Nghề chơi cũng lắm công phu - những bộ sưu tập hay (Phần 2)

Discussion in 'Âm nhạc' started by no1knows, 22/1/21.

  1. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    David Bowie

    (tiếp theo)

    Singles

    Modern Love / Modern Love (Live version): Modern Love là single thứ 3 trong album Let’s Dance nhưng lại là bài hát mở đầu cho chính album này. Chúng ta đã biết rằng hầu hết các single đều tuyệt vời và bản này cũng không phải là ngoại lệ. Nile Rodgers tiếp tục là là nhà đồng sản xuất. Nile ban đầu hy vọng sẽ thực hiện một "album Avant Garde, rất phi thương mại" với Bowie. Tuy nhiên, sau khi thu âm ca khúc chủ đề và "Modern Love", Bowie đã yêu cầu Rodgers "tạo ra một bản nhạc có tính thương mại tuyệt vời...". Kết quả là một bài hát nhạc Rock pha lẫn với New Wave và Soul. Một bản nhạc Rock kiểu Little Richard pha lẫn với phần âm thanh kèn jazz rất tinh vi. Little Richard là "anh hùng nhạc rock đầu tiên" của Bowie. Bài hát có sự góp sức của nghệ sĩ guitar blues đang lên lúc bấy giờ Stevie Ray Vaughan. Bài hát này cũng rất thành công khi lên hạng 14 tại Mỹ và hạng 2 tại UK.
    z4112517233656_18f35dc0d89666691837a461d5ebdcfd.jpg
    White Light/White Heat / Cracked Actor: Chúng ta đã biết rằng Lou Reed có lẽ là người có ảnh hưởng lớn nhất tới âm nhạc của Bowie. Bowie là một trong số 1000 con người thần thoại đã có trong tay album của Velver Underground vào năm 60s và sau đó ra thành lập band nhạc. Tất nhiên, ban nhạc đó là Spiders, buổi biểu diễn cuối cùng của band nhạc này được phát hành vào năm 1983 để đánh dấu kỷ niệm 10 năm thành lập. Bản nhạc cover này của Velvet đã được xem xét để đưa vào Pin Ups, nhưng cuối cùng đã không xuất hiện. Nhưng như vậy có thể lại là điều may mắn vì không có phiên bản phòng thu nào có thể vượt qua năng lượng khủng khiếp mà các chàng trai (còn rất trẻ này) tạo ra trên sân khấu. Đây là ca khúc có ý nghĩa lịch sử đặc biệt vì nó là ca khúc áp chót của buổi biểu diễn, trước bài phát biểu "nghỉ hưu" nổi tiếng của Ziggy (bài hát cuối cùng, tất nhiên, là "Rock 'n' Roll Suicide"). Bản cover chói tai này là lần cuối cùng chúng ta được nghe Mick Ronson chơi nhạc cùng Bowie trong tất cả vinh quang chói lọi của ông. Bowie đã không bao giờ có một band nhạc với mức độ cuồng nhiệt như thế này nữa.

    Mặc dù vậy, bài hát này chỉ được phát hành khi Bowie khởi động dự án Ziggy Stardust - The Motion Picture dưới dạng đĩa đơn. Với việc Bowie đang ở đỉnh cao của sự nổi tiếng toàn cầu nhờ Let's Dance, "White Light/White Heat" được coi là một bước ngoặt bất thường đối với khán giả nhạc pop mà ông đã thu hút được và chỉ đạt vị trí thứ 46 tại Vương quốc Anh và không thực sự thành công.
    z4112517227032_deaa52070a8d1213ce0eccf918be8956.jpg
    Blue Jean / Dancing With The Big Boys: "Blue Jean" là một trong hai bài hát trong album Tonight (1984) do chính Bowie sáng tác (các bài còn lại là covers hoặc đồng sáng tác). Nó được phát hành dưới dạng đĩa đơn trước khi tung ra album và lọt vào Top 10 ở UK và Mỹ, lần lượt đạt vị trí thứ 6 và thứ 8 . Bài hát được lấy cảm hứng từ Eddie Cochran. Tiếp nối thành công về mặt thương mại của album trước của Bowie, Let's Dance, "Blue Jean" được ra mắt cùng với một bộ phim ngắn dài 21 phút, Jazzin' for Blue Jean, do Julien Temple đạo diễn. Phân đoạn biểu diễn bài hát từ đây cũng được sử dụng như một video clip thông thường. Bộ phim đã giành được giải Grammy năm 1985 cho "Best Video, short form", sau đó được đổi tên thành "Best Music Video", đây là giải Grammy duy nhất mà Bowie giành được khi còn sống trong suốt cuộc đời âm nhạc của mình trong hơn sáu thập kỷ. Bowie sẽ chỉ giành thêm bốn giải Grammy cho album Blackstar sau khi ông qua đời. Blue Jean thường xuyên được biểu diễn live trong suốt phần còn lại của sự nghiệp.
    z4112517238012_06f454b14dcff039ffcc731fee94a13e.jpg
    This Is Not America – with Pat Metheny Group: đây là bài hát mà David Bowie kết hợp với band nhạc jazz Mỹ - Pat Metheny Group, lấy từ nhạc nền của bộ phim năm 1985 có tên là The Falcon and the Snowman. Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào tháng 2 năm 1985, đạt vị trí thứ 14 tại UK và vị trí thứ 32 tại Mỹ.

    Sau khi hoàn thành album năm Tonight, bản thân Bowie cũng không hài lòng, ông bắt đầu một loạt dự án nhạc phim (Labyrinth, Absolute Beginners, và When the Wind Blows, tất cả đều vào năm 1986), và bắt đầu với hợp tác với Pat Metheny. Được thu âm vào cuối năm 1984, "This Is Not America" sau đó phát hành dưới dạng đĩa đơn vào đầu năm 1985 và là nhạc nền của bộ phim The Falcon and the Snowman. Metheny đã viết một bản hòa tấu cho bộ phim tên là "Chris" và muốn biến nó thành một bài hát có lời; Đó chính là lý do "This Is Not America" là kết quả hợp tác của cặp đôi này. Bowie đã xem bộ phim này và sử dụng một câu câu nói phổ biến trong phim, Matheny đồng ý rằng điều đó thật thú vị. Mặc dù Metheny được biết đến với tư cách là một nhạc sĩ nhạc jazz, bài hát được Chris O'Leary, nhưng đây "hầu như không phải là một bản nhạc jazz", vì Metheny chơi guitar rhymth đơn giản xuyên suốt bài hát, không có phần solo hay ngẫu hứng. Metheny sau đó lưu ý rằng lời bài hát của Bowie "sâu sắc và ý nghĩa—và hoàn hảo cho bộ phim."Bowie không xuất hiện trong video âm nhạc tương ứng của đĩa đơn, vì nó được tạo thành hoàn toàn từ các đoạn phim.
    z4112517207297_2e40307a8aa296b3f40a1233a6781a28.jpg
    Loving the Alien / Don't Look Down: Đây là ca khúc mở đầu cho album Tonight. Và là một trong hai bài hát trong album chỉ do Bowie viết (cùng với Blue Jean). Một phiên bản đã chỉnh sửa của bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào tháng 5 năm 1985, chín tháng sau khi phát hành đĩa đơn chính "Blue Jean" và tám tháng sau khi phát hành album. "Loving the Alien" đạt vị trí thứ 19 tại UK.

    Đối với những người cảm thấy thất vọng trước chủ nghĩa thương mại công khai của Let Dance, thì phần mở màn của Tonight hẳn nghe có vẻ khá khẩm hơn. Đây là một bài hát "thích hợp" của Bowie với hình ảnh nghiêng về art pop xiên xẹo và một đoạn điệp khúc điển hình trên màn ảnh rộng. Ông lại nói về đề tài người ngoài hành tinh một lần nữa! Một điều gì đó thuộc về rung cảm của Bowie cổ điển. Có điều đáng buồn là bài hát này cũng không hay hơn những bài tốt nhất trong Let's Dance. Cứu rỗi cho bài hát có lẽ là đoạn pre-chorus chứa đoạn lời hát hay nhất của cả album: "But if you pray, all your sins are hooked upon the sky" -Nhưng nếu bạn cầu nguyện, mọi tội lỗi của bạn sẽ bị treo trên bầu trời". Đó là một trong số ít lời lyric trong cặp đôi album Tonight/Never Let Me Down còn tồn tại lâu dài. Bản nhạc cũng được cải thiện rất nhiều trong một lần chỉnh sửa duy nhất, loại bỏ phần kết thúc không mục đích.
    z4112517212835_df49b227f136ba1ff74726fc50946cd9.jpg
    (còn tiếp)
     
    Wildbird and shrekfiona like this.
  2. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    Mấy hôm nay em nghe rất nhiều Bowie...

    1972, Ziggy Stardust là siêu sao nhạc rock từ ngoài hành tinh xuống trái đất trong lúc hoảng loạn nhất: loài người chỉ có 5 năm để sống tc ngày tận thế. Đối diện với cái chết thì con người thế nào? Phần lớn khóc lóc hoặc nổi điên, rất nhiều người cố sống gấp, còn 1 số rất ít thì vẫn nghĩ đến những thứ như tình yêu ("5 years"). Xuyên suốt hành trình điên loạn đó là 1 siêu sao nhạc rock ("Star" & "Starman") cứu rỗi tâm hồn đầy xáo động của chúng ta, giúp con người nhờ những vui thú do siêu sao tạo ra mà không phát điên. Tất nhiên, tất cả những cái đó là do Bowie tưởng tượng ra. Nhưng câu chuyện về 1 siêu sao rock n' roll hoang dại luôn biến hoá để hài lòng người nghe là hình ảnh gắn với phần lớn cuộc đời của David Bowie. "Ziggy Stardust ..." cũng được nhiều người coi là 1 trong số ít albums rock vĩ đại nhất mọi thời đại.

    2016, siêu sao nhận được thông báo là mình chỉ còn đâu đó 1 năm để sống, và đấy là thông báo nghiêm túc của bác sĩ chứ không phải thứ thông báo tưởng tượng qua sóng radio như năm 1972. Thật đáng ngạc nhiên là siêu sao không hoảng loạn, cũng chẳng sống gấp mà dành thời gian ít ỏi của mình làm nhạc, 1 thứ âm nhạc không dành cho công chúng mà có lẽ để dành riêng cho Bowie. Thay vì hình ảnh 1 siêu sao nhạc rock n' roll theo kiểu tắc kè hoa thì David Bowie xuất hiện như 1 ngôi sao mầu đen đơn giản, cô độc ("Blackstar"). Album khởi đầu với thứ nhạc âm u đưa người nghe vào 1 thứ nghi lễ bí ẩn tg 1 lâu đài cổ ở đâu đó trên xứ phương bắc u tối và lạnh giá. Ở đó chúng ta thấy từ từ hiện lên hình ảnh thật của David Bowie: ko phải siêu sao nhạc rock mầu mè, ko phải siêu sao nhạc pop nông cạn, cũng chả phải 1 minh tinh màn bạc có sức hấp dẫn bề ngoài -- chỉ là 1 ngôi sao đen đại diện cho sự lạc loài của 1 tâm hồn, sự phản kháng lại cái xã hội điên loạn bên ngoài và những uẩn khúc của 1 tâm hồn nhậy cảm. Con người thật David Bowie ngày 1 hiện rõ hơn với dục tính cuồng loạn vượt mọi tiêu chuẩn đạo đức ("'Tis a Pity She Was a Whore"), tình yêu ("Girl Loves Me"), tiếc nuối về ai đó ("Sue"), và tất nhiên là rất nhiều thứ về cái chết. Âm nhạc của album là tổng hợp nhiều thứ nhạc. Đâu đó trong bài đầu có tiếng trumpet làm em nhớ đến album Khmer của Nils Petter Molvær, 1 thứ nhạc kết hợp giữa jazz của Miles Davis và Trip-hop như thôi miên người nghe. "Lazarus" có thể gợi đến đến thứ nhạc u tối của Unknown Pleasure/Joy Division? "Girl Loves Me" chắc hẳn chịu ảnh hưởng của nhịp hip-hop thời thượng? Nhạc rock điên loạn nhưng theo cốt truyện kiểu concept album tg Ziggy Stardust... đã hoàn toàn biến mất. Thay vào đó là 1 thứ nghệ thuật hậu hiện đại rối rắm, lan man và khó nắm bắt nhưng càng nghe nó càng "ám", càng cuốn người nghe vào cái thế giới u tối và bí ẩn của Bowie. Nếu "Ziggy Stardust ..." là 1 album thuộc loại hay nhất của nhạc rock thì "Blackstar" chắc chắn là album hay nhất của riêng David Bowie!

    16783785151796491621865680275836.jpg
     
    Wildbird and no1knows like this.
  3. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    David Bowie

    (tiếp theo)

    Singles

    Dancing In The Street ( Clearmountain Mix) / Dancing In The Street (Instrumental) - with Mick Jagger: Sự say mê lâu dài của Bowie với Jagger lên đến đỉnh điểm vào năm 1973. Trong năm đó, ông đã lấy album Rolling Stone yêu thích nhất của mình và covers một trong những bản hit hay nhất của họ (Let’s Spend The Night Together). Có lẽ những bức ảnh ma cà rồng của thập niên 80 đã đánh cắp thứ gì đó trong sinh lực của Jagger, và con đường của cặp đôi này sẽ khác đi rất nhiều trong thập kỷ tới. Khi Bowie hợp tác với tượng đài đang sụp đổ này vào năm 85, họ đã khá bình đẳng - nhưng bạn sẽ khó thuyết phục một trong hai người về sự thật đó. Đoạn video nổi tiếng đi kèm với đĩa đơn (và chiếm 90% mức độ hấp dẫn, tích cực hoặc tiêu cực) cho thấy cả hai đều đang tỉa tót, nhảy múa và tranh giành máy ảnh trong một màn thi đấu đôi công vui nhộn. Bản nhạc trên thực tế gần như là được lựa chọn ngẫu nhiên. Đây là một bản cover của nhóm Martha Reeves & The Vandellas vào năm 64 (sau này còn rất nhiều người cover lại như The Kinks, Van Halen, Grateful Dead…). Đây là một trong những bản hit chính của hãng đĩa chuyên R&B, Funk/Soul – Motown. Cặp đôi làm single này để quyên góp tiền cho sự nghiệp cứu trợ nạn đói của Live Aid. Kế hoạch ban đầu là cùng nhau biểu diễn trực tiếp một ca khúc, với Bowie biểu diễn tại Sân vận động Wembley và Jagger tại Sân vận động John F. Kennedy. Cho đến khi người ta nhận ra rằng liên kết vệ tinh sẽ gây ra độ trễ nửa giây khiến điều này không thể thực hiện được trừ khi một trong hai (Bowie hoặc Jagger) phải hát nhép, điều mà không nghệ sĩ nào sẵn sàng làm. Mặc dù bản gốc rất mạnh mẽ, nó đã được sử dụng như một bài quốc ca về Quyền công dân, nhưng ở đây Bowie quan tâm nhiều hơn đến khiêu vũ hơn là những gì đang xảy ra. Vào tháng 6 năm 1985, do Bowie đang thu âm cho nhạc phim Absolute Beginners tại Westside Studios, vì vậy Jagger đã sắp xếp bay đến để thu âm ca khúc. Bản phối thô của bản nhạc được hoàn thành chỉ trong bốn giờ vào ngày 29 tháng 6 năm 1985. Mười ba giờ sau khi bắt đầu ghi âm, bài hát và video đã hoàn thành. Bài hát cũng rất thành công tại UK khi lên hạng 1. Chúng ta hãy xem để biết nó là gì, một đĩa đơn từ thiện của hai biểu tượng nhạc rock người Anh đã qua thời kỳ đỉnh cao của họ, chỉ riêng điều này chắc cũng đủ hay rồi.
    z4112517219123_2edb48840e9e832430d5f56c43a6af32.jpg
    Absolute Beginners / Absolute Beginners Dub: Chúng ta đã biết rằng trong thập kỷ 80s, Bowie tham gia sáng tác khá nhiều nhạc phim và đây là một trong những bài hát cho nhạc phim hay nhất của ông. Bài hát này cho bộ phim cùng tên của Julien Temple. Bối cảnh của phim quay trở lại London vào năm 1958 và do đó, để phù hợp với chủ đề, Bowie đã trộm một số âm nhạc của thời kỳ này trong kỹ thuật sáng tác. Rõ ràng nhất trong số này là giọng hát kiểu doo-wop, nhưng nó cũng có sự ngây thơ trong sáng và sự lãng mạn trong lời bài hát. Có rất nhiều điều gì đó tuyệt vời trong lời hát. Giai điệu khá khô cứng, nhấn mạnh từng âm tiết mang lại cho bài hát cảm giác ngại ngùng của tuổi mới lớn trong thời kỳ chưa có quá nhiều những cuộc cách mạng về giới tính. Bài hát có những giai điệu âm nhạc tuyệt vời để duy trì sự quan tâm của người nghe trong hơn năm phút (nhưng cảm giác nó sẽ trôi qua rất nhanh). Rick Wakeman đã trở lại sau bao nhiêu năm tháng kể từ "Life On Mars?" với tiếng đàn piano lung linh và các đoạn synth string hoành tráng một cách độc đáo cho phần kết thúc, sau đó nhường chỗ cho phần độc tấu sax hay nhất của Bowie trong nhiều năm. Bài này rất thành công khi lên hạng 2 ở UK và 9 tại Mỹ.
    z4150915171695_b18bdc57ed6f061e446139f0bc5c60fb.jpg
    When The Wind Blows / When The Wind Blows (Instrumental): Tiếp tục là một single trong nhạc phim cho bộ phim cùng tên. Có lẽ lúc này ta cũng thấy rằng ưu tiên của ông nằm ở đâu, tác phẩm hay nhất giữa những năm 80 của Bowie phần lớn có thể được tìm thấy trên các bản nhạc phim hơn là trong các album. Đây là bộ phim ít được biết đến nhất của ông thời kỳ này, rất có thể vì đây là một bộ phim hoạt hình không có sự tham gia của Bowie. Đây là lần hợp tác đầu tiên của ông với Erdal Kızılçay, người đã chơi trong ba album của Bowie. Đoạn mechanical loop guitar của ông nàyanh ấy song song với tiếng trống đều đều gợi lên cảm giác tuyệt vọng do con người tạo ra, phù hợp với một bộ phim về những gì còn sót lại sau các vụ nổ hạt nhân. Tuy nhiên, điểm thu hút thực sự là giai điệu và giọng hát của Bowie lướt khá nhẹ nhàng và vang lên đúng lúc. Bài hát này chất lượng khá tốt, tốt hơn bất cứ thứ gì mà ông và Kızılçay chuẩn bị làm cho album Never Let Me Down vào năm sau.
    z4150915109375_c60f44b256be3442ba88fa494e4863eb.jpg
    Day In Day Out (Single version) / Julie: đây là single đầu tiên trong album Never Let Me Down vào năm 1987 của Bowie, album thường được công nhận là vực thẳm trong sự nghiệp solo của Bowie. Vừa là đĩa đơn chủ đạo vừa là ca khúc mở đầu trong album, "Day-In Day-Out" ngay lập tức giết chết mọi hy vọng trở lại phong độ sau album Tonight đầy ảm đảm và gặp rất nhiều chỉ trích. Những tiếng trống cục mịch, đẫm mồ hôi bị kiểm soát chặt chẽ trên hỗn hợp của tiếng synth lỗi lầm và những tiếng đàn guitar vô lực. Yếu tố mấu chốt dẫn đến sự thất bại thảm hại của ca khúc và album là Bowie dường như đang hoạt động tích cực để chống lại chính ca khúc của mình. Giọng hát của ông rất chói tai, những tiếng rít vô cảm chống lại giọng hát phụ trợ lặp đi lặp lại không ngừng. Nhưng đáng buồn thay, nó lại đóng vai trò là cầu nối duy nhất của bản nhạc. Có lẽ điều đáng lo ngại hơn là lời bài hát cho thấy Bowie bước vào cách viết mang tính mô phạm và có ý thức xã hội hơn, thứ sẽ được tiếp tục với dự án Tin Machine xấu số. Theo sự thừa nhận của chính Bowie sau này, ông đã ở trạng thái tồi tệ nhất khi cố gắng viết theo cách này. Video âm nhạc rất công phu, tiếc là lặp lại sự thiếu tinh tế hoàn toàn của bài hát. Điều may mắn duy nhất là bản chỉnh sửa này đã cắt đi hơn một phút của bài hát.
    z4150915045785_accbd368309af763faa3bad52d4f3bbc.jpg
    Never Let Me Down / '87 and Cry: Mặc dù là ca khúc chủ đề, nhưng nó là ca khúc cuối cùng được thu âm cho album. Ca khúc do đó có tính tự phát nhiều hơn so với các bài hát trong album nên khiến nhiều nhà phê bình coi nó như một điểm nhấn rõ ràng. Mặc dù vậy điều này không nói lên nhiều điều. Mặc dù đây không phải là Bowie đã viết "Starman" cho Ziggy, nhưng bản nhạc này chắc chắn mang đến một chút thời gian thư giãn đáng hoan nghênh thay cho việc la hét của Bowie vốn thống trị trong toàn bộ album Never Let Me Down. Ở đây, giọng hát của Bowie gần với những bài hát nhẹ nhàng hơn của John Lennon (tình cảm của David dành cho Lennon đã được thể hiện rõ ràng trong bản cover "Across the Universe"). Tuy nhiên, bài hát nghe có vẻ không thực sự ổn - giống tiếng kêu của cỏ dại hơn là một bản serenade dịu dàng. Mặc dù không thể phủ nhận nó có một giai điệu hấp dẫn, nhưng nó cũng rất ngô nghê (đặc biệt là ở cụm từ " she danced her little dance " ở cuối mỗi câu hát). Trên thực tế điểm sáng nhất trong bài hát có thể là tiếng kèn harmonica, thứ mà Bowie nên sử dụng nhiều hơn trong sự nghiệp của mình.
    z4150914982511_b3f3e05bbc5b28816d6e4ba1f0ea43de.jpg
    Jump They Say: đây là single chính trong album trở lại của Bowie - Black Tie White Noise. Chúng ta đã biết, anh trai cùng cha khác mẹ của David, Terry Burns, là người có ảnh hưởng rất lớn đến cậu bé Bowie. Những trận chiến của Terry với sức khỏe tâm thần của ông đã được thần thoại hóa trong các bài hát của Bowie như "All The Madmen" và "The Bewlay Brothers". Khi Terry tự kết liễu cuộc đời mình bằng cách lao vào một đoàn tàu hỏa vào năm 1985, Bowie đang tận hưởng đỉnh cao thành công thương mại của mình và đã không có bất kỳ một bài hát nào của ông về vụ tự tử của anh trai mình. Phải tới 8 năm sau, ông mới đề cập đến chủ đề này trong "Jump They Say", một trong số ít những bài hát thành công vượt trội của album Black Tie White Noise. Có lẽ hơn bất kỳ bản nhạc nào trong thập niên 90 của ông, bản nhạc này đã làm rất tốt việc kết hợp nhịp điệu khiêu vũ đương thời với những phong cách đặc trưng của Bowie (giọng nam trung lạnh lùng và tiếng saxophone lạc lõng của ông). Khi Bowie chơi sax, nó luôn kết thúc với âm thanh thê lương một cách kỳ lạ, vì vậy ở đây nó rất phù hợp với một Bowie khác. Với những lời hát có phần lặp lại, như một phép ẩn dụ cho bệnh tâm thần phân liệt, và các nỗi buồn vui lẫn lộn mà nó được giải phóng bằng từ "jump" trong phần điệp khúc. Một sự trở lại rất hiệu quả với nhạc pop.
    Bộ sưu tập có single 2 CDs của bản này.
    z4112519797102_f9cbbc8de380438ce5f5636111ce36a1.jpg
    Đến đây thì chúng ta cũng kết thúc phần giới thiệu về các single của Bowie.

    (còn tiếp)
     
    Wildbird and tienhoangmanh like this.
  4. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    David Bowie

    (tiếp theo)

    Books

    Bowie là một nghệ sĩ lớn và nhiều ảnh hưởng tới văn hóa đại chúng của phương Tây. Có khá nhiều sách viết về Bowie. Trong bộ sưu tập của em cũng có 2 quyển. Đây cũng là bài viết cuối cùng trong chuỗi các bài viết về Bowie.

    Bowie's Bookshelf: The Hundred Books that Changed David Bowie's Life - John O'Connell.

    Đây là một quyển sách một phần kiểu sử thi, một phần kiểu tiểu sử về một huyền thoại âm nhạc, David Bowie, do tác giả John O'Connell phát hành vào năm 2019. John O'Connell là cựu biên tập viên mảng sách của tạp chí Time Out và thường xuyên viết cho The Guardians và The Times. Ông là đồng tác giả của I Told You I Was Ill và The Midlife Manual. Quyển sách Bowie's Bookshelf là tuyển tập các bài tiểu luận khám phá danh sách 100 cuốn sách yêu thích của David Bowie trong bối cảnh cuộc đời và tác phẩm của nghệ sĩ.

    Hãy tưởng tượng một người bạn gần gũi, yêu quý chia sẻ những cuốn sách yêu thích của họ với bạn—những cuốn sách đã hình thành nên con người họ, tạo nên con người họ và truyền cảm hứng cho họ đạt được ước mơ của mình. Bây giờ hãy tưởng tượng người bạn đó là David Bowie.

    Ba năm trước khi ông qua đời, nghệ sĩ đoạt giải Thành tựu trọn đời tại Đại sảnh Danh vọng Rock & Roll và Grammy David Bowie đã chia sẻ danh sách hàng trăm cuốn sách đã thay đổi cuộc đời ông—một tuyển tập phong phú và đa dạng bao gồm các tác phẩm kinh điển được yêu thích như của F. Scott Fitzgerald- The Great Gatsby và George Orwell - 1984, cho đến những viên ngọc quý bí truyền hơn như Metropolitan Life của Fran Lebowitz và Last Exit to Brooklyn của Hubert Selby Jr., và thậm chí cả những bộ truyện tranh đình đám như Beano and Raw.

    Bowie's Bookshelf nêu ra những kỷ niệm các cuốn sách yêu thích của Bowie bằng một bài tiểu luận riêng, khám phá từng tác phẩm trong bối cảnh cuộc đời của Bowie và vai trò của nó trong việc định hình một trong những nhạc sĩ đa năng, tiến bộ và tiên phong nhất của thế kỷ XX. Một cách tiếp cận mới để tôn vinh di sản lâu dài của David Bowie, đây là một sự tôn vinh vang dội đối với quyền năng nghệ thuật, thứ thay đổi cuộc sống của chúng ta tốt đẹp hơn.
    z4117815450601_d67181db807bf851aee36c931ed2c58b.jpg

    Bowie – Simon Critchley

    Simon Critchley là một triết gia người Anh và là Giáo sư Triết học Hans Jonas tại New School for Social Research ở New York, Hoa Kỳ. Ông là một trong những triết gia đương đại nổi tiếng nhất của Anh Quốc, mặc dù có xuất thân nghèo khó từ tầng lớp lao động. Với cách tiếp cận thách thức truyền thống cổ xưa cho rằng triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên, Critchley lập luận rằng triết học bắt đầu từ sự thất vọng. Tác phẩm của Critchley có hai dạng thất vọng cụ thể: thất vọng về tôn giáo và chính trị. Trong khi sự thất vọng về tôn giáo phát sinh từ sự thiếu đức tin và tạo ra vấn đề về ý nghĩa của cuộc sống khi đối mặt với chủ nghĩa hư vô, thì sự thất vọng về chính trị đến từ thế giới bạo lực mà chúng ta đang sống và đặt ra câu hỏi về công lý trong một thế giới bất công dữ dội. Ngoài nghiên cứu về triết học trong hai lĩnh vực này, các tác phẩm gần đây của Critchley đã tham gia vào nhiều hình thức viết thử nghiệm hơn về Shakespeare, David Bowie, tự sát, bi kịch Hy Lạp và hiệp hội bóng đá.

    Tác phẩm Bowie của ông được tung ra vào năm 2014 và tái bản lại (có chỉnh sửa) vào năm 2016. Trong Bowie, Critchley thảo luận về ảnh hưởng âm nhạc của David Bowie đối với bản thân ông trong suốt cuộc đời cũng như phản ánh chiều sâu triết học trong tác phẩm của Bowie. Đây là cuốn sách của một người người hâm mộ cố gắng mang lại giá trị thẩm mỹ phù hợp cho tác phẩm của Bowie thông qua phân tích cẩn thận lời bài hát và khám phá các chủ đề về sự không trung thực, sự cô lập, sự thật và khao khát tình yêu.

    Simon Critchley biết tới David Bowie lần đầu tiên vào đầu những năm 70, khi ca sĩ này xuất hiện trên chương trình ca nhạc được xem nhiều nhất ở Anh, Top of the Pops. Màn trình diễn “Starman” của Bowie đã mê hoặc Critchley: nó “thật gợi cảm, thật hiểu biết, thật kỳ lạ.” Hai ngày sau, mẹ của Critchley mua một đĩa đơn; bà thích cả bài hát và mái tóc màu cam sáng của người biểu diễn (trước đây bà đã từng là thợ làm tóc). Hạt giống của một mối tình trọn đời vì thế đã được gieo vào tâm trí cậu con trai 12 tuổi của bà.

    Tác phẩm là một chuyến tham quan ngắn gọn và hấp dẫn qua các bài hát của một trong những ngôi sao nhạc pop vĩ đại nhất thế giới. Critchley, người có những bài viết về triết học đã nhận được nhiều lời khen ngợi, kết hợp những câu chuyện cá nhân về cách Bowie thắp sáng cuộc sống buồn tẻ của mình ở vùng ngoại ô miền nam nước Anh bằng những bước đột phá triết học vào thế giới qua các khái niệm về tính xác thực và bản sắc được biến đổi từ trong ra ngoài trong các tác phẩm của Bowie. Kết quả đạt được gần như một sự khiêu khích và mở rộng tâm trí của người nghệ sĩ mà tác phẩm miêu tả.

    z4117815414491_ab53df01fb1d0ef226b63edeb3151717.jpg

    (Hết)
     
    shrekfiona and Wildbird like this.
  5. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Trong bộ sưu tập ngoài các loại đĩa, sách, tạp chí, cassette, vinyls … thì em còn sưu tập được một số những đồ có chữ ký của các band nhạc. Để cho chủ đề thêm phần sôi động em xin giới thiệu một số đồ ở đây. Nhiều đồ có tính sưu tầm và được săn lùng trên toàn thế giới.

    Elton John

    Là một trong những nghệ sĩ thành công và nổi tiếng nhất mọi thời đại, Elton John là một trường hợp khá đặc biệt. Ông là một siêu sao solo nhưng vừa thành công mà lại vừa được giới chuyên môn đánh giá rất cao. Với khoảng 300 triệu đĩa nhạc bán được ông đứng thứ 4 trong danh sách những nghệ sĩ bán chạy nhất mọi thời đại (chỉ sau The Beatles, Elvis Presley và Michael Jackson). Ảnh hưởng của Elton John đối với âm nhạc thế giới là vô cùng lớn. Sự nghiệp của ông trải dài từ thập kỷ 60 tới 2020s với khoảng 50 bài hát đứng trong top 40 của Mỹ, Anh và nhiều quốc gia khác nữa. Có thể nói rằng những người hiểu biết về âm nhạc thế giới rất ít người không biết tới ông. Single Candle in The Wind 1997 để tưởng nhớ Công nương Diana vẫn giữ kỷ lục là single bán chạy nhất của mọi thời đại – bán được 33 triệu bản. Hiển nhiên Elton có rất nhiều những album kinh điển như: Goodbye Yellow Brick Road -73, Captain Fantastic and the Brown Dirt Cowboy -75 hay The Lion King -94.

    Hiện tại Elton John đã khá lớn tuổi và quyết định chấm dứt sự nghiệp do đó những đĩa nhạc hay mà có chữ ký của ông hiện giờ có giá rất cao. Cũng vô tình em có đĩa Elton John – one night only the greatest Hits với chữ ký của Elton. Bản này rất hiếm và hiện đang được săn lùng rất nhiều trên thế giới. Những fan của Elton có lẽ sẽ đau tim khi nhìn thấy đĩa nhạc có chữ ký này.

    z4184651587689_c2751228769f64a65cee83453326d5c2.jpg
    z4184651599101_12d70b4fb091b0fb16a9849bb602c59f.jpg

    https://www.ebay.com/itm/314222836726
     
    Last edited: 15/3/23
    killitmore and Wildbird like this.
  6. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.899
    Mình rất thích Elton John, đặc biệt album Goodbye... Road .Album có nhiều bài để đời trong đó là bài Funeral for Friends
     
    no1knows likes this.
  7. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Elton John có rất nhiều bài hát hay mà bác. Kể cả sau này cũng nhiều bài hay.
     
    lenamvl likes this.
  8. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Porcupine Tree

    Là một band nhạc hay và tiên phong trong trào lưu Prog thứ 3, Porcupine Tree để lại một ấn tượng khó quên với nhiều người yêu thích. Linh hồn của nhóm là Steven Wilson, ngoài tham gia trong Porcupine Tree còn là thành viên trụ cột của rất nhiều band nhạc khác nữa. Wilson thực sự là một quái kiệt với rất nhiều thể loại khác nhau. Nhiều band trong số này có những album rất hay.

    Bản thân em rất hâm mộ dòng nhạc Prog Rock và Wilson cũng là một những nghệ sĩ yêu thích. Trong bộ sưu tập của em có đĩa Staircase Infinities - 1 EP khá hiếm gặp và có chữ ký tươi của Wilson.
    z4184653690990_4edfa8cb3b0ebc0cbfea28211e5d9163.jpg
    z4184653689448_070fec7798b64024a2422da5bd857d92.jpg
     
  9. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Rick Wakeman


    Wakeman thực chất là một trong những tay keyboards vĩ đại nhất trong lịch sử âm nhạc, góp phần rất lớn đưa nhạc cụ keyboards điện tử trở nên phổ biến trong thế giới âm nhạc. Người có thể sánh ngang với ông có lẽ không có nhiều (có thể chỉ có Keith Emerson mới so sánh với Wakeman về tầm ảnh hưởng và kỹ năng chơi nhạc). Khác với Emerson, Wakeman chơi trong rất nhiều các dự án, tại đâu ông cũng đều tỏa sáng: từ nhẹ nhàng và dịu dàng như trong Strawbs, hay bùng nổ, hoành tráng trong Yes, đen tối - dữ dội trong Black Sabbath. Ông còn tham gia với Bowie, Elton John, Al Stewart, ở đâu ông cũng đem lại những điều hết sức tích cực.

    Wakeman còn có một sự nghiệp solo hết sức hoành tráng với những album tuyệt vời như The Six Wives of Henry VIII chằng hạn. Ông cũng là một trong những nghệ sĩ sáng tạo nhất khi tham gia nhiều các thể loại khác nhau với hàng trăm album.

    Bộ sưu tập của em có 3 albums có chữ ký của Wakeman

    đó là The Six Wives of Henry VIII định dạng CDs với chữ ký trên bìa đĩa
    z4184653892013_acd7665bb360ec5d471b0ba894ef7ed4.jpg

    z4184653882054_48ddc9b3a1eb035e39517ea73971f1ad.jpg

    Return To The Centre Of The Earth với chữ ký ở trang 8 trong quyển booklet
    z4184653874043_67a77a97a5eca2396c9a122b62b4f4a0.jpg
    z4184653864533_69cf8efbc059cbea44a4f14514d04649.jpg
    và The Classical Connection với chữ ký dọc bìa

    z4184653898845_6017e5e6ff6b7762e974d80ba321d3d0.jpg
    z4184653902310_053945d3bc2fbce69d8652d97e4164fe.jpg
     
  10. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Gentle Giant

    Gentle Giant là một trong những band nhạc sáng tạo bậc nhất trong lịch sử của Prog Rock. Tất cả các thành viên đều có khả năng chơi rất nhiều nhạc cụ và âm nhạc rất sáng tạo, không hề giống bất kỳ band nhạc nào khác. Họ có rất nhiều album hay và thậm chí là khi ngừng hoạt động thì họ còn nổi tiếng hơn nhiều so với trước đây. Đây cũng là một trong những band nhạc yêu thích của em. Trong bộ sưu tập có poster với chữ ký của tất cả các thành viên band nhạc nhân dịp kỷ niệm ra box Unburied Treasure, hiện giờ cũng rất hiếm rồi.

    anh co chu ky GG.jpg
     
    Wildbird and tienhoangmanh like this.
  11. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Steve Hacket

    Là một trong những huyền thoại guitar được yêu thích nhất của Prog Rock, Steve Hackett là một anh hùng thầm lặng của guitar thế giới. Ông không quả nổi bật và hào nhoáng nhưng chơi nhạc với cảm xúc tuyệt vời. Trong những năm tháng đỉnh cao sự nghiệp gắn bó với band nhạc huyền thoại Genesis, Hackett được ví như trái tim của band nhạc này. Sau khi rời bỏ Genesis vào cuối thập kỷ 70s, ông tiếp tục sự nghiệp solo hết sức hoành tráng dù không thực sự thành công về mặt thương mại như những đồng nghiệp cũ là Phil Collins hay Peter Gabriel. Điều đó không đồng nghĩa với việc các album của ông có chất lượng kém cỏi hơn mà có lẽ vì ông quá trung thành với Prog Rock. Em là một fan hâm mộ của Hackett, trong bộ sưu tập có 1 album có chữ ký của ông.

    Đó là album Metamorpheus kiểu classical năm 2005
    z3242802365086_b9c652a60252667ddc7de5deb39d95db.jpg
     
  12. Summerwines

    Summerwines Approved Member

    Joined:
    20/3/23
    Messages:
    44
    Likes Received:
    28
    Lâu lắm mình mới lại vào sign-in trên 1 diễn đàn, thấy Topic có thảo luận mấy điểm đúng chỗ ngứa nên xin phép đóng góp mấy ý kiến 1 chút.
    Mình là 1 fan của PF từ lâu, mình đã nghiên cứu rất kỹ các tài liệu liên quan đến Pink Floyd từ đủ các loại kênh, đủ các loại diễn đàn thì mình tổng hợp lại như thế này. Thực ra âm nhạc của Pink Floyd chia làm 5 giai đoạn (không giống như 4 giai đoạn như trên wiki hay các trang chuyên về âm nhạc vẫn chia)
    1. Giai đoạn ban đầu do Syd dẫn dắt : từ 1965-1967 từ lúc lập band đến sau khi ra album đầu tiên "A Piper at the gate of Dawn" giai đoạn này Syd sáng tác chủ yếu và chơi guitar + hát chính. Chất nhạc là Psychedelic + manh nha của space rock. Các bài hát thường ngắn nghe giai điệu theo xu hướng rock and roll của những năm 60 + bổ sung keyboard (ngoại trừ Interstellar Overdrive dài 9p theo hướng experimental). Trống, bass, keyboard chơi rất nổi bật; trong guitar mặc dù Syd chơi chính nhưng thực sự là không ấn tượng lắm.
    2. Giai đoạn từ 1968-1972 (Từ Saucerful of Secret cho đến Obscured by Clouds): là giai đoạn Pink Floyd sau khi Gilmour ra nhập từ 1967, và cách chơi guitar của Gilmour làm chuyển đổi và định hình lại phong cách âm nhạc của PF. Giai đoạn này PF chuyển dần từ psychedelic/ space rock sang experimental rồi progressive rock và đặc biệt là lối chơi nhạc được chuyển sang xoay xung quanh guitar + keyboard, nó là nền tảng tạo nên chất nhạc riêng của Pink Floyd sau này (tiếng guitar như nỉ non của Gilmour + tiếng keyboard/ synthetizer khoáng đạt của Rick Wright đã gây mê không biết bao nhiêu thế hệ). 6 album ra đời trong vòng 4 năm thể hiện sức sáng tạo cao của các thành viên trong giai đoạn này, đặc biệt là những bản Instrumental dài trên 10p rất nhiều như Atom Heart Mother 23p, Alan's Psychedelic Breakfast 13p, A saucerful of secrete 13p, The Narrow way 12p và đặc biệt là siêu phẩm Echoes 23p. Đây là bản nhạc mình thích nhất của PF trên cả các siêu phẩm khác như Comfortably Numb/ Time/ Money/ Dogs/ Pigs ... Trong Echoes tài năng của cả 4 thành viên được biểu hiện rõ nhất điển hình là 3 người Gilmour/ Waters/ Wright (Nick Mason hơi đuối 1 chút), toàn bộ phần main chord giai điệu nhạc được viết bởi Gilmour + Wright trong khi phần lời & giai điệu lời hát là Waters viết (phải nói rõ như vậy để mọi người hiểu là bản Echoes này dài 23,5p thì phần lời hát chỉ có khoảng 3-4p thôi - do Waters viết còn phần còn lại là nhạc thì do Gilmour + Wright viết). Lời bài hát tự như một bài thơ rất hay, trong khi giai điệu thì mơ màng. Highlight của bản này chính là phần trình diễn guitar của Gilmour, từ những nốt riff cho đến chord progression rất tuyệt vời và đặc biệt đoạn solo từ phút thứ 6 làm cho người nghe u mê, như các nhà phê bình âm nhạc nước ngoài diễn tả là như tiếng sét đánh giữa lòng biển vắng lặng (VN mình hay gọi là sét giữa trời quang ấy). Từ Meddle, PF bắt đầu định hình được chất liệu âm nhạc và lối chơi của mình. Giai đoạn này đóng góp về sáng tác của bộ 3 Waters/ Gilmour/ Wright là khá đồng đều.
    3. Giai đoạn từ 1971-1977 (Từ Darkside cho tới Animals): gọi là giai đoạn band era, đây là thời kì vàng son của PF với bộ 3 album kinh điển Darkside/ WYWH/ Animals. Lúc này lối chơi nhạc và phong cách đã định hình và ổn định rõ nét trong khi mối quan hệ của 4 thành viên là rất tốt (có thể xem qua footage của Darkside cũng như Live in pompei). Do việc ra quá nhiều album trong thời gian ngắn cũng như lịch lưu diễn dày đặc, cũng như nếm mùi thành công của DSOTM nên cả band nhất trí nhường lại toàn bộ phần viết lyric cho Roger Waters, các thành viên còn lại tập trung vào viết nhạc trên nền concept Waters thảo ra. Nên nói Waters sáng tác phần lớn các hit của PF thì đúng 1 nửa, nói là tham gia sáng tác và viết lời chính thì đúng hơn vì nhạc của PF nó hay ở các sound chứ không chỉ là phần lời riêng biệt. Đi vào 1 số bài hit cụ thể thì sẽ rõ hơn: như trong DSOTM các hit gồm Breath/ Time/ Great Gig in the sky/ Money/ Us and them/ Brain Damage thì chỉ có Money + Brain Damage là nhạc do riêng Waters sáng tác, Great gig & Us and them là Wright viết nhạc trong khi Breath là Gilmour + Wright biết nhạc, Time thì phần nhạc chính là Wright + Gilmour (Nick Mason viết phần drum intro), Waters chỉ viết lời và add phần intro bass riff (nên nhớ trong các bản nhạc của PF thì toàn bộ các phần solo bao gồm cả guitar và keyboard không được credit và phần sáng tác, ví dụ như Money/ have a cigar/ Pigs... là những sáng tác của Waters có những đoạn solo guitar thần sầu do Gilmour viết và chơi nhưng không được tính vào phần sáng tác, cái này là hơi bất công một chút vì thực sự những đoạn solo đó nâng tầm những bản nhạc này thành huyền thoại, như Time mà ko có đoạn solo guitar thì chỉ là 1 bai hát hay thôi). Trong WYWH thì Shine on 2 phần toàn bộ nhạc là Wright + Gilmour, Waters chỉ viết lời. Đến Animals thì thực chất 2 bản Dogs và Sheep là 2 bản đã được sáng tác từ sau DSOTM nhưng với tên khác là You gotta be crazy (Dogs) và Raving and Drooling (Sheep), sau này để phù hợp với theme của Animals thì Waters mới đổi tên và viết lại lời cho phù hợp, Dogs toàn bộ phần nhạc và giai điệu lời là Gilmour viết - Water chỉ viết lyric, trong Sheep thì Gilmour viết phần nhạc chính cho Raving and Drooling sau này khi ghi âm Animals thì Waters chỉnh sửa một chút lại phần main chord cũng như giai điệu lời + lyric (lúc sửa đổi này vợ Gilmour mới sinh con đầu lòng nên ông không có nhiều thời gian tham gia + thu âm, cuối cùng Waters take credit toàn bộ cho bài này).
    4. Giai đoạn 1978-1985: kỷ nguyên Waters thống trị band. Kể từ DSOTM, Waters giữ vai trò viết lyric chính và dần tiến lên vị trí thủ lĩnh ban nhạc, sau bộ 3 siêu phẩm DSOTM/ WYWH/ Animals thì Pink Floyd phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng viết lời và concept nội dung album của Waters. Và lúc này rạn nứt bắt đầu xuất hiện, Nick Mason thực ra chỉ thích kiểu âm nhạc PF giai đoạn đầu và lạc lõng hoàn toàn gần như không đóng góp được gì kể từ Obscured by clouds; Rick Wright chỉ enjoy nhạc của Pink Floyd đến WYWH khi điểm mạnh chính là những đoạn solo key board kéo dài đan xen với tiếng guitar của Gilmour (đỉnh cao là trong Shine on / Echoes), và Gilmour với Waters thì mâu thuẩn trong việc định hướng âm nhạc. Khi Waters muốn khai thác quá sâu về đề tài Chính trị/ mặt trái xã hội/ chiến tranh ... thì Gilmour/ Wright không muốn thế, họ muốn PF tiếp tục thử nghiệm và sáng tạo thêm về mặt âm thanh/ nhạc cụ. Chính Wright sau này trong 1 lần trả lời phỏng vấn đã nói về album the Wall đại ý là: khi đó Waters đến và trình bầy với chúng tôi ý tưởng về The wall với tôi thật chán: à lại là nội dung về chiến tranh/ về tuổi thơ & bố cậu ấy, hầu như tất cả các bài hát đều nhàm chán và lặp đi lặp lại về giai điệu và nhịp điệu. Còn Gilmour khi trả lời phỏng vấn của Guitarworld cũng nói đại ý là tôi muốn khai thác tối đa các chất liệu âm nhạc nhưng Waters vì để phục vụ mục tiêu nội dung bài hát sẵn sàng hi sinh (câu gốc là sacrified) những phần giai điệu đẹp của bài nhạc. Nên dù The Wall mang lại thành công cho PF nhưng ngoại trừ Waters các thành viên khác không thích album này lắm (fav của Gilmour/ Wright là WYWH). Và đặc biệt là trong The Wall thì những bản nhạc hay nhất phần nhạc lại do Gilmour viết: Comfortably Numb là phần nhạc + giai điệu lời Gilmour định thu âm cho solo album About face nhưng không kịp, Waters đã viết lời và đặt tên bài hát ban đầu là The Doctor sau mới đổi thành Comfortably Numb; Run Like hell & Young Lust toàn bộ phần nhạc cũng là Gilmour viết. Trong Album này Mason/ Wright không tham gia sáng tác gì cả và do có thái độ chống đối Wright bị sa thải ngay giữa quá trình thu âm. Sau này thì được thuê lại dạng session trong tour lưu diễn. Đến Final cut thì mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm, thực chất Final cut là tập hợp 1 số bản nhạc không được dùng cho The wall + thêm 1 số sáng tác mới của Waters, Gilmour phản đối kịch liệt nguyên văn " I said to Roger, "If these songs weren't good enough for The Wall, why are they good enough now?"". Đây có thể coi là album solo của Waters, một album về phần lời rất hay nhưng phần nhạc thì hầu như không còn chất Pink Floyd nữa ngoại trừ 1 số đoạn solo guitar của Gilmour. Gilmour có đề nghị Waters lùi thời gian ghi âm cho đến khi mình có thể sáng tác thêm 1 số bài hát khác thay thế cho 1 số bài mà ông cho rằng dở nhưng Waters từ chối và tiến hành thu âm 1 mình. Gilmour có hỗ trợ tham gia sáng tác nhạc 1 số phần nhạc trong các bản như The Gunner's dream/ Final Cut/ The Fletcher Memorial Home nhưng do mâu thuẫn nên Waters xóa toàn bộ phần Credit của Gilmour trong này. Và sau album này thì Waters định giải tán PF nhưng 2 thành viên còn lại kiên quyết giữ dẫn đến kiện tụng kéo dài. Cuối cùng các bên đi đến thỏa thuận là sẽ giữ lại tên ban nhạc Waters ra đi và được giữ toàn bộ bản quyền với album The wall.
    5. Giai đoạn 1986 về đây: sau khi Waters ra đi thì Wright trở lại, PF ra 3 album thì chỉ có 1 album được đánh giá cao là The Division Bell, còn lại A momentary tính là album solo của Gilmour còn Endless River là tribute cho Wright sau khi mất.
     
    Wildbird and lenamvl like this.
  13. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.899
    Thanks You. Mình mê PF như điếu đổ và bây giờ vẫn mê tới mức đã mua đủ những albums hay nhất được Remastered. Âm thanh Remastered hay quá xá nên vặn volume to nghe cực kỳ sướng tai. Hội P F fans đã đưa ra câu hỏi : trong 3 albums : The Dark Side Of The Moon, Wish...và The Wall thì bạn thích album nào nhất .
    Kết quả là The Dark Side Of The Moon chiếm 40% .The Wall 25% ,35% là Wish ....
    Riêng mình bầu cho Wish You re Here
     
    Last edited: 20/3/23
    Summerwines likes this.
  14. Summerwines

    Summerwines Approved Member

    Joined:
    20/3/23
    Messages:
    44
    Likes Received:
    28
    với em thì Top 5 albums là Darkside/ WYWH/ Animals/ The Wall/ Meddle. Thích Darkside nhất vì bài PF đầu tiên được nghe là Time nó cứ ám ảnh tới bây giờ. Thích the wall vì nó là đĩa CD đầu tiên mua của PF (mua tại cửa hàng bác Quang Dũng ở Quang Trung). Chứ về mặt âm nhạc thì em đánh giá là WYWH/ Darkside/ Animals/ Meddle/ The Wall
     
    killitmore likes this.
  15. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    Thực ra Pink Floyd có thể chia ra nhiều giai đoạn cũng không có vấn đề gì cả. Nhưng thực chất nhóm chỉ có 2 giai đoạn là cao trào thời của Syd và Gilmour. Nhiều bác lại thích phần của Syd hơn, đó là sở thích của từng người.
     
  16. no1knows

    no1knows Advanced Member

    Joined:
    30/7/12
    Messages:
    3.556
    Likes Received:
    2.367
    The Enid

    Nhóm nhạc Anh Quốc THE ENID được thành lập xung quanh tay chơi keyboard Robert John GODFREY (BARCLAY JAMES HARVEST) và các đồng nghiệp của ông, nghệ sĩ guitar Stephen STEWART và Francis LICKERISH vào năm 1973. Âm nhạc họ theo đuổi gần giống như sự kết hợp giữa nhạc cổ điển và nhạc rock. Band nhạc kết hợp các dàn nhạc lớn , nhạc cụ cổ điển, cấu trúc nghiêm ngặt với chất lượng khá tốt. Âm nhạc của nhóm vì thế khá gần với Symphonic Prog.

    Đây có lẽ là band nhạc duy nhất trên hành tinh đã thành công trong việc kết hợp nhạc rock với sức mạnh, sự năng động và quy mô của nhạc giao hưởng cổ điển. Với những người yêu thích một thứ nhạc Rock hoành tráng thì The Enid sẽ là một band nhạc hàng đầu. Nhưng nó sẽ quá nghiêng về nhạc cổ điển đối với những fan nhạc Rock thông thường. Band nhạc có những albums rất hay như: "In the Region of the Summer Stars"-76, "Aerie Faerie Nonsense" -77. Vào khoảng những năm 79 nhóm tan rã nhưng sau đó tiếp tục tái hợp trong thập kỷ 80s và 2000s và tiếp tục hoạt động tới tận ngày nay. Các albums của nhóm cũng thường có chất lượng khá tốt.

    Bộ sưu tập của em cũng có 2 albums có chữ ký của nhóm
    Arise and Shine -2009, với chữ ký ở mặt sau của quyển booklet z4184653780344_5183872bc7302b81a594006213940258.jpg
    z4184653780455_3becc1c95ea810ed7c77fe7dc5d5ce01.jpg

    Và album live
    Final Noise -1989 (chữ ký ở bìa đĩa
    z4184653789958_e3440ced0ddfc02bb12cd7af3a9d7121.jpg

    z4184653791334_257c4c9895f24335ee0704d744569b7b.jpg
     
    Wildbird likes this.
  17. Summerwines

    Summerwines Approved Member

    Joined:
    20/3/23
    Messages:
    44
    Likes Received:
    28
    Chia 2 giai đoạn cũng được vì giai đoạn Syd và Gilmour nó khác nhau hoàn toàn về chất. Thể hiện trong cách chơi guitar, trong khi Gilmour ảnh hưởng từ Blues rock thì Syd lại chịu ảnh hưởng của Surf rock. Cả 2 có 1 điểm tương đồng là cùng thần tượng Hank Marvin (guitar của the Shadows) một trong người tiên phong sử dụng echo effect vào cây đàn guitar. Vào những năm 60 thì các band không ưa sử dụng hiệu ứng tiếng vọng và tiếng dội vào guitar (gọi là Echoes & reverbs), và chính Syd đã phổ biến rộng rãi sử dụng hiệu ứng này tạo nên một cuộc cách mạng trong việc chơi guitar. Đến Gilmour thì việc chơi đàn kèm theo hiệu ứng này đã là lô hỏa thuần thanh và đưa nó lên một tầm cao mới nhờ kỹ năng chơi đàn và nhạc cảm vượt trội, hơn nữa Gilmour luôn cách tân và tìm kiếm cách tạo ra những âm thanh mới (ảnh hưởng nhiều đến âm nhạc đương đại). Có điều giai đoạn Syd quá ngắn và PF còn chưa lên tới đỉnh cao: A piper at the gate of Dawn chỉ là 1 album tốt chứ chưa thể coi là kinh điển. Còn giai đoạn sau khi Gilmour ra nhập thì trong cách chơi nhạc có nhiều thay đổi: từ việc bị Syd overshadow đã dần thoát ra và định vị được chất riêng cũng như trải qua nhiều thăng trầm sau đó nên chia thành nhiều giai đoạn có vẻ hợp lý hơn. Còn nhiều fan PF thích phần của Syd hơn phần Gilmour là ý so giữa A Piper với 3 album sau thời Waters (giai đoạn Gilmour dẫn band), do đây chủ yếu là fan của Waters hehe
     
    Wildbird likes this.
  18. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.899
    Mình thích nhất 4 albums của Pink Floyd là The Dark Side Of The Moon, Wish You 're Here ,The Wall và Division Bell. Các albums khác thì rất ít khi nghe hoắc đôi khi nghe 1 bài trong The Best
     
  19. shrekfiona

    shrekfiona Advanced Member

    Joined:
    28/9/16
    Messages:
    501
    Likes Received:
    408
    Xếp hạng thì có mà cãi nhau đến Tết Công-gô vì mỗi người mỗi í. Nhưng em cũng xếp top 5 của em cho vui :) WYWH/DSOTM/Piper/Meddle/Animals. Piper thì riêng bài Interstellar Overdrive đủ cân cả album rồi, 1 số bài cũng hơi ngô nghê nhưng nhạc thời đó và lại dựa trên sách cho trẻ con nên nó phải vậy! The Wall thì là cái đầu tiên của PF em nghe (cũng thu băng cassette chỗ bác Dũng 49 Quang Trung) nên nhiều kỷ niệm. Nhưng càng ngày thấy ý tưởng càng thường (hơi nhai lại 1 số chỗ khác từ Tommy/the Who đến School's Out/Alice Cooper), nhạc thì quá đơn giản và còn "suy thoái" đến độ chơi cả disco, may có tiếng guitar thần sầu cứu lại ko thì có lẽ đã là 1 album tầm thường -- cái này em đã bị các bác trên này ném đá nhiều lần nên bác có ném tiếp cũng ko hề gì, em nghĩ sao nói vậy thôi :)
     
    Last edited: 21/3/23
    Wildbird and Summerwines like this.
  20. Summerwines

    Summerwines Approved Member

    Joined:
    20/3/23
    Messages:
    44
    Likes Received:
    28
    Thực ra dạo gần đây em hay nghe những album còn lại của PF và thấy phát hiện được nhiều điều mới. Em có thể tham vấn bác 1 chút nếu ko nghe cả album thì có thể nghe bài lẻ (vì giai đoạn đầu các album chưa phải concept nên ko nhất thiết phải nghe liền mạch)
    1. A Saucerful of Secrets: Phong cách vẫn còn bị ảnh hưởng bởi Syd nhưng có mấy track rất đáng nghe: Let there be more light (trong bài này có đoạn solo của Gilmour rất hay mà nó rất khác với phong cách sau này, chơi ở tốc độ tương đối cao); Set the controls for the heart of sun & Saucerful of secrets nghe cũng ok
    2. More: là album được fan PF đánh giá kém nhất, bài khá nhất là The Nile song (theo phong cách hardrock), ngoài ra nếu bác thích nghe kiểu ascoutic lãng đãng thì Cymbaline & Green is the color khá ổn (giọng của Gilmour lúc này rất dreamy)
    3. Ummagumma: có bản acoustic Gantchester Meadow khá hay, nhưng bản studio không hay bằng bản này

    ngoài ra The Narrow Way & Careful with that axe, Eugene khá hay.
    4. Atom heart mother: 1 favourite album của khá nhiều fan PF, các bài hát hay Fat Old Sun/ Atom Heart Mother (bản này Gilmour chơi guitar cực hay, Wright chơi keyboard rất nhiều trong track nhưng không hiểu sao em không thích lắm)/ Alan's Psychedelic Breakfast
    5. Meddle: favs album của em hehe, ngoài Echoes không nói làm gì thì One of these days cực kì hay (trống Nick đánh phê luôn), Pilow of Winds rất hay, còn Fearless thì em rất thích (có mấy đoạn main chord và riff guitar cực dị của Gilmour)
    6. Obscured by clouds: giống Atom Heart Mother nhiều fan PF cực thích album này dù các bài hát rất ngắn. Các tracks hay: The Gold it's in the... , Wot's uh the deal?, Mudmen và Childhood's end (fav track của em, mấy bản acoustic của Gilmour em nghe thấy rất dị, như kiểu các hợp âm bị đánh ngược nhưng rất vào tai).

    Chúc bác vui.
     
    Wildbird and lenamvl like this.
  21. Summerwines

    Summerwines Approved Member

    Joined:
    20/3/23
    Messages:
    44
    Likes Received:
    28
    Ơ mà bác không thích The Animals à, huhu em thì rất thích. Trong album này thì guitar work của Pink Floyd là the best rồi. Những đoạn solo guitar trong Dogs & Pigs phê tận nóc. Đoạn outro của Pigs là một trong những cú solo hấp dẫn nhất của Gilmour mà em từng nghe, rất là agressive
     
  22. Summerwines

    Summerwines Approved Member

    Joined:
    20/3/23
    Messages:
    44
    Likes Received:
    28
    Bác nói chuẩn luôn, em càng nghe càng thấy The Wall bớt hay đi (thực sự chỉ có mấy đoạn guitar cân lại) vì album này Wright không tham gia nên cái chất PF gần như không rõ nét (là những đoạn solo tung hứng giữa Gilmour/ Wright). Còn đây là bầy tỏ quan điểm thôi, có cãi nhau gì đâu kêke
     
  23. 666

    666 Advanced Member

    Joined:
    13/11/17
    Messages:
    325
    Likes Received:
    206
    Cụ Syd Barrett xuất thân hoạ sĩ, theo học ngành visual art gì gì cùng với storm thorgerson của hypnosis có nhiều tranh khá thú vị mời các cụ thưởng lãm. Cụ Syd sau khi bị kick có 2 album solo rất tuyệt vời mời các cụ luôn
     

    Attached Files:

  24. Summerwines

    Summerwines Approved Member

    Joined:
    20/3/23
    Messages:
    44
    Likes Received:
    28
    Trong 2 cái solo của Syd em nghe được mỗi cái Madcap còn cái kia không thẩm được, mời các bác
     
  25. lenamvl

    lenamvl Advanced Member

    Joined:
    5/3/14
    Messages:
    4.975
    Likes Received:
    1.899
    Cảm ơn các huynh góp ý. Mình nghe Pink Floyd từ năm 76 .Hồi đó nghe Vinyl và do hồi đó tìm đĩa cực kỳ khó nên mua được album nào là nghe đi nghe lại album đó. Hồi đó mơ ước 1 năm mua được 10 album nhưng thực tế là 1 năm mua được 4 albums là thành công. Thời kỳ đầu của Pink Floyd mình có đủ nhưng khi mua được The Dark Side Of The Moon (năm 1982 mới nhờ mua được )thì mình shook thực sự. Năm 88 nhờ anh bạn làm NCS bên Pháp mua được The Wall ,Wish You... Khi đó thấy các albums thời kỳ đầu quá thô ráp nên không thích nữa. Chưa kể rất nhiều Vinyl của các ban khác rất hay cũng mua được. Ví dụ như Elton John, Eagles, Bee Gees..... Sau này khi chuyển sang CD thì mua được rất nhiều albums Rock Metal cũng rất siêu khác như Metallica, Guns,n,Roses ,Savatage , Yes ....Chúc các huynh vui vẻ
     
    Summerwines likes this.

Share This Page

Loading...