Anathema Anathema là một trong ba band nhạc huyền thoại của Anh Quốc đã góp phần rất lớn vào việc phát triển dòng nhạc Doom Death rồi sau đó là Gothic Metal. Ngay từ đầu những năm 90s, Anathema cùng với My Dying Bride và Paradise Lost đã phát triển một thứ âm nhạc mới mẻ, mạnh mẽ của Doom Death và âm nhạc cả ba gần tương tự như nhau. Nhưng sau đó âm nhạc của họ chia tách hoàn toàn ở những năm giữa của thập kỷ 90s. My Dying Bride vẫn theo đuổi Doom Death và Gothic, Paradise Lost chuyển dần sang mainstream, còn Anathema thì đi theo con đường Prog (họ chịu ảnh hưởng nhiều của Pink Floyd). Vào thời điểm năm 1999, khi tung ra album Judgement, Anathema không còn là một band nhạc Death nữa mà chuyển hẳn sang Progressive với giọng hát clean nhưng vẫn giữ lại một số đoạn riff nặng nề, trầm hùng của quá khứ. Sau những thành công lớn, band nhạc lấn sang cả Alternative, với A Natural Disaster gần như hoàn toàn không còn tính Metal, mà áp dụng phong cách rock nội tâm, trầm lắng (như thể họa là Radiohead và Pink Floyd vậy). Với những người chỉ biết tới 2 albums đầu tiên của nhóm, họ sẽ rất ngạc nhiên với hướng đi mới của band nhạc này. Anathema là một band nhạc đặc biệt và rất có phong cách riêng, độc nhất. Bộ sưu tập có 21 đĩa của nhóm Trong đó có các albums sau: Serenades 1993 (2 bản: một của Nga, một của eu - digipack) The Silent Enigma 1995 (có chữ ký của các thành viên Vincent, Daniel) -bản của Nhật Eternity 1996 bản của hãng Soyuz, Nga Alternative 4 1998, 2 bản: bản của Nga và bản của eu có chữ ký các thành viên) Judgement 1999 (có 2 bản đều của eu, một bản thường và bản digipack có chữ ký ở mặt sau booklet) A Fine Day To Exit 2001 (2 bản đều của eu một bản thường, một bản có chữ ký) A Natural Disaster 2003 (2 bản đều của eu: thường và digipack có chữ ký) Hindsight 2008 (2 bản: 1 của Nga, 1 của eu) We're Here Because We're Here 2010 (2 bản đều của eu: 1 thường, 1 slipcase) (còn tiếp)
Anathema Ngoài ra còn có: Weather System 2012 (bản của Nga) Distant Satellites 2014 (bản của Nga) The Optimist 2017 (bản của Nga- digipack) và cặp đôi album tuyển chọn: Resonance 2001 và Resonance II 2002 digipack của eu: 1 theo phong cách Doom Death và một theo phong cách Prog Metal.
In The Woods… In The Woods tiếp tục là một band nhạc Prog Metal có xuất phát điểm từ Extreme Metal Na Uy. Lịch sử của In The Woods ... bắt đầu từ năm 1990 khi các thành viên thành lập ra Green Carnation (band nhạc này sẽ được đề cập tới ở phần sau). Với sự tan rã của ban nhạc này vào năm 1992, ba trong số các thành viên (đó là Anders Kobro và anh em Botteri) quyết định chuyển hướng khỏi death metal và sau khi tuyển thêm thành viên mới, In The Woods ... ra đời (thành viên còn lại của Green Carnation là Tchort sẽ gia nhập band nhạc Black Metal huyền thoại Emperor). Khởi đầu, In The Woods chơi theo phong cách Black Metal nhưng không thực sự là Black với nhiều tính thử nghiệm, Avant Garde kết hợp với keyboards và giọng ca clean. Band nhạc này tung ra được 2 albums cực hay là Heart of the Ages -95 và Omnio -97 trước khi tan rã để tái lập Green Carnation vào năm 99 khi Tchort rời khỏi Emperor. Vào năm 2014, các thành viên ban đầu của nhóm là Kobro and the Botteris đã tái hợp lại và một phiên bản mới của In The Woods ... đã ra đời. Giờ đây, band nhạc mới này đã tung ra được ba albums, phong cách chuyển sang kiểu progressive rock / metal có phần tiến bộ hơn, với một số thử nghiệm của thời kỳ đầu vẫn còn nguyên vẹn giá trị. In The Woods là band nhạc rất hay dù đĩa cũng hơi hiếm. Bộ sưu tập có 3 albums: Heart of the Ages -95 Omnio -97 Pure -2016
Phlebotomized Band nhạc đến từ Hà Lan này khởi đầu là với tư cách là một band nhạc Death metal gồm bảy thành viên. Họ kết hợp các phong cách death/doom, Technical death và avant-garde death với một số thành phần của Grindcore. Sau đó họ chuyển dần sang Prog Metal với việc sử dụng violin như một nhạc cụ chính thức của band nhạc và tích hợp thêm rất nhiều syntherizer. Nhóm chỉ tung ra được 2 album là Immense Intense Suspense -94 và Skycontact-97. Do thời gian hoạt động khá ngắn, band nhạc ít được biết tới rộng rãi. Sau này, nhờ sự phổ biến rộng rãi của Internet band nhạc dần có chỗ đứng rộng rãi hơn. Vào khoảng năm 2013 họ còn tái hợp và tung ra một album nữa là Deformation Of Humanity vào năm 2018. Bộ sưu tập có album Skycontact -97
Nightingale Ban đầu, Nightingale hoàn toàn là một dự án solo của cựu ca sĩ Edge Of Sanity -Dan Swano, người mà nhiều người biết đã nhúng tay vào nhiều ban nhạc/dự án trong suốt nhiều năm. Nhưng sau đó Dan kết nạp thêm Tom Nouga, người trên thực tế là Dag, anh trai của Dan, và tung ra 2 albums thứ hai và thứ ba. Cuối cùng thì dự án đã trở thành một band nhạc chính hiệu với sự xuất hiện của các thành viên chơi bass và trống. Khác với các band nhạc khác của Swanö, thường bắt nguồn từ Death metal (xem Edge Of Sanity, Pan-Thy-Monium, và Bloodbath), nhưng tại band nhạc này trọng tâm là về giai điệu progressive metal và thậm chí cả prog rock, vốn không phải là quá ngạc nhiên khi nghe tác phẩm solo Moontower của Dan. Dù ít được biết tới và có lẽ kém nổi tiếng hơn so với dự án khác của Dan Swano, Nightingale có những albums rất hay trong thập kỷ 2000s về sau này. Bộ sưu tập có 2 albums: The Breathing Shadow -1995 và Alive Again: The Breathing Shadow Part 4 -2003
Symphony X Band nhạc này thành lập vào năm 1994, do tay guitar đầy tài năng nhưng ít người biết tới Michael Romeo cùng một số bạn học của anh này. Ban nhạc ở New Jersey này bắt đầu gây chú ý với album Divine Wings Of Tragedy mang lại rất nhiều sự khen ngợi. Nhóm tiếp tục thăng tiến vượt bậc với thành công của album V phát hành năm 2000. Với rất nhiều những album tuyệt vời sau đó, Symphony X đã củng cố vị thế của họ ngang hàng cùng với Dream Theater và Fates Warning trên đỉnh lĩnh vực progressive metal chính thống. Mặc dù có rất nhiều band nhạc chơi theo phong cách này, nhưng Symphony X – dù thành lập muộn hơn các band nhạc khác – đã vươn lên để chiếm vị trí hàng đầu trong dòng nhạc. Chỉ đơn giản là họ đã thực hiện công việc tốt hơn, tràn đầy cảm xúc, kỹ năng âm nhạc và kỹ năng sáng tác vô song vào các bản phát hành của họ. Phong cách kết hợp Prog Metal với Neoclassical, Symphonic Prog và Power Metal đầy nhuần nhuyễn đã biến họ trở thành một trong những band nhạc có âm thanh chuyên nghiệp nhất trong lịch sử dòng nhạc. Phong cách chơi wall of sound của Symphony X sau này đã khiến những bản ghi âm của họ thực sự trở thành những album Prog Metal hoàn hảo dành cho dân audiophile. Bộ sưu tập có 11 albums của nhóm (CDs) Bao gồm: Symphony X 1994 The Damnation Game 1995 The Divine Wing Of Tragedy 1996 Twighlight In Olympus 1998 (SE digipack) V – The New Mythology Suite 2000 Odyssey 2002 (SE digipack) Paradise Lost 2007 Iconoclast 2011 (digipack) Underworld 2015 (digipack)
Symphony X (tiếp theo) Ngoài ra còn có 2 albums live của nhóm gồm: Live On The Edge Of Forever 2001 (album live duy nhất chính thức của nhóm - 2CDs) và album bootleg buổi biểu diễnkinh điển tại BB King Blues Club của nhóm BB Kings 2007 -2007 (2CDs - japan) Và poster có chữ ký của các thành viên trong nhóm
Poverty's No Crime Poverty's No Crime là một trong những band nhạc Metal gạo cội của Đức, có thể xếp hạng cùng với Vanden Plas là những gương mặt nổi bật trong nền nhạc progressive rock/metal của Đức. Phong cách của nhóm chịu nhiều ảnh hưởng của Dream Theater, mặc dù họ không kỹ thuật và hào nhoáng bằng Dream Theater về khả năng chơi nhạc cụ. Tuy nhiên, nhóm vẫn có phong cách độc đáo của riêng họ trong phong cách Prog Metal. Âm nhạc rất điển hình cho phong cách Prog Metal châu Âu (tức là có nhiều ảnh hưởng của Speed/Power Metal nhưng band nhạc này rất có tài kết hợp các yếu tố lại với nhau. Mọi thứ đều phù hợp, từ quá trình sản xuất chắc chắn đến các bài hát được sáng tác với chất lượng cao và giọng hát mạnh mẽ nhưng không quá lố, đi vào phần khoe chất giọng mà nhiều cảm xúc hơn. Band nhạc thành lập vào năm 1991 và đã phát hành 8 album cho đến nay. Bộ sưu tập có album Save My Soul vào năm 2007.
Kong Band nhạc này thành lập năm 88 tại Hà Lan và không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một trong những band nhạc nguyên bản và độc đáo nhất của Prog Metal. Ngay từ đầu Kong đã chọn chơi hòa tấu không lời với các bản phối phức tạp, thường có bốn thành viên chơi các đoạn riff hoàn toàn khác nhau, như thể họ đang chơi các bài hát khác nhau vậy. Thế nhưng, kỳ lạ thay, âm nhạc nghe vẫn rất hợp lý. Đôi khi, họ chọn cách riffing nặng nề, lúc khác thì im lặng và vẫn có lúc họ lao vào các sample và những ảnh hưởng của Industrial. Thực sự không có một band nhạc nào nghe giống như Kong. Band nhạc cũng có một chế độ biểu diễn live hết sức độc đáo, với mỗi thành viên chiếm một góc khác nhau của sân khấu, bao quanh khán giả một cách đầy hiệu quả. Với một band nhạc mang nhiều tính thử nghiệm như vậy, ta có thể dự đoán rằng, họ sẽ có xu hướng đi lạc vào nhiều đường hướng thử nghiệm khác nhau hơn khi họ dần trưởng thành, và điều đó thực sự đã xảy ra, các album sau này rời xa khỏi Prog Metal và chuyển sang đi sâu vào nhịp điệu techno/house hơn. Band nhạc chính thức tan rã vào khoảng năm 2003, nhưng tay bass Mark Drillich đã hồi sinh ban nhạc 4 năm sau đó với một đội hình mới và tiếp tục những phần thử nghiệm mới lạ hơn và rất hiệu quả. Bộ sưu tập có 2 albums CD đều của Nhật và rất hiếm: Push Comes To Shove -1995 Và Earmined -1997
Tool Band nhạc này thành lập vào khoảng năm 1990 tại Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Tool là một band nhạc kỳ lạ, rất được chú ý, rất thành công về mặt thương mại (3 trong số 5 albums chính thức của nhóm đứng đầu bảng xếp hạng tại Mỹ và rất nhiều quốc gia khác, với hàng chục triệu bản bán được trên toàn thế giới, một album khác đứng hạng 2). Âm nhạc của nhóm rất khác biệt, duy nhất nhờ kết hợp của rất nhiều thể loại heavy metal với các cấu trúc Progressive, nhịp điệu bất thường và lời bài hát trải dài từ những sự công kích giận dữ thường thấy của Alternative Rock đến những suy tư về các vấn đề triết học và xã hội. Trong bản thu âm dài đầu tiên của họ, Undertow, năm 1993 mang nhiều âm hưởng của Thrash Metal kết hợp với Prog nhưng tới album thứ 2 là Ænima vào năm 1996, họ chuyển sang Alternative. Sau quá trình phát triển liên tục về âm thanh và những nỗ lực không ngừng của họ để thống nhất các kiểu thửnghiệm âm nhạc, nghệ thuật thị giác và thông điệp về sự phát triển cá nhân, họ phát hành album Lateralus -2001. Các album đầy tham vọng của họ đặc biệt dài hoặc rất phức tạp, lời bài hát và ảnh bìa gây tranh cãi cũng như các video âm nhạc kỳ dị, không chính thống, dẫn đến mối quan hệ mâu thuẫn giữa band nhạc và ngành công nghiệp âm nhạc. Đôi khi bị gắn mác kiểm duyệt và đánh dấu cuộc đấu tranh liên tục của band nhạc cho quyền riêng tư. Mặc dù vậy, Tool đã giành được 4 giải Grammy và tiếp tục biểu diễn trên toàn thế giới cũng như nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của giới phê bình. Có một điều hơi buồn là thời gian giữa các lần phát hành album của nhóm thường kéo rất dài. Tuy nhiên mỗi album của nhóm là một tác phẩm nghệ thuật đa dạng, riêng biệt với sự đầu tư rất cao vào thiết kế cover. Các buổi trình diễn live của nhóm thường kết hợp nhiều loại nghệ thuật, trình diễn ánh sáng rất công phu, thiết kế sân khấu rất lạ và đẹp mắt. Các thành viên band nhạc cũng tham gia vào các dự án phụ đáng chú ý. Không còn nghi ngờ gì nữa, Tool là một trong những nhóm nhạc dẫn đầu của Heavy Metal. Họ tạo ra một thương hiệu độc đáo về nhạc rock / Metal kiểu Progressive, Alternative rất tối tăm nhưng đầy tính nghệ thuật. Thứ âm nhạc này đã đóng vai trò rất quan trọng và có ảnh hưởng lớn đối với nhiều band nhạc Alternative, Nu Metal và cả Prog Metal nữa. Âm nhạc của họ thực sự đã vượt quá giới hạn của cả Prog lẫn Alternative Metal rất nhiều. Bộ sưu tập có 8 đĩa của nhóm Gồm: Opiate 1993 (EP) - đĩa nhạc chính thức đầu tiên của nhóm Undertow 1993 (album đầu tiên của nhóm) Aenima 1996 (album với cover kiểu 3D-motion của nhóm) Lateralus 2001 (album với booklet bằng plastic xếp chồng lên nhau) 10.000 Days 2006 (album với cover là kính 3D) Fear Inoculum 2019 (album với màn hình) Prison Sex 1993 (single đầu tiên của nhóm) Sober 1994 (single thứ hai của nhóm)
Mình chỉ có 6 albums, thua bạn 2 cái. Rất nhiều fan cuồng ở Mỹ gọi Tool là Pink Floyd của xứ cờ hoa . Theo mình Tool xứng đáng với danh hiệu đó
Sang tháng sau sẽ nhận được Dark Tranquility và Obituary. Đang hồi hộp chờ đợi. Nghe Rock Metal phải loa to mới sướng
Ayreon Ayreon là dự án âm nhạc quan trọng nhất của Arjen Anthony Lucassen, một nghệ sĩ đa nhạc cụ, nhà soạn nhạc và ca sĩ người Hà Lan. Tất cả các albums của Ayreon chủ đạo là nhạc rock-opera với cốt truyện khoa học viễn tưởng, mặc dù đã có những trường hợp ngoại lệ:Virtual Fantasy (không phải nhạc rock opera) hay The Human Equation (không phải khoa học viễn tưởng, nhưng vẫn có cốt truyện). Bản thân Arjen Lucassen là một trong những nhạc sĩ progressive rock/metal được kính trọng nhất của Hà Lan, anh này tạo dựng được tên tuổi của mình vào những năm 80 với các band nhạc thiên về metal truyền thống như Bodine và Vengeance. Nhưng chính Ayreon mới khiến mới khiến cho những người hâm mộ Metal biết tới Lucassen nhiều hơn. Trong dự án này, Lucassen thường kết hợp âm nhạc Prog với Electronic và Opera. Trong các albums thì anh đều mời một loạt các nhạc sĩ prog Rock/ Metal rất nổi tiếng để vào vai các nhân vật trong cốt truyện.Dự án này có thể coi là thể loại progressive rock/metal kết hợp với nhạc cổ điển đỉnh cao, với sự chuyển soạn hết sức phù hợp với một loạt các giọng hát kinh điển của Rock và Metal. Cái tên "Ayreon" thực chất không bắt nguồn từ tên riêng của Arjen, mà có ý nghĩa là sự kết hợp của cổ điển (Ay) vừa tương lai (Eon). Bộ sưu tập có 7 albums của nhóm The Final Experiment 1995 bản (SE Slipcase 2CDs) Into the Electric Castle 1998 (SE 2CDs) Universal Migrator 2000 (SE 2CDs kết hợp cả bản 1 và 2) The Human Equation 2004 (2CDs) 1011001 2008 (digibook 2CDs+DVD) Theory Of Everything SE 2013 (digibook 2CDs +DVD) The Source 2017 (SE Digibook 2CDs+DVD)
Doom Doom là band nhạc Prog Metal tiên phong của Nhật Bản. Band nhạc thành lập năm 1984 và khởi đầu chơi một thứ nhạc kiểu Technical Thrash Metal nhưng họ còn kết hợp thêm cả Hardcore và Avant Garde vào trong âm nhạc. Cách tiếp cận âm nhạc của Doom, vô tình giống một cách kỳ lạ với band nhạc Voivod. Rất nhiều người sẽ nhầm tưởng rằng đây là một band hâm mộ Voivod, nhưng trên thực tế có lẽ họ đã phát triển độc lập. Một band tại Canada, một band tại Nhật trong hoàn cảnh không có internet vào giữa thập niên 80s thì cũng khó có thể ảnh hưởng lẫn nhau. Tại thời điểm năm 87, khi các band bắt đầu tung ra những album kinh điển, có vẻ như Doom chơi nhạc kỹ thuật hơn và cũng mang nhiều tính thử nghiệm hơn so với Voivod. Ngược lại họ có vẻ thiếu tập trung hơn vì thử nghiệm quá nhiều. Doom đã có những album rất hay trong những năm cuối thập kỷ 80, đầu 90s nhưng rất ít được biết tới trên toàn thế giới. Với những fan hâm mộ của thứ âm nhạc điên rồ không thể đoán trước kiểu Avant Garde hoặc Prog, có thể coi Doom như là sự kết hợp của Voivod và band nhạc Sigh (một band Avant Garde Metal rất hay của Nhật Bản). Sau này, nhờ sự phát triển của internet, Doom được biết tới nhiều hơn và các album cũng nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Bộ sưu tập có album thứ hai của nhóm Complicated Mind -1988 của nhóm (CD Nhật Bản)
Pain Of Salvation Vào khoảng giữa những năm 2000s, một trào lưu mới của Prog Metal bắt đầu trỗi dậy và, sau một thời gian ngắn, họ nổi lên và dần thay thế những band nhạc Prog Metal trào lưu đầu tiên. Một trong những band nhạc quan trọng nhất trong trào lưu này có thể kể đến Pain Of Salvation. Khởi đầu là một band nhạc với nhiều ảnh hưởng của Queensryche và Dream Theater, band nhạc trỗi dậy rất mạnh mẽ để đưa người nghe sang một bình diện khác, đồng thời tiến sâu vào việc trở thành một band nhạc progressive metal hàng đầu. Quá trình sản xuất hoàn hảo, âm nhạc đỉnh cao với các bài hát phong phú, hoành tráng, sâu sắc và phức tạp, đó là những điều có thể miêu tả rõ ràng nhất về âm nhạc của Pain Of Salvation. Nhóm luôn thể hiện đẳng cấp và chất lượng mà không hề tự phụ hay buông thả trong các album của mình. Đây rõ ràng là một band nhạc ở những đẳng cấp cao nhất. Bộ sưu tập có 11 CDs của nhóm Bao gồm bộ đĩa Boxset Original Album Collection: Discovering Pain Of Salvation gồm 5 đĩa: Entropia 1997, One Hour By The Concrete Lake 1998, The Perfect Element 1999, Remedy Lane 2002 và album live 12:5 2004 Ngoài ra còn có các albums: One Hour By The Concrete Lake 1998 (bản sample của Nhật) The Perfect Element 1999 Remedy Lane 2002 (slipcase) "Be" 2004 Scarsick 2007 Road Salt One 2010
Spastic Ink Hẳn chúng ta còn nhớ band nhạc tiên phong của Prog Metal là Watchtower, với album đầu tiên của dòng nhạc vào năm 1985. Sau khi band nhạc này tan rã thì nghệ sĩ guitar của nhóm là Ron Jarzombek thành lập Spastic Ink. Vào năm 97, nhóm này tung ra album đầu tiên là Ink Complete, một album hòa tấu không lời theo phong cách Prog Metal siêu phức tạp, khiến cho cả Watchtower cũng trở nên đơn giản. Phong cách đặc biệt của Jarzombek tiến tới đỉnh cao trong album này với những phàn solo và các đoạn riff đều chặt chẽ đến khó tin, nhưng phần rhymth của anh trai Ron là Bobby (trống) và Pete Perez (bass) phù hợp với tiếng guitar như cậu với mợ -- có lẽ không có band nhạc nào còn tồn tại đến ngày nay sở hữu kỹ thuật và năng khiếu âm nhạc như vậy. Một thứ âm nhạc không dành cho đại chúng, ít thân thiện nhưng vô cùng xuất sắc trong sự phức tạp của nó. Album tiếp theo, Ink Compatible, cần tới vài năm để chuẩn bị và cuối cùng đã được hoàn thành vào đầu năm 2004. Đây tiếp tục là một siêu phẩm của Prog Metal với sự đóng góp của rất nhiều anh tài như: các cựu thành viên của Watchtower là Jason McMaster và Doug Keyzer, Sean Malone (Cynic ), Jens Johannsson (Stratovarius), Daniel Gildenlow (Pain Of Salvation), Marty Friedman (Megadeth), và một số người khác. Tiếc rằng đây là 2 albums duy nhất của nhóm. Bộ sưu tập có 2 albums này
Devin Townsend Vào những năm 90s, Devin Townsend là một nhạc sĩ ít người biết đến, mặc dù đã tham gia với một số band như Wildhearts, Steve Vai. Sau đó, Strapping Young Lad (SYL)ra đời, và trở thành một huyền thoại underground của Industrial/Extreme Metal. Band nhạc sau đó phát triển đến mức khổng lồ, được tôn sùng vì công việc Townsend. Ngoài SYL, Devin đã thu âm nhiều loại album, một số hoàn toàn là album solo, một số khác dường như vẫn là solo mặc dù được phát hành dưới dạng tên một band nhạc (Ocean Machine), Devin Townsend Band hay Devin Townsend Project tùy theo sự khác biệt trong âm nhạc. Giọng hát đặc trưng và kỹ năng sáng tác độc đáo của Devin, đúng như dự đoán, là nền tảng tạo nên âm thanh của các band nhạc này -- lúc thì giống SYL, lúc thì không, nhưng luôn có yếu tố "riêng biệt" có một không hai mà dường như chỉ anh này mới sở hữu. Càng với những bản phát hành mới, Devin càng tiến lên một tầm cao mới, với một thứ âm nhạc thú vị và độc đáo nghe có vẻ không giống bất kỳ ai khác. Tuy anh này thường tuyên bố rằng Metal không còn là ưu tiên hàng đầu của mình nữa, nhưng thực ra âm nhạc vẫn còn rất nhiều tính Metal. Bộ sưu tập có khoảng hơn 20 CDs của nhóm Trong đó có Ocean Machine: Biomech 1997 (2 bản một của Nhật, một của Đức) Infinity 1998 - Đức Physicist 2000 Terria 2001 (1 bản thường, 1 bản SE 2CDs) Accelerated Evolution 2003 (digipack - SE 2CDs) - Đức Devlab 2004 Synchestra 2006 The Hummer 2006 Ziltoid The Omniscient 2007 (SE 2CDs - digipack)
Devin Townsend Addicted 2009 (Đức - slipcase) Ki 2009 (Đức - slipcase) Deconstruction 2011 (Nhật) Ghosts 2011 (Đức - slipcase) Epic Loud 2012 - Đức Ziltoid II 2014 (2CDs) - Đức Transcendence 2016 SE - 2CDs - Đức Empath 2018 (digipack - Đức SE)
Evergrey Trong thế hệ thứ hai của Prog Metal, Thụy Điển đã sản sinh ra nhiều band nhạc xuất sắc. Cùng với Pain Of Salvation, Evergrey là một trong những band nhạc hàng đầu trong lĩnh vực này, kể từ khi họ ra mắt vào năm 1998. Điểm cốt lõi trong âm nhạc của nhóm, luôn là sự cân bằng rất cẩn trọng và tỉ mỉ giữa progressive và power metal, với giai điệu và sự giận dữ hợp nhất khá hoàn hảo để cái này không áp chế cái kia. Sang trọng, trưởng thành và chuyên nghiệp là những điểm nổi bật của Evergrey. Những albums đầu của nhóm chất lượng khá tốt. Có thể cho rằng các albums đầu tiên thành công hơn so với các album khoảng giữa thập niên 2000s, 2010s. Tuy vậy, chất lượng các albums sau Hymns For The Broken năm 2014 dường như đã thay đổi nhận định này. Bộ sưu tập có 8 albums của nhóm Bao gồm: The Dark Discovery 1998 The Dark Discovery 1998 (remastered) Solitude, Dominance, Tragedy (Re-Release) 1999 The Inner Circle 2004 Monday Morning Apocalypse 2006 Torn 2008 Hymns For The Broken 2014 The Storm Within 2016
Ark Band nhạc progressive metal Ark thực chất là một dạng side project của band nhạc Conception mà chúng ta đã biết tới ở phần trước. Nhưng sau khi Conception tan rã thì band nhạc trở thành dự án chính thức. Band nhạc lúc này gồm một dàn nghệ sĩ xuất sắc, Ark đã có những thời gian vô cùng tốt đẹp với 2 albums Ark và Burn The Sun vô cùng xuất sắc cả về mặt âm nhạc và giọng hát. Album tạo ra sự cân bằng hoàn hảo giữa giai điệu và sự mạnh mẽ, giữa sức mạnh và cảm xúc, một màn trình diễn gần như hoàn hảo. Họ chia tay ngay sau khi phát hành album thứ hai, sau này band nhạc có tái hợp nhưng không thực sự thành công. Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm
Orphaned Land Orphaned Land là một trong số ít band nhạc Metal gạo cội của Israel. Khởi đầu, Orphaned Land chơi một thứ death metal có nhịp độ chậm đến trung bình, thỉnh thoảng đá thêm một chút hương vị quê hương của họ dưới dạng một số giai điệu mang âm hưởng Trung Đông thú vị, giúp họ đa dạng hơn một chút so với nhiều band nhạc khác. Nhưng điều đó có lẽ chưa đủ để họ bật lên khỏi biên giới của Israel. Có lẽ vì lý do này, sau hai album vào giữa những năm 1990, band nhạc đã chuyển hướng rất mạnh mẽ để trở thành một trong những band nhạc Prog Metal kết hợp với Folk nổi tiếng nhất với một loạt những album kinh điển như: Mabool -2004, The Never Ending Way Of ORwarriOR -2010 hay All Is One -2013. Cho đến tận bây giờ, các album này vẫn nhận được nhiều đánh giá xuất sắc. Bộ sưu tập có 4 Cds của nhóm Gồm: Mabool -2004 (bản album của Nga và bản promotion card board của Mỹ) The Never Ending Way Of ORwarriOR -2010 All Is One -2013.
Platypus Platypus thực chất là một band nhạc kiểu side project gồm toàn các thành viên rất nổi tiếng từ Dream Theater (John Myung, Derek Sherinian), King's X (Ty Tabor) và Dixie Dregs (Rod Morgenstein). Nhóm được thành lập vào năm 1997 và tan rã vào năm 2000. Khởi đầu Platypus, đây là dự án của tay bass John Myung của Dream Theater và sau đó là tay keyboard Derek Sherinian của Dream Theater tham gia dự án. Band nhạc này như một lối thoát sáng tạo, nơi có thể phát triển những ý tưởng không phù hợp lắm với Dream Theater. Sau đó Myung mời thêm nghệ sĩ guitar kiêm hát chính Ty Tabor của King's X và tay trống Rod Morgenstein của Dixie Dregs, nhóm nhạc dần thành hình. Sau đó họ có một sự nghiệp khá ngắn ngủi với 2 albums phát hành từ năm 1997 đến 2000. Âm nhạc của Platypus có thể được mô tả là dòng nhạc progressive rock hiện đại do guitar và keyboard làm chủ đạo kết hợp với những ảnh hưởng từ nhạc rock và progressive rock của thập niên 70, sử dụng phần hòa âm giọng hát và các đoạn hòa tấu kéo dài. Album đầu tiên của họ, When Pus Comes To Shove, khá thành công, đến mức nó truyền cảm hứng cho album tiếp theo mang tên Ice Cycles, phát hành năm 2000. Sau đó, band nhạc chia tay và hiện tại không có kế hoạch tái lập để thu âm một album khác. Tuy nhiên, di sản của Platypus vẫn tồn tại trong band nhạc The Jelly Jam: một dự án được thành lập vào năm 2000 bao gồm ba phần tư thành viên của Platypus (Myung, Morgenstein và Tabor). Band nhạc này đã phát hành ba album. Bộ sưu tập có album đầu tay When Pus Comes To Shove của nhóm