Roger Waters em chỉ có Amused to Death, ngoài ra The Wall Live in Berlin cũng có thể tạm tính cho Roger. Ông này có ý tưởng nhưng nhạc tính em cảm giác kém hơn đội còn lại tg PF.
Cũng không hẳn là như thế. Waters có phong cách riêng "ghét cả thế giới". Ông này cũng sáng tác phần lớn các bài hát "đỉnh" của Pink Floyd. Về sau này mới thay đổi theo phong cách bài hát ngắn và đơn giản hơn.
Waters rất siêu. Nhờ có ông mà chất Rock dữ dội đã có mặt trong các tác phẩm kinh điển của Pink Floyd. Sau khi ông ra đi những albums sau này tuy hay nhưng chất Rock mạnh mẽ dữ dội đã biến mất
Em có cái lạ là trong PF thì thích Roger Waters nhất nhưng khi ông này tách ra nghe lại thấy ko vào. Ko hiểu sao cảm giác nó ko được tự nhiên nữa. PF giai đoạn sau ko có R Waters cũng cảm giác ko đã. Chắc do chủ quan!
Ông này bị bệnh hoang tưởng nên phải chữa bệnh một thời gian. Do bệnh tật nên ông đòi giải tán Pink Floyd và mất 2 năm kiện cáo Các thành viên còn lại mới giữ được tên nhóm. Cho dù là thiên tài thì tài năng là hữu hạn nên sau những albums tinh hoa của nhân loại thì tài năng cạn hết. Đây là quy luật của cuộc sống. Muốn duy trì thì phải kết hợp với các tài năng trẻ khác
Sau khi điểm qua các band nhạc của nước Anh, chúng ta sẽ sang một số nước châu Âu khác. Kayak Thành lập năm 1972 tại Hilversum, Hà Lan – Tan rã vào năm 1982. Tái hợp vào năm 1999 và vẫn hoạt động đến tận ngày nay. KAYAK là một band nhạc Hà Lan, có nguồn gốc từ đầu những năm 70. Band nhạc này khởi đầu bằng một thứ âm nhạc chịu nhiều ảnh hưởng từ Symphonic Prog Rock nghiêng vào kỹ năng sáng tác chứ không phải kỹ năng chơi nhạc. Sau đó nhóm chuyển dần sang Crossover đặc biệt là những album giữa và cuối thập kỷ 70s. Dù chất lượng các album không phải quá tệ nhưng nhóm cũng buộc phải tan rã vào năm 1982 khi thị trường thay đổi. KAYAK hồi sinh vào thế kỷ 21, thu âm rất nhiều albums mới và lưu diễn trở lại. Phần lớn những albums mới thu âm gần đây của họ có chất lượng rất tốt. Sự khởi đầu của Kayak rất kỳ lạ, và bất thường kể cả là trong làng nhạc Prog Rock. Đội hình ban đầu của nhóm đều là những người có học hành đàng hoàng. Hầu hết các thành viên đều là nhạc công được đào tạo tại các nhạc viện lớn của Hà Lan. Có điều là trong band nhạc này thì họ lại không sử dụng các kỹ năng được học trong trường: Max WERNER là một tay trống chuyên nghiệp thì đảm nhận vai trò hát chính, Pim KOOPMAN là một nghệ sĩ piano chuyên nghiệp lại nhảy vào chơi trống (đây mới thực sự là tình yêu đích thực của ông này). Nhưng cũng còn may mắn, Ton SCHERPENZEEL đã có thể chơi keyboards, đó là nghề của chính của ông này. Sau đó, từ năm 1977, Pim KOOPMAN rời band nhạc và Max WERNER quay trở lại thành tay trống chính thức. Một người hâm mộ lâu năm là Edward REEKERS đã trở thành ca sĩ mới. Tác phẩm đầu tay "See See The Sun" (1973) của họ thường được coi là album mang nhiều tính Symphonic Prog Rock nhất của nhóm. Âm nhạc trong album này là sự pha trộn của các bài hát Symphonic Prog ngây thơ, nhưng có giai điệu rất du dương và hấp dẫn, gợi nhớ tới GENESIS thời kỳ đầu tiên, Yes và có thể là Supertramp. KAYAK có hai nhà soạn nhạc chính là Ton SCHERPENZEEL và Pim KOOPMAN. Phong cách chịu nhiều ảnh hưởng của nhạc cổ điển của SCHERPENZEEL vẫn rất dễ nhận ra trong suốt sự nghiệp lâu dài của KAYAK. Giọng hát của Max WERNER ('73 -'77) đặc biệt bởi ông này có chất giọng rất cao. KAYAK đã sử dụng nhiều nhạc cụ cơ bản của Symphonic Prog như Moog và Mellotron. Các albums sau đó vẫn có tính Symphonic khá mạnh như Kayak -1974, với các bài hát dài, Royal Bed Bounce 1975, The Last Encore 1976. Các albums đều có chất lượng rất tốt. Sau đó, band nhạc muốn có doanh thu tốt hơn và chuyển hướng sang lãnh thổ nhạc pop pha với Prog với "Starlight Dancer" 1977. Album "Phantom of the Night" -1979 đã trở thành hit lớn nhất trong bảng xếp hạng, nhưng vào đầu những năm tám mươi, họ đã giải tán sau nỗ lực cuối cùng của họ, album Merlin. Mặc dù KAYAK đã thực hiện bảy album vào thời điểm này, nhưng các thành viên của nhóm chưa bao giờ kiếm được một xu từ chúng. Vào thiên niên kỷ mới, KAYAK đã hồi sinh sau hai mươi năm tạm dừng và trở lại với album khá mạnh mẽ "Into the Fire" (2000) "Night Vision" (2001) (với giọng ca mới Bert HEERINK của nhóm VANDENBERG rất nổi tiếng). Sau khi lấy lại được danh tiếng, band nhạc đã tự làm mới mình bằng một album concept pha trộn Symphonic/Pop có tên "Merlin - Bard of the Unseen" -2003 với sự hỗ trợ của dàn nhạc giao hưởng thực sự và giọng hát nữ tuyệt vời của Cindy OUDSHOORN. Album "Merlin - Bard of the Unseen" là album KAYAK hấp dẫn nhất thế kỷ 21 dành cho các fan của thể loại progressive. Những năm sau đó, Kayak tiếp tục phát triển rất mạnh với album Rock – Opera concept "Nostradamus - Fate of Man", kể về cuộc đời của nhà tiên tri vĩ đại một thời, với chất lượng cực tốt. Nhưng đến cuối thập kỷ 2000s thì sự nghiệp của nhóm lại có phần đi xuống với những albums trở về Symphonic nhưng không mấy ấn tượng là Coming Up for Air -2008 và Letters from Utopia -2009. Một chuyến lưu diễn lớn đã được lên kế hoạch để lưu diễn cho 2 album hoàn toàn mới này, nhưng bất ngờ đã xảy ra khi tay trống / nghệ sĩ piano / nhà soạn nhạc Pim KOOPMAN qua đời. Kể từ đó KAYAK khựng lại, không biết phải làm thế nào khi trụ cột của band nhạc không còn. Cuối năm 2010, họ đã tìm được tay trống mới và band nhạc đã quyết định tiếp tục hoạt động. Đội hình mới này tung ra 2 albums là "Anywhere But Here" -2011 và album concept Rock - opera 'Cleopatra - The Crown of Isis, một album đầy tham vọng về cuộc đời của nữ hoàng Ai Cập huyền thoại Cleopatra. Tuy nhiên cả 2 albums vẫn chưa thực sự có chất lượng vượt trội dù đã tốt dần lên. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, hai ca sĩ Cindy OUDSHORN và Edward REEKERS đã thông báo rằng họ sẽ rời KAYAK sau buổi biểu diễn cuối cùng vào năm 2014. Kayak một lần nữa rơi vào bất ổn. Vào tháng 3 năm 2017, Ton SCHERPENZEEL đã giới thiệu hai thành viên mới của band nhạc - ca sĩ Bart SCHWERTMANN và nghệ sĩ guitar Marcel SINGOR - người cùng với chính ông này sẽ trở thành nòng cốt sáng tạo của band nhạc. Lúc này Kayak đã thay đổi rất nhiều trong đội hình - tất nhiên là ngoại trừ bản thân Ton. Điều này có nghĩa rằng đây là sự chuyển đổi đội hình triệt để nhất trong lịch sử lâu dài của KAYAK, một kỳ tích đáng kể sau rất nhiều năm. Đội hình biểu diễn trực tiếp của KAYAK cuối cùng đã được hoàn thành với sự bổ sung của tay bass người Thụy Điển Kristoffer GILDENLÖW (PAIN OF SALVATION) và tay trống Collin LEIJENAAR (AFFECTOR, NEAL MORSE, DAVE BAINBRIDGE). Kris và Collin đã từng chơi cùng nhau trước đó trong band nhạc của Neal MORSE. Đội hình mới này, đáng ngạc nhiên là lại tung ra nhiều albums có chất lượng rất cao trong những năm gần đây như: Seventeen -2018 và Out of This World -2021. KAYAK đã tái sinh một lần nữa như chính cái tên của band nhạc - mặc dù tên này được chọn ngẫu nhiên vào năm 1972. Đúng lúc mọi người dự đoán con thuyền sẽ chìm, nó lại nổi lên và lướt sóng một cách thần kỳ! Bộ sưu tập có các albums: Cleopatra The Crown 2014, Coming Up For Air 2008; Letters From Utopia 2009, Notradamus - The Fate Of Man 2005,See See The Sun 1973;
Todd Rundgren Todd Harry Rundgren - Sinh ngày 22 tháng 6 năm 1948 (Upper Darby, Pennsylvania, Hoa Kỳ) Rundgren đã chơi trong một số band nhạc ở New Jersey và Philadelphia từ giữa đến cuối những năm 60, bao gồm cả nhạc blues của Woody's Truck Stop, trước khi thành lập The Nazz, vào năm 1967. Chơi cả guitar và bass, Rundgren đã lấy cảm hứng từ các band nhạc Anh như The Move & Yardbirds, và khi ký hợp đồng với SGC, họ đã phát hành Nazz vào năm 1969. Khi band nhạc này tan rã, Rundgren đồng thời tham gia sản xuất và hỗ trợ kỹ thuật cho Bearsville Records, đồng thời thành lập band nhạc 'Runt' của riêng mình; đây chính là một phương tiện cho sự nghiệp solo của riêng ông này, màn ra mắt cùng tên phát hành năm 1970 khá thành công, trong đó có Top 40 hit 'We Gotta Get You A Woman'. Tuy nhiên, Todd lại nối tiếng về lĩnh vực sản xuất âm nhạc trước, với các album rất hay cho The Band & Jesse Winchester, trước khi album"Straight Up" của Badfinger mang đến cho ông bản hit "Baby Blue". Thành công này giúp ông này có tiền để sản xuất album đôi theo hướng nhạc power pop được giới phê bình đánh giá cao, 'Something / Anything?' vào năm 1972, nơi ông đã chơi mọi nhạc cụ. Mặc dù cánh cửa thành công với công việc sản xuất âm nhạc đang mở ra trước mắt, ông đã từ chối nó để tiếp tục sự nghiệp âm nhạc với những album rất hay trong thập kỷ 70s như A Wizard, A True Star -1973 và Todd -1974 theo hướng Prog Rock với một số bài hát thử nghiệm khá dài. Âm nhạc của Rundgren đạt mức Prog cao nhất với band nhạc UTOPIA của ông (band nhạc có ba người chơi keyboard), đã phát hành lần lượt Utopia và Initiation of Todd Rundgren vào năm 1974 & 75, và Another Live, giới thiệu tác phẩm thử nghiệm tổng hợp của band nhạc, với hầu hết các bài hát dạng sử thi dài trên 10 phút. Trong thời kỳ này, âm nhạc của ông đề cập đến các chủ đề vũ trụ, phản ánh mối quan tâm mạnh mẽ của ông đối với tôn giáo và triết học phương Đông xa xôi. Đây là giai đoạn tác phẩm solo của Rundgren, song song với band nhạc 'Utopia', sẽ được người hâm mộ nhạc progressive rock quan tâm nhất, vì âm nhạc của ông không chỉ thể hiện ảnh hưởng của psychedelic rock, mà còn là Jazz Fusion tiên phong của các nghệ sĩ như Mahavishnu Orchestra và Frank Zappa. Điều này được củng cố với phong cách sân khấu ngày càng xa hoa, đầy tham vọng của Rundgren, với rất nhiều các chương trình biểu diễn theo chủ đề không gian với các nghệ sĩ như Funkedelic & Parliament. Album Faithful năm 1976 của Rundgren đã chứng kiến sự trở lại với thể loại rock / pop đã mang lại cho ông một số thành công vào đầu những năm 70, với một bên là các bài hát gốc và một bên là các bản cover của 60, chẳng hạn như Good Vibrations. Điều này tiếp tục với Hermit Of Mink Hollow vào năm 1978, sản có đĩa đơn rất ăn khách, 'Can We Still Be friends', với một video âm nhạc sáng tạo, do ông tự sản xuất, báo hiệu những sở thích và dự định trong tương lai của Rundgren. Trong khi đó, âm nhạc của Utopia trở nên phụ thuộc nặng nề hơn vào guitar, nhưng Ra của năm 1977 vẫn thực sự là Prog, trước khi album tiếp theo của họ là Oops, Wrong Planet! theo hướng hard rock / pop. Quyết định mang lại cho Rundgren thành công và trở nên phổ biến hơn với một số bản hit trên đài phát thanh. Vào cuối những năm 70, Rundgren đã sản xuất cho nhiều nghệ sĩ bao gồm Patti Smith, Tom Robinson & The Tubes. Nhưng đến đầu những năm 80s ông đi đầu trong lĩnh vực truyền sáng tạo những video âm nhạc mới; 'Time Heals' là video đầu tiên bao gồm đồng thời cả đồ họa máy tính và biểu diễn trực tiếp. Tuy nhiên, các vấn đề về hãng thu âm lại khiến Utopia của ông có doanh số bán đĩa giảm dần. Điều này cuối cùng khiến ông tập trung vào công việc sản xuất cho các band nhạc như XTC, Bourgeois Tagg & Psychedelic Furs. Từng đi đầu trong lĩnh vực công nghệ, Rundgren thành lập TR-I vào năm 1991, phát hành album theo kiểu điện tử, máy tính hóa là No World Order trên hãng Rhino Records mới thành lập, dưới định dạng CD và Interactive CD Rom. Album này, cùng với phần tiếp theo của nó The Individualist năm 1995, đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt từ giới phê bình, tuy nhiên, lại không mấy thành công trong thương mại. Hệ quả của nó là Rundgren dành phần còn lại của thập kỷ 90s để trở thành 'DJ' hóa và tập trung vào âm nhạc trên Internet; sáng lập PatroNet, một thiết bị cho phép người dùng tải nhạc trực tiếp từ trang web của ông này. Mặc dù có sự nghiệp âm nhạc kéo dài, đa dạng và thường xuyên đổi mới, nhưng khoảng thời gian mà người hâm mộ Prog quan tâm nhất sẽ là những album được phát hành vào giữa những năm 70 thông qua ban nhạc 'Utopia' của ông này; sự nghiệp solo của ông này rất đặc biệt và có giá trị. Người hâm mộ các nghệ sĩ đa dạng như Roy Wood, ELO và Roxy Music, cho đến Frank Zappa, Mahavishnu Orchestra và Bonzo Dog Band, sẽ tìm thấy sự thích thú trong các bản phát hành giữa những năm 70 của ông này, đặc biệt là bản nhạc 'A Wizard, A True Star' mơ hồ, hậu ảo giác '(73), hay xu hướng sử dụng syntherizer trong Todd '(74),' Initiation ' (75) mang nhiều âm thanh điện tử hơn. Bộ sưu tập có các albums (9 CDs): Todd 1974, Runt 1970, Something Anything 1972; Faithful 1975, Initiation 1976 (2 in 1), Nearly Human 1989,No World Order 1993; With a Twist 1997, Liars 2004
Pavlov's Dog Pavlov's Dog được thành lập tại St. Louis, Missouri, Hoa Kỳ vào năm 1973 – tan rã vào năm 1977 – Có tái hợp vào năm 1990 và vẫn tiếp tục hoạt động cho đến ngày nay. Tên của band nhạc dựa trên cảm hứng từ nhà khoa học Pavlov của Nga, người chuyên làm các thí nghiệm với chó và tìm ra phản xạ có điều kiện. PAVLOV'S DOG là loại band nhạc mà rất nhiều người yêu thích nhưng cũng lắm kẻ ghét. Mọi thứ đều rõ ràng chỉ có màu đen hoặc trắng, không có tông màu xám trung tính. Nguyên nhân là do giọng hát đặc biệt của ca sĩ chính David Surkamp của nhóm, nghe gần giống như Geddy Lee khi hát thêm ảnh hưởng của Edith Piaff (ông này có giọng rung đặc trưng của các ca sĩ Pháp). Có thể mất thời gian khá dài để làm quen với giọng hát này, nhưng một khi đã quen, rất có thể bạn sẽ trở thành người hâm mộ của nhóm. Có hai phiên bản về sự ra đời của band nhạc, theo Mike Safron: ông này và Siegfried Carver đã quyết định tạo ra PAVLOV'S DOG, nhưng phiên bản được biết đến nhiều nhất là band nhạc được bắt đầu từ đống tro tàn của một nhóm nhạc nhỏ khác có tên là "HIGH ON A SMALL HILL" nơi David Surkamp và Rick Stockton đã cùng chơi nhạc. Nhưng điều quan trọng là đội hình ban đầu được thành lập tại St. Louis Missouri bởi David Surkamp (hát và guitar), David Hamilton (keyboard), Doug Rayburn (mellotron và sáo), Mike Safron (trống và bộ gõ), Rick Stockton (bass), Siegfried Carver (violin) và Steve Scorfina (guitar) từ năm 1972 đến năm 1973. Trước khi phát hành album đầu tiên, band nhạc đã thu âm một số bản nhạc tại một phòng thu ở Pekin Illinois, theo ý kiến đánh giá của các thành viên trong ban nhạc thì rất hay, trên thực tế là chỉ một vài bản nhạc từ Pekin Tapes lọt vào album đầu tiên của họ, nhưng những bài hát này đã thu hút được sự chú ý của các giám đốc điều hành của ABC Dunhill Records. Ông này thích tới nỗi đã đưa cho band nhạc khoản tiền tạm ứng là US $ 650,000 vào năm 1974. Đây là khoản tiền đáng kinh ngạc tại thời điểm này. Album "Pampered Menial" được tung ra vào năm 1975 và điều đầu tiên thu hút sự chú ý là art work mang tính nghệ thuật đáng kinh ngạc khi sử dụng các chất liệu là bản khắc của Sir Edwin Landseer, người đã qua đời gần 100 năm trước khi band nhạc được thành lập. Âm nhạc chỉ đơn giản là tuyệt vời, vì giống như hầu hết các band nhạc Hoa Kỳ họ đã trộn Symphonic Progressive với Hard Rock, với các bản nhạc xuất sắc là bản hòa tấu Preludin, Julia và Late November. Trong một số thời điểm sau khi thu âm album, PAVLOV'S DOG đã ký hợp đồng với Columbia Records, vì vậy Pampered Menial đã được phát hành hai lần, gần như đồng thời. Phản ứng của mọi người rất đa dạng, yêu hoặc ghét band nhạc, đặc biệt là giọng hát của David Surkamp nhưng album khá thành côngi. Gần như ngay lập tức, họ quay lại phòng thu (lần này là ở New York và Anh) và thu âm album thứ hai "At the Sound of the Bell", có liên quan rõ ràng đến các thí nghiệm của PAVLOV với chó, lần này có Tom Nickeson chơi guitar acoustic. Siegfried Carver đã rời đi ngay sau khi phát hành album này. Theo đánh giá của hầu hết người hâm mộ, "At the Sound of the Bell" là album kinh điển của PAVLOV'S DOG và mang nhiều tính Progressive hơn (Tuy nhiên, album đầu tay dù mang ít tính Progressive hơn nhưng có nhiều đổi mới và độc đáo hơn nhiều). Album thứ ba của ban nhạc có tên "Third", được phát hành dưới dạng bootleg sau khi Columbia cắt đứt mối liên kết của họ với band nhạc và tặng các bản sao của album này cho các thành viên, là album nổi tiếng nhất với một tên ban nhạc khác " The St. Louis Hounds”và hình ảnh những con chó thật của nhà khoa học Pavlov, một cách chơi chữ ẩn dụ khá hay. Band nhạc chính thức tan rã sau một buổi hòa nhạc chia tay thành công tại một chiếc thuyền trên sông St. Louis có tên là The Admiral, nơi họ cố gắng tái hợp tất cả các thành viên ban đầu bao gồm Siegfried Carver, đáng buồn là không có bản thu âm nào về cuộc hội ngộ này, mà theo lời của Rick Stockton là buổi hòa nhạc tốt nhất của họ trong lịch sử. Album thứ tư "Lost in America" được phát hành vào năm 1990 (định dạng CD) bởi một hãng nhỏ ở St. Louis như một nỗ lực để tái hợp band nhạc với chỉ hai thành viên ban đầu (David Surkamp và Dog Rayburn) nhưng chất lượng không cao. Bất chấp câu chuyện ngắn và kỳ lạ của họ, PAVLOV'S DOG vẫn là một trong những band nhạc Progressive có ảnh hưởng nhất đến từ Hoa Kỳ Bộ sưu tập có album: Pampered Menial -75 Và albums: Has Anyone Here Seen Sigfried? 2007 (thực chất là album thứ 3 của nhóm ghi âm năm 1977 nhưng chỉ được phát hành sau đó 30 năm)
Band này em có cái đĩa đầu, Pampered Menial. Các bài hát ngắn, lời hát đơn giản nhưng nhạc chơi nhiều nhạc cụ khác nhau nhưng ko quá phức tạp và tương đối bắt tai.
Saga Được thành lập vào năm 1977 tại Oakville, Ontario, Canada – Sau một sự nghiệp kéo dài và khá thành công, band nhạc này công bố việc giải tán vào năm 2017. Tuy nhiên, do yêu cầu quá lớn của những người hâm mộ trung thành, nhóm tái hợp và tiếp tục sự nghiệp cho đến nay. SAGA ... là một trong những band nhạc Hard Progresssive nổi tiếng nhất của Canada với rất nhiều album xuất sắc. Các albums bao gồm tất cả các yếu tố đã làm nên danh tiếng của band nhạc: sở thích về nhạc giao hưởng, tính giai điệu cũng như tài năng chơi nhạc cụ thực sự của nhóm và những cú riff đầy chất lượng và hiệu quả. Từ năm 1978 đến đầu những năm 1980, SAGA đã liên tục sản xuất một số album rock "progressive" tinh túy như: Saga -78, Images at Twilight -79, Silent Knight -80, World Apart -81 và Heads or Tales -83. Chúng ta cũng nên nhắc lại một chút về lịch sử, tại thời điểm này, Prog Rock đã sụp đổ lần đầu tiên và những band nhạc lớn nhất của dòng nhạc này cũng đã chuyển hướng âm nhạc hoặc tan rã. Nhưng Saga là một band nhạc rất quan trọng của Prog, những album đầu tiên này của nhóm mang một thứ âm thanh Prog hiện đại hơn. Cùng với Eloy, nhóm là niềm cảm hứng rất lớn để giúp xuất hiện những band nhạc theo phong cách Neo- Prog như IQ, PENDRAGON và PALLAS. Các album của Saga hay và khá thành công tại Canada và châu Âu, đặc biệt là tại Đức và Puerto Rico – hiện tại đã trở thành một phần lãnh thổ của Mỹ. Vào đầu những năm 80, họ đã hoàn thiện hơn nữa phong cách của mình và có chuyển dần sang phong cách Hard Rock thông dụng hơn như những người đồng hương Canada của họ là RUSH. Vào năm 1986, nhóm nhạc tách thành 2 với 2 thành viên thành lập Gilmour-Negus Project, những người còn lại tiếp tục chơi cho Saga. Nhưng dù có hợp đồng với hãng đĩa lớn là Atlantic, thứ âm nhạc quá mới mẻ của họ không thành công (lúc này chủ yếu sử dụng công nghệ điện tử thay thế cho các thành viên cũ). Phải tới năm 1989, SAGA bất ngờ tái xuất trở lại với Prog Rock với album được cho là mạnh mẽ nhất của họ cho đến nay: "The Beginner Guide To Throwing Shapes". Sau đó, họ đã thành công và trở lại hoàn toàn với Prog Rock vào năm 1995, phát hành "Generation 13" một album concept thực sự và có chất lượng rất tốt. Trong suốt nhiều năm, họ đã tạo ra thương hiệu âm nhạc đặc biệt và độc đáo của riêng mình. Trong những năm gần đây, nhóm có hợp đồng với một trong những hãng đĩa lớn nhất về Prog Rock là InsideOut. Cùng hãng đĩa này, nhóm vẫn liên tục tạo ra những albums tuyệt vời, chỉ có điều, các đài phát thanh không còn phát những bài hát thông minh, hấp dẫn nữa nên nhóm không gặt hái được quá nhiều thành công về mặt thương mại. Với những fan hâm mộ của các nhóm như KANSAS, ASIA, RUSH, STYX hoặc YES, khả năng rất lớn là cũng sẽ yêu thích âm nhạc của Saga. Bộ sưu tập có 19 albums của nhóm (18 CDs+ 1DVD) Những albums đầu tiên: Saga 1978, Images At Twilight 1980; Silent Knight 1980, Worlds Apart 1981; Những albums pha trộn Hard Rock và Prog: Heads Or Tales 1983, Behaviour 1985; Wildest Dreams 1987, The Beginner's Guide To Throwing Shapes 1989; Những album mang tính thử nghiệm trước khi chuyển về Prog trong thập kỷ 90s: The Security Of Illusion 1993, Stell Umbrellas 1994; Generation 13 1995, Full Circle 1999; Những albums rất hay trong thập kỷ 2000s: House Of Cards 2001 (digibook), Trust 2006; 10 000 Days 2007, The Human Condition 2009 (Digipack); Những album trong thập kỷ 2010s và DVD: Silhouette 2003 (DVD); 20/20 2012, Sagacity 2014 (2CDs);
Spectrum Được thành lập tại Melbourne, Úc vào năm 1969 - Giải tán vào năm 1973 – Tái hợp nhưng không liên tục từ năm 1995 SPECTRUM có trụ sở tại Melbourne là một band nhạc psych, Prog rock của Úc được đánh giá cao. Band thành lập vào năm 1969 xung quanh nhân vật trung tâm của nhóm, nghệ sĩ guitar / ca sĩ / nhạc sĩ người New Zealand, Mike Rudd. Rudd đến Úc vào năm 1966 với nhóm nhạc New Zealand, CHANTS R&B, sau đó chuyển qua hai band nhạc khác - PARTY MACHINE và SONS OF THE VEGETAL MOTHER - trước khi thành lập SPECTRUM với tay bass Bill Putt (cựu thành viên GALLERY và THE LOST SOULS), nghệ sĩ organ Les Neale (cựu thành viên NINETEEN 87) và một cựu thành viên khác của GALLERY là tay trống Mark Kennedy. Ngay trong năm thành lập, SPECTRUM đã chơi các bản cover tác phẩm của những nghệ sĩ đương thời, chủ yếu là phong cách Psychedelic, Prog Rock có tên tuổi như PINK FLOYD, SOFT MACHINE và TRAFFIC trước khi phát triển một phong cách riêng. Âm thanh SPECTRUM được hình thành xung quanh việc chơi đàn Hammond organ rất điêu luyện của Neale - hầu như không cần sử dụng thùng loa Leslie - và phong cách guitar chấm nốt đặc biệt (finger picking) của Rudd (phong cách riêng mà ông này tạo ra và sử dụng để tránh bị so sánh với các nghệ sĩ guitar thành công hơn vào thời điểm đó). Tên bài hát và ca từ thường mang tính hài hước và khác thường của ông này, cộng với chất giọng khác thường và đặc biệt làm nên thương hiệu riêng của nhóm. Thêm vào đó , là phần nhịp điệu rất điêu luyện và đáng tin cậy của Putt và Kennedy và phương thức của SPECTRUM đã hoàn thành. Sau khi biểu diễn thường xuyên tại nhiều địa điểm hòa nhạc ở Melbourne, SPECTRUM đã trau dồi âm thanh của mình và phát triển các chất liệu gốc. Vật liệu này cuối cùng sẽ được đưa vào album SPECTRUM đầu tiên, "Spectrum Part One". Trên sân khấu biểu diễn rất trau chuốt của mình, SPECTRUM đã sử dụng rất nhiều thiết bị, hệ thống PA khổng lồ và có đầy đủ ánh sáng. Chi phí thiết bị quá đắt đỏ đồng nghĩa với việc cần phải có nhiều buổi hòa nhạc để tạo ra thu nhập hiệu quả và việc đặt chỗ không phải lúc nào cũng dễ dàng vì một số nhà quảng bá cho rằng âm thanh của SPECTRUM 'quá Progressive'. Vì vậy SPECTRUM phải vật lộn để kiếm sống qua buổi hòa nhạc vòng quanh đất nước, một thay đổi đáng kể đã xảy ra trong luật pháp Úc khi một số bang sửa đổi tuổi trường thành từ 21 xuống 18. Việc hạ thấp độ tuổi hợp pháp để uống rượu đã sinh ra quán rượu. nhạc rock, thay đổi mãi mãi mạch nhạc biểu diễn sống của Úc; các quán rượu có bia rẻ để cung cấp cho cơ sở tuyệt vời cho nền âm nhạc khi nhu cầu rượu bia tăng mạnh và các quán bar có thể thuê các band nhạc chơi nhạc sống trong bầu không khí náo nhiệt nơi thính giả nghiêng mình theo âm thanh rock 'n' roll. Hiện tượng mới này gây bất lợi cho các sự kiện hòa nhạc lớn hơn được tổ chức tại các địa điểm không được cấp phép. SPECTRUM (và các nhóm "dẫn đầu" khác), họ cần những buổi hòa nhạc lớn hơn và một lứa khán giả chuẩn bị sẵn sàng để ngồi và tiếp thu âm nhạc thường khá phức tạp; những buổi hòa nhạc này ngày càng ít hơn khi "sự lên ngôi tức thì" của pub rock đơn giản hơn nhiều. Do có báo chí lớn chống lưng và một lượng người hâm mộ trung thành, SPECTRUM vẫn hoạt động tốt vào năm 1970. Nhưng để tồn tại SPECTRUM cần phải chơi trong các quán rượu, nơi khán giả nhỏ tuổi muốn khiêu vũ hơn là nghe nhạc. Không muốn hy sinh hoặc làm hỏng âm thanh SPECTRUM, Rudd đã tạo ra một phiên bản SPECTRUM mới thay đổi bản ngã với sự kết hợp của một bộ tứ giống như một band nhạc rock 'n' roll dưới tên INDELIBLE MURTCEPS (MURTCEPS là đảo ngược của SPECTRUM). Hóa thân MURTCEPS có thể chơi rock 'n' roll ở các địa điểm nhỏ hơn với ít thiết bị hơn và không có trình diễn ánh sáng. MURTCEPS đã mang đến cho nhóm một cách kiếm tiền xen kẽ giữa các buổi hòa nhạc lớn cần thiết để SPECTRUM có thể sải cánh bay cao - một cơ chế tồn tại để cho phép band nhạc tiếp tục chơi nhạc Progressive, vốn là hồn cốt của nhóm. Việc Lee Neale sử dụng đàn piano điện với dòng MURTCEPS thay vì đàn Hammond như được sử dụng trong dòng SPECTRUM là một sự khác biệt đáng kể trong âm thanh của hai cấu hình này của cùng một nhạc sĩ. Vào khoảng thời gian MURCTEPS ra đời, SPECTRUM đã bảo đảm một hợp đồng ghi âm với hãng ghi âm thuộc EMI còn non trẻ, là Harvest. SPECTRUM đã thu âm và phát hành sáng tác của Rudd 'I'll Be Gone' dưới dạng đĩa đơn. Nó đã trở thành một hit lớn trên khắp đất nước, trở thành số 1 trên bảng xếp hạng quốc gia. Bài hát đã tồn tại đủ lâu để trở thành một trong những bài hát mang tính biểu tượng lớn của Úc. (MANNFRED MANN'S EARTH BAND đã thu âm bản cover của 'I'll Be Gone' trong album năm 1974, "The Good Earth".) Ngay sau khi thu âm đĩa đơn SPECTRUM đã tiếp tục thu âm các bài hát cho album đầu tiên của mình. Vào tháng 8 năm 1970, ngay sau những buổi thu âm này, tay trống Mark Kennedy rời đi vì những lý do được đồn đại là thiếu kiên nhẫn với sự thành công chậm trễ của band nhạc. Ông này nhanh chóng được thay thế bởi Ray Arnott ( cựu thành viên của các nhóm như CHELSEA SET, THE BROWNS, COM-PACT và COMPANY CAINE). Arnott đã bổ sung thêm chiều sâu cho SPECTRUM, ngoài nhiệm vụ đánh trống; ông cũng là một ca sĩ và nhạc sĩ sáng tác. Vì muốn giới thiệu album đầu tiên như một tác phẩm Progressive, SPECTRUM đã thuyết phục EMI phát hành "Spectrum Part One" chỉ với các bài hát được thu âm trong thời gian thực hiện album và bỏ qua 'I'll Be Gone', vì bài hát này không phù hợp với âm thanh của band nhạc đang phát triển. Phát hành vào tháng 4 năm 1971 và mặc dù đã thoát khỏi single phổ biến, "Spectrum Part One" khá thành công ở thị trường nội địa. Nó đạt vị trí thứ 13 trên bảng xếp hạng album của Úc. Vẫn vào năm 1971, SPECTRUM quay trở lại phòng thu âm để tạo ra các bài hát cho album thứ hai, "Milesago". Được phát hành vào tháng 1 năm 1972 "Milesago" là bộ 2LP đã mang lại cho band nhạc nhiều điều kiện mở rộng hơn để khám phá và thử nghiệm âm nhạc của mình. Với sự hoan nghênh của giới phê bình, "Milesago" có ý nghĩa quan trọng ở chỗ nó là LP đôi đầu tiên của nhạc rock Úc – và cũng là LP đôi thứ hai của các band nhạc Úc trong tất cả các thể loại âm nhạc. Album cũng rất hay và một lần nữa, có một mức độ thành công đáng kể khi "Milesago" đạt vị trí thứ 16 trên bảng xếp hạng album quốc gia. "Milesago" cũng có ảnh bìa tuyệt vời của nghệ sĩ nổi tiếng Ian McCausland. Vào tháng 1 năm 1973, album tiếp theo, "Warts Up Your Nose", được phát hành với tên INDELIBLE MURTCEPS. "Warts Up Your Nose" chứa đầy nội dung hài hước về khiêu dâm, tình dục và toilet. Lúc này Mike Rudd sử dụng nghệ "My Crudd". Album được đóng gói trong một chiếc bìa cứng màu nâu được trang trí bằng một nhân vật hoạt hình đơn giản, có vẻ như được vẽ bởi chính Rudd, có ý nghĩa là tài liệu khiêu dâm được phân phối trong 'một cái bọc trơn màu nâu'. "Warts Up Your Nose" sẽ là tác phẩm cuối cùng của Lee Neale với SPECTRUM. Ông này sau đó đáng buồn là đã buộc phải rời khỏi ban nhạc vì vấn đề sức khỏe. John Mills - một người gốc Canberra - xuất hiện để thay thế Neale trên keyboard và SPECTRUM trở lại phòng thu. Kết quả là "Testimonial", bản phát hành thứ hai năm 1973, được ghi nhận dưới cái tên kép SPECTRUM / INDELIBLE MURTCEPS. Có 10 bài hát trong album, với năm bài hát được ghi có cho mỗi band nhạc, nhưng lại sắp xếp lộn xộn không theo thứ tự. Nhưng do không còn Neale, những điều kỳ diệu và sáng tạo từ hai album đầu tiên đã mất và "Testimonial" không mang lại thành công thương mại như trước nữa. Phần kết của SPECTRUM được miêu tả vào tháng 3 năm 1973 khi Ray Arnott nói với các thành viên còn lại của band nhạc rằng ông sẽ rời đi để tham gia một nhóm mới, MIGHTY KONG (với Ross Wilson của DADDY COOL nổi tiếng, và là thành viên band nhạc cũ của Rudd là PARTY MACHINE và SONS OF THE VEGETAL MOTHER ngày nào). SPECTRUM kết thúc bằng buổi hòa nhạc chia tay vào tháng 4 năm 1973 tại Hội trường Dallas Brooks tại Melbourne. Buổi hòa nhạc này bao gồm toàn bộ âm nhạc của hành trình SPECTRUM / MURTCEPS. Buổi hòa nhạc được thu âm và phát hành vào tháng 12 năm 1973 với tư cách là album SPECTRUM cuối cùng, cũng là một album kép 2LP "Terminal Buzz" – và một lần nữa, album lại được thiết lập như một đĩa đôi của SPECTRUM / INDELIBLE MURTCEPS. Hai album đầu tiên, "Spectrum Part One" và "Milesago", là những tác phẩm Prog Rock quan trọng trong sự nghiệp của SPECTRUM. Cả hai đều đã được hãng thu âm chuyên phát hành lại của Úc, Aztec Music, phát hành lại dưới định dạng CD và các bản nhạc bonus. Sau SPECTRUM, Mike Rudd và Bill Putt thành lập một nhóm mới, ARIEL, vào giữa năm 1973. Nhóm này có một nghệ sĩ guitar tài năng là Tim Gaze. ARIEL có rất ít thành công về mặt thương mại mặc dù đã phát hành một số album và tan rã vào năm 1977. Tiếp tục mối quan hệ thân thiết của họ, Rudd và Putt đã trở thành đối tác của một chuỗi các band nhạc: dự án PATCH do Peter Dawkins lắp ráp trong phòng thu, INSTANT REPLAY, THE HEATERS, W.H.Y. , NUMBER 9 và BURWOOD BLUES BAND). Vào những năm 1990, đã có nhiều cuộc tái hợp khác nhau của cả hai thực thể SPECTRUM và ARIEL. Gần đây hơn, SPECTRUM đã biểu diễn trở lại dưới dạng một bộ ba trio, đồng thời cũng đã biểu diễn và thu âm dưới cái tên là SPECTRUM PLAYS THE BLUES. Tình bạn và sự hợp tác Rudd-Putt đã bước sang trong thập kỷ thứ tư và tiếp tục cho đến ngày nay. Một EP gồm sáu ca khúc – là bản phát hành đầu tiên của bộ bốn EP khá tham vọng - có tên "Breathing Space" ra mắt vào năm 2008 dưới tên SPECTRUM. Chúng ta có thể tìm hiểu thêm về sự nghiệp lâu dài và tiếp theo của Mike Rudd và Bill Putt tại trang web của họ là mikeruddbillputt.com. Bộ sưu tập có album: Spectrum Part One -1971
Chúng ta đã điểm qua những band Crossover Prog trong thập kỷ 70s, tiếp theo là thập kỷ 80s. Thập kỷ này không có nhiều bands Prog nhưng thực chất thì lại toàn là những band rất hay. Trước tiên là Talk Talk Talk Talk Thành lập năm 1981 tại Luân Đôn – tan rã vào năm 1991. Được thành lập vào năm 1981 bởi nhạc sĩ đa nhạc cụ Mark HOLLIS, TALK TALK bắt đầu như một band nhạc synth pop khá điển hình của thập niên 80. Sau đó, với sự tham gia của nhà sản xuất kiêm nghệ sĩ keyboard Tim Friese-Greene vào năm 1983, band nhạc bắt đầu thử nghiệm với những ảnh hưởng của nhạc jazz và cổ điển, đôi khi gợi lên những band nhạc ảo giác kiểu CAN và PINK FLOYD vào cuối những năm 60s. Với phong cách sản xuất cắt và dán, Hollis và Friese-Green đã sử dụng các bản thu âm của nhiều nhạc sĩ khách mời rất đa dạng và phong phú để tạo ra các tác phẩm độc đáo trong một bầu không khí atmospheric đáng kinh ngạc. Vào đầu những năm 90s, đấu tranh trong nội bộ của band nhạc và sự thiếu hỗ trợ tuyệt đối từ các công ty thu âm (cộng thêm việc họ từ chối phỏng vấn, làm video hoặc thậm chí đi lưu diễn thường xuyên) đã khiến Hollis tự mình mạo hiểm lao vào nhạc thử nghiệm, nơi ông tiếp tục khám phá những giới hạn mới âm nhạc mới: chủ yếu là các hình thức trừu tượng và tối giản. Mặc dù các bản phát hành như "The Party Over" năm 1982 và "It's My Life" năm 1984 đã tạo ra sự quan tâm đáng kể và một số thành công nhất định, TALK TALK bắt đầu phát triển qua synth-pop với "The Color of Spring" vào năm 1986, chứa đựng những điều như trêu ngươi thị hiếu khán giả về những gì đã qua. Âm thanh quyết định cuối cùng đã xuất hiện trong hai bản phát hành tiếp theo của họ, "Spirit of Eden" (1988) và "Laughing Stock" (1991). Những album này là những lời tuyên bố thực sự độc đáo; Có vẻ như ở dạng tự do và trừu tượng, các bài hát bộc lộ là những khung cảnh nhạc được xây dựng tinh vi, nơi mỗi nốt - hoặc thậm chí mỗi khoảnh khắc im lặng - đều cần thiết và có sức truyền cảm mạnh mẽ. Các nhạc cụ và giọng hát đan xen lẫn nhau, đôi khi chỉ đóng góp một âm thanh trầm lắng trước khi biến mất, đôi khi đụng đến một cao trào đầy đau đớn. Mặc dù không có nghĩa là prog-rock theo tiêu chuẩn, TALK TALK (ở đỉnh cao của họ) chia sẻ với những band nhạc vĩ đại của thể loại nhạc này một công cuộc khám phá nhạc cụ và sẵn sàng từ bỏ các cấu trúc truyền thống. Những người đang tìm kiếm các nghệ sĩ khéo léo bậc thầy như Wakeman, McLaughlin, Emerson sẽ thất vọng, nhưng những người thích kết cấu trừu tượng chuyển đổi, yên tĩnh hơn của thời kỳ "Starless" - KING CRIMSON có thể cảm thấy thoải mái như ở nhà. Hiếm khi có âm nhạc nào vừa mang tính nghệ thuật, vừa mang tính khái niệm nhưng đồng thời cũng chân thực đến như vậy. Bất kể sở thích âm nhạc của bạn là gì, hai album cuối cùng không giống với bất kỳ album nào khác đã từng được thu âm và rất đáng được nghe, nhất là với những người coi trọng việc khám phá trong âm nhạc. Bộ sưu tập có 6 CDs: It's My Life 1984, The Colour Of Spring 1986 (2 in 1 - remastered), The Colour Of Spring 1986; Spirit of Eden 1988, Laughing Stock 1991, The Very Best of Talk Talk 1997 (compilation);
David Sylvian Ông này có tên đầy đủ là David Alan Batt - Sinh ngày 23 tháng 2 năm 1958 (tại Beckenham, Anh Quốc). Thật khó để mô tả âm nhạc của David SYLVIAN. Nó là ambient, nhưng tối tăm, mặc dù không nặng nề với giọng hát âm sắc thính phòng và lối chơi mang nhiều chất thử nghiệm. David SYLVIAN bắt đầu sự nghiệp âm nhạc vào thập kỷ 70s. Năm 1974, ông thành lập JAPAN, lúc đầu là một band nhạc chơi theo phong cách glam rock, nhưng cuối cùng phát triển thành một nhóm nhạc new wave, synth-pop đầy phong cách. Sau một sự nghiệp khá thành công, Japan bị giải thể vào năm 1982. Album solo đầu tiên của SYLVIAN "Brilliant Trees" được phát hành vào năm 1984 với sự góp mặt của Richard Barbieri (một thành viên của Japan) và Holger Czukay (cựu thành viên của CAN). "Brilliant Trees" là một bản thu âm mang rất nhiều tính atmospheric, pha trộn giữa funk, jazz và ambient trong một thứ âm nhạc chiết trung tuyệt đẹp. Album solo tiếp theo của David SYLVIAN là "Gone to Earth" với sự tham gia của Robert Fripp, Mel Collins và các đồng nghiệp cũ của SYLVIAN tại Japan là Barbieri và Steve Janson. Mặc dù album cũng rực rỡ như đĩa nhạc trước đó của ông này, nhưng nó khó tiếp cận hơn, do đó nhận được phản ứng kém tích cực hơn từ các nhà phê bình. Năm 1987 SYLVIAN phát hành album thành công nhất và được giới phê bình đánh giá cao "Secrets of the Beehive". Một bản thu âm đẹp và nhẹ nhàng được thực hiện với sự giúp đỡ của Ryuichi Sakamoto với những bài hát hay và cách dàn dựng thanh lịch. Sau ba đĩa solo, David SYLVIAN đã thực hiện việc hợp tác với các nhạc sĩ khác. Năm 1988-1989, ông phát hành hai album với Holger Czukay. Năm 1993 chứng kiến sự ra đời" The First Day ", một trong những bản ghi âm chuyên nghiệp vĩ đại nhất với Robert Fripp, tiếp theo là album live "Damage" có sự góp mặt của Trey Gunn và Pat Mastelotto, sẽ là thành viên của KING CRIMSON sau đó. Tiếp theo là tuyệt phẩm "Dead Bees On A Cake " vào năm 1999; " Approaching Silence ", một album tuyển chọn các bài hát hòa tấu, xuất hiện vào cuối mùa thu cùng năm. Vào mùa thu năm 2000 SYLVIAN trở lại với đĩa đôi "Everything & Nothing", đĩa này đã giới thiệu một cách xuất sắc về một số dự án của SYLVIAN. Sau này, David SYLVIAN vẫn tiếp tục phát hành những albums mới, theo đuổi những phong cách khác nhau: từ tối giản tới ambient, sang Jazz rồi sang cả Avant Garde… Rất nhiều album có chất lượng rất tốt. Bộ sưu tập có các albums (8CDs): Brilliant Trees 1984, Alchemy An Index Of Possibilities 1985, Gone To Earth 1986; Secrets Of The Beehive 1987, The First Day (With Robert Fripp) 1993, Camphor 2002; Manafon 2009,There's A Light That Enters Houses With No Other House In Sight -2014;
Em có mỗi 1 cái Blemish của David Sylvian, đĩa Trung Quốc lâu lắm rồi. Mới mua thì nghe ko nổi vì nhạc kiểu tối giản cảm giác tẻ nhạt nhưng bẵng đi mấy năm tự nhiên có hôm lôi ra nghe lại thấy hay kinh khủng!
Nghe nhạc cũng là cả một quá trình tích lũy, mới đầu chưa nghe quen kiểu những band như Japan, Rain Tree Crow thì nghe David Sylvian khó mà thấy hay được. Nhưng đến lúc nghe vào rồi thì thấy quá tuyệt vời.
It Bites Được thành lập tại Egremont, Vương quốc Anh năm 1982 - Giải tán năm 1990 – Tái hợp lại vào năm 2006 IT BITES được thành lập vào giữa những năm 1980 bởi ca sĩ kiêm nghệ sĩ guitar Francis DUNNERY, tay bass Dick NOLAN, tay trống Bob DALTON và tay keyboard John BECK. Âm nhạc của họ là một trong các ví dụ điển hình của những band nhạc Prog Rock cố gắng để trở thành mainstream hóa, như một số album của band nhạc PENDRAGON (thực chất đây là một band Neo-Prog). Khả năng pha trộn reggae, pop và new age của họ vào một nền tảng Metal thật đáng kinh ngạc. Âm thanh lớn và giai điệu mạnh mẽ kết hợp tạo thành một loại cocktail mà bất kỳ người hâm mộ nào cũng sẽ đánh giá cao. Bất kỳ ai nghe nhóm này lần đầu tiên đều như đang tham gia một chuyến tàu lượn siêu tốc có âm thanh. IT BITES nên được coi là một band nhạc đáng để sưu tầm cho tất cả những khán giả của các band nhạc Prog Rock Anh Quốc thế hệ sau này như PENDRAGON, BIG BIG TRAIN, MARILLION, v.v.. Band nhạc đã trưởng thành với "Once Around the World", mang ảnh hưởng của nhạc rock truyền thống nhiều hơn. Bản phát hành này mang nhiều tính Progressive nhất với ca khúc chủ đề dài 15 phút rất tuyệt vời...! Bản phát hành cuối cùng trong giai đoạn đầu tiên của họ, "Eat Me in St. Louis", thực ra là một tập hợp các tài liệu mới nhưng chưa kịp phát hành. Album này cho thấy họ thực sự là một trong những band nhạc tốt nhất để kết hợp thành công nhạc progressive rock với những thể loại thiên về pop hơn. Dù sao, trong thập kỷ 80s, IT BITES thực sự là một band nhạc PROG tuyệt vời. Sau này band nhạc đã tái hợp lại với một ca sĩ chính và tay guitar mới John MITCHELL (Kino, Arena, Frost), vì Francis Dunnery không còn sẵn sàng trở lại để đóng góp cho một album mới. Đáng nói hơn, sau khi tái hợp, IT BITES tiếp tục viết tài liệu mới và tung ra 2 albums có chất lượng rất tốt là The Tall Ships -2008, Map of the Past -2012. Bộ sưu tập có 2 albums: The Tall Ships -2008, Map of the Past -2012
Bác @no1knows ơi cho e hỏi chút, các đĩa rock cổ thập niên 60, 70 của bác nghe có bị sai âm hình ko ạ? VD hôm nay e nghe bài King Crimson - Moonchild (Including "The Dream" And "The Illusion") (số 4 trong albumn In the Court of the Crimson King) thì thấy đoạn đầu bài tiếng hát bị lệch hết về loa phải còn tiếng trống vẫn ở giữa. Hoặc như albumn The Beatles - A Hard Day's Night Full Album thì có mấy bài nghe tiếng hát thuần ở loa phải, ko có tý nào ở loa trái. Em đang thắc mắc có phải nguồn file nhạc của em có vấn đề ko (
Bác thử nghe cái Hot Rats của Frank Zappa hay những cái như Sing to God của Cardiacs, Uzed của Univers Zero, Trout Mask Replica của Captain Beefheart xem sao.
Cái này phụ thuộc vào bản ghi âm bác ơi, nhưng của em nghe thì không bị. Một bên tiếng thu nhỏ hơn một chút thôi.
Cross Sự nghiệp của ban nhạc Thụy Điển này trải dài hơn 10 albums (bao gồm một cd giao hưởng mini) được phát hành từ năm 1988 đến nay. Âm nhạc của họ đã phát triển từ mượt mà, giống như nhạc kiểu floydian đến đen tối, với tỉ lệ gần như Crimsonesque trong những năm qua. Phong cách của họ nói chung có thể được mô tả là tân cổ điển nặng nề, phức tạp với sự nhấn mạnh vào giai điệu. Ban nhạcd được thành lập bởi tay cựu guitar của nhóm VON LYX là Hansi Cross, người có tác phẩm guitar rất giàu cảm xúc (đôi khi gợi nhớ đến Steve Hackett) mang lại cho band nhạc một âm thanh gần với âm thanh của IT BITES. Về giọng hát của Cross, chúng hơi gợi nhớ đến Dave GILMOUR. Ba album đầu tiên của họ - sau này được tập hợp lại trên album tổng hợp "Dream Reality" - cung cấp một hỗn hợp các bài hát dạng sử thi dài epic xen kẽ với một vài bài hát pop; chúng chủ yếu gợi nhớ đến PINK FLOYD và TWELFTH NIGHT (band nhạc tiên phong của Neo Prog), và có lẽ ở một mức độ nào đó là GENESIS thời kỳ "Wind and Wuthering" nhưng với một cách tiếp cận nặng nề hơn nhiều. Bốn album sau (bắt đầu bằng "Paradox") nặng nề, u ám hơn và hơi giống với RUSH, ECHOLYN hoặc ANEKDOTEN. Họ có những bản độc tấu guitar dài đầy tính giai điệu du dương với việc sử dụng nhiều keyboards nhưng cũng mang đủ dấu ấn về chỉ số nhịp (time signature) để gợi nhớ về KING CRIMSON. Những album sau này của nhóm, từ 2009 trở lại đây, mang nhiều âm hưởng của Pink Floyd và có lẽ của The Beatles nữa. Tất cả đều có chất lượng rất tốt. Ba album đầu tiên của nhóm sẽ dành cho những người yêu thích phong cách Prog kiểu GALLEON hoặc GRAND STAND. Âm thanh nặng nề hơn trong các album sau này của họ sẽ thu hút nhiều người hâm mộ ANEKDOTEN, LANDBERK và MORTE MACABRE. Bộ sưu tập có 3 albums: Gaze 1996; Wake Up Call 2012, Da Capo 2015;
Vâng bác, chắc do bản thu của e ko tốt. E nghe tai nghe cũng thấy bị tình trạng loa phải thì phát tiếng hát còn loa trái thì toàn ghi ta bass
Chúng ta bước sang thập kỷ 90s với rất nhiều những band nhạc hay. Trước tiên là Rain Tree Crow Rain Tree Crow Rain Tree Crow có thể coi là một album của David Sylvian hoặc Japan chẳng hạn. Nhưng về mặt âm nhạc thì có nhiều nét tương đồng với Sylvian hơn là Japan. Đội hình của nhóm chính là đội hình của Japan nhưng chơi âm nhạc nghiêng nhiều về Prog Rock hơn. Với việc JAPAN đã thành công vào đầu những năm 80, rất ít người từng mong đợi được nhìn thấy David SYLVIAN, Mick KARN, Steve JANSEN và Richard BARBIERI trong phòng thu một lần nữa hoặc thực sự sản xuất một bộ sưu tập các bài hát tuyệt vời như vậy dưới biệt danh RAIN TREE CROW như trường hợp này vào năm 1991. Phong cách của các bài hát là cách tổng hợp rất nhiều chất liệu từ cả 4 nhạc sỹ. Sau khi Japan tan rã, cả 4 người đều tham dự sự nghiệp solo với nhiều phong cách khác biệt: Sylvian theo phong cách Crossover kết hợp với rất nhiều dòng nhạc khác nhau, Barbieri có sự nghiệp nghiêng nhiều về ambient và Electronic, Karn lại chuyển sang Art Pop và Jazz Rock Fusion còn Jansen (thực chất là em ruột của Sylvian) chơi theo kiểu Art Rock, Ambient và Electronic. Thời gian thì trôi qua đã lâu, và âm nhạc của nhóm lúc này không còn là Japan nữa, mỗi nhạc sĩ coi là nghệ sĩ solo với những dải âm thanh rộng rãi, thường là ngẫu hứng, treo trên các đoạn lặp lại không theo tiêu chuẩn nào cả. Chính vì lý do này họ đổi thành Rain Tree Crow. Album duy nhất cùng tên nhóm tung ra vào năm 1991. Album có chất lượng đáng kinh ngạc. Nhưng rất tiếc là không có kế hoạch cho bất kỳ album nào tiếp theo. Sylvian sau đó giải thích rằng do 'sự khác biệt' trong đường lối âm nhạc như một lý do thông dụng cho sự kết thúc của dự án. Bốn thành viên một lần nữa đi theo những cách riêng biệt hơn. Tuy nhiên, album duy nhất của nhóm là sự bổ sung xứng đáng cho bất kỳ bộ sưu tập nào. Bộ sưu tập có album duy nhất này
Mark Hollis Hollis có tên đầy đủ là Mark David Hollis, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1955 (tại Luân Đôn, Vương quốc Anh) – qua đời vào tháng 2 năm 2019. Hollis chính là thủ lĩnh của band nhạc Talk Talk, một trong những band nhạc hay nhất của thập niên 80s. Sau khi Talk Talk tan rã, MARK HOLLIS có thời gian nghỉ ngơi khá dài trước khi bắt đầu sự nghiệp solo của mình vào cuối những năm 1990. Là em trai của Ed Hollis, một tay DJ và đồng thời là nhà sản xuất âm nhạc, ông này chính là người đã quản lý các band nhạc như Eddie and the Hot Rods, dự định ban đầu của Mark là trở thành một nhà tâm lý học trẻ em. Nhưng vào năm 1975, ông này quyết định rời trường đại học để chuyển đến London, cuối cùng thì thành lập một ban nhạc có tên THE REACTION. Khi band nhạc này tan rã, thông qua anh trai của mình, HOLLIS đã gặp gỡ các nhạc sĩ mà sau này sẽ cùng ông thành lập TALK TALK. Talk Talk đã tung rã rất nhiều album để đời, phát triển một thứ âm nhạc riêng biệt của riêng họ với chất lượng rất cao. Bất chấp những lời khen ngợi hết lời từ giới phê bình, vào đầu những năm 90, mối quan hệ của band nhạc với EMI tan vỡ, trong khi xung đột về mặt tính cách ngày càng gia tăng nhanh chóng dẫn đến sự sụp đổ của band nhạc huyền thoại này ngay sau khi hoàn thành album "Laughing Stock" năm 1991. Sau đó HOLLIS biến mất khỏi thế giới âm nhạc trong bảy năm. Album solo đầu tay cùng tên của ông được phát hành vào năm 1998, là phần thứ hai của hợp đồng hai album cho Polydor; album này sau đó được phát hành lại vào năm 2000. Sau đó, dưới bút danh "John Cope", HOLLIS hợp tác với các nghệ sĩ tối giản Phill Brown và Dave Allinson rồi tung ra album " A/V Installation" cũng được phát hành vào năm 1998. Ông này sau đó cũng trở thành nhà sản xuất cho album "Smiling and Waving" của ANJA GARBAREK (phát hành đầu năm 2001), trước khi rút lui hoàn toàn khỏi thế giới âm nhạc vào năm 2000. Ông này qua đời vào năm 2019 vì bệnh ung thư. Dù sự nghiệp solo chỉ có một album duy nhất. Âm nhạc của Hollis, cũng như Talk Talk thật tuyệt vời. Bộ sưu tập có album Mark Hollis duy nhất này.