm những năm giữa thập kỷ là thời điểm đáng quên khi nhiều band nhạc gạo cội lạc lối, những band nhạc nhỏ hơn thì tan rã. Tưởng chừng như thời kỳ của Thrash thực sự trôi qua. Nhưng dù có cay đắng và tiêu cực tới đâu đi chăng nữa thì tất cả mọi người đều phải thừa nhận rằng vẫn còn một lá cờ đầu của Thrash vẫn tung bay trong thời điểm khó khăn này, đó chính là band nhạc Pantera. Không chỉ sống khỏe, thập niên 90s mới là lúc mà band nhạc này trở thành nhưng siêu sao nhạc Rock thực sự. Lịch sử thường nhắc tới sự nghiệp của Pantera trong thập kỷ 90s mà quên mất rằng band nhạc thực chất đã thành lập từ trước đó rất lâu, từ năm 81. Khởi đầu họ chịu ảnh hưởng của những band Metal cổ như Kiss hoặc Van Halen rồi sau đó chuyển sang Glam Metal. Lúc này, giọng ca chính của nhóm là Terry Glaze và nhóm tung ra 3 albums Glam khá tệ là Metal Magic -83 và Projects In The Jungle -84, Power Of The Night -85. Do chất lượng các albums khá tệ, chẳng ai biết đến Pantera. Âm nhạc của nhóm chỉ thực sự chuyển hướng vào năm 86-87 khi một loạt những albums kinh điển của Thrash ra đời, nó ảnh hưởng rất lớn tới định hướng của Pantera sau này. Pantera thay đổi giọng ca chính bằng Phil Anselmo và theo đuổi thứ âm nhạc mạnh mẽ hơn. Album đầu tiên của nhóm với Phil là Power Metal -88. Tuy tên là Power Metal, âm nhạc trong album gần như không liên quan gì tới dòng nhạc Power. Âm nhạc trong album mạnh hơn, pha trộn giữa Glam và Thrash với nhiều điểm giống với âm nhạc của Judas Priest. Do sự khác biệt quá lớn trong âm nhạc của Panter trước thập kỷ 90 và sau này, nhóm luôn cảm thấy hổ thẹn với những albums đầu tiên. Chính vì thế những album này thậm chí còn không được cho vào thành những album chính thức của nhóm nên ít người biết tới. Trong một quá khứ bùng nhùng và hỗn loạn, Pantera như lột xác đứng dậy vào thập niên 90s. Âm nhạc của nhóm thay đổi hoàn toàn, nhanh mạnh hơn rất nhiều với những đoạn riff kinh hoàng lặp đi lặp lại mà ta gọi là Groove. Chỉ trong 2 năm Phil và anh em nhà Dimebag đã tăng tốc độ chơi nhạc lên gấp 3 lần, cùng với Exhorder, Pantera phát triển một nhánh Thrash hoàn toàn mới là Groove. Khởi đầu bằng album kinh điển Cowboys From Hell-90, tiếp theo là Vulgar Display Of Power -92, Far Beyond Driven-94, The Great Southern Trendkill-96 và Reinventing The Steel-2000, Pantera thực sự đã làm điên đảo thế giới âm nhạc chứ không chỉ riêng Metal. Album Far Beyond của nhóm là album Extreme Metal đầu tiên trong lịch sử âm nhạc thế giới chiếm hạng nhất trên bảng xếp hạng chính thức của Mỹ, vượt tất cả các album nhạc Pop, Rock, Country, Rap…. Các albums đều bán được từ một tới vài triệu bản và khiến họ trở thành những siêu sao thực thụ của thế giới âm nhạc. Tuy nhiên, mặt trái của thành công là sự rạn nứt trong nội bộ band nhạc. Những mâu thuẫn âm ỉ của Phil với anh em Dimebag đã khiến band nhạc tan rã, khiến rất nhiều trái tim người hâm mộ tan vỡ. Không may trong số những người này có những kẻ thần kinh có vấn đề. Nó chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cái chết của tay guitar Dimebag sau này. Bộ sưu tập của em gồm 11 albums của nhóm: 4 albums đầu tay: Metal Magic -83 và Projects In The Jungle -84, Power Of The Night -85 và Power Metal -88 5 albums kinh điển: Cowboys From Hell-90, Vulgar Display Of Power -92, Far Beyond Driven-94, The Great Southern Trendkill-96 và Reinventing The Steel-2000 Albums The Best Of và Bootleg Texas 2003 Sau khi chia tay với Phil, anh em nhà Dimebag thành lập nhóm Damage Plan và tung ra album Groove rất hay là New Found Power -2004 trước khi Dimebag bị bắn chết bởi fan cuồng. Sau cái chết của Dimebag là thời gian dài khó nhọc của Vinnie Paul, anh trai và tay trống của cả Pantera và Damage Plan. Sau đó anh này tìm thấy niềm vui với nhóm nhạc Hellyeah với cựu thành viên của Mudvayne. Hellyeah cũng có nhiều albums Groove Metal rất hay em có các albums: Hellyeah-2007, Stampede -2010, Unden!able -2016. Riêng những band solo của Phil Anselmo, do không phải thuộc Groove Metal nên tạm thời em chưa post lên đây
Riêng Pantera, e chỉ nghe đúng 5 album kinh điển và thành công của nhóm, riêng Power metal e có nghe thử nhưng ko vô. Tiếc là Damageplan e thấy mà ko mua..
Pantera 5 albums đỉnh cao thì chắc anh em nào cũng phải có. Nhưng những albums đầu tay thì khó kiếm lắm bác. Vì số lượng ít, album cũng không hay nên band nhạc không tái bản lại. Về mặt âm nhạc nó không có quá nhiều ý nghĩa. Nhưng sưu tầm thì rất ok.
Prong Trong lịch sử của Groove Metal, hầu hết những band nhạc khởi đầu nhánh nhạc này đều là khởi đầu bằng một thứ âm nhạc khác trước khi phát triển thành Groove. Band nhạc đầu tiên là Pantera, sau đó là một loạt các band khác và Prong là một trong số những band nhạc này. Thành lập từ năm 86 và nhóm khởi đầu theo phong cách Crossover Thrash (là một trong những band nhạc đầu tiên của Crossover). Sau khi tung ra một EP và album đầu tay Force Fed -88, hãng đĩa lớn là Epic nhận thấy tiềm năng to lớn của Prong nên đã trao cho nhóm một hợp đồng. Năm 1990, Prong tung ra album thứ hai là Beg To Differ, đánh dấu sự thay đổi dần từ Crossover Thrash sang Groove Metal (mặc dù về mặt bản chất album là sự pha trộn giữa Crossover và Groove), đây được coi là một trong những album đầu tiên trong lịch sử của Groove. Việc phát triển theo phong cách Groove Metal của tiếp tục trong một loạt những albums sau đó như: Prove You Wrong-91, Cleasing-94 và Rude Awakening -96. Các album có chất lượng rất tốt và giúp cho nhóm được tôn thờ trong giới underground. Tuy nhiên, âm nhạc của Prong chưa bao giờ có thể thành công như mong muốn của hãng đĩa Epic. Sau album Awakening, nhóm bị cắt hợp đồng rồi sau đó tan rã. Vào đầu thập niên 2000s, Prong tái lập trở lại và tiếp tục tung ra nhiều albums chất lượng tốt. Về mặt âm nhạc thì Prong khác rất nhiều so với những band Groove khác như Pantera hay Sepultura. Trong âm nhạc của nhóm luôn có những ảnh hưởng của Industrial và Alternative. Chính vì vậy, nhóm có rất nhiều ảnh hưởng tới một dòng nhạc cực lớn sau này là Nu Metal (Nền tảng của Nu Metal là Groove và Alternative). Bộ sưu tập của em gồm các albums: Prove You Wrong-91, Cleasing-94 và Rude Awakening -96, Songs from the Black Hole -2015 và X – No Absolutes 2016 Ngoài ra còn có EP: Whose Fist Is This Anyway? -92 và album Carved into Stone -2012
Pantera đúng là hay và rất độc đáo. Tiếc là bị giết sớm quá. Hình như ban này không có đệ tử chân truyền. 5 fingers Death punch cũng rất hay nhưng không cùng trường phái với Pantera
Em không nghĩ là band có đệ tử chân truyền, nhưng nếu bác muốn nghe những band hay và gần giống thì có thể kiếm nhóm Exhorder.
Exhorder Trong lịch sử của Groove Metal, luôn có sự tranh cãi rất lớn xem đâu là band nhạc đầu tiên chơi Groove. Hai band nhạc rơi vào vòng xoáy này là Pantera và Exhorder. Rất nhiều fan hâm mộ của Exhorder cho rằng Pantera đã bắt chước âm nhạc của Exhorder và từ đó dành trọn mọi thành công (đáng ra phải thuộc về Exhorder). Trên thực tế, có nhiều luận điểm để chứng minh giả thiết này. Như ta đã biết, trước khi thành công với Groove, Pantera là một band nhạc kiểu Glam Metal, vậy tại sao họ có thể chuyển hướng âm nhạc nhanh tới mức không ai có thể nhận ra (thậm chí các thành viên của Pantera cũng thấy xấu hổ vì quá khứ “Glam” của mình). Ngoài sự tương đồng lớn trong âm nhạc, giọng ca chính của Pantera thực chất là một fan rất lớn của Exhorder và chính tình yêu lớn lao này có lẽ đã giúp âm nhạc của Pantera chuyển hướng. Trong một chừng mực nào đó, có thể có những ảnh hưởng của Exhorder tới Pantera. Tuy nhiên, sự ghen tỵ của những người hâm mộ Exhorder (và không thích Pantera) là do sự tương phản quá lớn về thành công của hai band nhạc. Pantera đã làm việc hết sức vất vả để sáng tạo ra những bài hát đầy chất lượng điều mà Exhorder có ít hơn. Các thành viên của hai band nhạc đều là những người bạn, và không quan tâm tới việc fan hâm mộ nói gì. Các thành viên của Exhorder đều thừa nhận là Pantera đã làm việc nhiều và nghiêm túc hơn so với Exhorder. Exhorder chỉ có 3 albums là Slaughter in the Vatican -90, The Law -92 và Mourn the Southern Skies -2019 Em có Single duy nhất trong lịch sử của nhóm là Legions Of Death -2019 rất hiếm. White Zombie Một trong những band nhạc quan trọng và thành công nhất của Groove Metal, dù chỉ có thời gian hoạt động rất ngắn là White Zombie. Nhóm thành lập từ năm 85 và khởi đầu chơi một thứ Funk Rock chứ không phải là Metal trong album Soul-Crusher -87. Phải đến album thứ hai là Make Them Die Slowly -89 thì White Zombie mới chuyển sang chơi Heavy Metal và thật kỳ lạ là nó dựa trên những đoạn riff Groove. Nếu tính một cách chính xác thì đây là album Groove đầu tiên trong lịch sử. Tuy nhiên, chất lượng âm nhạc của album này thì có vấn đề, nó không thực sự hay và là sự thất bại về mặt nghệ thuật, nó cũng chẳng thành công về mặt thương mại. Với một band nhạc trẻ, ra được 2 albums đều thất bại cả về mặt nghệ thuật lẫn thương mại, White Zombie chật vật để tìm một hãng đĩa tài trợ tiếp cho họ trong album tiếp theo. Sau rất nhiều lần bị các hãng đĩa từ lớn tới nhỏ từ chối, thì ngôi sao may mắn đã mỉm cười với họ. Lúc này Geffen là một hãng đĩa lớn và làm việc trong hãng có rất nhiều người có tài. Một trong số những người đại diện quan trọng của hãng là Micheal Alago nhận ra tiềm năng to lớn của band nhạc đã giúp nhóm có hợp đồng lớn đầu tiên trong sự nghiệp. Band đã không làm cho Alago thất vọng, mặc dù khởi đầu cũng không mấy suôn sẻ. Năm 1992, White Zombie tung ra album thứ ba là La Sexorcisto: Devil Music Volume One. Album chứng kiến sự thay đổi cực lớn trong âm nhạc của nhóm với thuần chất Groove và đôi lúc pha trộn Doom Metal. Chất lượng album tuyệt hảo và là một trong những album kinh điển của Metal thế giới. Thế nhưng album khởi đầu rất chật vật và không vào được bảng xếp hạng của Mỹ dù được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Tuy nhiên, dưới sự hỗ trợ tuyệt vời của hãng đĩa – Geffen tổ chức một tour lưu diễn kéo dài tới hai năm rưỡi để quảng bá cho album này. Những màn trình diễn đầy sức mạnh đã khiến lượng fan hâm mộ của White Zombie trở nên đông đảo và trở thành một trong những band diễn live được tôn thờ của thế giới Metal. Cùng với lượng fan ngày càng đông, điều kỳ diệu cũng dần đến với band nhạc. Sau một năm tung ra, album lần đầu tiên xuất hiện trên bảng xếp hạng của Mỹ và dần tiến tới vị trí số 26 với một loạt những bài hát rất hay được phát liên tục trên MTV. Sau gần 2 năm, nhóm được đề cử Grammy cho màn trình diễn Metal xuất sắc nhất. Thành công nối tiếp thành công, album của nhóm bán được hơn 2 triệu bản tại Mỹ (tương đương album bán chạy nhất của Pantera là Vulgar). Thành công không dừng lại với White Zombie, nhóm tiếp tục tung ra một album nữa là Astro-Creep: 2000 vào năm 1995 với phong cách lai giữa Groove Metal và Industrial. Album này cũng hết sức thành công khi vươn tới hạng 6 của Mỹ, giành thêm một đề cử Grammy và cũng bán được hơn 2 triệu bản. Với những fan hâm mộ của Groove Metal, White Zombie luôn là một trong những tên tuổi được yêu mến và quý trọng bậc nhất (nhóm có tay bass nữ rất giỏi). Bộ sưu tập của em gồm 2 albums La Sexorcisto: Devil Music Volume One -92 và Astro-Creep: 2000 – 1995
Machine Head Machine Head là một trong những band nhạc quan trọng nhất của Metal Mỹ trong thập niên 90s và là một trong những tác nhân chính của một trào lưu Thrash Metal mới của Mỹ (sau này còn gọi là New Wave Of American Heavy Metal). Machine Head là cầu nối hết sức quan trọng của thế hệ Thrash cũ với Thrash mới và sau này là Metalcore. Câu chuyện của Machine Head bắt đầu vào năm 1991, lúc này Robb Flynn vẫn đang chơi cho band nhạc Vio-lence, một trong những tài năng lớn nhất của thế hệ thứ hai của Thrash (phía bài viết trên đã có phần về band này). Sau 2 albums kinh điển, vị thế của Vio-lence đang rất cao. Nhưng đây là thời điểm bùng nổ của Grunge và sự thụt lùi của Thrash và các band nhạc lần lượt chuyển hướng hoặc tan rã và Vio-lence cũng cùng chung số phận. Trong quá trình ghi âm album thứ 3, Flynn lại thích chơi cho một side project mới cùng người bạn cùng phòng là tay bass Duce. Điều này khiến các thành viên còn lại của Vio-lence rất tức giận và dẫn tới các ẩu đả giữa các thành viên với Lynn. Mâu thuẫn bắt đầu phát sinh từ đây. Lynn thì vốn là một kẻ nông nổi, những ngày cuối tuần, lúc không có việc gì làm, anh thường gây gổ đánh nhau. Trong một lần, Lynn đánh lộn nhầm với một băng gangster. Như ta đã biết là Lynn thì cũng chẳng phải loại vừa, trong trận thì Lynn bị đánh tơi tả nhưng bạn của anh này thấy vậy đã vác dao vào lùa cả băng, trong đó có một tên bị đâm suýt chết. Bạn Lynn thì ít người biết, nhưng Lynn thì nhiều người biết hơn, băng nhóm gangster rất tức giận và dọa sẽ quăng lưu đạn khi Vio-lence sắp biểu diễn. Thấy không ổn, Lynn quyết định rời khỏi Vio-lence và trốn trong nhà cho tới khi băng gangster rơi vào trận chiến khác mới thò mặt ra và cùng Duce thành lập Machine Head. Bản demo đầu tiên của Machine Head được tài trợ bởi tiền bán ma túy của Duce! Sau đó, album demo này tới tay hãng đĩa Roadrunner (lúc này vẫn là một hãng nhỏ) và band nhạc có hợp đồng. Vào năm 1994, khi Machine Head tung ra album đầu tay Burn My Eyes, Thrash gần như đã chết hẳn, và lúc này không còn một band nhạc mới nào chơi Thrash nữa. Nhưng album kinh điển này là một bước ngoặt rất lớn trong lịch sử của cả dòng nhạc. Với khoảng 400 ngàn bản bán được, đây là một trong những album nhạc Thrash bán chạy nhất trong thập kỷ 90s của một band nhạc hoàn toàn mới. Âm nhạc trong album này là Thrash Metal với rất nhiều ảnh hưởng của Groove nên nó có thể coi là một album kinh điển của cả Thrash và Groove Metal. Tiếp nối thành công của album đầu tay là album thứ hai The More Thing Changes -97 vẫn theo phong cách Groove và có chất lượng khá tốt. Nhưng đến đây thì Machine Head tiếp tục gặp kiếp nạn mới. Grunge lúc này đã chết dần và một thể loại mới là Nu Metal bắt đầu khuynh đảo thế giới. Để duy trì thành công, Machine Head chuyển sang Nu Metal với 2 albums khá thất vọng The Burning Red-99 và Supercharger -2001. Do chất lượng album khá kém, lại không may mắn khi tung ra dịp 11/9 và video clips (quay trước đó rất lâu) có cảnh máy bay bốc cháy nên bị cấm trên toàn nước Mỹ. Khủng hoảng nổ ra , nhóm mâu thuẫn với hãng đĩa và Machine Head gần như tan rã sau đó. Tuy nhiên, trong thời kỳ khó khăn, nhóm nhạc bất ngờ quay trở lại với phong cách Groove tuyệt hay trong album Through The Ashes Of Empire vào năm 2003 với bài hát kinh điểm Imperium kéo dài tới gần 7 phút. Sau đó là một chuỗi những albums đỉnh cao trong sự nghiệp của nhóm kéo dài từ The Blackening -2007 (một trong những album hay nhất thập kỷ 2000s), Unto the Locust -2011 và Bloodstone & Diamonds -2014. Sau một loạt những albums Groove Metal kinh điển, Machine Head tiếp tục làm mới mình trong albums gần đây nhất là Carthasis -2018 khi chuyển sang pha trộn phong cách Nu Metal. Machine Head là một trong những band nhạc Thrash quan trọng nhất trọng thập kỷ 2000s, các albums của nhóm đều rất thành công và không có albums nào bán dưới 200 nghìn bản. Một trong những band nhạc trụ cột của cả Groove và Thrash Metal. Bộ sưu tập của em gồm tất cả các albums studio của nhóm. Ngoài ra còn có single Take My Scars Album Bloodstone & Diamonds -2014 dưới dạng digibook rất đẹp
Ban này có 2 tay solo guitars rất khủng khiếp hay không thua gì Slayer. Riêng kiểu hát gằn từng từ thì mình không thích lắm nhưng có thể dân Mỹ lại thích. Một ban siêu
Nhìn chung lại thì em thấy Thrash rất nhiều band siêu. Từ những band như Forbidden, Vio-lence đến Machine Head rồi một loạt những band sau này em sẽ giới thiệu đều rất đáng nghe. Chính vì vậy bộ sưu tầm này rất lớn và rất hay nữa. Những fan của Metal thì chắc chắn cần sưu tầm những album của Thrash.
Grip Inc. Trong thập kỷ 90s, Groove Metal vẫn có rất nhiều những band nhạc hay mặc dù ít nổi tiếng hơn, một trong những số này là band nhạc Grip Inc. Thực chất Grip Inc. khởi đầu là một band nhạc side project của tay trống Lombardo – nhóm Slayer. Lúc này thì quan hệ giữa Lombardo và Slayer đang ở giai đoạn rất thấp với nhiều mâu thuẫn nảy sinh. Chính vì lý do này, Lombardo đã rời khỏi Slayer và Grip Inc. trở thành band nhạc chính thức của anh. Trong thập kỷ 90s, Grip Inc. tung ra liên tiếp 3 albums theo phong cách Groove đều có chất lượng rất tốt là Power Of The Inner Strength -95, Nemesis -97 và Solidify-99 đều có chất lượng rất tốt. Tuy nhiên, sau đó thì Lombardo lại quay trở lại với Slayer nhưng do còn tiếc những thành công với Grip Inc. nên ông còn tiếp tục tung ra album thứ 4 là Incorporated -2004 chất lượng rất tốt. Tuy nhiên cái chết của giọng ca chính Chamber (tự sát) đã chấm dứt hoạt động của một band nhạc rất hay. Bộ sưu tập của em gồm đủ 4 albums của nhóm Fight Fight thực chất là cái tên không quá xa lạ với những người hâm mộ Metal thế giới vì đây là một band nhạc chính thức của Rob Halford – Metal God. Sau album Painkiller năm 1991, mâu thuẫn giữa các thành viên của Judas Priest phát sinh mạnh mẽ tới nỗi Halford quyết rời nhóm vào năm 92 và thành lập ra Fight. Trái ngược với âm nhạc của Judas Priest, Fight chơi khá giống với Pantera ngoại trừ giọng hát đặc biệt của Rob. Dù tung ra được 2 albums rất hay là War of Words -93 và A Small Deadly Space -95, Fight tan rã sau đó không lâu khi Halford quyết định chuyển sang chơi Industrial với band 2wo, trước khi quay trở lại với phong cách Heavy Metal truyền thống và theo đuổi sự nghiệp solo. Tuy nhiên, do band nhạc khá hay nên sau này khi Halford đã quay trở lại với Judas thì vẫn tìm các tài liệu và sáng tác cũ của band nhạc để tung ra album tuyển chọn Into The Pit vào năm 2007 và một film video về nhóm. Bộ sưu tập của em gồm 2 albums War of Words -93,A Small Deadly Space -95 và Into The Pit -2007