Nghề chơi cũng lắm công phu - những bộ sưu tập hay (Phần 2)

Discussion in 'Âm nhạc' started by no1knows, 22/1/21.

  1. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.898
    Đúng là gu nhạc chẳng ai giống ai cả. Ban Supertramp mình thích mỗi album Ăn sáng ở Mỹ. Hình như có 2 bài là hay .
     
  2. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    Em cũng chưa nghe đội này nhiều lắm, nhưng có lẽ hay nhất đúng là Even in the quietest moments. Roger Hodgson khi ra chơi solo có cái In the Eye of the Storm cũng rất hay (cái này Sportify nó gợi ý, em nghe thử thấy hay :) )
     
  3. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Album này có lẽ là nổi tiếng nhất của Supertramp nhưng em không quá thích, nó hơi nghiêng nhiều về mainstream.
     
  4. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Những cái như Crime Of Century hay Even In The Quietest Moments có vẻ mang nhiều tính nghệ thuật hơn những albums sau này. Cá nhân em không hiểu sao lại rất thích cái Even.
     
  5. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Mike Oldfield
    Mike Oldfield có tên đầy đủ là Michael Gordon Oldfield - Sinh ngày 15 tháng 5 năm 1953 (Reading, Berkshire, Anh)

    Mike OLDFIELD học guitar năm 7 tuổi và sáng tác nhạc cụ vào năm 10 tuổi. Cùng với chị gái Sally, ông giành được một hợp đồng thu âm với tên SALLYANGIE và phát hành album Folk "Children of the Sun" vào năm 1968, lúc mới chỉ 15 tuổi. Sau đó ông đã giành được một vị trí (trước tiên là chơi bass) sau đó chuyển sang chơi guitar cho band nhạc WHOLE WORLD, do người đồng sáng lập của SOFT MACHINE, Kevin Ayers, dẫn đầu. Trong vài năm tiếp theo, ông này là nhạc sĩ tại phòng thu tại Abbey Road, tại đây ông đã có dịp thử nghiệm với nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Ông từng bước xây dựng một studio tại nhà và bắt tay vào thực hiện một dự án quy mô lớn, tự mình chơi tất cả các nhạc cụ và tự sáng tác. Đây chính là nguyên mẫu cho album kinh điển "Tubular Bells", nhưng OLDFIELD đã không thành công trong việc thu hút sự quan tâm của bất kỳ một hãng đĩa nào, cho đến khi ông gặp gỡ những người sáng lập Virgin Records trong tương lai là Simon Draper và Richard Branson. Họ yêu thích những ý tưởng của ông này và cho ông nhiều quyền tự do để thu âm trong studio The Manor mới và rất hiện đại của họ. Cuối cùng họ đã cho phép phát hành "Tubular Bells" trên nhãn hiệu mới Virgin khi không có công ty thu âm nào khác tỏ ra quan tâm (đây là đĩa nhạc đầu tiên trong lịch sử của hãng đĩa – sau này trở thành khổng lồ Virgin).

    Album này giống như một bản nhạc giao hưởng toàn hòa tấu và sau này trở thành một trong những album hòa tấu thành công nhất lịch sử của Anh Quốc (chiếm hạng 1 và bán được 9 lần bạch kim) nhưng nó khởi đầu rất tệ. Chỉ tới khi album thu hút sự chú ý của đạo diễn William Friedkin, người mà việc sử dụng đoạn giới thiệu trong bộ phim kinh điển"The Exorcist" thì đã tạo ra làn sóng yêu thích rộng rãi trên toàn thế giới (tuy nhiên, OLDFIELD không thích thú lắm với sự liên hệ này).

    Thành công bất ngờ khi còn rất trẻ (mới 20 tuổi) nhưng Oldfield vẫn là một tài năng thực sự, ông rút lui khỏi sự nổi tiếng và quay trở lại với công việc sáng tác những album nhạc. OLDFIELD sau đó đã thu âm một số album được giới phê bình đánh giá thậm chí còn cao hơn cả Turbullar Bells – như Ommadawn -75 với sự tương tự về phạm vi và cách tiếp cận nhưng không ngừng phát triển các kỹ năng sáng tác và chơi nhiều nhạc cụ mới. Năm 1979, đĩa đơn "Guilty" của ông cho thấy những sự thay đổi trong âm nhạc với những bài hát ngắn hơn, và có lời hát. Ông cũng trở lại lưu diễn vào năm 1979 sau khi trải qua liệu pháp điều trị để chống lại khuynh hướng sống ẩn dật, đơn độc của mình.

    Khi bước vào thập kỷ 80s, những tác phẩm chính của ông bao gồm các bản phát hành xa lạ như "Crises" (bao gồm cả giọng hát của Jon ANDERSON), nhạc nền của bộ phim "The Killing Fields" và một bài hát có tên "Family Man" đã trở thành một hit cho HALL & OATES, tuy nhiên các albums này không thực sự có chất lương tốt như những album trong thập kỷ 70s. Được biết đến với việc liên tục mang đến một hình ảnh ngoạn mục trong các buổi biểu diễn trực tiếp của mình, ông này cũng phát triển niềm yêu thích với nghệ thuật video, bao gồm một album video có tên "Wind Chimes".

    Thập niên 90 chứng kiến sự quay trở lại của các tác phẩm mang phong cách giao hưởng dài hơn, bao gồm "Amarok" và "Tubular Bells II", khi mà ông đã rời hãng Virgin Records ngày càng trở nên thương mại hóa để đầu quân cho hãng WEA nhỏ hơn. Album "Songs of Distant Earth" của ông này là CD đầu tiên bao gồm nội dung CD-ROM, ghi chú album là của tác giả khoa học viễn tưởng huyền thoại Arthur C. Clarke. "Voyager" thể hiện sự đánh giá cao của ông đối với những ảnh hưởng dân gian Celtic và album ông chơi để tưởng nhớ tình yêu âm nhạc đầu tiên của mình trên "Guitars". Sự gia tăng mạnh mẽ đối với âm nhạc điện tử từ cộng đồng nhạc dance những năm 90 đã dẫn đến sự quan tâm trở lại đối với công việc của OLDFIELD và phần thứ ba của loạt phim "Tubular Bells" cho thấy một ảnh hưởng rõ ràng từ văn hóa âm nhạc xung quanh ngôi nhà mới của ông ở Ibiza, Tây Ban Nha.

    Nghệ sĩ đa nhạc cụ tài năng, người tiên phong trong trình diễn hình ảnh, bậc thầy nhạc Symphonic rock - tất cả những điều này đều có thể áp dụng cho sự nghiệp phi thường của Mike OLDFIELD.
    Bộ sưu tập có 24 albums của Oldfield (định dạng CD):

    Oldfield 6.jpg
    Những albums kinh điển đầu tiên của Mike:
    Tubular Bells 1973, Tubular Bells (Remastered 2CDs 2009);
    Ommadawn 1975, Hergest Ridge 1974;
    Oldfield 8.jpg
    Discovery 1984, Five Miles Out 1982;
    Earth Moving 1989, Crises 1983;
    Oldfield 7.jpg
    Islands 1987, Voyager 1996;
    Amarok 1990, The Songs of Distant Earth 1994;
    Oldfield 5.jpg
    Các albums trong chùm Bells của Mike:
    Tubular Bells 3 1998, Tubular Bells 2 1992;
    The Millenium Bell 1999
    Oldfield 4.jpg
    Các albums tuyển chọn Compilation:
    Guitars 1999;
    The Complete Mike Oldfield 1985, Elements the Best of Mike Oldfield 1993;
    Oldfield 3.jpg
    Các albums gần đây của Mike:
    Music Of The Spheres 2008, Light + Shade 2005;
    Man On The Rock 2014, Return To Ommadawn 2017
    Oldfield 2.jpg
    Những albums SE - Special Edition Remastered những năm gần đây:
    Discovery 1984 (2CD+1DVD- Remastered 2016), Q.E.2 1980 (2012 Remastered 2CD);
    Oldfield 1.jpg
     
    Last edited: 20/6/22
    Wildbird and shrekfiona like this.
  6. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.898
    Ông này rất siêu với sáng tác đẹp như mơ cộng với tài chơi guitar sáng chói. Nhiều người thích những bản hòa tấu dài cả chục phút của ông nhưng mình chỉ thích những bài nhạc có lời và không lời dài khoảng 5 phút trở lại.
    Nhạc của ông vui tươi, trong sáng và rất tình tứ. Mình đánh giá ông ngang ngửa với Elton John mặc dù nhiều người xếp E John vĩ đại hơn. Riêng phần solo guitar thì hay hơn vì nó dài hơn
     
    no1knows likes this.
  7. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    Buổi lễ khai mạc Olympic London lấy chủ đề âm nhạc Bells theo Tubular Bells của Mike Oldfield. Em đoán Mike Oldfield dc chọn vì bác này đại diện cho tất cả những gì người Anh tự hào nhất về nhạc của họ: kết hợp truyền thống (cổ điển) với hiện đại (rock), kết hợp tài năng (tự làm nhạc và chơi đủ thứ nhạc cụ) với niềm đam mê (dám bỏ học và sống lay lắt để ra dc tác phẩm để đời), kết hợp underground (nhút nhát và chưa bao giờ thoải mái với sân khấu lớn) với việc dám chơi để có dc thành công ko tưởng!

    Em có 4 cái của M Oldfield:

    16556544234842520100370531847418.jpg
     
    Wildbird, Tuilaai and no1knows like this.
  8. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Mike cũng là một tài năng rất lớn, một người yêu âm nhạc thực thụ. Số phận đẩy ông này thành siêu sao mặc dù trong thâm tâm không hề mong muốn. Đây cũng là một quái kiệt của âm nhạc thế giới. Mike có mấy cái rất hay là Ommadawn 1975, Hergest Ridge 1974,Five Miles Out 1982, Amarok 1990 và Incantations -1978. Gần đây có Return to Ommadawn -2017 cũng rất tuyệt.
     
    Tuilaai likes this.
  9. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Cái này là do sở thích riêng của từng người thôi. Dài hay ngắn thì Oldfield đều có những album rất hay.
     
  10. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    Sở thích riêng thì mỗi người 1 khác, nhưng nếu xét về ghi dấu ấn trong âm nhạc thì em nghĩ Ommadawn cũng thuộc hàng đi rất xa trước thời đại. Giữa thập niên 70s mà ông này đã đưa nhịp điệu trống châu Phi vào nhạc Pop/Rock, dăm năm sau thì Brian Eno thành công và mở ra trào lưu mới khi làm điều tương tự với Talking Heads (Fear of Music và Remain in Light). Album này cũng đưa nhạc Celtic vào trước khi dòng Celtic New Age trở thành trào lưu từ cuối 1980s đến 1990s.

    Lạ là người khác thì thường tự hào khi được coi là đẻ ra 1 dòng nhạc mới, nhưng Mike Oldfield lại rất ghét khi nhạc của mình bị coi là đẻ ra New Age. Hình như bác này chỉ thích người ta gọi nhạc của bác í là rock.
     
  11. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Mike là kiểu người hướng nội, không thích phô trương ra bên ngoài và thường là những nhận xét của giới chuyên môn hoặc người hâm mộ lại làm ông phiền lòng.
     
  12. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Chúng ta đã gặp một số band nhạc rất nổi tiếng của Crossover Prog, nhưng cũng có một số band nhạc nhỏ hơn, tuy nhiên âm nhạc của họ cũng không kém phần thú vị. Đó là trường hợp của Rare Bird

    Rare Bird

    Thành lập tại London, Anh vào cuối năm 1969 - Giải tán năm 1975

    Rare Bird là một band nhạc Prog Rock rất đặc biệt vì vào thời kỳ hoàng kim, họ sử dụng rất nhiều keyboards mà không dùng guitar. Nhóm tứ tấu này có 2 tay keyboards là Kafinetti và Field chơi cùng nhau rất ăn ý, một người chơi piano, người còn lại chơi organ khá giống với Procol Harum hoặc Greenslade. Mặc dù đây là một nhóm tứ tấu nhưng nhạc cụ chủ đạo là keyboards. Họ đã khá thành công tại Anh Quốc với album đầu tay "Sympathy" -1969 nhưng album này thậm chí còn thành công hơn ở Châu Âu Lục địa, nơi họ trở nên rất nổi tiếng. Đây cũng là đĩa nhạc đầu tiên của hãng đĩa Charisma, trước khi hãng này ký hợp đồng với những người không lồ của Prog Rock như Genesis, VDGG hay Hawkwind. Âm thanh của họ thường khiến chúng ta nhớ đến BARCLAY JAMES HARVEST.

    Họ lên tới đỉnh cao của sự nghiệp với tuyệt phẩm As Your Minds Flies By -1970. Dấu ấn của cặp đôi keyboards này mạnh tới nỗi làm lu mờ hết tất cả các nhạc cụ khác trong band. Với những bài hát giai điệu đẹp, lối chơi phóng khoáng và mạnh mẽ, album có thể coi là tiêu biểu của những band nhạc Rock không sử dụng guitar. Chỉ tới khi tay keyboard Field rời đi cùng với tay trống Ashton và một người chơi keyboard khác là Lamb thì âm nhạc của họ mới chuyển hướng. Sau khi mất đi tay keyboard tài năng thì âm nhạc của họ cũng lập tức thay đổi. Sự thay đổi này xảy ra khi họ chuyển sang hãng Polydor và kết hợp thêm một tay guitar. Âm nhạc của họ cũng chuyển từ keyboards chủ đạo sang phong cách Hard Rock lai với Prog Rock với guitar chủ đạo cùng những đoạn lyrics mạnh mẽ.

    Trong thời kỳ thứ hai của band nhạc, nhóm tung ra được 3 albums lần lượt là Epic Forest -1972, Somebody's Watching -1972, Born Again -1974 với một số khách mời như Nic Potter của VDGG đã chơi trên hai album, và John Wetton chơi trên album còn lại. Tuy nhiên, những albums này không mấy thành công và chất lượng ngày càng đi xuống. Nó cũng khác hoàn toàn so với lối chơi bay bổng và phóng khoáng trong những năm đầu tiên. Sau những thất bại, nhóm kết thúc sự nghiệp vào năm 1975. Cựu thành viên của nhóm là Field thành lập một band nhạc có tên là Fields, một band heavy Prog Rock cũng rất hay.

    Hầu hết những người hâm mộ của Prog Rock đều đánh giá rất cao hai album đầu tiên của họ và cũng sẽ muốn nghe FIELDS, nhóm mới của Field vào thời điểm đó.

    Bộ sưu tập có 3 albums định dạng CDs:

    As Your Minds Flies By -1970;
    Epic Forest -1972, Born Again -1974;
    Rare Bird.jpg
     
    Last edited: 20/6/22
    Wildbird and tienhoangmanh like this.
  13. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Argent

    Mười tám tháng sau khi nghệ sĩ keyboards điêu luyện Rod ARGENT rời band nhạc huyền thoại những năm sáu mươi The ZOMBIES, thì đĩa đơn "Time Of The Season" trong album cuối cùng của họ "Odyssey & Oracle" đã đứng đầu bảng xếp hạng của Hoa Kỳ và bán được hơn một triệu bản! Thành công rất lớn khiến xuất hiện những yêu cầu tái hợp lại The ZOMBIES, nhưng Rod ARGENT muốn thành lập band nhạc của riêng mình để tạo ra một thứ âm nhạc mang nhiều tính Progressive hơn. Ông này mời thêm tay bass John Rodford, tay trống Bob Henritt và tay guitar Russ Ballard và gọi bộ tứ là ARGENT.

    Dưới cái tên này, họ đã phát hành album đầu tay cùng tên "Argent" vào năm '69, bài hát "Liar" đã trở thành một bản hit của Hoa Kỳ và được cover bởi THREE DOG NIGHT. Với các album tiếp theo "Ring Of Hands" ('71) và "All Together Now" ('72) ARGENT đã được đánh giá cao hơn và đĩa đơn "Hold Your Head Up" đã trở thành một hit đình đám trên toàn thế giới. Album tiếp theo "In Deep" và đĩa đơn "God gave Rock 'N' To You" có thứ hạng tốt, nhưng những mâu thuẫn về âm nhạc ngày càng gia tăng giữa Rod ARGENT và Russ Ballard sau album tiếp theo "Nexus" ('74): Russ không hài lòng chút nào với đoạn synthesizer kéo dài của Rod, ông thích những đoạn rock ngắn và có giai điệu hấp dẫn hơn.

    Cuối cùng thì vào năm '74, sự ra đi của Russ là điều không thể tránh khỏi. Cuối năm đó ARGENT phát hành đĩa hát kép "Encore". Russ được thay thế bởi nghệ sĩ đa nhạc cụ John Grimaldi và nghệ sĩ guitar / vocal John Verity. Rod rất hào hứng với đội hình ARGENT mới này đến nỗi ông đã từ chối lời đề nghị tham gia Yes sau sự ra đi của WAKEMAN! Vào năm '75 ARGENT đã thực hiện album "Circus" mặc dù được các nhà phê bình đánh giá tốt nhưng doanh thu vẫn kém. Vào năm '76 ARGENT phát hành LP "Counterpoints" đáng thất vọng. Sau album này ARGENT đã đưa ra quyết định chia tay band nhạc của mình.

    ARGENT thời kỳ đầu đã tạo nên bản nhạc progressive rock hấp dẫn với lối chơi organ mạnh mẽ của Rod ARGENT. Album mang tính Prog được hoan nghênh nhất của họ là "Nexus": Lúc này họ không sử dụng Hammond organ và chuyển sang đàn piano điện Fender Rhodes - và Hohner, đàn Mellotron, Grand piano và synthesizer Moog nổi tiếng. Album cho thấy cảm giác năng động và tâm trạng thay đổi tuyệt vời: bản giao hưởng mới mẻ, chậm rãi và mơ mộng, tiếp nối với tiếng guitar điện mạnh mẽ và cách chơi bàn phím đẹp. Vào năm '95, họ đã phát hành một album trực tiếp tuyệt vời mang tên "In Concert" (trên hãng Windsong) bao gồm hầu hết các bài hát hay nhất của họ, album này vượt trội hơn so với album trực tiếp khá xuất sắc "Encore" năm 74.

    Thực ra, Argent không phải là một band nhạc đột phá và phát hiện ra những lĩnh vực mới trong việc khám phá âm nhạc: họ chỉ đơn giản là tín đồ của một phong trào Prog và bổ sung vào dòng nhạc những album xuất sắc. Band nhạc này dù sao cũng có nhiều thành công hơn về mặt thương mại so với các band nhạc khác cùng thời, những người có thể có nhiều tài năng hơn họ (như Audience, Comus, v.v.) tất nhiên thành công này chỉ ở một level thấp hơn so với những người khổng lồ như Yes, Genesiss.

    Bộ sưu tập gồm các đĩa:

    Argent 1969
    Argent1.jpg
    Và các single 7 ''

    Hold Your Head 1972
    z3485042465659_6dc374b13049819046c033e93e9bc1b8.jpg
    God Gave Rock and Roll to You 1973
    z3485042473590_f4dbb14c16cf1bc91b5536e1becf450d.jpg
     
    Wildbird likes this.
  14. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Titus Groan

    Titus Groan là một trong những band nhạc hay nhưng có đời sống rất ngắn ngủi. Họ thành lập năm 1970 và tan rã vào năm 1971. Họ cũng chỉ có một album duy nhất cùng tên vào năm 70 có chất lượng khá ổn trước khi tan rã.

    Lấy tên từ cuốn tiểu thuyết giả tưởng theo phong cách gothic của Mervyn Peake, Titus Groan là bộ tứ được dẫn dắt bởi nghệ sĩ guitar / keyboard kiêm ca sĩ Stewart Cowell và người chơi các dụng cụ thuộc bộ hơi (wind) Tony Priestland. Âm thanh của họ tiếp cận với phong cách prog rock sơ khai của Vương quốc Anh (đôi khi được gọi là proto-prog). Với các bài hát khá dài, tất cả các bản nhạc dài hơn 5 phút và thường được hỗ trợ bởi các nhạc cụ hơi (wind) đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, âm nhạc của họ cuối cùng hơi thiếu chiều sâu cần thiết. Tác phẩm chủ đề của album duy nhất tập trung xung quanh ca khúc Hall Of Bright Carvings dài 12 phút (cũng là một bài hát theo chủ đề của Peake), album được phát hành vào đầu năm 1970 trên nhãn hiệu Dawn khá nhỏ, Titus Groan sau đó cũng phát hành một đĩa đơn ba ca khúc vào cùng năm (cả ba ca khúc đều xuất hiện dưới dạng bonus track trên bản CD remastered của hãng See For Miles) có tên là Titus Groan Plus.

    Bộ sưu tập có album Titus Groan -1970
    Titus Groan.jpg
    Asgaerd

    Band nhạc Anh Quốc này thành lập năm 1971 và tan rã vào năm 1973 với một album LP duy nhất vào năm 1972 cùng một số đĩa single.

    Có rất ít thông tin về band nhạc này, ngoại trừ việc họ là một trong những band nhạc đầu tiên có hợp đồng với hãng đĩa Threshold của band nhạc The MOODY BLUES.

    Cái tên 'Asgaerd', lấy cảm hứng từ thần thoại Bắc Âu cổ đại, có nghĩa là 'lâu đài của các vị thần'. Có lẽ vì mang đậm nét những ảnh hưởng kiểu Tolkien-esque , cái tên này trở thành cảm hứng và tên chung cho rất nhiều những band nhạc khác nhau: trong đo có band nhạc Folk Prog của Pháp những năm 70 và một band nhạc khác thuộc nhóm Neo Prog của Ý những năm 90. Ngoài ra còn có nhiều band nhạc không phải Prog của Nga, Brazil…

    Band nhạc Anh Quốc ASGAERD mà chúng ta nói tới ở đây bao gồm nghệ sĩ guitar / vocal Rod Harrison (cựu PLEASE và band nhạc psych-pop BULLDOG BREED), ca sĩ James Smith và tay trống Ian Snow (cả hai sau này đều gia nhập STONEHOUSE CREEK), ca sĩ Ted Bartlett, tay bass Dave Cook và nghệ sĩ violin Peter Orgil.


    Họ phát hành một single 7’’ đầu tay vào năm 1972 chứa 4 ca khúc. Sau đó một năm hãng Threshold sản xuất album LP duy nhất của họ, mang tên "In the Realm of Asgaerd". Mặc dù không phải kiểu nhạc mainstream, nhưng album bao gồm 8 bản nhạc tương đối ngắn và có thể mô tả là sự giao thoa giữa MOODY BLUES đầu những năm 70 kết hợp với giai điệu giao hưởng ấm áp, mượt mà của FANTASY, với giọng hát gợi nhớ đến Dennis deYoung ( nhóm STYX). Đây là một album khá hay, dù không nhiều người biết tới. LP này gần đây đã được làm lại và phát hành dưới định dạng cd ở Nhật Bản.

    Bộ sưu tập có album
    In the Realm of Asgaerd -1972
    Asgaerd.jpg
     
    Wildbird and tienhoangmanh like this.
  15. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Mcdonald & Giles

    Ian McDonald (sinh năm 1946- mất năm 2022) đã gia nhập band nhạc tiền King Crimson có tên là Giles, Giles và Fripp, ông này sau đó kịp thời trình diễn trong một trong những album mang tính biểu tượng nhất, được yêu thích nhất, không chỉ trong Progressive Rock (tất nhiên, nó hợp thời, vượt thời gian và thiết yếu…), mà trong tất cả các thể loại nhạc Rock: In the Court of the Crimson King (1969). Mặc dù rất nhiều người trong chúng ta có thể nghĩ rằng Mel Collins là người xử lý bộ gió (reed) trong King Crimson thời kỳ đầu, thực chất Ian McDonald mới là người chơi keyboards, reed và woodwinds (một số nhạc cụ thuộc bộ gỗ -gió) trong album KC đầu tiên này. Chính vì lý do đó, ông mãi mãi được trân trọng cùng với Fripp, Lake và Giles.

    Album cuối cùng mà McDonald góp mặt trong King Crimson, sánh vai cùng Collins, chính là siêu album mang tính biểu tượng - Red (1974). Điều này rất quan trọng, vì Red cũng giành được tình yêu và sự ngưỡng mộ cho King Crimson không khác gì In The Court…, tức là được người hâm mộ Prog Rock ở khắp mọi nơi tôn thờ. Trong 2 albums thành công nhất của King Crimson, vai trò của McDonald là không nhỏ.

    Tuy nhiên, sau khi thu âm "In the Court of the Crimson King" với tư cách là thành viên sáng lập của KING CRIMSON, nghệ sĩ đa nhạc cụ Ian McDonald và tay trống Michael GILES đã thực hiện một bước chuyển sự nghiệp sai lầm và rời khỏi band nhạc, thành lập MCDONALD AND GILES, một cái tên không thực sự nhiều ý nghĩa và ấn tượng. Nhưng nếu gạt cái tên thiếu tính độc đáo sang một bên, thì họ đã cố gắng thu âm một album cùng tên gồm những bản nhạc chuyên nghiệp chất lượng cao. Phong cách của họ ít tính nghệ thuật và khoa trương hơn trong hai album KING CRIMSON đầu tiên. Với Steve Winwood làm khách mời, album không phiêu lưu như các album KC đương thời mà mang tính Folk và khá vui tươi. Mặc dù tham vọng của cặp đôi này cũng không nhỏ và họ cũng muốn chứng tỏ phẩm chất của mình bên ngoài King Crimson nhưng khó có thể nói album của họ có thể sánh ngang với KC. Album duy nhất này của họ cũng được giới chuyên môn đánh giá cao, nhưng người hâm mộ lại ngoảnh mặt. Chính vì thế, dự án này nhanh chóng tan vỡ, dù album không quá tệ.

    Sau đó, McDonald thành lập band nhạc Hard Rock cũng thuộc dạng kinh điển là Foreigner và xuất hiện trong ba album phòng thu đầu tiên của họ; Thành thật mà nói, những albums này của Foreiner cũng có chất lượng rất tốt. Và đây cũng là một band nhạc đáng nghe nữa của McDonald.

    Những năm sau này trong cuộc đời, McDonald chủ yếu tham gia cùng một số band nhạc gạo cội trên tư cách là nghệ sĩ thời vụ hoặc là nhà sản xuất. Cũng có nhiều album có chất lượng khá tốt nhưng chưa đến mức quá nổi bật. McDonald qua đời vào tháng 2 năm 2022 vì bệnh ung thư ruột kết. Với những người yêu thích King Crimson thì đây cũng là một cái tên rất đáng chú ý.

    Cuộc đời của tay trống Giles thì đơn giản hơn. Ông này trở thành nhạc sĩ thời vụ cho nhiều band nhạc khác nhau và không thực sự gặt hái nhiều thành công.

    Bộ sưu tập có album duy nhất của nhóm:
    McDonald and Giles 1970
    Mc Donald and Giles.jpg
     
    Last edited: 24/6/22
    Wildbird and shrekfiona like this.
  16. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Capability Brown

    Capability Brown đã và vẫn được hâm mộ trong lịch sử âm nhạc Vương quốc Anh với tư cách là một band nhạc "Progressive", nhưng thực chất phần lớn là dựa trên album rất xuất sắc (cũng là album thứ hai của họ ) là Voice. Nhưng phần lớn âm nhạc của họ nằm trong nhạc Pop mainstream, nhưng được xử lý theo hướng “nghệ thuật hóa” và phá cách. Band nhạc này gồm sáu thành viên, trong đó tất cả mọi người đều hát và chơi nhạc cụ. Đội hình bao gồm Tony Ferguson (guitar, bass), Dave Nevin (keyboard, guitar, bass), Kenny Rowe (bass, bộ gõ), Grahame White (guitar, lute, balalaika, keyboard), Joe Williams (bộ gõ) và Roger Willis (trống, keyboard).

    Ferguson và Nevin đã viết phần lớn các tài liệu và bài hát của band nhạc và nhóm cũng có nhiều bài hát cover xuất sắc, trong đó có những bản cover bằng chất liệu khó hiểu (như Rare Bird- Beautiful Scarlet and Redman, Argent- Liar, Affinity- I Am And So Are You và Midnight Cruiser của Steely Dan – đây đều là những band có xu hướng Prog nhưng theo nhiều phong cách rất khác biệt).

    Khả năng sở trường của Brown là hát. Khi hát cùng nhau, họ nghe không khác gì The Association: một dàn hợp xướng gồm nhiều giọng, từ giọng nam trung đến giọng giả thanh nam cao. Album đầu tiên của họ, From Scratch, bao gồm bản cover Liar, ở mức trung bình và không xuất sắc. Album thứ hai Voice, phát hành năm 1973, là sự khẳng định danh tiếng của họ, có một đoạn nhạc du dương dài hơn 20 phút mang tên Circumstances (In Love, Past, Present, Future Meet) - một bản nhạc tuyệt vời kết hợp keyboards, giọng cappela , syntherizer và mellotron, giọng hát solo, phần guitar acoustic giống như cây đàn harpsichord tinh tế, hợp âm guitar điện mạnh mẽ và dàn hợp xướng thanh nhạc lớn.

    Band nhạc sau đó đã quyết định không tiếp tục thu âm những album nữa. Vào năm 1974 Tony, Roger và Graham được một người bạn và thành viên của band nhạc Christie là Roger Flavell tuyển dụng để tham gia cùng nhóm của ông này, Christie là một band nhạc Rock khá nổi tiếng tại Anh Quốc ở thập kỷ 60s cho một chuyến lưu diễn Nam Mỹ. Vì vậy Capability Brown cuối cùng đã không còn nữa.

    Bộ sưu tập có albums
    Voice -1973

    Capability Brown.jpg

    Paladin

    PALADIN được thành lập vào năm 1970 bởi tay trống Keith Webb và tay keyboard Pete Soley. Sau chuyến lưu diễn với ROLLING STONES với tư cách là những nhạc sĩ hỗ trợ, họ đã quyết định đây là thời điểm thích hợp để thỏa sức sáng tạo của riêng mình bằng cách thành lập Paladin. Tay bass Peter Beckett của "WORLD OF OZ", tay keyboard Lou Stonebridge của các nhóm GLASS MENAGERIE / GRISBY DYKE, và tay guitar Derek Floey của nhóm GRISBY DYKE đã được giới thiệu để hoàn thiện đội hình.


    Ban đầu, ảnh hưởng của ban nhạc là jazz, Latin, soul, blues, afro-Cuban, với cặp đôi keyboards là điểm nhấn và tạo ra âm thanh độc đáo. Trong những người hâm mộ ban đầu của họ có cả Jon ANDERSON (giọng ca chính của Yes). Sau khi tạo dựng được danh tiếng bằng những buổi biểu diễn trực tiếp đáng tin cậy, band nhạc đã ký hợp đồng với hãng Bronze, và thu âm album đầu tiên của họ "live" ngay trong phòng thu. Album bao gồm các bản nhạc được coi như ví dụ ban đầu về World Music và Rap (!), Nhưng đáng tiếc là họ không tạo được ấn tượng gì nhiều, và do đó, album giờ đây rất hiếm và khó có thể sưu tầm được ở định dạng vinyl.


    Album tiếp theo "Charge!" được phát hành một năm sau đó. Trong đó có một màn trình diễn thượng hạng của Roger Dean, và là một sự phát triển rất lớn so với âm nhạc trong album đầu tay khá mờ nhạt. "Charge!" khám phá những khu vực thú vị của progressive rock, kết hợp ảnh hưởng Folk ("Watching The World Pass By") với rock and roll ("Well We Might") và psychedelic rock ("Mix Your Mind With The Moonbeams"). Phong cách đa dạng của album khiến rất khó để xác định ảnh hưởng, nhưng có một chút GENESIS, BJH, URIAH HEEP và có thể là JETHRO TULL.


    Band nhạc chỉ phát hành hai album, nhưng việc cả hai không thành công dẫn đến sự thất vọng, và họ tan rã vào năm 1972. Lou Stonebridge sau này thành công với MCGUINNESS FLINT, trong khi Pete Soley thành lập SNAFU với Mickey Moody. Peter Beckett tham gia ban nhạc PLAYER với tư cách là giọng ca chính, còn Keith Webb tìm được công việc tay trống với nhiều band nhạc khác nhau.

    Bộ sưu tập có album

    Charge!-72
    Paladin.jpg
     
  17. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Alan Parsons Project

    Được thành lập vào năm 1975 - Bằng cách nào đó vẫn hoạt động cho đến năm 1990 (phát hành đĩa hát cuối cùng vào năm 1987).

    ALAN PARSONS PROJECT là "dự án" của nhà sản xuất người Anh rất nổi tiếng Alan PARSONS. Tuy nhiên, ông này nổi tiếng với vai trò kỹ sư âm thanh cho các tác phẩm kinh điển như "Abbey Road" của The BEATLES và đặc biệt là "Dark Side of the Moon" của PINK FLOYD. Có thể nói không quá lời rằng việc sản xuất những album kể trên đã vượt tầm thời đại rất xa. Thế nhưng quyết định của Parson để trở thành nghệ sĩ ghi âm sáng tác thì lại là một vấn đề khác hẳn, nhận được rất nhiều những ánh mắt ngờ vực của những người yêu nhạc cũng như giới chuyên môn.

    Thế nhưng, thật bất ngờ là cùng với nhạc sĩ Eric WOOLFSON, PARSONS đã tạo ra một loạt 10 (và còn tiếp tục) album progressive rock, bằng cách sử dụng một loạt các nghệ sĩ thời vụ luân phiên để thực hiện hầu hết các phần trình diễn. Đáng ngạc nhiên hơn là một số (không phải tất cả) trong số những albums này có chất lượng rất tốt như album kinh điển đầu tay Tales of Mystery and Imagination -1976 hay I Robot -1977. PARSONS chủ yếu chơi keyboard và hát trên một số bản nhạc. Ông này tạo ra ý tưởng, viết một số bản nhạc và thuê các nghệ sĩ, trong khi WOOLFSON viết lời, đồng sáng tác một số bản nhạc và hát trên phần lớn các bài hát. Ngoài ra, Andrew POWEL tham gia dự án vào năm 1976 với tư cách là người chuyển soạn âm nhạc.

    Các albums của Parson thì chủ yếu là concept theo nhiều chủ đề phức tạp khác nhau như: Tales of Mystery and Imagination có chủ đề được lấy cảm hứng từ các tác phẩm của Edgar Allen Poe, I Robot kể câu chuyện về sự trỗi dậy của máy móc và sự suy tàn của con người. Pyramid lại kiểm tra sức mạnh của thần thoại cổ đại, Eve -79: chủ đề về phụ nữ, những người mà "Bạn không thể sống với họ nhưng cũng không thể sống thiếu họ." The Turn of Friendly Card" (1980): lại là sự phản ánh của một điều gì đó đang diễn ra trong tiềm thức của con người, gắn liền với Monte Carlo, cờ bạc và chấp nhận rủi ro nói chung. Eye in the Sky 1982: lại là một câu chuyện cảnh giác về sự mất mát của chủ nghĩa cá nhân." Amoniac Avenue 1984: lấy cảm hứng từ một nhà máy hóa dầu ở Middlesborough, Anh Quốc. "Vulture Culture" (1984): "một cái nhìn về xã hội hiện đại, các mối quan hệ đương đại và việc kinh doanh văn hóa đại chúng." "Stereotomy (1985)": lấy cảm hứng từ tác phẩm Rue Morgue" của Poe. "Gaudi" (1987): lấy cảm hứng từ cuộc đời và các tác phẩm của Antonio Gaudi (1852-1926), một kiến trúc sư người Catalan có công trình vĩ đại, là Nhà thờ Sagrada Familia ở Barcelona.

    Parson khởi đầu rất ấn tượng nhưng rồi càng về sau thì chất lượng các albums ngày càng đi xuống nên mặc dù PARSONS và WOOLFSON đã lên kế hoạch cho một album có tên "Freudiana", kể về bác sĩ tâm thần Sigmund Freud, nhưng rồi album này không được hoàn thiện và tung ra. Band nhạc kết thúc vào năm 90s, sau này có tái hợp lại và tung ra một album nữa vào năm 2014.

    Bộ sưu tập có các albums: phiên bản gốc (11CDs)
    Tales Of Mystery And Imagination Edgar Allan Poe 1976, I Robot 1977, Pyramid 1978;
    Eve 1979, The Turn Of A Friendly Card 1980, Eye In The Sky 1982;
    Ammonia Avenue 1983, Vulture Culture 1984, Live 1985;
    The Best Of 1983, Stereotomy 1985, Gaudi 1987;

    z3520333027654_efddf81807da0c24932849e800f31839.jpg
    Các phiên bản remastered 2007 (7CDs)
    Tales Of Mystery And Imagination Edgar Allan Poe 1976 (2CDs),
    I Robot 1977, Eye In The Sky 1982, Ammonia Avenue 1983;
    Vulture Culture 1984, Stereotomy 1985, Gaudi 1987;
    Alan Parson.jpg
     
    tienhoangmanh and shrekfiona like this.
  18. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408


    Bài Old and Wise của Alan Parsons làm chung với Collin Blunstone có lẽ là bài hát em nghe nhiều nhất. Nhưng các bài khác của Alan Parsons Project em nghe lại ko vào lắm. Thế nên chỉ mua 2 cái này:

    16561757346518404068196009219548.jpg
     
  19. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.898
    Rất nhiều người thích Alan Parsons, đặc biệt album Eye in the Sky .Mình cũng nghe thử vài lần và vài bài nổi tiếng của ban này nhưng không hiểu sao không vô .Vì vậy khi thấy có người trả giá tốt là bán luôn .Lý do là thấy nó thiếu thiếu thế nào ấy. Cảm giác giống như nghe album cuối cùng của Pink Floyd - dòng sông vô tận .- Album này có người trả giá tốt nên bán rồi
     
  20. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Nếu bác có thời gian rảnh nghe mấy cái đầu tiên của nhóm thì cũng hay phết đấy.
     
  21. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Alan Parson thì cũng có một số cái là chất lượng cao thôi bác. Bác nghe mấy cái ấy không phải là những cái hay nhất của ông này.
     
    lenamvl likes this.
  22. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Peter Gabriel

    Ông này có tên đầy đủ là Peter Brian Gabriel - Sinh ngày 13 tháng 2 năm 1950 (Chobham, Surrey, Vương quốc Anh). Trên thực tế, Gabriel là một nhạc sĩ, nhà văn và nhà sản xuất video, và là một trong những nhạc sĩ được yêu thích nhất trong lĩnh vực Progressive Rock. Ông này là ca sĩ và frontman của GENESIS từ năm 1967 đến 1975, nhưng đó là một câu chuyện khác ... Phần viết về Genesis chúng ta cũng nói qua về Peter Gabriel, nhưng chưa thực sự đầy đủ. Đúng ra ông phải nằm trong phần về Crossover Prog. Do đó, chúng ta gặp lại ông này tại đây với bài viết chi tiết hơn.

    GABRIEL bắt đầu sự nghiệp solo của mình vào năm 1977, và kể từ đó ông đã phát hành 8 album phòng thu, 2 album trực tiếp, 3 bản nhạc phim soundtrack và 3 đĩa compilation. Trong các albums của ông này luôn có sự hợp tác của rất nhiều nhạc sĩ lớn khác nhau và chơi theo các phong cách âm nhạc khác biệt. Năm 1977 là thời điểm phát hành album đầu tiên của Peter có tên "Peter Gabriel 1", một năm sau khi "Peter Gabriel 2" được xuất bản, cả hai album đều có âm thanh giống nhau (pop-prog-rock), với sự góp mặt của nhà sản xuất và tay guitar Robert Fripp và Tony Levin của KING CRIMSON (bass), Tony là thành viên tích cực của band nhạc Peter Gabriel kể từ đó. "Solsbury Hill" là đĩa đơn ăn khách trong tác phẩm đầu tiên của GABRIEL, cả hai album đều bao gồm các bài hát kinh điển vẫn đang được biểu diễn tại các chương trình live show của ông.

    Năm 1980, hai sự việc đã xảy ra, một là việc phát hành album thứ ba của Peter "Peter Gabriel 3", đây là tác phẩm hoàn chỉnh nhất cho đến nay theo ý kiến của rất nhiều người hâm mộ, và cũng là nền tảng của WOMAD (World Of Music, Arts and Dance) nơi Peter và các thành viên khác của WOMAD đã chơi một loạt các lễ hội trên khắp thế giới, nơi họ kết hợp âm nhạc truyền thống và hiện đại. Năm 1982 Peter xuất bản album "Security", với một âm thanh khác, mang tính điện tử hơn và đây cũng là lần đầu tiên Peter bắt đầu sử dụng âm thanh kiểu Châu Phi trong các album của mình. Tiếp theo là album live "Peter Gabriel Plays Live". Hai năm sau khi Peter phát hành nhạc phim (OST) đầu tiên "Birdy" (phim của Alan Parker), một sự kết hợp tuyệt vời giữa âm thanh kỳ lạ kiểu thần tiên và âm nhạc thư giãn.


    Chỉ một năm sau, năm 1986 "So" được xuất bản, đây là một album rất nổi tiếng và bán chạy nhất trong sự nghiệp của Gabriel, với âm hưởng pop rõ ràng và các đĩa đơn ăn khách như "Sledgehammer" và "Don’t Give Up" (với sự hợp tác của Kate Bush về giọng hát) và "Red Rain" rất tuyệt vời. Album này đã giành được một số giải thưởng, đặc biệt là cho các video clip rất công phu. Ba năm sau, Peter xuất bản OST thứ hai của mình, "Passion - Last Temptation Of Christ" một bộ phim của Martin Scorcese. Đây là một trong những album thử nghiệm và sáng tạo nhất, với sự kết hợp của nhiều phong cách âm nhạc khác nhau. Sau album này, bản tổng hợp "Shaking The Tree Sixteen Golden Greats" được xuất bản, và vào năm 1988, Peter đã tham gia vào một số buổi hòa nhạc từ thiện, như chuyến lưu diễn "Human Rights Now" cho Tổ chức Ân xá Quốc tế, với các nghệ sĩ như STING, Tracey CHAPMAN, Bruce SPRINGSTEEN và YOUSSOU N´DOUR. Năm 1992, một album mới "US" được xuất bản, một album mang nhiều tính cá nhân, với nhiều loại âm thanh khác nhau và cũng có một số đĩa đơn ăn khách. Tiếp theo là album live "Secret World Live", sau một chuyến lưu diễn thành công.


    Năm 2000, tức là sau 8 năm không xuất bản album phòng thu, "OVO" đã nhìn thấy ánh sáng. Album này là một album concept nối tiếp bởi một chuyến lưu diễn sáng tạo thể hiện câu chuyện về ba giai đoạn tiến hóa của con người, thông qua cuộc sống và trải nghiệm của ba thế hệ trong một gia đình, một người cha yêu trái đất và mọi thứ phát triển từ đó, người con trai yêu thích máy móc, bắt đầu một cuộc cách mạng để giải phóng người dân, nhưng cuối cùng anh ta lại bắt họ trở thành nô lệ, và một người mẹ nhìn thấy tương lai sẽ đến và không thể hòa giải người cha với con trai mình. "OVO" như là một em bé bay lên trời cao và lạc vào một tương lai không chắc chắn. Album này và chuyến lưu diễn "OVO" đã nhận được những đánh giá rất tốt. Hai năm sau thì album nhạc phim OST thứ ba của ông này là "Long Walk Home" được xuất bản. Một album lấy cảm hứng từ bộ phim "Rabbit Proof Fence" của Phillip Noyce. Năm 2002 là ngày ra mắt album phòng thu tiếp theo "Up" - một album cá tính hơn "So" với âm hưởng chiết trung và phong cách âm nhạc rất phong phú, một sự trở lại tuyệt vời của thiên tài này! Một năm sau, tức là năm 2003, một album tuyển chọn mới đã được ra mắt, "Peter Gabriel's Hits", bao gồm những bài hát hay nhất của ông kể từ khi bắt đầu sự nghiệp của mình. Năm 2008, một album phòng thu mới được phát hành "Big Blue Ball" và năm 2010 là "Scratch My Back", New Blood -2011 và And I'll Scratch Yours -2013, chất lượng cũng ở mức tạm ổn.

    Vào năm 2014, Peter Gabriel đã được đưa vào sảnh danh vọng Rock And Roll Hall Of Fame với tư cách là nghệ sĩ solo. Đây là lần thứ hai ông có mặt tại Sảnh (lần trước là vào năm 2010 với tư cách là thành viên của nhóm Genesis). Trong những năm gần đây, Gabriel chủ yếu xuất hiện với tư cách khách mời và làm những album tuyển chọn compilation.

    Bộ sưu tập có các albums định dạng CDs (12)
    3 1980, 4 1982; So 1986
    Us 1992, Up 2002, Play Live 2 1983 (live);
    Passion 1989 (OST), Shaking The Tree 1990 (compilation);

    Peter Gabriel 4.jpg

    Before Us: A Brief History 1992 (compilation)

    Peter Gabriel.jpg
    Big Blue Ball -2010
    Big Blue Ball.jpg
     
    shrekfiona and Wildbird like this.
  23. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Ngoài ra còn có các single 7'':
    Solsbury Hill / Shakin’ The Tree 1977
    z3521735087086_af0ac5e681c7193e5df52bcc14ee3017.jpg
    Games Without Frontiers / The Start, I Don’t Remember 1980
    z3521735051819_ab42f2d4c761d5c6adc69604ca1e4348.jpg
    Biko / Shosholoza, Jetzt Kommt Die Plut 1980
    z3521735057075_66da9a8eb04a29a518c350bc0954c270.jpg
    I Have The Touch / Across The River 1982
    z3521735062671_7223daaba353ff4e216513a0da837f9f.jpg
    Walk Through The Fire / The Race (Larry Carlton) 1984
    z3521735064507_32084cc21fe1fe0530ac2208128cb68f.jpg
    Red Rain / Ga-Ga 1987
    z3521735066695_f8002f1a55e8d17a905c63dc38be0597.jpg
    Sledgehammer / Don’t Break This Rhythm 1986
    z3521735067334_ff51ffebd5eae254f28ce9a1432b728d.jpg
    Big Time / Curtains 1987
    z3521735076346_8273dab8ce617e89ef89500cc1387189.jpg
    Shakin’ The Tree / Old Tucson 1989
    z3521735050042_b540e490a16c09e94513fc568bf5e308.jpg
    Digging In The Dirt / Quiet Steam 1992
    z3521735045032_f426e8f41ff60805847ef6d367f43022.jpg
     
    Wildbird likes this.
  24. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Single 7'' (tiếp theo):

    Solsbury Hill / Moribund The Burgermeister 1977
    z3521735122459_d4b5b74a15af98a14e485c65648c26ea.jpg
    D.I.Y. / Perspective 1978
    z3521735210638_734e2568ffc8ba81a8336f1b3c49c9ca.jpg
    No Self Control / Lead A Normal Life 1980
    z3521735201027_112eb047f1fd8c0d81d6aeb55cedac14.jpg
     
    Wildbird likes this.
  25. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.898
    Nhạc của ông hay ,độc đáo, khác xa với nhạc của Phil Collins.
    Nhiều người đánh giá ông giỏi hơn P Collins nhưng mình khoái P Collins hơn
     

Share This Page

Loading...