Magenta (P1) Magenta là một trong những band nhạc lớn nhất của Neo Prog tại thập kỷ 2000s, nhóm thành lập tại Cardiff, xứ Wales, Vương quốc Anh vào năm 2001. Mặc dù thành lập trong thập kỷ 2000s nhưng câu chuyện của nhóm lại bắt đầu từ rất lâu trước đó, tức là vào năm 1984 khi nhóm nhạc Cyan ra đời. Lúc này nghệ sĩ keyboards cũng là sáng tác chính của nhóm vẫn còn đang đi học phổ thông. Mặc dù band nhạc này tan rã chỉ sau một vài buổi biểu diễn và phát hành một băng demo, Reed lấy cảm hứng từ các band nhạc như Genesis, Mike Oldfield, Yes, Eurythmics và Björk. Dù chịu ảnh hưởng lớn từ nhạc Prog rock, Reed thực chất là một nhạc sĩ chuyên nghiệp có tên tuổi và đã thực hiện nhiều dự án khác nhau cho cả phim và truyền hình. Dự án thành công nhất của anh này trước khi lập ra Magenta có tên là Trippa, mà chúng ta sẽ gặp ở ngay sau phần này. Được mô tả là "một kiểu Eurythmics đương đại cho thiên niên kỷ mới" kết hợp phong cách nhạc Industrial Pop táo bạo của riêng họ với các bản phối cao vút dành cho dàn nhạc. Band nhạc có Christina Booth hát chính và Rob Reed chơi guitar và keyboard, cùng với Rhiannon Stundon (hát bè) và Ryan Aston (trống). Ban nhạc đã phát hành EP Trippa vào năm 1999 và được bình chọn là 'Bản thu âm của tuần' trên Đài phát thanh Virgin, xuất hiện trên truyền hình Anh nhiều lần. Vào thời điểm này, Reed đã yêu cầu Christina làm ca sĩ chính cho một dự án nhạc Prog rock mà anh ấp ủ, và những ý tưởng ban đầu cho Magenta đã ra đời. Magenta ban đầu là một dự án phòng thu, với Rob chơi hầu hết các nhạc cụ. Tuy nhiên, sau khi album đầu tay Revolutions của họ được phát hành vào năm 1999, một album rất hay và khiến cho hầu hết những người hâm mộ nhạc prog cổ đều nhớ tới những năm 70 khi nhạc prog đạt đến đỉnh cao với tiếng guitar đầy cảm xúc, những bản độc tấu keyboard tuyệt vời và những bản hòa âm kiểu Symphonic tuyệt đẹp. Vào thời điểm bấy giờ, Christina Murphy (hiện là Christina Booth sau khi lấy chồng) là một nữ ca sĩ đáng kinh ngạc có một chút giống Stevie Nicks kết hợp với sự xuất sắc của Annie Haslam cộng với phong cách cá nhân và độc đáo của cô ấy đã tỏa sáng hết sức trong "Revolutions", một album đôi concept kể về những khoảnh khắc đã thay đổi nhân loại (những cuộc cách mạng nhỏ). Album nhận được rất nhiều lời khen ngợi của giới hâm mộ thì nhu cầu để thành lập một band nhạc thực thụ. Vì mục đích đó, họ quyết định thuê một số nhạc sĩ để thực hiện các bản thu âm cho các albums. Nhưng dự án thành công quá lớn so với sự tưởng tượng của các thành viên band nhạc, và người hâm mộ bắt đầu yêu cầu tổ chức các buổi hòa nhạc trực tiếp, vì vậy họ đã thay đổi kế hoạch và thành lập một band nhạc thực thụ, với Tim Robinson (Bộ gõ) cùng với các thành viên khác là Chris Fry (guitar), Martin Rossen (guitar) và Matthew Cohen (bass) tạo thành đội hình đầu tiên của nhóm. Có lẽ cũng vì những lý do ổn định đội hình mà phải 3 năm sau, nhóm mới công bố album tiếp theo của mình "Seven" vào năm 2004. Đây là một album concept với nội dung chính về Seven Capital Sins, hay còn gọi là 7 đại tội trong Ki tô giáo và đạo Hồi. Album này mang ít mang tính giao hưởng hơn so với album trước nhưng tràn đầy năng lượng mới mẻ của các band nhạc Neo Prog như Pendragon và Marillion (thời FISH). Thời gian chờ đợi tuy hơi dài cho một band nhạc mới nhưng nó thực sự là xứng đáng, Magenta đã cho thấy sự trưởng thành trong âm nhạc của họ, mặc dù ảnh hưởng của những anh hùng thập niên 70 vẫn còn khá rõ ràng. Album rất hay này sau đó đã trở thành một trong những album kinh điển của Neo Prog mới. Sau đó, band nhạc có sự thay đổi cuối cùng trong đội hình là khi Tim Robinson rời Magenta và Alan Mason-Jones, một tay trống vốn là người hâm mộ Magenta đã gia nhập ban nhạc để kịp thời để phát hành Đĩa đơn "Broken". CD này trình bày bốn chủ đề khác bao gồm bản độc tấu Church Organ tuyệt vời "Opus III" của Rob Reed và bản ballad mạnh mẽ "Call Me". Album ngắn này cho thấy một band nhạc trưởng thành hơn có âm thanh rõ ràng và độc đáo, ngay cả khi có một số ảnh hưởng của các band nhạc prog cổ điển. Vào năm 2004, khi album ý niệm này về được phát hành, ít mang tính giao hưởng hơn so với album trước nhưng với năng lượng của các ban nhạc Neo Prog như PENDRAGON và MARILLION (thời FISH), thời gian chờ đợi dài là xứng đáng, MAGENTA cho thấy âm thanh trưởng thành hơn và đối với niềm vui của những người hâm mộ nhạc prog cũ, ảnh hưởng của những anh hùng thập niên 70 vẫn còn rõ ràng. Sự thay đổi cuối cùng trong đội hình là khi Tim Robinson rời MAGENTA và Alan Mason-Jones, một tay trống vốn là người hâm mộ MAGENTA đã gia nhập ban nhạc kịp thời để phát hành Đĩa đơn "Broken". CD này trình bày bốn chủ đề khác bao gồm bản độc tấu Church Organ tuyệt vời "Opus III" của Rob Reed và bản ballad mạnh mẽ "Call Me". Album ngắn này cho thấy một ban nhạc trưởng thành hơn có âm thanh rõ ràng và độc đáo, ngay cả khi có một số tham chiếu đến các band nhạc prog cổ điển. Đường hướng đi của Magenta ngày càng thể hiện rõ nét trong album tiếp theo của nhóm là Home, cũng là một album concept. Nội dung câu chuyện kể về cuộc sống và cảm xúc của cô gái khi chuyển từ Liverpool, Anh Quốc sang New York để sinh sống. Câu chuyện chia làm 3 phần rõ rệt trước khi tới NY, hành trình khởi đầu tại NY và phần kết của NY. Trong album này, nhóm nhạc đã giảm dần tính Progressive và nghiêng nhiều về những bài hát có giai điệu hay. Khởi đầu nhóm định tung ra một album kép, nhưng sau khi nghe lại thì nhóm cảm thấy album quá dài nên đã cắt ngắn lại và tung ra album đơn. (Phần còn lại sẽ tung ra là EP vào năm sau). Album khá dễ nghe những thiếu đi những phần cảm xúc mãnh liệt của các albums trước đó nên không được đánh giá cao bằng album Seven nhưng thực chất đây vẫn là một album hay. Nhận thấy sự thay đổi chưa có chiều hướng tốt đẹp, Magenta một lần nữa nhanh chóng chuyển hướng ở album tiếp theo là Metamorphosis -2008. Đây cũng là một album rất hay khác của nhóm với việc nghiêng rất nhiều về Symphonic Prog đồng thời kết hợp thêm cả những âm hưởng của nhạc Celtic và Space Rock kiểu Pink Floyd. Album cũng mạnh mẽ hơn rất nhiều so với album Home, vốn khá nhẹ nhàng. Metamorphosis tiếp tục là một album rất tốt để biến band nhạc này dần trở thành một thế lực của Neo Prog trong những năm tiếp theo Trong phần này, bộ sưu tập có các albums Seven 2004 (phiên bản của Nhật) Home 2006 (bản đầu tiên của UK) Metamorphosis 2008 (slipcase) và The Metamorphosis Collection -DVD 2008 (do yêu cầu lớn của người hâm mộ, hãng đĩa Tigermoth đã cho ra lại album Metamorphosis bản DVD, bao gồm toàn bộ album mixed lại dạng surround 5.1- audio, ngoài ra còn có những videos về quá trình làm việc, mixed và phỏng vấn các thành viên và các video clips của các bài hát để quảng bá cho album. Đây là một DVD rất hay của nhóm. (còn tiếp)
Magenta (P2) Magenta thực sự phát triển vượt bậc trong album thứ 4 là Metamorphosis vào năm 2008, sau đó nhóm có sự tự tin cần thiết để phát hành những album thay đổi nhiều hơn. Một trong số đó là album Chameleon -2011. Đây là một album gồm nhiều những bài hát ngắn hơn, đa thể loại và có giai điệu rất tốt. Nó cũng nhẹ nhàng và đơn giản hơn so với Metamorphosis rất nhiều, vì vậy nó rất dễ nghe, dễ nhớ và cũng có chất lượng rất ổn nữa. Album The Twenty Seven Club lại là một album concept với nội dung về những nghệ sĩ ra đi ở tuổi 27. Album này tiếp tục trở lại với phong cách nghiêng nhiều hơn về Neo Prog kết hợp với Symphonic Prog. Nội dung của albums nghe thì có vẻ nặng nề nhưng thực chất âm nhạc không quá đen tối và có phần khá dễ nghe. Album thứ 7 là We Are Legend thì như một sự đối ngược với album The Twenty Seven Club trước đó, tức là nghiêng nhiều về Symphonic Prog nhưng mà vẫn có những ảnh hưởng từ Neo Prog. Album chỉ gồm 3 bài hát epic rất dài (có bài dài hơn 26 phút) và tiếp tục có chất lượng rất tốt. Album thứ 8 We Are Legend -2020 tiếp tục là một album kiểu Symphonic Prog với nhiều ảnh hưởng hơn từ Prog Metal và Neo Prog. Cả 3 albums kể trên đều có chất lượng rất tốt và đưa tên tuổi Magenta trở nên nổi tiếng trong thế giới của Prog Rock, biến họ trở thành một trong những band nhạc tài năng nhất của dòng nhạc này trong thập kỷ 2000s trở lại đây. Riêng album gần đây nhất là The White Witch - A Symphonic Trilogy -2022 lại chứng kiến sự thay đổi chóng mặt của nhóm khi chuyển sang phong cách nhạc cổ điển phục vụ cho phim ảnh và Spoken Word (tức là nhạc nói). Phong cách này có phần nào đó gây shock cho người hâm mộ nhưng quả thật là không thể so sánh album này với bất kỳ albums nào khác của nhóm. Một điểm cộng lớn của albums là dù nó khác biệt hoàn toàn, chất lượng của nó vẫn rất tốt. Magenta thực sự là một làn gió mới cho những người hâm mộ Prog kinh điển mặc dù họ luôn cố gắng tạo ra sự khác biệt trong âm nhạc. Bất chấp những việc đó, âm nhạc của nhóm luôn có những ảnh hưởng từ các band nhạc gạo cội với đẳng cấp riêng biệt và được sản xuất với chất lượng rất cao. Họ thực sự là một band nhạc rất đáng nghe của Neo Prog mới. Bộ sưu tập có những album sau: Chameleon 2011 Ngoài các albums studio, Magenta còn phát hành các albums dạng compilations, chủ yếu là để quảng bá cho các albums. Bộ sưu tập có 2 albums dạng này gồm: The Collection 2008 : đây là album tuyển chọn các bài hát hay trong các albums trước Metamorphosis nhằm quảng bá cho albums này. Các bài hát chủ yếu là đã được remixed lại để có độ dài phù hợp hơn. Album không bán chỉ tặng. The Collection "Wonderous Stories" 2009 Tiếp tục là một bản promotion khá hay và khác so với bản trước Ngoài ra còn có Single thứ 2 của nhóm là Alive I'm Alive 2004 Album live Live At Real World 2010 (SE 2CD+1DVD) Và bản EP mới nhất của nhóm Songs From The Big Room 2021 Tổng cộng có 10 albums của nhóm
Trippa Trong phần trước chúng ta đã giới thiệu qua một phần của Trippa. Nhóm nhạc này thực chất là tiền thân của Magenta, thành lập vào năm 99 và chỉ gồm 2 thành viên là Christiana Booth hát chính và Rob Reed chơi guitar, keyboards và các nhạc cụ khác nữa. Dự án này chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn, khoảng 2 năm trước khi Reed và Booth quyết định chuyển nhóm thành Magenta và đi theo một con đường hoàn toàn khác khi nghiêng hẳn sang Prog Rock. Trước khi đổi tên thành Magenta, Trippa chỉ kịp tung ra một EP duy nhất cùng tên vào năm 1999. Đây là một album khá nhỏ, chỉ gồm 4 bài hát và mặc dù chịu ảnh hưởng của Prog Rock nhưng album còn có rất nhiều ảnh hưởn từ những phong cách Indie Rock, Pop và Industrial, Gothic Rock kiểu All About Eve giai đoạn sau này. Trong album này Christian lấy nghệ danh là Tina Murphy với một giọng hát thực sự tuyệt vời, album còn có sự tham gia của Rhiannon Stundon (hát bè) và Ryan Aston (trống) trong vai trò khách mời hỗ trợ cặp đôi Reed/Booth. Tại thời điểm này, giọng hát của Christina, vẫn còn chút gì đó hoang dã và quyến rũ, hoàn toàn phù hợp với các bài hát và đây là một tác phẩm hoàn chỉnh sẽ làm hài lòng những người hâm mộ thể loại đó, bao gồm cả những người hâm mộ Gothic Rock. Có thể nói Trippi là một dự án chuyển tiếp trong sự nghiệp của Magenta nhưng nó rất thành công khi xuất hiện trên các đài phát thanh và truyền hình lớn tại Anh Quốc đồng thời đạt được một số giải thưởng quan trọng. Tiếc rằng sau đó Reed và Booth quyết định thay đổi phong cách và dự án không được tiếp tục phát triển (hay nói đúng hơn là phát triển theo hướng hoàn toàn khác trong Magenta). Nhưng sau khi sự nghiệp của Magenta phát triển mạnh thì sự nuối tiếc dự án này thực sự đã xuất hiện trong tâm trạng của cặp đôi Reed/Booth. Chính vì thế sau này cặp đôi đã hồi sinh lại dự án vào năm 2007 và tung ra album duy nhất của nhóm là Sorry. Album có chất lượng khá ổn với rất nhiều ảnh hưởng từ Electronic và Trip Hop. Đây cũng là một album rất đáng nghe trong sự nghiệp của nhóm. Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm gồm: Trippa -1999 (EP) - cardboard và Sorry -2007
Christina Christina thực chất chính là Christina Murphy hoặc Christian Booth của nhóm Magenta. Cô này sinh năm 1965 tại Anh Quốc. Christina có một giọng ca rất tuyệt vời đâu đó như sự kết hợp của Stevie Nicks (Fleetwood Mac) với Annie Haslam (Renaissance). Cô này có một sự nghiệp rất thành công với Magenta và trước đó là nhóm Trippa. Âm nhạc của Magenta có thể chưa chắc đã thu hút được quá nhiều người hâm mộ Prog Rock nếu như không có giọng hát của Christina. Giọng hát của cô này tỏa sáng trong hầu hết tất cả các albums của Magenta và từ đó tạo cho Christina một lượng fan hâm mộ đáng kể tại châu Âu. Đến khoảng năm 2010 thì Christina bắt đầu sự nghiệp solo bằng cách kết hợp sáng tác với hàng loạt những nghệ sĩ tên tuổi trong thế giới Prog Rock. Năm 2010 cô tung ra album đầu tay có tên Broken Lives & Bleeding Hearts và đồng sáng tác tất cả các bài hát. Album này kết hợp với Rob Reed, John Mitchell (It Bites), and Andy Tillison (Tangent). Có lẽ album này không thực sự là Prog Rock nhưng nó vẫn có những âm hưởng của dòng nhạc này. Album này cũng rất khó để phân định thể loại vì hầu như mỗi bài hát lại có một phong cách âm nhạc khác nhau: từ Jazz Pop/Melancholy Jazz Gospel, acoustic, acoustic Folks, dult comtemporary, art Pop, pop blues và thậm chí là một chút nhạc pop/rock. Với concept của album nói về những thăng trầm trong các mối quan hệ của con người, thì việc thay đổi âm nhạc liên tục có vẻ hợp lý và chúng ta có rất nhiều âm thanh khác nhau. Mọi thứ đều được thực hiện tốt và thú vị và có một số bài hát rất hay. Dự án này rất thành công và Christina sau đó đã tiếp tục format này để thực hiện album tiếp theo là The Light -2015 với sự trợ giúp của Reed, Mitchel, Tillision còn có Andy Edwards (Frost*), Chris Fry (Magenta), Dan Nelson, Theo Travis… để tiếp tục tạo ra một album rất chất lượng. Album gần đây nhất của Christina là Bar Stool Prophet phát hành 2023 tiếp tục là một album rất hay với sự góp mặt của Steve Hackett. Bộ sự tập có album The Light 2015 (gatefold) với chữ ký của Christina
Also Eden Nhóm nhạc Neo Prog rất hay thành lập tại Tây Nam nước Anh vào năm 2005. Khởi đầu Also Eden chịu ảnh hưởng khá nhiều từ các band nhạc Prog Rock kinh điển như Genesis và Yes, cùng với âm thanh hiện đại hơn của Porcupine Tree và Flower Kings. Mục đích ban đầu của nhóm là một dự án chỉ thu âm album studio gồm 2 thành viên Huw Lloyd-Jones (hát chính) và Ian Hodson (keyboards). Nhưng sau đó, dự án phát triển rất mạnh và cặp đôi này đã kết nạp thêm Simon Rogers (guitar/hát chính), Ralvin Thomas (bass) và Mark Hall (trống) để hoàn thiện đội hình. Cùng với sự xuất hiện của các thành viên mới, âm thanh của band nhạc bắt đầu phát triển, đạt đến đỉnh cao trong bản phát hành đầu tay năm 2006 "About Time". About Time đã nhận được nhiều đánh giá tích cực và các buổi biểu diễn trực tiếp của band đã giúp thu hút thêm nhiều khán giả mới ở cả Vương quốc Anh và châu Âu lục địa sau các buổi biểu diễn trực tiếp tại Summers End Festival 2005 và 2006, và ProgFarm (Bakeveen, Hà Lan) vào năm 2006. Mặc dù trải qua một số thay đổi về mặt nhân sự do các cam kết cá nhân và công việc vào năm 2007. Nhóm đã tuyển dụng Steve Byrne (trống) và Steve Dunn (bass/hát chính). Đội hình này đã biểu diễn tại Summer's End, Progfarm và ProckFest (Bunde, Đức) những lễ hội khá tốt tại châu Âu. Những buổi biểu diễn này đã nâng cao hình ảnh của Also Eden đối với khán giả mới. Album thứ hai của nhóm là It's Kind Of You To Ask phát hành vào năm 2008 tiếp tục có chất lượng rất tốt với những sự thay đổi mới và sự thay đổi hướng đi, nhóm cũng tiến hành nhiều buổi lưu diễn trực tiếp trong những năm sau đó. Lúc này thì Also Eden đã tích hợp thêm rất nhiều cảm hứng từ các nghệ sĩ khác nhau, trong Rock thì có thể kể tới Genesis, Yes, Marillion, IQ, Radiohead, Porcupine Tree, The Flower Kings, v.v. - cùng với những ảnh hưởng đa dạng khác như Ultravox, The Police và Cream. Các sáng tác của họ rất tập trung với những bài hát mạnh mẽ, band nhạc liên tục phát triển âm thanh của mình với sự sang trọng của các album phòng thu. Các albums của họ đều "cực kỳ tham vọng" (như tay viết Geoff Barton của tạp chí danh tiếng Classic Rock miêu tả). Những albums sau này của nhóm như: Think Of The Children!-2011 và [REDACTED] -2013 đều được giới chuyên môn đánh giá rất cao và dần phổ biến trên toàn thế giới của Prog. Rich Harding, vocalist có lẽ là người dẫn dắt chính của Also Eden, anh này có giọng hát năng động thường được ví như Fish trong thời kỳ hoàng kim. Âm nhạc của nhóm là những câu chuyện mạnh mẽ đan xen trên một âm thanh gồm nhiều lớp, với giai điệu du dương tạo ra từ sự cộng sinh giữa tác phẩm guitar phức tạp của Simon Rogers và tiếng keyboards giàu trí tưởng tượng của Ian Hodson. Các tác phẩm này thường tỏa sáng với một đoạn solo tuyệt đỉnh, với sự hỗ trợ của phần nhịp điệu vững chắc nhưng sáng tạo của Steve Dunn và Lee Nicholas. Với danh tiếng ngày càng tăng cả trong phòng thu và trên sân khấu, Also Eden "tiến gần hơn đến sự xuất sắc với những sự ảnh hưởng từ các band nhạc lớn mà không liên quan đến tính độc đáo hoặc bản sắc của riêng họ". Đó chính là sự đánh giá của tạp chí Classic Rock Presents Prog dành cho band nhạc và chắc chắn là với những đánh giá tích cực thế này thì những albums của họ hẳn phải là những tác phẩm đáng để nghe. Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm gồm: Think Of The Children! 2011 [Redacted] 2013
Chimpan A Nhóm nhạc này thành lập tại Swansea, Wales, Vương quốc Anh vào năm 2006 và thực chất là một dạng side project của Robert Reed, tay keyboard của band nhạc Neo-Prog Magenta với ca sĩ Steve Balsamo (người cũng góp mặt trong vở nhạc kịch "Poe" của Eric Woolfson), và nghệ sĩ guitar Rob Thompson của ban nhạc alt-folk/country-rock xứ Wales, The Storys Câu chuyện của ChimpanA bắt đầu từ một ngọn núi của xứ Wales, trong một phòng thu nhìn ra một mỏ than bỏ hoang. Đó chính là điểm khởi đầu của 3 nhạc sĩ; Rob Reed, Rob Thompson và Steve Balsamo. Nhưng sau đó không lâu, band nhạc tiến triển nhanh chóng và trở thành một thứ hoàn toàn khác. Ý định ban đầu của 3 nhạc sĩ là tạo ra những âm cảnh đẹp đẽ và thơ mộng đã được hiện thực hóa rất nhanh chóng, khi Reed, như một cỗ máy được trang bị một loạt các keyboards cổ đáng kinh ngạc, kết hợp những tiến bộ mới nhất của nghệ thuật thu âm, và sự say mê với đĩa than cũ cũng như tình yêu điên cuồng với Trevor Horn, bắt đầu 'khai phá tâm hồn' của mình. Sau đó, âm nhạc của ChimpanA bắt đầu trở nên mạnh mẽ hơn nhiều. Dần dần, một số tiếng trống điện được thay thế bằng trống thực sự và bộ đàn dây đàn thực sự, trộn lẫn với tiếng moog tối tăm. Sau đó, thì các cấu trúc bài hát thông thường hơn bắt đầu hình thành, nhiệm vụ tiếp theo là tìm kiếm giọng hát lý tưởng cho từng bản nhạc. Balsamo, đã từng làm việc với Sam Brown, Margo Buchanan và Aitch McRobbie trong 'The Choir', đã đưa ra lời kêu gọi. Shan Cothi, nữ ca sĩ người xứ Wales nổi tiếng cũng được yêu cầu tham gia... Và thế là các thiên thần đã đến, cùng với những đôi cánh tung bay. Reed sau đó đã mời Bluey, một người bạn là DJ và người phối nhạc đến từ Birmingham, để thêm nhịp điệu, tiếng Turntable và một chút bí truyền điên rồ. Thompson sẽ chơi toàn bộ guitar. Để tăng thêm tính sáng tạo, Tony Dallas, một người kể chuyện từng đoạt giải thưởng người London/Jamaica mà Thompson đã gặp tại một buổi biểu diễn đã tham gia với yêu cầu viết một số từ và nói trong một số bản nhạc. Giọng nói ngọt ngào, phong phú của Dallas mang đến âm sắc kỳ lạ cho phần mở đầu của album. Âm nhạc của ChimpanA chịu ảnh hưởng từ Peter Gabriel và Pink Floyd thời kỳ đầu nhưng có rất nhiều nhưng sự kết hợp với âm thanh đương đại hơn của Faithless, Moby và Zero 7. Ngoài ra còn có thể kể tới Massive Attack, Mike Oldfield và John Tavener. Âm nhạc của nhóm khá tốt mang nhiều âm hưởng từ Trip Hop và Neo Prog (kiểu Galahad) nhưng do các thành viên rất bận với các dự án chính nên phải tới 14 năm sau, tức là năm 2020 nhóm mới tái hợp và tung ra album thứ 2 là The Empathy Machine. Album này cũng có chất lượng rất tốt. Bộ sưu tập có album đầu tay Chimpan A -2006
Combination Head Combination Head là một band nhạc Neo-Prog đến từ Vương quốc Anh, ban đầu được thành lập với tư cách là một bộ ba trio gồm Paul Birchall chơi keyboards, Keith Ashcroft chơi bass và guitar, và Paul Burgess chơi trống. Paul Birchall không thực sự nổi tiếng lắm trên thế giới nhưng là người rất được tôn trọng tại Anh Quốc, trước đây đã từng làm việc với những người rất nổi tiếng như The Corrs, Geri Halliwell và Cher, toàn những siêu sao nhạc Pop và đã thu âm các đĩa đơn với tất cả bọn họ. Mặc dù trước đây, anh này từng làm việc với các band nhạc và nghệ sĩ không liên quan gì đến nhạc Prog Rock, nhưng anh này vẫn rất yêu thích dòng nhạc và lấy cảm hứng từ các nghệ sĩ chơi keyboards như Emerson, Bardens và Jobson. Anh này cũng đã từng làm việc với nghệ sĩ guitar jazz-fusion Gary Boyle cũng như Jim Diamond. Nhưng trong Combination Head, nhóm không chỉ tập trung vào công việc chơi keyboard phi thường của Birchall mà Keith Ashcroft chơi bass và guitar trong khi tay trống Paul Burgess của Camel/10cc/Jethro Tull hòa nhập vào với cặp đôi trên một cách hoàn hảo. Chỉ có Paul Burgess có thể là một cái tên quen thuộc đối với những người hâm mộ nhạc Prog Rock, vì anh đã từng chơi trống với Camel, Jethro Tull và 10cc. Sau một thời gian phát triển band nhạc lấy thêm cảm hứng từ Camel và ELP, và bổ sung thêm Gareth Moulton chơi guitar, Dominic Finley chơi bass và một vài tay trống khác rồi bước vào phòng thu để ghi âm album đầu tay cùng tên vào năm 2006. Đây là một album hoàn toàn hòa tấu không lời có chất lượng rất tốt. Sau khi phát hành album đầu tiên, band nhạc bắt đầu thực hiện album thứ hai của mình, "Progress?". Lần này, họ quyết định thêm giọng hát vào bản phối một số bài hát, một số bài vẫn là hòa tấu. Nghệ sĩ guitar Gareth Moulton được mời hát chính cho ba trong số sáu bài hát có lời trong album. Nick Van Eede của Cutting Crew là khách mời hát chính trong một bài hát trong album. Một lần nữa, band nhạc được bổ sung thêm tay trống và nghệ sĩ gõ Phil Knight, người chơi trống trong bốn bài hát và chơi nhạc cụ percusion trong ba bài hát bổ sung. Đây tiếp tục là một album rất hay nữa của nhóm Sau khi phát hành "Progress?", band nhạc đã phát hành một bài hát không phải album là "We Are Machine" dưới dạng đĩa đơn. Và sau đó khoảng 3 năm thì họ thực hiện album thứ 3 là Museum cũng có chất lượng rất tốt. Âm nhạc của Combination Head là một th có lẽ mang ảnh hưởng từ Pop nên có giai điệu rất du dương và có sự trôi chảy tuyệt vời. Những thứ tuyệt vời này sẽ đưa người nghe như trở lại với những năm 70s. Bộ sưu tập có album Progress? -2008
Darwin’s Radio Đây tiếp tục là một nhóm nhạc rất hay của Anh Quốc dù chỉ có một thời gian hoạt động rất ngắn. Nhóm thành lập năm 2003 tại miền Nam nước Anh và giải tán vào năm 2010 với chỉ 2 albums studio. Khởi đầu Darwin's Radio là một band nhạc theo phong cách Neo progressive-rock gồm bốn thành viên đều đến từ miền Nam nước Anh. Âm nhạc của họ có thể coi là một thứ nhạc Rock nghiêng nhiều về giai điệu mạnh mẽ, với lời bài hát sâu sắc, năng lượng cao và với những thay đổi nhịp độ tuyệt vời. Band nhạc này sau khi ổn định đội hình đã phát hành album đầu tay "Eyes of the World" vào tháng 4 năm 2006. Album do cả 4 thành viên tự sáng tác, trình diễn, chuyển soạn và sản xuất. Các thành viên bao gồm: Mark Westworth (keyboards), Dec Burke (Hát và guitar), Sean Spear (Bass) và David Pankhurst (Trống). Trước đây, Dec Burke và tay trống hiện tại Tim Churchman đã chơi trong band nhạc chuyên cover Rush có tên là Spirit Of Rush và Mark Westworh và Sean Spear là thành viên của nhóm Neo-Prog Grey Lady Down. Chúng ta sẽ còn gặp lại một số nhạc sĩ này ở những phần tiếp theo. "Eyes of the World" đã nhận được rất nhiều những đánh giá tuyệt vời từ cộng đồng nhạc prog và biến nhóm nhạc trở thành một niềm hy vọng mới của Neo Prog tại thời điểm bấy giờ. Nhóm sau đó đã có nhiều cơ hội biểu diễn tại những nhạc hội lớn, uy tín như: Rosfest 2007 ở Hoa Kỳ cùng với những band nhạc rất lớn của Neo như Frost, Pendragon và những nghệ sĩ khác. Lễ hội Summers End với "The Flower Kings" vào tháng 10 cùng năm ở Anh Quốc. Sau đó, band nhạc đã phát hành album thứ hai là Template For A Generation -2009 với chất lượng còn cao hơn album đầu tay rất nhiều và thậm chí còn được coi là một trong những albums kinh điển của Neo Prog với 3 bài hát rất dài và hay. Chỉ tiếc rằng, sau đó do có nhiều vấn đề mà band nhạc tan rã để các thành viên theo đuổi những dự án khác. Có thể nói rằng Darwin's Radio là một band nhạc rất hay, nhạc của nhóm rất dễ nghe nhưng cũng có một độ sâu lớn. Band nhạc này chịu ảnh hưởng từ Porcupine Tree, Dream Theater, Genesis, Rush và Muse, cùng một số các tên tuổi khác nữa. Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm Eyes of the World 2006 Template for a Generation 2009
Jeff Green Jeff Green là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ guitar người Mỹ, nhưng lại chuyển sang châu Âu để sinh sống. Anh này tham gia nhiều hoạt động liên quan tới âm nhạc từ những năm 80s nhưng chủ yếu là những band nhạc dạng bán chuyên nghiệp, đa phần đi cover những bản nhạc kinh điển của nhạc Rock (các band này lần lượt là North Point Park, No Idea và The Illegal Eagles). Sau rất nhiều sự cố trong cuộc đời, trong những năm sau đó anh bắt đầu sáng tác các bài hát gốc trong dự án studio có tên là Terrapin Station của mình. Jeff Green hiện đang cư trú tại Ireland, nơi anh đã sinh sống từ năm 2002. Lớn lên vào những năm 70s ở Bắc California, Jeff đã được tiếp xúc với nhiều ban nhạc Country và Southern Rock thời bấy giờ như:The Eagles, Lynyrd Skynyrd, The Allman Brother, Poco, The Flying Burrito Brothers, Molly Hatchet, The Outlaws và The Charlie Daniels Band. Mặc dù những ban nhạc này đóng vai trò lớn trong sự nghiệp sau này của Jeff, nhưng chính ảnh hưởng của các band nhạc Progressive Rock như Yes, Rush…, The Who và Pink Floyd (đặc biệt là phần solo của David Gilmour trong bài hát “Money”) đã thu hút sự chú ý của Jeff. Trong khi ngày càng có nhiều kinh nghiệm chơi nhạc và biểu diễn tại Sacramento, Jeff cũng đã hoàn thành bằng lý thuyết âm nhạc tại Sacramento City College, rồi có một sự nghiệp giảng dạy thành công, đóng vai trò lớn hơn trong cuộc sống của anh sau này. Vào tháng 11 năm 1986, Jeff đã thu dọn hành lý, cầm cây đàn guitar và đi qua bờ bên kia bờ Đại Tây Dương để đến nước Anh và ở lại lâu dài với mẹ và anh trai đang sống ở đó. Anh sớm được Phil Hilborne, nghệ sĩ guitar/người biểu diễn/tác giả của cuốn sách hướng dẫn best seller, “Solo”, hướng dẫn. Tại Anh Quốc, Jeff là nghệ sĩ guitar chính và ca sĩ hát bè của North Point Park. Sau đó, anh tiếp tục thành lập một band nhạc cover nhạc rock cổ điển khá thành công có tên là “No Idea”, chơi nhiều bản nhạc truyền cảm hứng cho anh và cũng tập sáng tác và biểu diễn một số tác phẩm gốc của chính mình. Vào tháng 1 năm 1997, Jeff được Phil Aldridge của Illegal Eagles liên hệ để lấp chỗ trống trong band nhạc chuyên cover The Eagles. Ban đầu được thuê để chơi guitar chính và hát bè, Jeff sớm đưa bộ guitar syntherizer của mình vào bản phối cho phép anh biểu diễn các phần bên ngoài của ý định ban đầu. Không lâu sau, Jeff (với chất giọng đặc California) được yêu cầu dẫn dắt band nhạc và đảm nhận vai trò hát chính. Vào năm 2002, cuộc sống của Jeff đã thay đổi hoàn toàn khi anh gặp vị hôn thê và người bạn tâm giao của mình, Laura Sparks; một người bản xứ California có gốc gác tại Sacramento! Jeff hiện đang sống tại vùng nông thôn thanh bình của Quận Clare ở Ireland cùng Laura và hai đứa con riêng của cô, nơi anh tiếp tục sự nghiệp giảng dạy thành công của mình. Trong thời gian giảng dạy và sáng tác nhạc phẩm gốc từ studio dự án mới thành lập của mình, “Terrapin Station”, Jeff đắm mình vào những đam mê khác: Nấu ăn, huấn luyện bóng chày hạng nhỏ và theo dõi đội bóng đá yêu thích của mình, Arsenal!! Các hoạt động của anh với tư cách là một nghệ sĩ solo bắt đầu vào khoảng năm 2009, với album đầu tay Jessica, mặc dù quá trình sáng tác cho album đã kéo dài từ rất lâu trước đó. Đây là một album concept nói về kỷ niệm đau đớn khó quên của Jeff vào năm 1996, khi Jeff và người vợ đầu tiên đang háo hức chuẩn bị sinh đứa con đầu lòng. Nhưng đau đớn thay cho cặp vợ chồng trẻ, cô bé đã chết vào một thời điểm nào đó trong giai đoạn cuối của thai kỳ, bị dây rốn siết chặt, thai chết lưu. Trải nghiệm đau thương này đã ảnh hưởng sâu sắc đến Jeff, và trong nhiều năm, anh bắt đầu tạo ra một album nhạc thúc đẩy từ những suy nghĩ và cảm xúc mà thảm kịch thay đổi cuộc đời này đã tác động đến cuộc sống của mình. Quá trình sáng tác bắt đầu vào năm 1997 và đi đến phần kết vào năm 2008. Năm sau đó, đĩa CD Jessica được Green tự phát hành, tất cả lợi nhuận từ album này dùng để tài trợ cho một căn phòng dành cho cha mẹ đau buồn tại Bệnh viện Southend. Một dự án gần gũi với trái tim của Green, và chúng ta cũng hiểu được nguyên nhân của nó. Đây là một album rất hay và nhiều tâm huyết với những ảnh hưởng lớn từ những band nhạc Neo Prog và Symphonic Prog kiểu Camel, Pallas, Kansas, Pendragon và Jadis với những đoạn hòa tấu kéo dài, nhiều cảm xúc kiểu ambient và giai điệu rất hay. Album có chất lượng rất tốt và được đánh giá rất cao. Chính vì lý do này, Green sau đó đã quyết tâm theo đuổi sự nghiệp và thành lập hẳn một band nhạc thực sự để bắt tay vào thực hiện album thứ 2. Album Elder Creek tiếp tục là một album concept với nội dung chính là ký ức, sự mất mát của nó và vai trò của nó trong cuộc sống của chúng ta, tới cuộc sống của những người thân yêu và xã hội nói chung. Album sử dụng cả những chủ đề về giai thoại và thần thoại, với câu hỏi: nếu ký ức định nghĩa chúng ta là ai, thì chúng ta sẽ thực sự là gì nếu không có chúng. Nhiều lời bài hát dựa trên những bài thơ do cha của Jeff viết. Về mặt âm nhạc, mặc dù Jeff đã sống ở Ireland hơn chục năm, nhưng album là biểu hiện rõ rằng cho nguồn gốc Mỹ của anh này khi anh chơi guitar acoustic, nó mang tới cảm giác của Folk Rock nhiều hơn so với kiểu Neo Prog của IQ hoặc Pallas. Nhưng, những ảnh hưởng của nhạc prog luôn xuất hiện trong suột album và kết quả là một album giao thoa tuyệt đẹp, với giọng hát cao vút và bàn phím tuyệt vời làm nổi bật tiếng guitar. Các nghệ sĩ tham gia band nhạc đều chơi nhạc cụ rất tuyệt vời và phối hợp ăn ý khiến album tạo cảm giác vô cùng thoải mái, đưa người nghe vào hẳn những ẩn ức trong trái tim và tâm hồn của họ. Album này thậm chí còn được đánh giá cao hơn cả album Jessica trước đó và có thể sẽ trở thành một album kinh điển của Neo Prog Bộ sưu tập có album Elder Creek -2014
Konchordat Konchordat là một band nhạc khá nhỏ trong dòng Neo Prog. Band nhạc này đến từ khu vực hạt Kent, Vương quốc Anh. Nhóm bắt đầu hoạt động vào năm 2008, do các nghệ sĩ đa nhạc cụ là Lee Harding và Steve Cork thành lập. Lúc đầu, nhóm chịu ảnh hưởng của một số band nhạc Rock như Yes, Genesis và Queen. Sau đó nhóm đã mở rộng thêm với Stuart Martin (guitar, giọng hát) và các nghệ sĩ khách mời khác rồi bắt tay vào ghi âm album đầu tay, có tên là 'English Ghosts' phát hành vào năm 2009. Các bài hát có các yếu tố quan trọng của nhạc Neo Prog trình bày với một phong cách nhẹ nhàng, đôi khi pha lẫn với nhạc giao hưởng. Dù có một album khởi đầu khá tốt nhưng nó chưa thể thỏa mãn được tham vọng của Konchordat. Sau đó đội hình của nhóm đã thay đổi khi Harding được thay thế bằng Martin và âm nhạc của nhóm bắt đầu thay đổi. Album thứ hai của họ 'The New Crusade' ra mắt vào năm 2011 là một albums sử dụng rất nhiều syntherizers và với giọng hát rất hay để tạo thêm nhiều giai điệu đẹp. Album đã chuyển từ Symphonic Prog sang Neo Prog và hơn thế nữa đã kết hợp tất cả các yếu tố hay nhất của nhạc neo prog với âm thanh rock mới, mạnh mẽ hơn. Sau đó, Konchordat còn tung ra tiếp album thứ 3 là Rise To The Order -2016 với nhiều ảnh hưởng thêm từ các band nhạc Metal như Dream Theater, Queensryche và Rush. Ngoài ra còn có những ảnh hưởng từ Genesis, Queen và band nhạc It Bites. Konchodart là một band nhạc khá tốt trong thập kỷ 2000s -2010s của Neo Prog Anh Quốc Bộ sưu tập có 2 albums English Ghosts -2009 The New Crusade -2011
Martin Orford Qua những bài viết trước, chúng ta đã từng làm quen với nhiều dự án của Orford. Anh này sinh ngày 10 tháng 6 năm 1959 (tại Bitterne, Southampton, Vương quốc Anh). Martin Orford thực chất là một nghệ sĩ đa nhạc cụ nhưng nhạc cụ mà anh sử dụng nhiều nhất là keyboards. Anh này là thành viên sáng lập của The Lens (band nhạc tiền thân của IQ) và sau này cũng là thành viên sáng lập của IQ. Từ năm 1995 ngoài IQ, Martin đã làm việc thường xuyên với huyền thoại của Prog Rock, người từng chơi trong King Crimson, Asia và nghệ sĩ chơi bass/ca sĩ chính người Anh John Wetton. Sau đó vào giữa thập niên 90s, Orford còn tham gia vào các nhóm Neo Prog rất hay là Jadis và cũng là trụ cột của band nhạc này. Ngoài việc tham gia với IQ, Jadis và John Wetton, Martin còn tham gia sự nghiệp solo. Năm 2000 anh phát hành album solo đầu tiên có tựa đề "Classical Music and Popular Songs". Trong bản thu âm này, anh kết hợp các sáng tác của riêng mình và mời thêm một số người bạn của anh chơi cùng, tức là tất cả các bài hát của IQ và Jadis. Âm nhạc trong album khá đa dạng, từ Neo prog, AOR đến các bản nhạc cổ điển, giao hưởng. Tất cả các bài hát đều rất du dương và hài hòa. Đĩa nhạc này sẽ làm hài lòng những người hâm mộ Neo của anh này đồng thời mở ra một số con đường mới cho các kỹ năng chơi nhạc cổ điển rất tài tình của anh. Vào khoảng những năm cuối thập kỷ 2000s, sau nhiều năm lăn lộn nhưng cũng không quá thành công và nổi tiếng, Orford chán nản và rời khỏi các band nhạc như IQ, Jardis và quyết định nghỉ hưu. Mặc dù vậy Orford không giữ được mối quan hệ tốt đẹp với các band nhạc cũ mà có phần cay đắng. Mặc dù vậy, trước khi nghỉ hưu, Orford đã tung ra một album solo đầy sức mạnh của mình là "The Old Road" – vào năm 2008. Đây là một album rất hay với giai điệu đẹp tích hợp nhiều ảnh hưởng của AOR/Celtic. Nhưng tại thời điểm bấy giờ nạn leak album diễn ra một cách vô cùng khủng khiếp. Album mà Martin rất mong đợi đã không thể hồi vốn và anh này mất đi phần lớn số tiền bỏ ra để hoàn thành albums. Sự thất vọng cùng cực đã khiến Orford sau đó gần như rời bỏ hoàn toàn thế giới âm nhạc và chỉ xuất hiện trở lại trong những dịp rất hãn hữu. Bộ sưu tập có album The Old Road -2008 của anh này.
The Reasoning Nhóm nhạc này thành lập tại Cardiff, Vương quốc Anh vào năm 2005 và tan rã vào năm 2015 Câu chuyện của The Reasoning bắt đầu vào tháng 10 năm 2005 sau khi Matthew Cohen rời một trong những band nhạc Neo Progressive lớn nhất của Anh Quốc trong thập kỷ 2000s là Magenta. Khởi đầu, nhóm có Cohen (bass), Lee Wright (guitar), Vinden Wylde (trống), Gareth Jones (keyboard và hát), Dylan Thompson (guitar và hát), nhưng rồi sự nghiệp của nhóm nhanh chóng bật dậy với sự góp mặt của ca sĩ nổi tiếng Rachel Jones, người trước đây từng là hát chính trong nhóm nhạc Prog Folk Karnataka. Jones đã tạo dựng được tên tuổi rất lớn và có tới 4 lần giành giải Nữ ca sĩ xuất sắc nhất của Classic Rock Society’s Best Female Vocalist Với ba ca sĩ tài năng trong nhóm chia sẻ nhiệm vụ hát chính, kỹ năng thanh nhạc của họ cũng được phát huy tốt khi họ tạo ra sự hòa âm giọng hát với ba phần năng động mang đến cho âm thanh của họ một chiều chiều sâu đáng kể, và cặp đôi guitar khá tuyệt vời của Wright và Thompson sẽ có sự hỗ trợ của phần rhymth vững chắc của Cohen và Wylde, khiến cho âm nhạc của nhóm có chất lượng rất tốt. Ngay từ lúc đầu tiên, nhóm đã có mục tiêu rõ ràng là sản xuất âm nhạc là "nhiều hơn cả nhạc rock và nhiều hơn cả nhạc prog", The Reasoning đã thực hiện được mục tiêu đó với album đầu tay 'Awakening', có sự góp mặt của Steve Rothery (Marillion) và Liz Prendergast (Blue Horses).Album đầu tay Awakening năm 2006 của ban nhạc có sự góp mặt của Steve Rothery của Marillion và nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình trên toàn thế giới. Album thứ hai Dark Angel phát hành năm 2008 tiếp tục mở rộng nhanh chóng lượng người hâm mộ trên toàn thế giới của band nhạc. Năm 2009, đĩa đơn đầu tiên của The Reasoning, bản cover ca khúc kinh điển The Chauffeur của Duran Duran, đã đạt vị trí số 2 trên Bảng xếp hạng download của Amazon. The Reasoning đã phát hành album phòng thu thứ ba rất được mong đợi của họ là Adverse Camber vào tháng 4 năm 2010. Adverse Camber, do Joe Gibb (Leftfield, Massive Attack) mixed và phối khí, thể hiện sự tự tin và trưởng thành mới. Trong khi vẫn giữ nguyên âm thanh đặc trưng của họ; sự hòa âm giọng hát kết hợp cùng gia điệu mạnh mẽ, và tiếng guitar kép, Adverse Camber đã đưa The Reasoning vào lãnh địa âm nhạc mới, thu hút được nhiều khán giả hơn bao giờ hết. Band nhạc sau đó đã lưu diễn rộng rãi khắp Châu Âu rồi biểu diễn cùng Marillion và Fish trong một số lễ hội. Vào tháng 7 năm 2010, ban tổ chức lễ hội High Voltage đầu tiên tại London đã mời The Reasoning mở màn ngày cuối cùng của sự kiện. Biểu diễn trước những nghệ sĩ như Joe Bonamassa, Opeth và ELP, màn trình diễn của band nhạc đã mang về cho họ nhiều người hâm mộ mới. Một album phiên bản giới hạn Acoustically Speaking có các bản phối lại các bản nhạc từ album phòng thu của họ đã được quảng bá trong suốt mùa hè năm 2010 với một loạt các buổi biểu diễn acoustic do người hâm mộ tổ chức. Một chuyến lưu diễn tại Vương quốc Anh mang tên An Evening With The Reasoning được lên lịch vào tháng 11 năm 2010 để trùng với thời điểm phát hành DVD đầu tiên của band nhạc. DVD này có tên là Highway to High Voltage sẽ bao gồm cảnh quay trực tiếp buổi biểu diễn của band nhạc tại lễ hội cùng với nhiều nội dung khác nữa. Các buổi biểu diễn vào tháng 11 sẽ có cả nhạc acoustic và nhạc điện tử. Band nhạc này sau đó đã trở nên rất phổ biến và đã được giới thiệu trên các ấn phẩm bao gồm Classic Rock, Record Collector, Powerplay và nhiều ấn phẩm khác. Tuy nhiên là mặc dù tình huống của band nhạc tưởng chừng như rất tốt đẹp nhưng rồi những mâu thuẫn trong nội bộ band nhạc dần nhấn chìm band nhạc. Vào cuối năm 2014 thì mâu thuẫn bùng phát và tới năm 2015 thì nhóm chính thức tan rã. Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm gồm: Awakening 2007 Dark Angel 2008
Strangefish Nhóm nhạc này thành lập tại Manchester, Vương quốc Anh năm 1989 – tan rã năm 2008 và tái hợp trở lại từ năm 2012. Các thành viên của Strangefish hoạt động cùng nhau từ năm 1989 dưới nhiều hình thức khác nhau, chủ yếu là biểu diễn trực tiếp với lượng người theo dõi ngày càng tăng. Khi Julian (bass) tham gia vào năm 2000, band nhạc đã có được chất xúc tác để hướng đến một cách tiếp cận chuyên nghiệp hơn. Giữa kinh nghiệm lưu diễn có được và số lượng bài hát được sáng tác trong nhiều năm, Strangefish đã có một nguồn tài nguyên phong phú để sử dụng cho bản demo gồm bốn bài hát có tên "Reeled In". Bản demo này sau đó được đánh giá rất cao và đã giúp họ giành được một số đề cử giải thưởng Classic Rock Society năm 2003, họ sau đó giành giải Band nhạc mới xuất sắc nhất, Ca sĩ nam xuất sắc nhất và Tay trống xuất sắc nhất. Sau đó, nhóm nhạc này phát triển rất mạnh, mặc dù chẳng có bất kỳ hãng đĩa nào hỗ trợ. Các thành viên sau đó đã tự tung ra album đầu tay "Full Scale" vào năm 2003. Rõ ràng là Strangefish thích tự làm âm nhạc và sự tận tụy này thể hiện rõ. "Full Scale" không phải lúc nào cũng tuân theo cấu trúc verse/chorus thông thường của âm nhạc đại chúng và concept cũng như lyrics đều đóng và trò rất quan trọng trong âm nhạc của họ. Các phần hòa tấu nhạc cụ kéo dài và những phần có giọng hát thường xuyên xen kẽ lẫn nhau. Giọng hát của Steve hoạt động ở đây giống như một nhạc cụ bổ sung mà giọng hát rất hay của anh đã được Hiệp hội nhạc Rock cổ điển trao giải Nam ca sĩ xuất sắc nhất năm 2003. Bản thân phần nhạc với sự kết hợp của keyboards, guitar và bass tuyệt vời, và tiếng trống cũng rất chắc chắn nếu không muốn nói là tuyệt hay. Nhưng mặc dù các thành viên chơi nhạc cụ rất giỏi, thay vì những bản độc tấu tự sướng, người nghe sẽ bắt gặp những giai điệu được sắp xếp hợp lý, cân bằng, dễ nghe nhưng không nhàm chán. Đâu đó chúng ta thấy bóng dáng của phong cách Genesis trong Strangefish, dĩ nhiên nó rất hấp dẫn. Album thứ hai là Fortune Telling -2006 là phần concept tiếp theo của Full Scale. Dưới dạng album theo chủ đề concept có kết chuyện đây cũng là một album rất hay. Các bài hát trong album thường tỏa ra những năng lượng tích cực, kể cả trong những bài hát nghiêm túc nhất của nhóm. Điều này có lẽ cũng phản ánh thái độ của các thành viên band nhạc thực sự rất cọi trọng phần âm nhạc và giảm bớt những cái tôi xuống. Cả 2 albums của nhóm đều rất hay, nhưng có lẽ cũng không thực sự dễ kiếm và nó khiến band nhạc gặp nhiều khó khăn và đến năm 2008 thì nhóm tan rã. Sau đó nhóm tái hợp lại vào năm 2012 nhưng chủ yếu là để lưu diễn. Phải tới 6 năm sau họ mới tung ra album thứ 3 có tên là The Spotlight Effect -2018. Album cũng có chất lượng rất tốt. Có thể nói Strangefish là một band nhạc Neo Prog rất hay. Âm nhạc của nhóm chịu ảnh hưởng chính từ Marillion, Genesis, Pink Floyd, Gentle Giant, Caravan, Yes, Jethro Tull và nhiều nhóm khác nữa. Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm Full Scale 2003 Fortune Telling 2006
Shadowland Shadowland thực chất là một dự án của tay keyboards Clive Nolan, người mà chúng ta đã gặp trong rất nhiều bài viết trước vì anh này chính là trụ cột của các band nhạc Neo Prog như Pendragon, Arena hay sự nghiệp solo. Shadowland là một trong nhiều dự án của Clive Nolan và Karl Groom. Đối với những người yêu thích Progressive thì Groom cũng không quá xa lạ vì đây chính là tay guitar chính của nhóm nhạc Threshold, một band nhạc Prog Metal huyền thoại của Anh Quốc. Dự án Shadowland này bắt đầu từ năm 1992 và kéo dài tới năm 1996 với 3 albums studio. Sau đó tạm dừng hoạt động từ năm 1996 đến năm 2009 trước khi trở lại nhưng chỉ chơi live và ra các album dạng compilation chứ không ra thêm album mới. Trên dòng thời gian sự nghiệp của Nolan, dự án này còn có trước cả Arena, một band nhạc huyền thoại khác của Neo Prog chỉ bắt đầu từ năm 1995. Nhưng do một số vấn đề về quản lý đĩa trong bộ sưu tập nên tới đây chúng ta mới gặp band nhạc này. Cả Nolan và Groom đều là những siêu sao về kỹ năng chơi nhạc nên đây là một dự án gần như hoàn hảo về mặt kỹ thuật. Trong dự án này Nolan sẽ đảm nhận cả vai trò hát chính. Giọng hát của anh này không quá tốt, có nhiều điểm tương đồng với Robert Smith, một giọng ca huyền thoại của phong trào Post Punk và Gothic Rock, hát chính trong band nhạc tất nhiên cũng là huyền thoại – The Cure. Các sáng tác trong Shadowland rất mạnh mẽ, theo phong cách Neo Prog nhưng chịu rất nhiều ảnh hưởng từ Metal (có lẽ vì Groom là một tay guitar Metal). Tuy vậy thì âm nhạc khá đơn giản, không quá phức tạp và không biết có phải do chịu ảnh hưởng của The Cure không mà âm nhạc có hương vị của Gothic Rock rất rõ nét với những đoạn keyboards đầy tối tăm, u sầu, ảm đạm. (Cũng cần nhắc lại rằng Gothic Rock sử dụng keyboards rất nhiều và âm nhạc luôn u tối). Tại thời điểm năm 92 thì Arena chưa xuất hiện nên dự án Shadowland này có lẽ là bước chuyển rất hợp lý của Nolan từ phong cách nhẹ nhàng kiểu Pop của Pendragon sang một phong cách rất mạnh mẽ của Metal trong Arena. Cả 3 albums của nhóm Shadowland thì mạnh mẽ hơn Pendragon nhưng giai điệu lại không tốt bằng và ít cả tính Prog Rock lẫn Heavy Metal hơn so với Arena. Có lẽ vì nguyên nhân này nên sau khi Arena thành công thì Nolan tạm dừng dự án Shadowland để tập trung vào các dự án khác. Phải tới năm 2009, sau khi thu xếp được thời gian thì anh này mới tái khởi động lại dự án, nhưng chỉ để đi biểu diễn live, phát hành album dạng live và best of (gồm các bài hát có trong 3 albums đầu tay và một số bài hát mới. sau đó dự án tiếp tục dừng hoạt động mà không có album studio mới nào. Âm nhạc của Shadowland khá tốt, nó là sự pha trộn của Neo Prog với Gothic và Metal nhưng chưa tới mức kinh điển như Arena. Mặc dù vậy các albums đều đáng nghe và thực sự là dự án chuyển mình quan trọng trong sự nghiệp của Nolan. Bộ sưu tập có 2 albums Through The Looking Glass -1994 (bản của Nhật) và Mad As A Hatter 1996 (cũng của Nhật)
Vienna Circle Band nhạc cuối cùng của Anh Quốc trong thập kỷ 2000s của Neo Prog sẽ là Vienna Circle. Nhóm này thành lập tại Pewsey, Wiltshire, Vương quốc Anh vào năm 2006. Đây khởi đầu thực chất là một sự hợp tác giữa anh em Paul Davis (guitar, vocal, piano, keyboard) và Jack Davis (bass, piano, hát đệm) và cũng là những người lãnh đạo band nhạc. Ý tưởng thành lập band nhạc bắt đầu vào năm 2006, khi hai anh em bắt đầu viết các bài hát cho thứ cuối cùng sẽ phát triển thành một concept album; lấy chiến tranh thế giới thứ nhất làm bối cảnh lịch sử. Sau khi tìm kiếm trên internet, hai anh em đã tìm thấy Russell Wilson (trống), người đã đồng ý thu âm các bài trống cho album. Lúc đầu, anh này mang theo Nick Andrews để thiết kế việc sản xuất các bản nhạc dành cho trống. Tuy nhiên, Andrews cảm thấy âm nhạc rất hấp dẫn nên cuối cùng đã đề nghị sản xuất toàn bộ album. Quá trình thu âm bắt đầu vào tháng 2 năm 2007 và đến ngày 1 tháng 12 năm 2008, album mang tên "White Clouds" chính thức được phát hành. Với những ảnh hưởng từ Neal Morse, Marillion và Pink Floyd nhóm đã khám phá một biến thể êm dịu và du dương của Neo Progressive rock trong album đầu tay. Họ cũng cẩn thận sử dụng các hiệu ứng tinh tế và nhiều sắc thái để tạo ra sự căng thẳng và kịch tính cho bố cục của album. Trước sự ngạc nhiên và vui mừng của nhóm nhạc, album đã nhận được những đánh giá tích cực trên báo chí, nơi band nhạc được đánh giá là những ngôi sao đang lên trong cộng đồng nhạc progressive rock. Được truyền cảm hứng rất lớn và sự cổ vũ nhiệt tình của khán giả, nhóm nhạc tiếp tục tung ra album thứ 2 là “Silhouette Moon” vào năm 2013. Silhouette Moon một lần nữa nhận được những đánh giá tích cực trên cộng đồng progressive rock, họ thậm chí có cả vài trang giới thiệu trên tạp chí Prog Magazine. Với sự thành công của album, nhóm nhạc sau đó còn phát hành thêm bộ phim tài liệu “making of” Silhouette Moon dài khoảng 1 giờ đồng hồ cùng với cuốn sách có tựa đề “Wreathed in Dreams”, ghi lại quá trình sáng tác album. Những năm sau đó Silhouette Moon chứng kiến thành viên đồng sáng lập Jack Davis rời band nhạc một cách khá thân thiện do vướng những cam kết khác. Paul Davis lúc này là thành viên thường trực duy nhất của Vienna Circle, anh này sau đó bắt đầu công việc viết, thu âm và sản xuất album phòng thu thứ ba của Vienna Circles là “Secrets of the Rising Sun” -2021. Tại đây anh ấy viết và biểu diễn tất cả các nhạc cụ ngoại trừ trống, và để việc này cho cộng tác viên thường xuyên Alex Micklewright. Phát hành vào tháng 4 năm 2021, Secrets of the Rising Sun đã chứng kiến Paul đưa band nhạc hướng tới âm thanh dẫn dắt bằng guitar, mang nhiều tính Prog hơn, chi tiết hơn trong khi vẫn nắm bắt được vẻ đẹp và sự đĩnh đạc bao la mà những người theo dõi Vienna Circle rất mong đợi. Vienna Circle hiện tại có thể coi là một dự án âm nhạc của nhạc sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ chơi đa nhạc cụ và nhà sản xuất người Anh Paul Davis. Band nhạc thường được mô tả là progressive rock, kết hợp các thể loại như metal, classic, hard rock, jazz, pop, Experiment và folk. Bộ sưu tập có album Silhouette Moon -2013 của nhóm
Abraxas Sau khi tới với những band nhạc Neo Prog của UK và Ireland, chúng ta sẽ tới với Ba Lan. Band nhạc đầu tiên là Abraxas. Thực ra đây là một band nhạc gạo cội của nước này và hoạt động từ năm 1985 đến năm 2000. Ngay từ đầu thì band nhạc đã theo phong cách của Neo Prog với ảnh hưởng chính từ Marillion và Van Der Graaf Generator (VDGG), với một số ảnh hưởng từ Gothic Rock. Khởi đầu họ chỉ hát bằng tiếng Ba Lan, điều này cũng một phần tạo nên thương hiệu của band nhạc. Sau này do được chào đón nồng nhiệt tại châu Âu họ mới chuyển sang hát tiếng Anh trong album thứ hai và tiếp theo. Abraxas hoạt động từ năm 85 nhưng chính thức thành lập vào ngày 29 tháng 10 năm 1987 tại Bydgoszcz, một thành phố cổ phía Bắc của Ba Lan, khi Adam Łassa (hát) và Łukasz Święch (guitar) tìm ra cái tên phù hợp cho band nhạc của họ. Theo tiểu thuyết “Demian” của Hermann Hesse, Abraxas là vị thần của các thế lực thiện và ác, xen lẫn nhau, nên chẳng bao lâu sau, thuyết nhị nguyên này đã trở thành dấu ấn đậm nét của band nhạc. Tâm trạng thay đổi, nhịp điệu thay đổi đột ngột, lời bài hát gây tranh cãi, cách phối âm rất hay và hòa âm độc đáo là những đặc điểm tạo nên phong cách của Abraxas. Họ đã tổ chức một số buổi hòa nhạc bên cạnh một vài ngôi sao thời đó như Ziyo hay Rezerwat và bắt đầu mơ về album của riêng mình và tất nhiên là cả sự nổi tiếng nữa. Vào cuối những năm 80, tại Ba Lan làn sóng Punk Rock bắt đầu tràn tới. Mặc dù Abraxas nhận được những giải thưởng danh giá nhưng âm nhạc của họ lại không được coi trọng và chú ý. Điều này dẫn tới cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc trong band nhạc và nhóm tan rã sau hai năm tồn tại vào năm 1989. Kéo theo đó là sự im lặng kéo dài hai năm. Năm 1991, một người yêu mến âm nhạc của họ đã khiến band nhạc khởi động lại với các thành viên mới là Mikołaj Matyska (trống), Krzysztof Pacholski (keyboards), Rafał Ratajczak (bass) và Radek Kamiński (guitar) cùng với Adam và Lucas. Trong thời kỳ đầy hưng phấn này, nhóm đã sáng tác được một lượng lớn các bài hát, nhiều bài trong số đó sẽ xuất hiện trong album đầu tiên của Abraxas. Họ đã tổ chức hai buổi hòa nhạc hoành tráng ở Bydgoszcz vào cuối tháng 3 và tháng 4 năm 1992, tại Hội trường Cung điện Thanh niên và Câu lạc bộ Beanus. Trong những buổi hòa nhạc này, họ đã tập hợp được một số lượng fan hâm mộ đáng kinh ngạc tới để theo dõi band nhạc bí ẩn này, mặc dù tới lúc này họ vẫn chưa có một album chính thức nào. Sau đó họ còn biểu diễn tại Lễ hội ở Wegorzewo và một buổi hòa nhạc trực tiếp cho PIK Radio. Thế nhưng sự khởi đầu mới như trong mơ của họ không kéo dài được lâu. Vào tháng 10 năm 1992 Łukasz Święch rời band nhạc và band nhạc một lần nữa rơi vào trạng thái tan rã. Nhưng đó chưa phải là điều tồi tệ nhất đến với band nhạc, vì vào một ngày mưa tháng 7 năm 1993, Radosław Kamiński tay guiar của nhóm qua đời trong một vụ tai nạn xe hơi, đó dường như là dấu chấm hết thực sự cho band nhạc... Thế nhưng trong lịch sử của Neo Prog chúng ta đã gặp vô số những band nhạc trỗi dậy từ đám tro tàn và Abraxas tiếp tục là một minh chứng cho việc trong cái rủi lại xuất hiện những điều may. Sau cái chết của Kaminski, các thành viên còn lại của band nhạc xem xét nghiêm túc hơn và quyết định chuyển đến Gniezno, một thành phố nhỏ tại miền Trung Ba Lan, nơi họ gặp các nhạc sĩ của band nhạc Ayloe, những người có cùng niềm đam mê âm nhạc. Động thái này sẽ trở thành sự hồi sinh thứ ba của cho band nhạc. Đội hình của họ lúc này do Lassa dẫn dắt là sự kết hợp của 2 band nhạc Abraxas và Ayloe, họ bước vào giai đoạn quan trọng nhất trong sự nghiệp của mình. Họ bắt đầu thực hiện album đầu tiên và tham gia trình diễn trong một lễ hội Prog ở Warsaw và được ca ngợi như những ngôi sao. Năm 1995 là một năm làm việc căng thẳng. Cuối cùng vào năm 1996, ban nhạc đã thu âm album đầu tay mang tên "Abraxas... Cykl obraca się. Narodziny, dzieciństwo pełne duszy, uśmiechów niewinnych i zdrady...", có nghĩa là “Chu kỳ trở lại. Sinh ra, tâm hồn trẻ thơ, nụ cười hồn nhiên và sự phản bội...” và đây cũng trở thành khoảng thời gian tuyệt vời nhất của ban nhạc. Sau album được đánh giá rất cao này họ xuất hiện trên sân khấu biểu diễn bên cạnh những ngôi sao quốc tế như Fish, Porcupine Tree, Arena, Colin Bass hay Robert Plant & Jimmy Page tại Spodek Arena, Katowice. Năm 1998, họ phát hành album thứ hai "Centurie" và do đòi hỏi từ phương Tây, họ sau đó phát hành phiên bản tiếng Anh có tên "Prophecies". Album mới này, cũng có chất lượng cực tốt đã được bầu là album hay nhất năm do khán giả của dài phát thanh âm nhạc Radio 3 của Ba Lan bầu chọn. Đồng thời với thành công của Abraxas, hai thành viên của nhóm là Szymon và Marcin bắt đầu hợp tác với Colin Bass (nhóm Camel) để thu âm album solo của Bass và sau đó là chuyến lưu diễn vòng quanh châu Âu với Colin. Năm 1999 mang nhóm nhạc tiếp tục tung ra một album mới mang tên... "Abraxas 99" (lần này lại có phiên bản tiếng Ba Lan và tiếng Anh) và vào năm 2000, band nhạc đã phát hành một album live có tên "Live in Memoriam". Tuy nhiên, sau rất nhiều thành công, Abraxas bất ngờ tuyên bố dừng hoạt động và không thể quay trở lại cho đến ngày hôm nay (chỉ có một ngoại lệ duy nhất họ tái hợp để biểu diễn cùng IQ vào năm 2004). Abraxas có lẽ là một trong những band nhạc prog mang lại nhiều cảm xúc nhất ở Ba Lan trong những năm 90s. Bộ sưu tập có 3 albums của nhóm (tất cả đều là bản tiếng Ba Lan), gồm: ..Cykl Obraca Się, Narodziny, Dzieciństwo Pełne Duszy, Uśmiechów Niewinnych I Zdrady... 1996 Centurie 1998 99-1999
Satellite Nhóm này thành lập vào năm 2000 tại Ba Lan, hoạt động rất mạnh mẽ trong thập kỷ 2000s nhưng sau đó ngừng hoạt động mà không có bất kỳ một tuyên bố chính thức nào. Nhắc tới Ba Lan thì hẳn chúng ta cần phải nhớ tới band nhạc huyền thoại Collage, một trong những band nhạc Neo Prog đầu tiên của đất nước này. Với 4 albums đã phát hành, album "Moonshine" của nhóm được coi là một siêu phẩm chủ lực trong thể loại này. Collage cuối cùng đã tan rã vào những năm cuối thập kỷ 90s (chúng ta đã có bài viết về band nhạc này trong cùng thread), nhưng thành viên trụ cột của nhóm là tay trống Wojtek Szadkowski vẫn còn một ngọn lửa đam mê rực cháy trong lòng. Như cách anh tuyên bố "Tôi muốn quay lại thời kỳ đầu, để chơi nhạc một cách ngẫu hứng, thứ âm nhạc không có bất kỳ rào cản nào, để cảm nhận làn gió sáng tạo mới mẻ này một lần nữa. ... Đối với tôi, đó giống như một khởi đầu mới. Tôi muốn bắt đầu từ con số không để cảm thấy sự sáng tạo một lần nữa và cảm thấy một sự không chắc chắn đặc biệt, điều mà người ta chỉ có thể trải nghiệm khi bắt đầu sáng tác nhạc mới cho một dự án hoàn toàn mới." Ban đầu, Satellite khởi đầu như một dự án solo cho Wojtek, nhưng sau đó band nhạc đã phát triển vượt bậc và có một cuộc sống hoàn toàn khác. Tại những thời điểm band đầu, Wojtek hoàn thành một số phần hát và chuyển soạn trên một số phần nền cơ bản, nhưng sẽ có một số kết cấu do những người khác bổ sung sẽ khiến cho âm nhạc của nhóm được nâng lên một tầm cao lớn hơn. Anh này sau đó đã gặp Sarhan Kubeisi, một nghệ sĩ tài năng, nhưng trớ trêu thay, anh này lại đang chơi trống trong một band nhạc gười bạn. Sau khi nghe anh ấy chơi một bài hát rất hay, Wojtek nhận ra mình đã có nghệ sĩ guitar cho band nhạc mới(và thuê Kubeisi chơi guitar). Wotjek cần một ca sĩ... đơn giản và dễ hiểu. Vậy thì, còn ai tốt hơn người bạn cùng nhóm cũ của anh này hơn Robert Amirian (band nhạc Collage), người cũng đồng thời chơi luôn bass. Wotjek nhớ lại: "Giọng hát tuyệt vời, đặc biệt, tiếng Anh lưu loát và độ nhạy bén vượt trội. May mà Robert đã đồng ý tham gia". Về phần chơi keyboards, anh này tiếp tục mời một cựu thành viên của Collage khác là Krzysiek Palczewski vào nhóm. Như vậy, Satellite hình thành với sự góp mặt của hầu hết nếu không muốn nói là tất cả các thành viên của Collage, bao gồm cả Wojtek. Vì vậy, ít nhất theo một số cách, Satellite có thể được coi là sự tái sinh của Collage, đặc biệt là vì Wojtek cũng là một trong những lãnh đạo của Collage. Album đầu tay của nhóm"A Street Between Sunrise And Sunset" ra mắt vào ngày 10 tháng 3 năm 2003. Đây là một album có chất lượng rất tốt và được giới chuyên môn đánh giá cao. Album tiếp theo, "Evening Games" (2005), đạt vị trí thứ 8 trong top 100 album bán chạy nhất tại Ba Lan. Vào đầu tháng 6 năm 2005, các buổi tập thường xuyên bắt đầu biến Satellite thành một band nhạc thực sự chứ không chỉ là dự án phòng thu solo của Wojtek. Kết quả là vào ngày 22 tháng 9 năm 2005, Satellite đã ghi âm DVD live - "Evening Dreams" (2006), mở ra một chương mới cho lịch sử band nhạc. Họ không còn là một dự án trong phòng thu âm studio nữa. Hai album của Satellite, "A Street Between Sunrise And Sunset" (2003) & "Evening Games" (2005), đều được cả người hâm mộ lẫn giới chuyên môn hoan nghênh nhiệt liệt trên toàn thế giới. Nhóm đã xuất hiện trang trọng trong nhiều tạp chí về Prog khắp châu Âu, thậm chí lên cả trang bìa tạp chí Colossus và một loạt các bài đánh giá, phỏng vấn trên Rock Hard, Eclipsed, iO Pages, Dutch Progressive Rock Page… Do đó Satellite ngay sau đó trở thành một thế lực của Neo Prog trên toàn thế giới. Album phát hành thứ ba của họ, "Into The Night", đã chứng minh rằng ban nhạc xứng đáng với những lời khen ngợi này. Và thậm chí còn hơn thế nữa!!! Năm 2007, Satellite được mời biểu diễn tại Lễ hội Baja Prog nổi tiếng ở Mexico. Do công việc biểu diễn kéo dài, họ đã kết nạp thêm nghệ sĩ chơi bass, Jarek Michalski vào band nhạc, giúp Robert có thể tập trung vào giọng hát. Năm 2009, Satellite trở lại với một sản phẩm hoàn toàn mới - "Nostalgia". Như band nhạc tuyên bố, đây là sản phẩm thứ tư và trưởng thành nhất của họ. Hầu hết album được thu âm tại phòng thu tại nhà của Wojtek Szadkowski. Anh cũng chịu trách nhiệm về phần viết nhạc và lời cho "Nostalgia". Âm nhạc trong album mới là sự kết hợp giữa âm thanh của thập niên 70 với âm thanh hiện đại của thế kỷ 21. Lời bài hát cũng được sáng tác theo phong cách có liên quan đến nhau một cách lỏng lẻo – chủ yếu nói về các chủ đề như: việc đối mặt với quá khứ, về nhu cầu thay đổi, bắt đầu lại, tách mình khỏi quá khứ của chính mình. Đồng thời, thật trớ trêu, âm nhạc trong "Nostalgia" thể hiện nỗi khao khát về cảm xúc của thập niên 70 và 80. Trong thập kỷ 2000s, Satellite trở thành một thế lực của Neo Prog với một tương lại đầy tươi sáng. Cũng giống như Collage, họ có 4 albums rồi sau đó bất ngờ dừng hoạt động. Collage thì đã chính thức tan rã còn Satellite thì không có một thông báo chính thức nào. Nhưng kể từ năm 2009 tới nay thì nhóm không có bất kỳ album hay hoạt động gì. Khoảng năm 2022 thì nhóm Collage tái hợp lại rồi tung ra album mới, tương lai của Satellite có lẽ càng mù mịt hơn nữa. Bộ sưu tập có 6 CDs của nhóm: Bao gồm: A Street Between Sunrise And Sunset 2003 (bản của Nga do hãng CD Maximum phát hành) Evening Games 2004 (bản của Nga do hãng CD Maximum phát hành) Into the Night 2007 (Digipack, bản của Ba Lan do hãng MetalMind phát hành) Nostalgia 2009 (Digipack, bản của Ba Lan do hãng MetalMind phát hành) Ngoài ra còn có 2 đĩa CDs đặc biệt có chữ kí của tất cả các thành viên trong nhóm: A Street Between Sunrise And Sunset 2003 (bản Ba Lan, MetalMind, có chữ kí trên cover của album) Evening Games 2004 (bản Ba Lan, MetalMind, có chữ kí của các thành viên)
Em nghĩ âm nhạc cũng là một quá trình dài. Em cũng đã từng trải qua, lúc đầu thì thấy nó rất rộng lớn và mông lung. Nhưng qua những trải nghiệm thì mình sẽ tìm ra những quy tắc, lịch sử và những kiến thức cơ bản về nó. Sau đấy chúng ta sẽ thấy những trật tự và các bước phát triển logic của nó. Cũng như các môn nghệ thuật và khoa học, nó đều cần có sự tích lũy. Đến khi tích lũy đủ thì sẽ thấy logic và dễ hiểu. Nhiều band trong Neo Prog này em đã nghe hàng chục năm nên dĩ nhiên sẽ thấy dễ dàng hơn khi nghe các band nhạc khác cùng dòng. Nhưng tất cả nó đều phải trải qua quá trình tích lũy. Trước đây việc tìm các tài liệu và sắp xếp các dòng chảy là rất khó khăn nếu như không muốn nói là không thể tại Việt Nam. Chính vì thế trong những bài viết này em cố gắng sắp xếp theo logic nhất có thể để những người mong muốn tìm hiểu một dòng nhạc có thể dễ dàng tiếp cận hơn thông qua kinh nghiệm của riêng em. Em phải cực kì vất vả để làm những việc này. Có lẽ là cũng không có nhiều người thực sự thích các dòng nhạc này, nhưng nếu ai đó thực sự muốn nghe và tìm hiểu thì những bài viết này có thể giúp họ rất nhiều. Đấy cũng là mục đích của em cho topic này, mọi thứ cứ phải nghiền ngẫm dần dần thì mới có thể ngấm được. Khi ngấm rồi thì việc nghe nó sẽ phát triển rất nhanh, sau đó sẽ dần chậm lại để nghiền ngẫm tiếp.
Believe Nhóm nhạc này thành lập tại Warsaw, Ba Lan vào năm 2004 và cũng có liên hệ hết sức mật thiết với Collage. Như ở bài trước chúng ta đã gặp các cựu thành viên của Collage đã lập ra Satellite, chỉ thiếu mỗi tay guitar Mirek Gil, cũng là một trong những nghệ sĩ sáng tác chính của Collage. Tại đây chúng ta sẽ gặp tay guitar này. Believe là sự án của Mirek Gil nhưng ngay từ đầu thì anh này đã xác định rằng đây là một band nhạc thực thụ và kết nạp thêm Tomek Rozcki (hát, guitar), Adam Milosz (keyboards, hòa âm ẩn), Przemas Zawadzki (bass), Vlodi Tafel (trống), Satomi (violin) và Robert Sieradzki (lyrics, vocal) và tạo nên một hình thức Neo Progressive Rock rất độc đáo của riêng họ. Năm 2006 chứng kiến sự ra mắt "Hope to See Another Day", album đầu tay của Believe giới thiệu cho chúng ta phong cách Neo-Prog độc đáo của họ. Trên nền của thứ âm nhạc Neo Prog u sầu của album Moonshine (Collage), Gil và các đồng đội đã kết hợp thêm phong cách Metal mạnh mẽ hơn rất nhiều và tích hợp thêm cả những ảnh hưởng từ các thể loại âm nhạc mainstream hơn như Grunge để tạo ra một thứ âm thanh mới thú vị và mạnh mẽ nhưng vẫn phảng phất nỗi u sầu bất tận của Neo. Những album sau đó của họ tiếp tục theo phong cách này và chơi có phần lên tay hơn như: Yesterday Is A Friend -2008, The Warmest Sun In Winter -2013 và đặc biệt là album Seven Windows, có thể coi là một trong những album kinh điển mới của Neo Prog. Đối với những người hâm mộ Prog Rock kiểu châu Âu và Ba Lan thì Believe là một nhóm nhạc rất hay và đáng nghe. Âm nhạc của Believe không thực sự là phong cách Neo Prog nhưng nó mang lại nhiều sự thú vị và mang tính thử nghiệm nhiều hơn, gần như không tuân theo những khuôn mẫu sẵn có. Đó cũng chính là điểm mạnh của band nhạc. Và đây thực sự là band nhạc rất hay của Neo Prog mới. Bộ sưu tập có 4 albums của nhóm Gồm: Hope To See Another Day 2006 Yesterday Is A Friend 2008 This Bread Is Mine 2009 World Is Round 2010
Mấy đội Neo Prog chịu ảnh hưởng của Genesis thì em phân biệt được là Neo Prog, còn thì em vẫn chưa phân biệt được nó với Crossover Prog khác nhau thế nào
Cái này không khó đâu bác, đặc tính của Neo là sử dụng tiếng synthesizer làm nền, kiểu ambient hoặc synthpop, tức âm thanh dạng điện tử (sau này gọi là atmospheric - tạo bầu không khí). Tất cả các band Neo đều dùng tiếng keyboards điện tử nền. Một đặc tính nữa là các đoạn guitar solo thường là những nốt cao và khá day dứt. Còn Crossover Prog là những band phần nhiều pha trộn giữa Pop và Prog và không dùng synthesizer hoặc là ít dùng để làm nền. Các band Neo Prog trong bài hát luôn có tiếng synth làm nền.
RPWL Sau những band nhạc của Ba Lan chúng ta sẽ chuyển sang Đức, band nhạc đầu tiên sẽ là RPWL. Nhóm nhạc này thành lập tại Freising, Đức vào năm 1997 - Vẫn hoạt động cho đến ngày nay. Đây là một nhóm nhạc trụ cột của Neo Prog Đức và hoạt động hết sức mạnh mẽ trong suốt 3 thập kỷ. Tên của band nhạc được lấy từ những chữ cái đầu tiên của 4 thành viên ban đầu: Chris Postl, Phil Paul Rissettio, Yogi Lang và Karlheinz Wallner. Theo tiếng Đức sẽ đọc là er, pe, ve và el. Trong những năm đầu sự nghiệp thì nhóm thực chất là một band nhạc kiểu bán chuyên nghiệp, chuyên đi cover các bài hát của Pink Floyd, điều này cũng ảnh hưởng rất lớn tới âm nhạc của nhóm sau này, chịu nhiều ảnh hưởng từ Pink Floyd. Sau khoảng ba năm, nhóm bắt đầu tạo ra âm nhạc của riêng mình, tất nhiên lúc này thì ảnh hưởng của Pink Floyd là rất lớn. Band nhạc họ chuyên cover. CD đầu tay của họ, God Has Failed đã nhận được sự khen ngợi nhiệt tình, những đánh giá tuyệt vời trên toàn thế giới trên hầu như ở tất cả các tạp chí âm nhạc chuyên về Prog lớn. Sau đó là một chuyến lưu diễn vô cùng thành công qua một nửa châu Âu và xuất hiện tại nhiều lễ hội lớn. Lúc đó RPWL đã trở thành một phần được đánh giá cao của khung cảnh chung của nhạc Prog Rock đang trong quá trình hồi sinh. Thậm chí vào năm 2000, một số tạp chí Prog đã nghĩ ra ý tường xếp hạng các band nhạc Prog mới theo thang điểm là sự phổ biến trên toàn thế giới, RPWL đã có mặt trong top 3. Tuy nhiên, tất cả những điều đó vẫn chưa đủ với band nhạc, nhóm muốn đưa ra một tuyên bố lớn hơn với album thứ hai Trying To Kiss The Sun vào năm 2002, nỗ lực này là rất đáng khen ngợi khi họ cố gắng thoát khỏi những ảnh hưởng lớn của Pink Floyd trong album đầu tiên. Âm nhạc vẫn mang đặc trưng "RPWL" nhưng có lẽ nghiêng nhiều hơn nữa về phong cách Symphonic Rock. Album là sự kết hợp âm thanh và giai điệu được cân nhắc kỹ lưỡng, giai điệu có chút gì đó ám ảnh và lời hát thấm đẫm cảm xúc khó quên, cùng với dòng tâm trạng chịu ảnh hưởng từ nhạc Brit-pop. Album giúp cho tên tuổi của nhóm ngày càng trở nên nổi bật. Thực sự thì RPWL đã có những bước tiến đáng kể hướng tới phong cách âm nhạc riêng của họ với album thứ hai này. Band nhạc sau đó lưu diễn rất mạnh mẽ, với sự hỗ trợ của hệ thống Quadrophonic độc đáo (âm thanh vòng 4 loa 4.0), mỗi buổi hòa nhạc trở thành một trải nghiệm rất đặc biệt! Họ càng trở nên phổ biến trên khắp châu Âu vì đi lưu diễn liên tục, các fan hâm mộ có rất nhiều cơ hội để trải nghiệm RPWL trực tiếp trên sân khấu: band nhạc đã lưu diễn khắp nước Đức và một nửa châu Âu. Cùng với sự phát triển của internet, band nhạc tiếp tục mở rộng sang châu Mỹ, năm 2002, album thứ hai của họ đã được tái bản tại Mỹ, trước đó 1 năm, album đầu tay tái bản tại Brazil. Một band nhạc mới thành lập nhận được thành công có phần hơi sớm đã thúc đẩy nhóm nhạc tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa. Ngay sau đó, nhóm đã phát hành một album rất đặc biệt (tại Đức và Hoa Kỳ): "STOCK – thực chất là một album tổng hợp các tài liệu chưa từng phát hành trước đây". Đặc biệt hơn cho các fan hâm mộ là tín đồ của âm thanh hi-fi, band nhạc đã mixed các bài hát trong "STOCK" theo cách nghe nhạc hiện đại nhất: Âm thanh surround 5.1. giúp đưa những âm thanh Quadrophonic trên sân khấu hòa nhạc đến phòng nghe nhạc quen thuộc của mọi người. Vì vậy, album "Stock" được phát hành dưới dạng một một album kép với một đĩa CD thông thường và một đĩa DVD có bản phối âm thanh surround (Dolby/DTS) cùng với video lưu diễn và tiểu sử của RPWL. Báo chí đã dành nhiều lời tri ân cho album này, do đó, chuyến lưu diễn tiếp theo qua Châu Âu, bắt đầu vào ngày 13 tháng 3 năm 2003, đã rất thành công. Năm 2003, như một vinh dự lớn đối với RPWL, họ đã có cơ hội hỗ trợ band nhạc rất nổi tiếng Toto tại "Tollwood-Festival" ở Munich. Năm 2005, họ phát hành album phòng thu thứ 4 World Through My Eyes. Album này được người hâm mộ đón nhận nồng nhiệt và đĩa đơn đầu tiên của cũng được phát hành, lấy từ album này, có tên là "Roses" do cựu ca sĩ Genesis và Stiltskin là Ray Wilson hát chính. Cuối năm đó, band nhạc phát hành album trực tiếp đầu tiên Live- Start The Fire. Album đôi này chứa toàn bộ buổi hòa nhạc Rockpalast của band nhạc, một lần nữa có sự góp mặt của Ray Wilson hát chính trong "Roses" và một ca khúc khác là "Not About Us", nằm trong album duy nhất của Ray với Genesis có tựa đề Calling All Stations. Đây là cách để band nhạc tri ân huyền thoại đã ảnh hưởng rất lớn đến họ, Genesis. Vào tháng 2 năm 2008, họ phát hành một album mới có tên The RPWL Experience, album này rất khác so với những nỗ lực trước đó khi không còn những sự trau chuốt thường thấy của những album trước mà các bài hát được thu âm đơn giản và rất thô ráp. Sau đó thì band nhạc này có thời gian nghỉ khá dài, 4 năm trước khi tiếp tục quay trở lại trong thập kỷ 2010s với 3 albums: Beyond Man and Time -2012, Wanted -2014 và Tales from Outer Space -2019. Tất cả các albums đều có chất lượng rất tốt và đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của band nhạc. Album gần đây nhất của họ là Crime Scene -2023 cũng rất hay và là một đỉnh cao mới trong sự nghiệp của band. Nghe nhạc của RPWL thì có lẽ là sẽ thấy những ảnh hưởng từ Pink Floyd và một số band nhạc Neo Prog khác. Âm nhạc có chất lượng rất ổn và kỹ thuật thu âm của họ rất tuyệt vời. Trong những thập kỷ gần đây, band nhạc có vẻ càng chơi càng lên tay hơn. Tất nhiên đây cũng là band nhạc rất hay của Neo Prog. Bộ sưu tập có 4 albums của nhóm God Has Failed 2001 World Through My Eyes 2005 Experience 2008 Beyond Man And Time 2012
T T thực chất là dự án của Thomas Thielen, anh này sinh ngày 23 tháng 3 năm 1976 tại Đức. Sinh ra và lớn lên tại Đức, Thomas Thielen ban đầu là một nghệ sĩ chơi keyboards, anh bắt đầu học piano từ năm 1980, khi mới 4 tuổi. Nhưng ngay ở tuổi niên thiếu của mình, anh nhanh chóng chuyển sang chơi bass và cuối cùng là guitar sau khi tham gia band nhạc đầu tiên của mình vào đầu những năm 90s. Sau khi band nhạc này tan rã, anh này đã có những trải nghiệm hữu ích vì band nhạc trước thiếu tập luyện, lập kế hoạch và đổi mới khiến Thielen muốn làm điều ngược lại trong âm nhạc của mình. Trong thời gian rảnh rỗi, T còn làm giáo viên (tiếng Latin / tiếng Anh) và giảng viên cho giáo viên (tâm lý giáo dục). Anh này kết hôn với một nhà văn nổi tiếng kiêm nhiếp ảnh gia Katia Tangian, và còn là một cầu thủ bóng đá tận tụy nhưng không mấy tiếng tăm. Anh còn là người đam mê văn học và điện ảnh. Lúc đầu thì Thielen chơi nhạc blues khá đơn giản, nhưng vào thời gian band nhạc đầu tiên tan rã anh bắt đầu xem qua một band nhạc có tên là Marillion; những ấn tượng này sau đó khiến anh khám phá ra tiếp Genesis, hóa ra lại là một band nhạc khác ở những năm đầu thập kỷ 70s. Từ khi phát hiện ra dòng nhạc "huyền thoại" này, anh bắt đầu học hát; đây chính là khởi đầu của một hành trình khám phá và phát triển dài và vẫn đang tiếp diễn của T. Powds Con Fusion là dự án tiếp theo mà Thielen tham gia; band nhạc này bắt đầu triển khai chơi Prog Rock và sau khi nhóm này tan rã, ba thành viên trong band nhạc đó, bao gồm Thielen, đã thành lập ra nhóm nhạc Scythe cùng với một tay chơi bass mới. Scyth bắt đầu nhận được sự chú ý nhỏ từ những người hâm mộ (điều không thể khác được vì tại thời điểm ấy Prog đã chết), nhóm nhạc có cơ hội để chơi trước khoảng 10-30 người trong các buổi hòa nhạc. Thế nhưng nhóm nhạc rất may mắn khi có hợp đồng thu âm với hãng Galileo. Và sau đó họ đã sản xuất một album là Divorce Land vào năm 1999. Nhưng hãng nhỏ này thì cũng không có quá nhiều tiền nên album được thu âm trong một studio của trường tiểu học, có rất ít thiết bị, sau đó được mastered một cách vội vàng nên âm thanh rất kém. Thế nhưng một điều rất thú vị là album vẫn nhận được rất nhiều đánh giá tốt và thể hiện tài năng của một trong những band nhạc Neo Prog lớn tiếp theo trong thập kỷ 2000s. Tuy nhiên đó là những chuyện về sau, còn Scythe đã tan rã ngay sau đó với lý do về những khác biệt về âm nhạc, nhưng thực chất điều đó không quan trọng bằng các lý do riêng tư: công việc của họ khiến các thành viên đơn giản là quá xa để có thể cùng nhau chơi nhạc, vì tất cả các thành viên đều không coi âm nhạc là nghề chính của mình. Đó là điều đáng buồn nhưng có thể lại là vận may đối với Thielen. Những thành công bất ngờ của album Divorce Land đã thuyết phục hãng Galileo Records, hãng đã phát hành sản phẩm này, rằng có lẽ đây là band nhạc đáng để đầu tư. Hãng sau đó đã quyết định tài trợ cho album solo đầu tiên của Thielen có tên "Naive" vào năm 2002; được phát hành dưới biệt danh T, và đây sẽ là điểm khởi đầu cho một dự án hết sức quan trọng đối với Neo Prog của Đức. Bản phát hành đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của giới phê bình và T bắt đầu công việc thực hiện album solo thứ hai ngay sau đó. Tuy nhiên với một nghệ sĩ nghiệp dư, những thành công bất ngờ này cũng khiến anh bối rối. Phải mất 4 năm để anh rũ bỏ sự tự ti và áp lực mà những thành công bất ngờ gây ra cho nhạc sĩ nhỏ bé của chúng ta. Bản phát hành tiếp theo, "Voices" được Galileo Records tiếp tục phát hành vào năm 2006. Nhưng rồi một điều bất ngờ hơn nữa khi album tiếp tục được đánh giá rất cao và điều đó càng khiến T bối rối hơn nữa. Cũng cần phải nhắc lại rằng trong sự nghiệp solo, T hầu như thực hiện mọi thứ một mình. Ngoại trừ một số trường hợp trong quá trình phối khí, T thực ra không giỏi trong cách phân công nhiệm vụ và thực sự là một người thích kiểm soát mọi việc trong tầm tay. Vì vậy, có lẽ không quá ngạc nhiên khi thấy rằng anh này mất thêm 4 năm nữa để phát hành Anti-matter Poetry, album solo thứ ba của mình. Sau khi trở nên chuyên nghiệp hơn về kỹ thuật âm thanh, T giờ đây tự mình phối âm và thực hiện toàn bộ mọi thứ. Điều này cũng sẽ diễn ra với tác phẩm tiếp theo, Psychoanorexia (2013). Trong những năm 2010s, T hoạt động hết sức mạnh mẽ và tung ra một loạt những albums rất hay như: Fragmentropy -2015, Epistrophobia -2018, Solipsystemology -2019 và Pareidoliving -2022. Nhưng cái albums đều là những tác phẩm cực tốt và đều tay, góp phần rất lớn đưa T trở thành một trong những band nhạc lớn nhất của Neo Prog thế giới. Âm nhạc của T khá hay, nó như là sự pha trộn giữa một bên là Marillion với Porcupine Tree, Gazpacho, Radio Head và một bên là kiểu nhạc ambient điện tử như: Kraftwerk, Nena, Peter Schilling… với một giọng hát kiểu David Bowies, Peter Murphy của Glam Rock. Âm nhạc rất hay và lạ đã giúp T tiến những bước rất vững chắc để trở thành một band nhạc khổng lồ của Neo Prog Đức. Bộ sưu tập có 3 albums của T Bao gồm: Psychoanorexia 2013 Epistrophobia 2016 Solipsystemology 2019
Argos Argos thành lập năm 2005 tại Mainz, Đức. Đầu tiên, đây là một dự án solo của nghệ sĩ chơi đa nhạc cụ kiêm nhà soạn nhạc Thomas Klarmann, một nhạc sĩ giàu kinh nghiệm, người đã bắt đầu sự nghiệp trong các band nhạc Prog và Jazz Rock Fusion vào những năm 70. Tuy nhiên, theo thời gian, anh này ngày càng rời xa thể loại nhạc progressive, tập trung chủ yếu vào nhạc jazz. Nhưng khi anh khám phá ra phong trào progressive mới đang dần nổi lên như cồn vào giữa những năm 90 do các nghệ sĩ như Flower Kings và Spock's Beard dẫn đầu, niềm đam mê sáng tác và biểu diễn nhạc progressive cũng quay trở lại với anh này. Sau đó, rất tình cờ, anh này gặp Robert Gozon một nghệ sĩ cũng đa nhạc cụ khác có chung ý tưởng. Việc này cuối cùng đã dẫn đến sự thành lập của nhóm nhạc Superdrama, một band nhạc gồm bốn thành viên vẫn còn đang hoạt động khá cầm chừng kể từ năm 2004. Tuy nhiên, Klarmann muốn khám phá một phong cách âm nhạc rộng hơn những gì anh có thể làm trong band nhạc này và bắt đầu sáng tác các bài hát cho một dự án solo vào năm 2005. Gozon sau đó cũng sớm tham gia và họ đã lập một trang MySpace nơi những người quan tâm đến dự án có thể nghe các tác phẩm mà họ đã sản xuất. Lại một điều tình cờ kỳ diệu nữa xảy ra, Ulf Jacobs, một người yêu thích nhạc progressive đồng thời cũng như một tay trống và nhạc sĩ tài năng, đã tình cờ tìm thấy trang web này. Anh này thấy âm nhạc rất hấp dẫn và đã liên hệ với band nhạc, đề nghị tham gia band nhạc và các thành viên kiểm chứng tài năng của mình. Như vậy, khởi đầu là dự án solo, hiện đã mở rộng thành một bộ ba trio, và nhóm bắt đầu thu âm các bài hát ngay sau đó và đã ký hợp đồng với hãng thu âm Musea Records của Pháp vào năm 2008. Album đầu tay mang tên chính họ đã được phát hành vào tháng 1 năm 2009. Album có chất lượng rất tốt và góp phần khiến cho 3 thành viên band nhạc quyết tâm theo đuổi sự nghiệp âm nhạc mạnh mẽ hơn. Vào năm 2010, Vào tháng 4 năm 2010, họ đã phát triển thành một nhóm bốn thành viên với Rico Florczak được thêm vào chơi guitar. Nhóm bắt tay vào ghi âm album thứ hai là Circle và phát hành ngay vào năm 2010 cũng thông qua hãng Musea. Sau đó thì không còn có gì có thể cản trở Argos nữa. Nhóm đã trở thành một band nhạc thực thụ tiếp tục phát hành những albums rất hay, đều tay như: Cruel Symmetry -2012, A Seasonal Affair -2015, Unidentified Dying Objects -2018, The Other Life -2021 và Halfway Between Heaven and Mirth -2024. Âm nhạc của Argos là một thứ Neo Prog chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Symphonic Prog với những đoạn miêu tả phong cảnh hết sức đẹp đẽ. Nhưng những ảnh hưởng và xu hướng thiên về nhạc Folk, nhạc Jazz và nhạc Pop cũng thể hiện rất rõ nét trong các albums của họ. Một phần quan trọng nữa trong âm nhạc của nhóm là âm nhạc đương đại. Nói tóm lại là họ có một thứ âm nhạc Neo Prog khá riêng biệt so với rất nhiều những band nhạc khác. Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm Circles 2010 A Seasonal Affair 2015