Blind Ego Dự án này thành lập tại Freising, Đức vào năm 2005. Thực chất đây là một kiểu side project của nghệ sĩ guitar Karlheinz "Kalle" WALLNER, nhóm RPWL. Khởi đầu là sự án solo của anh này. Wallner giải thích rằng phần Ego trong tên bắt nguồn từ mong muốn tạo ra âm nhạc từ một không gian rất riêng tư của mình. Còn phần Blind xuất phát từ sự cam kết tuyệt đối cho sự lâu dài của anh đối với dự án solo này. Tuy có khởi đầu là một band solo nhưng sau đó thì band nhạc phát triển khá mạnh và trở thành một super group trong làng nhạc Neo Prog với nhiều thành viên tham gia cùng. Đầu tiên thì Kalle mời Yogi Lang, tay keyboards của RPWL để cùng tham gia sáng tác và đồng thời là nhà sản xuất cho band nhạc mới. Lang sẽ tham gia như một khách mời chứ không phải là một thành viên chính thức của band nhạc. Sau đó Tommy Eberhardt (từ nhóm Legazy và Beatfreaks) tham gia và chơi trống, John Jowitt (từ IQ và Arena) chơi bass, và giọng hát được chia đều cho John Mitchell (It Bites, Arena, The Urbane và Kino) và Paul Wrightson (từ Arena). Kalle cho rằng John phù hợp nhất với những bài hát "giống nhạc rock" hơn, trong khi Paul phù hợp hơn với những ca khúc giàu cảm xúc hơn. Và tùy thuộc vào từng album, còn có một số khách mời rất đáng chú ý khác như Clive Nolan tham gia hát bè trong album đầu tiên hay Iggor Cavalera (Sepultura) chơi trống trong album thứ hai. Band nhạc này tung ra 2 albums liên tiếp Mirror -2007 và Numb -2009 có chất lượng khá tốt. Dưới yêu cầu của người hâm mộ, Kalle đã thành lập một đội hình để đi lưu diễn với Rwin Reider thay thế Eberhardt chơi trống, Wrightson đảm nhiệm giọng hát một mình và Yogi Lang trở thành thành viên chính thức chơi keyboards. Sau đó, band nhạc này tạm dừng hoạt động trong thời gian 7 năm vì những cam kết khác trước khi quay trở lại vào năm 2016 và tung ra album thứ 3 là Liquid với đội hình hoàn toàn mới khi Kalle chơi hết các nhạc cụ và chỉ mời những vocalists hát từng bài, đôi khi mời thêm các nhạc sĩ khác trợ giúp. Album này có chất lượng còn vượt trội hơn những albums trước và là động lực để Kalle tiếp tục tung ra album Preaching To The Choir -2020 và The Hunting Party -2024 chất lượng đều khá ổn. Âm nhạc của Blind Ego có thể coi là trực diện hơn so với RPWL với rất nhiều ảnh hưởng từ Heavy Metal và mạnh hơn rất nhiều so với RPWL. Một số người nói rằng âm nhạc thậm chí còn có mùi của AOR. Vì vậy, về cơ bản, những gì chúng ta có là một anh chàng đam mê Metal và Neo Prog đang cố gắng tạo ra một số bản nhạc dễ tiếp cận hơn. Trình độ của các nhạc sĩ trong dự án này rất ấn tượng và trong phần lớn các album nó sẽ mang lại hiệu quả cao biến dự án này trở nên rất đáng nghe trong Neo Prog. Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm gồm: Numb 2009 Liquid 2016
Parzival's Eye Parzival's Eye thực chất là tên của một dự án solo do nghệ sĩ bass của RPWL là Christian Postl thành lập vào năm 2009. Vào những thời điểm này, có vẻ như không có band nhạc nào khác làm say đắm đông đảo người hâm mộ bằng nhiều sản phẩm âm nhạc hơn RPWL. Đó cũng chính là lý do nghệ sĩ bass Chris Postl của RPWL theo đuổi sự nghiệp solo của mình. Anh này sau đó đã nhận được sự hỗ trợ từ những nhạc sĩ lừng danh, trong số đó có giọng ca của Christina Booth (Magenta) và Alan Reed (Pallas). Nhưng điều tuyệt vời nhất có lẽ là tay guitar của Alan-Parsons-Project Ian Bairnson đã đảm nhiệm phần solo guitar đầy nhiệt huyết. Album đầu tay của nhóm có tên là "Fragments" phát hành vào tháng 9 năm 2009. Album được thu âm với sự tham gia của Yogi Lang, bạn cùng nhóm RPWL của Postl, Christina Booth (Magenta), Alan Reed (Pallas) và Ian Bairnson (Alan Parsons Project), cũng như ba nhạc sĩ người Đức khác là Ossi Schaller, Hannes Weigend và Martin Keeser. Album này có chất lượng rất tốt nên theo yêu cầu của người hâm mộ vào mùa thu năm 2009, band nhạc bắt đầu một loạt buổi hòa nhạc trực tiếp tại Đức và Hà Lan. Mặc dù các thành viên rất bận nhưng vì đòi hỏi từ người hâm mộ, nhóm nhạc đã cố gắng ra tiếp album thứ hai là Defragments vào năm 2015. Đây cũng là một album rất hay với giai điệu đẹp đẽ, thanh lịch và sang trọng. Cho tới hiện tại thì có lẽ Parzival's Eye là dự án solo có nhiều điểm tương đồng với RPWL nhất: từ những bài hát midtempo tới giọng hát hòa âm hấp dẫn giống Pink Floyd đã tạo nên nền tảng của band nhạc này. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì Postl đã đóng góp rất nhiều vào việc sáng tác các bài hát RPWL, mặc dù anh này trên vai trò chính thức “chỉ“ là tay bass của RPWL. Do đó những người yêu thích RPWL, hoặc là nhóm nhạc đồng hương Sylvan cũng như những người có xu hướng thích nhạc Rock thanh lịch với những giai điệu đẹp đẽ, sang trọng cũng sẽ rất thích dự án này. Đây cũng là một dự án rất hay. Bộ sưu tập có album Fragments -2009
Central Park Central Park là một band nhạc có lịch sử rất lâu đời của Neo Prog Đức nhưng đa phần là một band nhạc chuyên lưu diễn. Nhóm thành lập từ năm 83 và lưu diễn liên tục trong suốt hơn 20 năm trước khi phát hành album studio đầu tiên vào năm 2006, khi mà tất cả những người biết nhóm cũng không thể tưởng tượng nổi. Nhóm này do tay trống Artur Silber và nghệ sĩ chơi keyboard Jochen Scheffte thành lập và cặp đôi này còn thành lập luôn cả một studio của riêng họ có tên DownTown Studios. Sau đó, một số thành viên được kết nạp thêm và nhóm bắt đầu chơi một thứ âm nhạc chịu nhiều ảnh hưởng từ Asia, IQ, Genesis và Saga. Mặc dù band nhạc đã sáng tác được khá nhiều tác phẩm trong giai đoạn này nhưng nhóm lại không thể tìm được hãng đĩa nào hứng thú để tài trợ cho album của họ. Trong những năm sau đó, Central Park chật vật đấu tranh để tồn tại bằng cách lưu diễn như một nghề tay trái của các thành viên. Phải mãi tới thời điểm những năm giữa thập kỷ 2000s khi Prog thực sự lớn mạnh trở lại thì các thành viên của nhóm mới tập hợp lại các sáng tác của nhóm và phát hành album đầu tay với tựa đề Unexpected vào năm 2006. Đây là một album rất tốt và tràn đầy những năng lượng tích cực dù band nhạc gặp rất nhiều khó khăn tại giai đoạn sáng tác các bài hát. Album thu âm rất tốt và chuyên nghiệp chứ không phải dạng amateur như nhiều band nhạc cùng thời vì nghề chính của họ là thu âm. Band nhạc rõ ràng có động lực rất mạnh và theo phong cách dễ tiếp cận hơn của Neo Prog, âm thanh đa dạng và có nhiều phần kết hợp với Hard Rock nên dễ nghe và giai điệu tốt với màn trình diễn rất hay của vocalist. Album cũng có những bài hát kiểu Epic và đâu đó là những ảnh hưởng từ Avant Garde mang nhiều tính thử nghiệm. Album rất hay này đã khiến cho nhóm nhạc có động lực rất lớn để tiếp tục theo đuổi sự nghiệp. Nhưng thực tế thì có phần không suôn sẻ khi sau album đầu tay các thành viên bắt đầu rời đi, đặc biệt là vocalist Heiko và tay trống sáng lập Artur. Thế nhưng rất may mắn cho Central Park là sau đó họ tìm ra được những người thay thế xứng đáng và tiếp tục tung ra album thứ 2 là Reflected vào năm 2011 cũng có chất lượng rất tốt. Sau đó họ còn tiếp tục tung ra album thứ 3 là At The Burial Vault -2018, thời điểm kỷ niệm sinh nhật lần thứ 35 của band nhạc. Central Park là một band nhạc tốt với những bài hát có những điệp khúc đáng nhớ, giai điệu hay và các thành viên có tài năng âm nhạc tuyệt vời. Sẽ là điều rất đáng buồn nếu âm nhạc của họ bị thất lạc một cách đáng tiếc. Đây có thể là một lựa chọn rất tốt cho những người hâm mộ Neo Prog. Bộ sưu tập có album Reflected -2011 của nhóm.
The Healing Road Đây tiếp tục là một dự án nhỏ của Neo Prog Đức và thực chất là một dự án solo của Hanspeter Hess - Sinh năm 1966 tại Winnenden, Đức. Về bản chất The Healing Road là biệt danh mà nhà soạn nhạc và nghệ sĩ đa nhạc cụ người Đức Hanspeter Hess sử dụng khi phát hành các sáng tác âm nhạc của mình. Anh này bắt đầu thu âm các sáng tác của riêng mình vào năm 2005, và với sự đóng góp của bạn bè và người quen, năm 2006 đã chứng kiến sự ra mắt của album đầu tiên "The Healing Road" do anh này tự sản xuất và thực hiên. Album đầu tay của The Healing Road nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình vào năm 2007, (trong album có sự góp mặt của các nhạc sĩ khách mời Thommy Frank và Kai Heyrock chơi guitar và hát). Hess, người chỉ mới bắt đầu sáng tác nhạc cách đây hai năm, đã rất hào hứng với thành công của album và tuyên bố rằng anh sẽ tiếp tục thu âm. Hess sau đó đã tham gia vào dự án "Hope | Omid", một album dạng tuyển chọn compilation do câu lạc bộ người hâm mộ Spock's Beard của Đức "The Bearded" khởi xướng vào năm 2007 bằng cách đóng góp một bài hát từ album đầu tay của mình, và sau đó cùng năm, album thứ hai của The Healing Road là "Timanfaya", đã được phát hành. Đây là một album rất hay với sự kết hợp của Neo Prog với Symphonic và nhạc New Age. Album thậm chí còn được đánh giá cao hơn rất nhiều so với album đầu tay và giúp cho band nhạc lọt vào mắt xanh của một trong những hãng đĩa chuyên về Prog rất nổi tiếng của Pháp là Musea. Vào năm 2008, dự án này đã có hợp đồng với hãng đĩa Musea Records của Pháp, sau đó hãng này đã phát hành lại "Timanfaya", và vào tháng 12 năm 2008, cùng với tác phẩm thứ ba "Tales From The Dam" dưới dạng boxset gồm LP và CD, một bước thăng tiến rất lớn đối với một dự án kiểu amateur như thế này. Sau đó The Healing Road còn phát hành thêm 2 albums nữa là Backdropp -2011 và Birdbrain's Travels -2014 đều có chất lượng rất tốt mặc dù không thực sự có nhiều người biết tới band nhạc này. Dự án này sau đó ngừng hoạt động và chưa ra tiếp album nào kể từ năm 2014. The Healing Road đã kết hợp những ảnh hưởng từ nhạc Symphonic Prog kinh điển, Art Rock và nhạc theo hướng New Age thành một thương hiệu nhạc Neo Prog rock mới với một bầu không khí atmospheric hấp dẫn những người yêu thích Neo Prog. Tại đây Hess kết hợp những giai điệu mơ màng, nhiều hợp âm synth arpeggios với phong thái Prog Rock và sự pha trộn thú vị giữa nhạc điện tử và cả nhạc synthpop. Bộ sưu tập có album Timanfaya -2007
Morphelia Morphelia là một dự án nhỏ nhưng rất hay trong thập kỷ 2000s. Nhóm này chỉ có 2 albums, cả 2 đều có chất lượng rất tốt trước khi dừng hoạt động vào năm 2009. Nhóm thành lập tại Lower Saxony, Đức vào năm 1999 khi bộ ba nghệ sĩ là tay guitar Guido Froehlich và tay keyboard Guenter Gruenebast cùng tay trống Elmar de Groot tụ họp lại để chơi nhạc ngẫu hứng kiểu Jam band. Cả Froehlich và Gruenebast đều từng chơi với ban nhạc progressive rock Peacock trong gần 15 năm còn De Groot thì chơi với band nhạc Kleinheide và một vài nhóm nhạc địa phương khác trước khi tham gia cùng hai nhạc sĩ kia. Lúc đầu thành lập chỉ với mục đích chơi jam mà không có tiêu chí rõ ràng nên band nhạc thậm chí còn không có tên trong vài năm. Phải tới năm 2001, khi ca sĩ Kurt Stwrtetschka gia nhập nhóm thì band nhạc mới lấy tên là Morphelia và chính thức ra đời. Band nhạc sau đó thay đổi khá nhiều nghệ sĩ chơi bass trước khi tìm được thành viên thứ năm là nghệ sĩ Renko Rickerts. Năm 2003, band nhạc phát hành album đầu tiên "Prognocircus", album này nhận được nhiều đánh giá tích cực trên báo chí địa phương. Âm nhạc của họ trong album này chịu nhiều ảnh hưởng từ là Dream Theater, Saga, Pink Floyd Và Marillion. Những thành công đầu tiên đã khiến cho band nhạc hưng phấn và tham vọng hơn. Sau đó nhóm đã mất trọn sáu năm để chuẩn bị cho album tiếp theo là "Waken the Nightmare", một album kép dạng concept có nội dung. Hầu hết các bài hát trong album này là sự kết hợp giữa tiếng guitar kiểu Heavy Metal với tiếng keyboard rất nổi bật và tiếng bass mạnh mẽ. Album chia thành 2 phần rõ rệt với đĩa nhạc thứ nhất rất mạnh mẽ kiểu Metal còn đĩa thứ hai nhẹ nhàng hơn. Cả 2 đĩa đều có những bài hát rất hay với giai điệu tuyệt vời và giọng hát nhiều cảm xúc, đôi khi rất nhẹ nhàng nhưng nó thực sự phù hợp với concept và âm nhạc. Âm nhạc có hương vị IQ / Pendragon mạnh mẽ nhưng theo nghĩa tích cực và nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ giới hâm mộ Neo Prog. Dù có một sự nghiệp ngắn ngủi nhưng cả 2 albums của Morphelia đều có chất lượng rất tốt và là những album rất hay trong lịch sử của Neo Prog. Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm: Prognocircus -2003 và Waken the Nightmare -2009
Chris Sau khi tới Đức, chúng ta sẽ chuyển sang Hà Lan, nơi mà Neo Prog rất được yêu chuộng. Họ thậm chí có những tạp chỉ chuyên dành cho Neo. Và trong thập kỷ 2000s, đất nước này cũng sản sinh ra rất nhiều band nhạc xuất sắc. Trước tiên ta sẽ gặp Chris. Chris thực chất là một dự án kiểu side projetct của nghệ sĩ đa nhạc cụ người Hà Lan Christiaan Bruin. Bruin không quá xa lạ với những người hâm mộ Prog Rock của châu Âu vì anh này là một nhà soạn nhạc và nhà sản xuất khá nổi tiếng trong thế giới Prog; Ngoài các dự án solo của mình là Chris, anh còn là thành viên của Sky Architect, Mayra Orchestra và Nine Stones Close. Một số nhóm chúng ta sẽ gặp ngay sau bài viết này. Album đầu tay của anh, "A Glimpse Inside", thu âm từ năm 2007 đến năm 2008 và cuối cùng hãng Musea Records phát hành vào năm 2009. Bruin chơi tất cả các nhạc cụ trong album, kiêm luôn tất cả phần giọng hát và cũng xử lý hình ảnh bìa và phần master. Album này có chất lượng rất ổn nên sau khi phát hành album, Bruin đã thành lập một band nhạc chơi live trực tiếp (do anh và ba thành viên khác kết hợp) và bắt đầu tập luyện với mục đích có một số buổi biểu diễn vào nửa cuối năm 2009. Trong những năm sau đó, dù Bruin khá bận rộn nhưng cũng tập trung nhiều vào dự án solo này nhưng chất lượng các albums khá trồi sụt và cũng chưa thực sự bật lên quá mạnh. Một số album khá làng nhàng và gây thất vọng như City of Light -2012 chẳng hạn. Nhưng rồi sự nghiệp và sự kiên nhẫn của anh này cuối cùng cũng được đền đáp xứng đáng vào năm 2013 với siêu phẩm Days of Summer Gone. Tại album này, Chris đã tiến gần tới chủ nghĩa hoàn hảo, từ bìa album, tiêu đề bài hát đến chất lượng âm nhạc trong album nữa. Tại album này, anh sử dụng chủ yếu là các loại nhạc cụ acoustic, nhưng chất lượng rất tốt và rất dễ gây nghiện, ít nhất chúng ta có thể nói như vậy. Từ một thứ âm nhạc nghiêng về phía Symphonic, Bruin kết hợp với các nhạc cụ như cello, trombone, flute, v.v. khiến người nghe có vẻ dễ tiếp cận hơn một chút. Âm thanh dày đặc kiểu như một tấm thảm được thêu nên từ nhạc dân ca, đáng ngạc nhiên hơn nữa là kể loại Folks ở đây mang nhiều tính Mỹ hơn là châu Âu. Cái tính "Americana" trong album này, có thể là tốt hay xấu tùy nhận định của mỗi người, nhưng đây không phải là nước Mỹ ồn ào, náo nhiệt mà là một nước Mỹ yên tĩnh, phủ đầy tuyết, với bầu trời đầy sao tối tăm và một chút kỳ quặc mang nhiều tính tưởng tượng. Album vì thế được rất nhiều fan hâm mộ Neo Prog yêu mến và có thể coi là một album kinh điển mới của Neo Prog. Sau đó, Bruin còn tiếp tục phát hành liên tiếp một chuỗi các albums có tên là The Black Codex vào năm 2015. Dự án này gồm 4 albums kép (8CDs) tất cả đều phát hành trong năm 2015. Đây là một dạng concept album với nội dung phức tạp, pha trộn rất nhiều các thể loại chủ yếu là Neo Prog với Symphonic Prog trong đó có rất nhiều nhạc cụ khác lạ và nhiều bài hát kiểu hòa tấu. Âm nhạc và cả bìa đĩa có lẽ lấy cảm hứng từ những trò chơi game, và chúng ta có thể nghe thấy những ảnh hưởng của trò chơi điện tử trong những album này nhưng tất cả đều có chất lượng rất tốt. Từ những năm 2017-2019 thì Bruin lại tiếp tục xây dựng một concept mới với tên là Inventions nhưng dự án này không có chất lượng tốt bằng dự án The Black Codex trước đó. Bruin có lẽ là một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất của Prog Hà Lan trong những năm 2000s -2010s. Anh thực sự có những albums rất chất lượng. Bộ sưu tập có 3 albums của nhóm Gồm Days Of Summer Gone 2013 The Black Codex (Episodes 1-13) 2015 The Black Codex (Episodes 14-26) 2015
Nine Stones Close Nhóm nhạc này thành lập tại Leiden, Hà Lan vào năm 2008 và dần trở thành một nhóm nhạc quan trọng nhất của Prog Hà Lan trong thập kỷ 2000s. Khởi đầu, Nine Stones Close hình thành như một dự án solo của Adrian Jones (Numb, Lie Big, Jet Black Sea) – nghệ danh là Ade. Thực chất tuy tham gia nhiều band nhạc những ảnh hưởng lớn nhất của Ade là Lie Big, tại đây anh chơi guitar và sáng tác chính. Tuy nhiên vào khoảng những năm giữa thập kỷ 2000s, Ade gặp những biến cố quan trọng trong cuộc đời khiến anh quyết định theo đuổi sự nghiệp với band nhạc mới Nine Stones Close. Band nhạc này có bản là Progressive hơn rất nhiều so với Lie Big. Ngoài những ảnh hưởng của Neo Prog, còn có rất nhiều ảnh hưởng từ các dòng nhạc khác nữa. Hướng đi âm nhạc lấy cảm hứng từ những band nhạc như Porcupine Tree và Pink Floyd cũng như nhạc Rock và Metal mạnh mẽ hơn để tạo ra nhiều âm cảnh và bài hát truyền tải thông điệp của âm nhạc. Album đầu tay, St-Lo dựa trên trải nghiệm cận kề cái chết của Ade và những cảm xúc và giấc mơ nảy sinh trong sự kiện đau thương đó. Âm nhạc được sắp xếp và phân lớp để cố gắng tái tạo sự pha trộn giữa nỗi kinh hoàng, sợ hãi và sự tách biệt như trong giấc mơ khỏi các sự kiện thực tế khi chúng diễn ra và truyền tải sự bất an đó đến người nghe. Album phần nào là một sự xua đuổi tà ma của một số bóng ma trong trải nghiệm cá nhân của Ade và giống như sự tuôn trào của những mảnh vỡ cảm xúc vào âm nhạc và lời hát. Album St Lo là sự kết hợp giữa các bản nhạc nhẹ nhàng đến u ám, từ nhẹ nhàng đến mạnh mẽ. Thời gian đầu tiên, do chưa có nhiều tiếng tăm, Ade phải tự phát hành album đầu tay "St Lo" chỉ tại Hà Lan. Nhưng sau đó album này được đánh giá khá tốt và dự án sau đó đã phát triển thành một band nhạc thực sự và đi lưu diễn. Sau đó band nhạc có sự tham gia của Brendan Eyre (Riversea), Marc Atkinson (Mandalaband, Riversea) và Neil Quarrell. Đội hình này đã ghi âm album tiếp theo là "Traces" vào năm 2010. Lúc này thì họ đã có hợp đồng với hãng đĩa huyền thoại nhưng cũng rất yểu mệnh tại Mỹ là Prog Rock records nên album đã được cộng đồng yêu nhạc Neo Prog trên toàn thế giới biết tới rộng rãi. Album cũng có chất lượng rất tốt và góp phần rất lớn cho sự lớn mạnh của nhóm sau này. Album thứ ba là "One Eye on the Sunrise" -2012 chứng kiến sự phát triển hơn nữa của ban nhạc với sự trở lại của các thành viên Marc Atkinson và Brendan Eyre, giờ đây có Peter Vink chơi bass (Q65/Ayreon/Star One/Finch) và Pieter van Hoorn chơi trống (Knight Area). Album này tiếp tục được đánh giá rất cao và biến band nhạc trở thành một niềm hy vọng mới cho Neo Prog của cả châu Âu và thế giới. Vào năm 2016, đội hình mới được công bố với Adrian Jones và Pieter van Hoorn, cùng với ca sĩ Adrian (Aio) O'Shaughnessy (Psychic For Radio, Frame Shift), Christiaan Bruin chơi keyboard (Sky Architect, Mayra Orchestra, Chris) và Peter Groen chơi bass. Đây là một đội hình rất mạnh và album thứ 4 là Leaves tiếp tục là một album hay và thành công của nhóm. Thế nhưng sau album Leaves thì Nine Stones Close bất ngờ ngừng hoạt động trong thời gian khá dài mà không có bất kỳ sự giải thích nào. Phải sau 8 năm tức là vào năm nay 2014 nhóm mới trở lại và phát hành liên tiếp 2 albums mới là Diurnal và Adventures In Anhedonia với chất lượng rất ổn. Âm nhạc của Nine Stones Close là sự pha trộn giữa Neo Prog với Space Rock và phong cách hiện đại nghiêng nhiều về Metal hơn của Porcupine Tree cùng với nhiều ảnh hưởng khác nữa. Âm nhạc của nhóm vì thế có thể xem là rất thú vị đối với những khán giả trẻ của Prog Rock. Bộ sưu tập có 3 albums của nhóm Gồm Traces 2010 One Eye On The Sunrise 2012 Leaves 2016
Silhouette Nhóm nhạc này cũng là một trong những band nhạc lớn của Hà Lan, thành lập tại Utrecht, vào năm 2005. Band nhạc này do tay trống Jos Ufing lãnh đạo và câu chuyện thực tế bắt đầu từ trước đó 4 năm, tức là vào năm 2001. Lúc này Brian De Graeve, tay guitar, đăng quảng cáo để tìm một tay trống và ca sĩ cho band nhạc của mình. Tuy nhiên, khi Jos gọi điện để liên lạc thì rất tiếc, band nhạc này đã tan rã. Tuy nhiên, trong quá trình trò chuyện, cặp đôi Jos và Brian phát hiện ra rằng họ có chung sở thích về âm nhạc. Vì vậy, họ vẫn giữ liên lạc, cùng nhau sáng tác các bài hát của riêng mình và thỉnh thoảng chia sẻ chúng với nhau, họ dần trở thành những người bạn. Đến năm 2004, cặp đôi này thấy đã đến lúc để thành lập một band nhạc để hoàn thành các bài hát của mình. Brian nhanh chóng hoàn thiện nhóm bằng cách sử dụng các mối quan hệ của mình trong giới âm nhạc địa phương. Nghệ sĩ chơi ghita bass GJ Bloemink; nghệ sĩ chơi keyboards Toine van Riesewijk và nghệ sĩ chơi guitar Henny van Veenendaal đã gia nhập band nhạc. Mặc dù các thành viên mới khá phù hợp với các bài hát và đã kết hợp rất tốt, nhưng sau đó Toine và Henny sẽ sớm rời đi vì lý do cá nhân. Henny vẫn sẽ ở lại để làm đồ họa cho các đĩa CD của nhóm sau này. Một quảng cáo mới cuối cùng đã giúp cho band nhạc có thành viên mới - Erik Laan. Anh này sẽ thay thế Toine chơi keyboards còn Brian thì vừa chơi guitar vừa hát chính, nhóm từ 5 người trở thành 4 (quartet). Trong suốt năm 2005, band nhạc đã tập luyện tại phòng thu của Brian, sau đó họ tiến hành thu âm các bài hát vào năm 2006. Album đầu tay A Maze của họ được phát hành vào năm 2007, kiểu một bản tự phát hành và Silhouette bắt đầu biểu diễn tại quê nhà. Album có chất lượng khá tốt và giúp cho nhóm có được hợp đồng với hãng đĩa Progress Records, một hãng đĩa của Na Uy. Đến năm 2009, band nhạc đã phát hành album thứ hai - Moods thông qua hãng thu âm này. Album cho thấy Silhouette đang dần khẳng định vị thế của mình và với phần phối nhạc và master do Gerben Klazinga của Knight Area thực hiện, album cũng mang đến âm thanh trau chuốt và chuyên nghiệp hơn cho các bài hát của nhóm. Sau đó là những năm tháng rất tươi đẹp của Silhouette với việc phát hành các album như: "Across the Rubicon" vào năm 2012, Beyond The Seventh Wave -2014 và The World Is Flat and Other Alternative Facts -2017. Các albums này đều có chất lượng cực tốt và có thể coi là những album kinh điển của Neo Prog trong thập kỷ 2010s. Về mặt âm nhạc thì âm thanh của Silhouette tương tự như các band nhạc từ làn sóng Prog Rock thứ hai, tức là làn sóng Neo Prog như IQ, Pendragon, Marillion và Pallas kết hợp thêm với nhiều ảnh hưởng của Symphonic Prog và nhạc giao hưởng. Và điều may mắn là sự kết hợp này mang nhiều tính tích cực. Đây là một band nhạc rất đáng nghe của Neo Prog trong những năm gần đây. Bộ sưu tập có 3 albums của nhóm: Gồm: Moods 2009 Across The Rubicon 2012 Beyond The Seventh Wave 2014
Knight Area Band nhạc đặc biệt với những bìa album hết sức đẹp mắt này thành lập tại Hà Lan vào năm 2004 nhưng câu chuyện của họ bắt đầu từ cách đó rất lâu. Nguồn gốc của Knight Area có thể coi là bắt đầu từ năm 1982, khi Gerben Klazinga bắt đầu viết những bài hát kiểu Symphonic Rock đầu tiên của mình. Những bài hát này sau đó có nội dung nói về một cậu bé đang tìm kiếm bản sắc của mình (ở một mức độ nào đó là một câu chuyện tự truyện của anh này). Nhưng câu chuyện này sau đó chẳng đi tới đâu và Prog Rock có lẽ cũng không còn là thể loại ăn khách nên những sáng tác này dần đi vào quên lãng. Có lẽ là tất cả mọi người đều đã quyên nó, chỉ trừ một người, đó chính là Joop, anh trai của Gerben. Vào khoảng năm 2002 khi Prog Rock bắt đầu hồi sinh mạnh mẽ, Joop đã nhìn thấy tiềm năng của những bài hát và thuyết phục Gerben thu âm một album. Trong phòng thu của mình, Gerben đã chuyển soạn các bản nhạc cho keyboards và một số bản nhạc trống, và yêu cầu nhiều nhạc sĩ khác nhau đóng góp vào album. Cuối năm 2003, Gerben và Joop đã hoàn thành việc sản xuất album và gửi nó đến một số công ty thu âm. Những nỗ lực tưởng chừng như trong tuyệt vọng của họ đã được đền đáp xứng đáng với phần thưởng là 10 trong số 12 công ty thu âm được tiếp cận bày tỏ quan tâm đến việc phát hành album! Công ty thu âm của Mỹ The Laser's Edge đã được chọn và album đầu tiên của Knight Area, The Sun Also Rises, đã sớm trở thành sự thật. Laser's Edge tuy là một hãng nhỏ nhưng rất có uy tín, sự trợ giúp của họ đã khiến album đầu tay này nhận được những đánh giá tích cực và do đó, band nhạc đã bắt đầu được mời đến chơi tại một số lễ hội lớn của Prog. Điều này đã buộc anh em nhà Klazinga phải thành lập một band nhạc để chơi các bài hát live trực tiếp. Trong thế giới yêu thích nhạc giao hưởng và nhạc progrock, đa phần khán giả khao khát được nghe nhạc trực tiếp trên sân khấu. Gerben đã cố gắng mời những nhạc sĩ rất giàu kinh nghiệm và kỹ năng tham gia vào band nhạc của mình. Một số nhạc sĩ đó cũng đã đóng góp vào album. Band nhạc đã có buổi biểu diễn đầu tiên vào tháng 11 năm 2004. Buổi biểu diễn đã thành công rực rỡ và kể từ đó, Knight Area đã biểu diễn trên các sân khấu lớn ở Hà Lan, Bỉ, Đức và Pháp. Năm 2005, band nhạc đã ký hợp đồng biểu diễn tại NearFEST ở Hoa Kỳ, "lễ hội âm nhạc Progressive danh giá nhất thế giới". Đây chính là đỉnh cao tuyệt đối của sự khởi đầu nhanh chóng mà band nhạc đã tạo ra. Knight Area là ban nhạc Hà Lan đầu tiên từng biểu diễn tại NearFEST! Cũng từ đây band nhạc thay đổi hoàn toàn, từ dự án một người trở thành một band nhạc lớn gồm 7 thành viên 'thực sự'; điều này rõ ràng giúp mang lại cảm giác gắn kết hơn cho âm nhạc của nhóm. Nhóm sau đó tiếp tục theo tinh thần của album đầu tay, tung ra album thứ hai là Under A New Sign (2007) với những ảnh hưởng khá rõ từ Neo Prog kiểu Pendragon và IQ. Với phong cách chơi keyboards mạnh mẽ, cấu trúc bài hát xoay tròn đôi khi gợi nhớ đến Kansas những năm 70, album đã khiến thu hút được nhiều người hâm mộ mới và hứa hẹn sẽ tiếp tục sản xuất dòng nhạc Neo prog rất hay để một ngày nào đó có thể được nhắc đến ngang hàng với những huyền thoại của thể loại này. Có thể nói một cách tóm lươc là Knight Area đã phát triển về mặt sáng tác, âm thanh, kỹ thuật chơi nhạc như một band nhạc thực thụ. Album này thậm chí còn được đề cử Giải thưởng Progrock tại Ý (album nước ngoài hay nhất và bản thu âm hay nhất!), cạnh tranh cùng với các album của Rush và Porcupine Tree!, một thành tích quá tuyệt vời. Cũng trong năm 2007, Knight Area đã trở lại Hoa Kỳ để chơi tại lễ hội 'Life Rocks' ở Greensboro (NC). Trong những năm sau đó, Knight Area đã tiếp tục phát triển rất mạnh. Họ liên tục có mặt tại các lễ hội rất lớn về Prog như Loreley ở Đức, lễ hội FMPM ở Montreal Canada và lần đầu tiên xuất hiện tại Vương quốc Anh ở London. Các albums sau đó của họ như Realm of Shadows -2009, Nine Paths -2011, Hyperdrive -2014, Heaven and Beyond -2017 và cặp đôi D-Day -2019, D-Day II: The Final Chapter -2022 tiếp tục gặt hái được nhiều thành công và đưa tên tuổi của nhóm lên một tầm cao mới, trở thành một band nhạc Neo Prog có thế lực lớn ở châu Âu và thế giới. Các buổi biểu diễn của Knight Area rất được khen ngợi trong các bài đánh giá của báo chí và khán giả. Mọi người rất yêu thích sự đa dạng về phong cách âm nhạc mà band nhạc thể hiện trên sân khấu. Nhóm đã phát triển một phong cách riêng, đó là sự giao thoa giữa các phong cách khác nhau trong dòng nhạc lớn Prog Rock với nhạc giao hưởng Symphonic. Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm: Nine Paths -2011 Hyperdrive -2014
Leap Day Nhóm nhạc Hà Lan Leap Day được thành lập vào năm 2008, nhưng các sự kiện dẫn đến sự hình thành band nhạc đã bắt đầu từ một năm trước đó. Tay trống Koen Roozen (Flamborough Head) đã tìm kiếm những nhạc sĩ có mong muốn chơi nhạc Symphonic Rock để hợp tác, và trong quá trình tìm kiếm, anh đã gặp nghệ sĩ chơi keyboards Derk Evert Waalkens (King Eider), người cũng đang tìm kiếm những nhạc sĩ có cùng chí hướng. Ngay sau đó, ca sĩ Jos Harteveld (Pink Floyd Project) đã tham gia dự án chưa được đặt tên này. Sau đó, Koen và Derk bắt đầu thảo luận về khả năng biểu diễn các tác phẩm của King Eider tại Progfarm 2007. Nghệ sĩ guitar Hans Gerritse (King Eider) cũng thích ý tưởng này và đã hợp tác cùng dự án, sau đó là nghệ sĩ chơi bass Peter Stel (Nice Beaver). Tuy nhiên, họ cần một nghệ sĩ chơi kebyoard khác cho buổi biểu diễn này và Gert van Engelenburg đã được mời tham gia. Tuy nhiên, sau buổi biểu diễn này, nghệ sĩ guitar Gerritse đã rời đi. Những người còn lại vẫn muốn tiếp tục, và khi nghệ sĩ guitar Eddie Mulder (Trion, Pink Floyd Project, Flamborough Head) đồng ý tham gia, Leap Day đã ra đời. Đó là ngày 29 tháng 2 năm 2008, khi Leap Day chính thức ra đời và nhóm trên thực tế chính là một supergroup của Prog Rock Hà Lan đến từ các band nhạc lớn của nước này như: Flamborough Head, King Eider, Nice Beaver, Trion và Pink Floyd Project. Một đĩa CD demo gồm 3 ca khúc đã ra mắt vào tháng 10 năm 2008; vào tháng 11, họ đã dễ dàng ký hợp đồng với hãng Oskar của Ba Lan và album đầu tay của họ phát hành vào mùa hè năm 2009, có tên là Awaking the Muse. Đây là một album rất hay và được giới chuyên môn hoan nghênh nhiệt liệt. Nó góp phần rất lớn vào việc giúp cho Leap Day có một cuộc sống thực sự. Album thứ hai của nhóm, Skylge's Lair, được phát hành vào tháng 2 năm 2011 một lần nữa thông qua Oskar music và tiếp tục có chất lượng khá cao. Thành công của các albums này đã giúp cho nhóm có đủ động lực sự tự tin và tham vọng để phát hành một album concept gồm 2 phần là From The Days Of Deucalion Chapter 1-2013 và Chapter 2 – 2015. Cả 2 đều có chất lượng rất tốt và dần biến Leap Day trở thành một thế lực lớn hơn của Neo Prog Hà Lan. Họ còn có 2 albums tuyệt vời khác là Timelapse -2018 và Treehouse -2021. Leap Day có lẽ chơi thứ âm nhạc kết hợp giữa sự u sầu và hoành tráng của Symphonic Prog với một thứ âm nhạc Neo Prog khá kỳ quặc nghiêng rất nhiều về phía giai điệu. Âm nhạc của nhóm rất hay đặc biệt là với những người yêu thích Symphonic Prog. Bộ sưu tập có album From The Days Of Deucalion Chapter 2-2015
Profuna Ocean Band nhạc cuối cùng trong thập kỷ 2000s đến từ Hà Lan là Profuna Ocean, đây là một nhóm tứ tấu thành lập vào năm 2008. Ngay từ đầu, mục tiêu của nhóm là tìm kiếm sự tan chảy cuối cùng của các phong cách âm nhạc khác nhau. Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tầm nhìn âm nhạc của từng cá nhân, bốn nhạc sĩ đã tập hợp lại và thành lập một band nhạc kiểu liên minh chia sẻ những ý tưởng của từng thành viên và không quá gò bó. Âm nhạc là thứ gắn kết họ; do đó, họ gắn bó với nhau như thể trong một hố đen giữa hư không, kết hợp tầm nhìn, định hình những gì bên trong tâm trí họ và cuối cùng trình bày nó với thế giới. Bản demo đầu tiên của họ, mặc dù được thu âm trong điều kiện không lý tưởng, đã gây ấn tượng với những người như ca sĩ Damian Wilson của Threshold và nghệ sĩ chơi keyboards huyền thoại Rick Wakeman (Damian Wilson gọi Profuna Ocean là sự kết hợp hoàn hảo với tư cách là nghệ sĩ hỗ trợ trong khi Rick Wakeman đã đặt hàng trước bản phát hành sắp tới để phát sóng trên đài phát thanh của ông tại Vương quốc Anh). Album đầu tay của họ, "Watching the Closing Sky", phát hành vào tháng 5 năm 2009 qua hãng FARR Records, cũng đã thu hút được rất nhiều sự chú ý và giúp band nhạc có được hợp đồng phân phối quốc tế với Musea Records. Vào tháng 11 năm 2009, Profuna Ocean đã hỗ trợ ban nhạc kỳ cựu của Hà Lan Alquin trong một chuyến lưu diễn ngắn tại Hà Lan. Trong vòng một tháng sau khi phát hành CD, một phần ba đài phát thanh khu vực và địa phương ở Hà Lan đã chọn CD để phát sóng. Đó là thành công rất lớn cho một band nhạc trẻ. Đĩa CD đầu tay này ngay lập tức trở thành bản phát hành quốc tế. Bên cạnh việc phân phối tại Hà Lan qua hãng Coast to Coast, band nhạc cũng đã ký một thỏa thuận phân phối với Cargo Records cho Đức, Áo và Thụy Sĩ và Musea Records cho Pháp và các quốc gia còn lại trên thế giới trong khi Koalla Entretenimento từ Brazil sẽ bắt đầu quảng bá CD tại Brazil, Argentina và Chile. Profuna Ocean là một ban nhạc đặc biệt và đầy cảm hứng với xu hướng âm nhạc có thể coi là nghiêng về Neo Prog, nhưng cũng là một band nhạc không phù hợp với một thể loại điển hình nào cả. Họ sẽ làm bạn ngạc nhiên với một thứ âm nhạc đẹp, trong trẻo, từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác như những cơn gió nhẹ nhàng bỗng nhiên biến thành những bản nhạc rock rất mạnh. Raoul Potters, nghệ sĩ guitar và ca sĩ, là người sáng tác chính những bài hát, chúng thường xuất phát trực tiếp từ trái tim anh. Anh thường tìm thấy cảm hứng của mình trong khía cạnh gai góc hơn của cuộc sống và thế giới mà không cảm thấy bị giới hạn từ các quy tắc, cấu trúc và độ dài cơ bản của âm nhạc, bởi vì với anh, không nên có bất kỳ quy tắc nào cho âm nhạc, miễn là nó nghe hay. Với phong cách chơi keyboards đầy màu sắc của mình, René Visser biến lời bài hát của Raoul thành một tổng thể thực sự và mang nhiều tính giao hưởng. Nền tảng vững chắc và chặt chẽ của Arjan Visser chơi bass và Fred den Hartog chơi trống, đảm bảo nhịp điệu và sự sôi động diễn ra đúng lúc. Tất cả hòa quyện vào nhau thành những kiệt tác âm nhạc chắc chắn sẽ tìm chinh phục các đôi tai sẵn sàng lắng nghe của khán giả khó tính nhất. Bộ sưu tập có album In Vacuum -2016
Airbag Sau những band nhạc tại các Quốc gia mạnh như UK, Pháp, Ba Lan, Hà Lan chúng ta sẽ đến với những band nhạc khác tại châu Âu. Trong thập kỷ 2000s có rất nhiều band nhạc Neo rất hay tại nhiều nước châu Âu và chúng ta sẽ tới với những band nhạc này. Đầu tiên là Airbag. Nhóm này thành lập năm 2004 (tại Oslo, Na Uy) trên cơ sở là những người bạn từ thời trung học. Trước đó họ cũng đã cùng chơi với nhau dưới cái tên này vào năm 1994 và đội hình ổn định từ năm 1999, nhưng sau đó câu chuyện không thực sự tiến triển và phải tới năm 2004 các thành viên mới quyết định theo đuổi sự nghiệp âm nhạc chuyên nghiệp như một band nhạc thực sự. Đội hình hiện tại là Asle TOSTRUP (hát), Bjørn RIIS (guitar, vocal), Jørgen HAGEN (keyboard), Anders HOVDAN (bass) và Joachim SLIKKER (trống). Một số thành viên chúng ta cũng đã gặp trong những phần trước trong các sự nghiệp solo. Nhóm đã phát hành EP đầu tiên cùng năm 2004 có tên Sounds That I Hear. Ep này pha trộn những ảnh hưởng từ các nghệ sĩ như A-ha, Porcupine Tree và Pink Floyd, mặc dù vậy họ đã cố gắng tạo ra một thứ âm thanh thách thức các quy ước thể loại thông thường - và cho phép khán giả có thể tải xuống miễn phí bản phát hành từ trang web của họ. Đây là một bước đi thông minh: Trong vài tháng đầu tiên, hơn 10.000 người trên toàn thế giới đã download EP và Airbag đã thiết lập được một lượng người hâm mộ quốc tế có quy mô lớn. Năm 2007, EP thứ hai được phát hành có tên là Safetree. Giống như sản phẩm trước, sản phẩm này có thể tải xuống miễn phí và càng mở rộng mức độ phổ biến của chúng trong cộng đồng người hâm mộ lúc này vốn rất am hiểu Internet. Năm 2007 cũng chứng kiến sự ra mắt của Airbag dưới dạng một band nhạc biểu diễn trực tiếp, mở đầu cho các nghệ sĩ như Pineapple Thief, Gazpacho và Riverside. Năm 2009, họ được Karisma Records ký hợp đồng và album đầu tay Identity được phát hành. Lần này không còn miễn phí nữa mà là một sản phẩm thương mại thông thường. Việc phát hành album đầu tay của họ đã chứng kiến band nhạc tân trang lại các EP trước đó của họ, vì nhiều bài hát trong các EP sẽ có mặt trong LP đầu tiên này - mặc dù ở những phiên bản cải tiến hơn. Album đầu tay của họ có chất lượng rất tốt và nhận được những đánh giá vô cùng tích cực với một band nhạc trẻ. Nó là động lực rất lớn để nhóm nhạc tiếp tục phát triển rất mạnh mẽ trong album thứ hai là All Rights Removed -2011, một album chứng kiến tiếp tục sự phát triển vượt bậc trong âm nhạc của Airbag. Album này có thể coi là một siêu phẩm của Neo Prog trong thập kỷ 2010s và ngay lập tức đưa tên tuổi của nhóm trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới. Nhóm sau đó thậm chí còn được mời biểu diễn tại Lễ hội Loreley vào ngày 7 tháng 7 năm 2012 và sau đó là chuyến lưu diễn hỗ trợ Marillion trong ba buổi biểu diễn của họ trong chặng tại Scandinavian trong chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới của họ. Sau đó Airbag sẽ xuất hiện tại Copenhagen, Đan Mạch tại Gothenburg, Thụy Điển và tại Oslo , Na Uy. Như vậy là từ một anh hùng internet band nhạc đã trở thành một thế lực mới và có thể biểu diễn vòng quanh châu Âu. Những albums sau đó như The Greatest Show On Earth -2013, Disconnected -2016, A Day at the Beach -2020 và The Century of the Self -2024, thật kỳ lạ đều có chất lượng rất tốt và đưa Airbag trở thành một trong những band nhạc lớn nhất của Prog trong thập kỷ 2010s và sau này. Âm nhạc của nhóm, dù chịu nhiều ảnh hưởng từ các band Neo như Marillion, IQ và tích hợp thêm rất nhiều ảnh hưởng của Pink Floyd và đặc biệt là Porcupine Tree nữa. Nhưng điểm đặc biệt của Airbag là sử dụng atmospheric tạo bầu không khí lạnh lẽo những vẫn đầy ngọt ngào và êm dịu. Đây là band nhạc rất hay của Prog. Bộ sưu tập có 4 albums của nhóm gồm: Identity 2009 All Rights Removed 2012 The Greatest Show On Earth 2013 (LE Gatefold) Disconnected 2016 (LE digipack)
Factory Of Dreams Factory Of Dreams là một band nhạc lớn của Neo Prog tới từ Bồ Đào Nha. Dự án này thực chất là sự hợp tác giữa nghệ sĩ đa nhạc cụ Hugo Flores và ca sĩ Jessica Lehto. Trước khi thành lập Factory Of Dreams thì Hugo Flores đã thu hút sự chú ý của quốc tế với album solo đầu tiên vào năm 2000. Sau đó, anh thành lập band nhạc “Sonic Pulsar” để cải tiến hơn nữa âm thanh và phong cách của mình. Band này phát hành 2 albums, một vào năm 2002 và album thứ hai vào năm 2005. Những album này tiếp tục truyền cảm hứng cho Hugo đến mức tạo ra một cốt truyện gồm nhiều album đồ sộ với biệt danh "Project Creation", sau đó anh phát hành 2 album, một vào năm 2005 và một vào năm 2007, dự án này mang nhiều tính Metal. Còn Jesssica đã chơi keyboard/piano từ năm bảy tuổi. Cô này đã tham gia một vài lớp học piano nhưng việc phải học các nốt nhạc khiến cô chán nản và cuối cùng Jessica hầu như chỉ học mọi thứ bằng tai. Jessica bắt đầu học ca hát khi cô 15 tuổi. Đó là lúc Jessica khám phá ra nhiều dòng nhạc mang hơi hướng metal hơn với các band như The Gathering, Within Temptation, Nightwish và Blind Guardian (3 bands đầu tiên đều có vocalist là nữ). Kể từ đó, niềm đam mê âm nhạc của cô ngày càng sâu sắc hơn và ở tuổi 17, Jessica bắt đầu viết những tác phẩm của riêng mình. Cô tiếp tục duy trì niềm đam mê âm nhạc trong dự án Once There Was của mình. Vào khoảng năm 2008, Hugo nghe thấy giọng hát của Jessica, anh này quá ấn tượng và quyết định tạo ra một thứ âm nhạc mới dựa trên giọng hát này. Dự án sau đó chính là Factory Of Dreams. Dự án này sẽ mang thêm yếu tố Gothic và Symphonic Metal. Factory Of Dreams thành lập vào năm 2008 và phát hành album đầu tiên vào cùng năm, mang tên "Poles". Hugo sản xuất và tạo ra tất cả âm nhạc trong khi Jessica thể hiện giọng hát tuyệt vời của mình. Sau album Poles vào năm 2008, Factory of Dreams đã trở lại với sản phẩm mới mang tên A Strange Utopia, mang lại cảm giác hoành tráng và hoàn toàn là Neo Progressive so với album đầu tiên của họ vốn mang nhiều tính Metal. Phức tạp hơn, nặng nề hơn, nhanh hơn và đồng thời hấp dẫn hơn, đây là một album khổng lồ mang dấu ấn của Factory of Dreams, với cảm giác giai điệu du dương tuyệt vời và những khoảnh khắc đáng sợ với dàn ca sĩ và nghệ sĩ khách mời tuyệt vời. Điểm nổi bật là bản Epic E-motion dài gần 10 phút và ca khúc tuyệt đẹp Sonic Sensations mô tả một Thế giới được tạo ra bởi Âm thanh và Âm nhạc. Sau đó nhóm này còn phát hành thêm 2 albums nữa Melotronical -2011 và Some Kind Of Poetic Destruction -2013 trước khi dừng hoạt động. Âm nhạc của nhóm mang phong cách Neo Prog nhưng nghiêng nhiều về Gothic và Symphonic Metal. Đây là một dự án rất hay đặc biệt là cho những fan hâm mộ kiểu Symphonic-Gothic Metal. Bộ sưu tập có 3 albums của nhóm. Gồm Strange Utopia -2009 Melotronical -2011 và Some Kind Of Poetic Destruction -2013
The Watch Nhóm này thành lập tại Milan, Ý vào năm 1997 với tên gọi "The Night Watch' - Từ năm 2000 đã đổi tên thành 'The Watch'. Thực ra có thể coi là The Watch là một phiên bản khác của The Night Watch vì đường hướng phát triển của nhóm này còn khá amateur. The Watch ra đời từ đống tro tàn của The Night Watch và họ bắt đầu làm việc theo cách chuyên nghiệp hơn với việc phát hành album Ghost vào năm 2001. Album có chất lượng rất tốt này đã góp phần rất lớn giới thiệu âm nhạc của họ tới khán giả nhạc prog. Và tới ngày nay, The Watch là một nghệ sĩ nổi tiếng trong cộng đồng nhạc Neo prog và chắc chắn là được đánh giá cao. Simone Rossetti, người đứng đầu đầy lôi cuốn của The Night Watch, tiếp tục công việc ấn tượng của mình trong band nhạc mới The Watch, nhưng anh ấy là người duy nhất kết nối giữa hai nhóm này. Simone là một ca sĩ/flute tuyệt vời và giọng hát của anh ấy rất giống với Peter Gabriel nên âm thanh trong album đầu tay một lần nữa giống như Genesis thời kỳ đầu. Ngoài ra cũng còn có ảnh hưởng từ Marillion, Spock's Beard và Änglagard. Album thứ hai năm 2004 của The Watch, Vacuum, ngay lập tức nhận được những đánh giá tuyệt vời. Nhóm sau đó đã thực sự cất cánh với chuyến lưu diễn The Vacuum Tour, đưa band nhạc đến biểu diễn ở một số quốc gia châu Âu cũng như ở Hoa Kỳ. Năm 2007 chứng kiến sự ra mắt của Primitive, đánh dấu sự trở lại cội nguồn của nhạc progressive. Sau đó là một chuyến lưu diễn dài ngày vòng quanh châu Âu nơi mà band nhạc quyết định đưa thêm một số bản cover từ Genesis vào các buổi biểu diễn. Sự tương đồng không thể chối cãi giữa giọng hát của Rossetti và Peter Gabriel và thành công lớn của các buổi biểu diễn đã khiến The Watch quyết định xây dựng một chuyến lưu diễn dựa trên một số thành công ban đầu của Genesis, chẳng hạn như Trespass, Nursery Cryme và Foxtrot. Những bản phát hành sau này của nhóm như: "Planet Earth?" -2010, Timeless -2011, Tracks From The Alps -2014, Seven -2017 và The Art of Bleeding -2021 đều có chất lượng rất tốt. Âm nhạc của nhóm nghe rất giống với Genesis tới nỗi nhiều người cho rằng đây là bản sao của Genesis thời kỳ đầu với Gabriel và Hackett. Với sự góp mặt của tiếng Mellotron vô cùng hùng tráng, các bản phát hành tựa như sự phối hợp của "Nursery Crime" và "Selling England By The Pound". Nhiều người còn coi một số albums của The Watch là những album hay nhất mà GENESIS chưa từng thực hiện Như vậy có thể coi âm nhạc của nhóm lấy cảm hứng từ các nghệ sĩ của những năm 70, chủ yếu là Genesis thời kỳ đầu, do có sự tương đồng đáng kinh ngạc giữa giọng hát của Simone Rossetti và giọng hát của Peter Gabriel thời trẻ. Tuy nhiên, bất chấp sự tương đồng này, band nhạc có phong cách riêng, đó là không khí atmospheric/ambient đậm đặc thường thấy trong các band nhạc Neo Prog. Và do đó có thể coi The Watch là sự kết hợp giữa Neo Prog với Genesis. Các albums của nhóm có chất lượng thu âm cực tốt, kể cả trong studio là diễn live. Đây thực sự là một band nhạc tuyệt vời và là sự kết nối hoàn hảo nữa Symphonic Prog và Neo Prog. Bộ sưu tập có 3 albums của nhóm Gồm: Planet Earth? 2010 Timeless 2011 Tracks From the Alps 2014
Laser247, the premier online exchange and community hub for cricket aficionados, has established itself as a vital platform since its inception in 2016. With a focus on fostering engagement among fans of T20 Cricket Team India 2024, Laser 247 offers a seamless experience for users to connect, share insights, and engage in spirited discussions about their favorite players and matches. The platform's innovative features allow members to participate in real-time exchanges regarding match predictions, statistics analysis, and player performances while enjoying exclusive content tailored specifically for passionate supporters of Indian cricket. As the excitement builds towards India's participation in the T20 tournaments ahead, Laser247 stands at the forefront of this vibrant community by providing tools that enhance collaboration and elevate the overall cricketing experience—making it an indispensable resource for every die-hard fan looking to deepen their connection with the game they love. For More Info - Contact Us : 8595194199, 9990616152 Follow us on Instagram Page : https://www.instagram.com/laser247id?igsh=YzZuaXNhNDd2M3Bw Follow us on Facebook : https://www.facebook.com/profile.php?id=61562885768404
Barock Project Một band nhạc Neo Prog Rock Ý khác cũng rất thành công trong những năm gần đây có thể kể tới Barock Project. Ý tưởng ban đầu của nhóm này xuất phát từ mong muốn mang đến cấu trúc hoàn hảo và tinh tế nhất của nhạc cổ điển (chủ yếu là nhạc baroque) kết với phong cách rock và một chút hòa âm jazz, với sự hỗ trợ từ giai điệu hay của nhạc Pop với mục đích làm mới và tăng sức hấp dẫn của nhạc progressive-rock thập niên 70s. Người sáng lập dự án, nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc Luca Zabbini, anh này từng tốt nghiệp và làm việc tại học viện âm nhạc "O.Vecchi" ở Modena. Anh này tuyên bố rằng niềm đam mê của anh dành cho âm nhạc của nghệ sĩ chơi keyboard nổi tiếng Keith Emerson (ELP), đã thúc đẩy mong muốn sáng tác và chơi đủ mọi phong cách, từ nhạc cổ điển đến nhạc rock và nhạc jazz của anh. Luca là nhạc sĩ sáng tác nhiều bài hát của nhiều band nhạc từ năm 1990, anh đã chơi trong một số nhóm đủ các thể loại (nhạc rock, nhạc blues, nhạc funky, với tư cách là nghệ sĩ piano cổ điển, một số buổi chơi ngẫu hứng kiểu jaming). Ca sĩ chính của band nhạc là Luca Pancaldi. Anh này cũng tham gia hát trong một số band nhạc từ năm 1996 và vào năm 2001, anh tham gia một ban nhạc cover Iron Maiden có tên "Children of the Damned". Cùng với band nhạc này vào năm 2002, anh đã bắt đầu một chuyến lưu diễn dài khắp châu Âu với ca sĩ huyền thoại của Maiden, Paul Di'Anno. Sau chuyến lưu diễn dài ngày ở Châu Âu với "Children of the Damned", Luca Pancaldi gia nhập band nhạc với tư cách là giọng ca chính vào năm 2002. Vào mùa hè năm 2004, Giambattista "GB" Giorgi, một nghệ sĩ chơi bass trẻ chịu ảnh hưởng của nhạc rock với niềm đam mê lớn dành cho nhạc jazz, và tay trống Giacomo Calabria đã gia nhập ban nhạc. Trước đó Giambattista và Luca đã chơi cùng nhau vào năm 1996 với một band nhạc chuyên cover nhạc Prog Rock (ELP, PFM, v.v.). Như vậy là band nhạc đã thành hình và mặc dù chưa có album nào, nhóm đã đi biểu diễn rất nhiều (cũng tương tự ELP). Tên tuổi của nhóm bắt đầu nổi lên và vào tháng 1 năm 2007, band nhạc biểu diễn trực tiếp tại Bologna (Ý) với một nhóm tứ tấu đàn dây. Tất cả các bản phối đều do Luca Zabbini viết và buổi biểu diễn thành công tới mức họ sau đó còn cho phát hành buổi biểu diễn dưới dạng DVD có tên "Rock in Theater". Thấy tiềm năng to lớn của band nhạc, hãng đĩa huyền thoại Musea của Pháp đã chớp cơ hội để kí hợp đồng với nhóm. Phải tới tháng 12 năm 2007, album đầu tiên "Misteriose Voci" do hãng Musea Records phát hành đã tạo nên tác động lớn với những đánh giá rất tốt và tràn ngập trên mặt báo của giới truyền thông trên toàn thế giới ("Passion Progressive" Pháp; "Progressive World.net" Hoa Kỳ; "ProgNosis" Hoa Kỳ; "MovimentiProg" Ý; "Raw and Wild Magazine" Ý; "Manticornio" Mexico; "Prog Nose" Bỉ; "PRPM" Brazil; "ProgWereld" Hà Lan.) Trên đà thành công, vào mùa hè năm 2009, band nhạc phát hành album thứ hai "Rebus", đây tiếp tục là một album rất tốt và nó, một lần nữa, nhận được những đánh giá rất tốt từ khắp nơi trên thế giới. Đây cũng là một điều rất lạ lùng vì 2 albums đầu tiên của nhóm chỉ hát bằng tiếng Ý và âm nhạc thì lại không liên quan gì tới dòng nhạc Rocko Progressivo Italiano, vốn cũng rất nổi tiếng và chuyên hát bằng tiếng Ý. Nhận thấy tiềm năng thành công rất lớn của nhóm, hãng thu âm Musea đã thuyết phục nhóm chuyển sang hát tiếng Anh để âm nhạc có thể tới được với đông đảo khán giả hơn nữa. Và lúc này thì Barock Project bắt đầu bước chân vào một thế giới rộng lớn hơn rất nhiều. Vào tháng 3 năm 2012, band nhạc phát hành album thứ ba "Coffee In Neukölln", với tất cả lời bài hát bằng tiếng Anh. Album này gần như ngay lập tức trở thành một album kinh điển của Neo Prog mới và góp phần đưa tên tuổi của nhóm trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Trong những năm 2010s, Barock Project làm mưa làm gió với những albums kinh điển như: Skyline -2015, Detachment -2017 và Seven Seas -2019. Album gần đây nhất của nhóm là Time Voyager-2021 cũng có chất lượng cực tốt và sẽ trở thành một trong những album kinh điển của Neo Prog trong thời gian không xa. Bộ sưu tập có 2 albums của nhóm gồm: Skyline 2015 (bản SHMCD, 2CDs gatefold của Nhật) Detachment 2017 (bản SHMCD gatefold của Nhật)
Fjieri Một band nhạc nữa đến từ Ý có trong bộ sưu tập là Fjieri, nhóm thành lập vào năm 1997. Lúc này nhóm gồm Elio Lori (bass), Nicola Lori (guitar), Stefano Panunzi (keyboard và loop) và Angelo Strizzi (trống, percussions). Và mặc dù đã làm việc với tầm nhìn âm nhạc riêng của mình trong nhiều năm nhưng nhóm không thể thuyết phục được các hãng đĩa tài trợ cho album của mình. Phải đến khi nghệ sĩ keyboard Richard Barbieri nghe một số sáng tác của họ, nhóm mới có thể tiến những bước dài. (Barbieri chắc chúng ta cũng không quá xa lạ vì là ông này chính là thành viên của nhóm nhac New Wave huyền thoại Japan của Anh Quốc, sau khi Japan tan rã, Barbieri tham gia Porcupine Tree, một nhóm nhạc huyền thoại khác của Prog Rock). Sau khi ấn tượng với âm nhạc của Fjieri, Barbieri quyết định đóng góp thêm cho âm nhạc của nhóm bằng kỹ năng của mình với tư cách là một nhạc sĩ và cũng quyết định đứng ra sản xuất album đầu tay của Fjieri. Và với sự tham gia của anh này, một số thành viên các nhóm nhạc khác của anh cũng quyết định đóng góp. Kết quả cuối cùng được phát hành là album "Endless" vào năm 2009, với sự xuất hiện của một số tên tuổi nổi tiếng trong làng nhạc Prog rock quốc tế. Sau 10 năm thực hiện, album đầu tay Endless của Fjieri là kết thúc viên mãn cho một công trình lao động tỉ mỉ đầy tình yêu. Band nhạc, do Stefano Panunzi và Nicola Lori dẫn đầu, có sự tham gia của dàn nhạc sĩ khách mời ấn tượng, bao gồm Mick Karn, Tim Bowness, Andrea Chimenti, Peter Chilvers, Nicola Alesini và các thành viên của Porcupine Tree, Gavin Harrison và Richard Barbieri. Album kết hợp khéo léo các ảnh hưởng của Ambient và Progressive Rock để tạo ra âm thanh tinh tế kết hợp bầu không khí atmospheric rất nhẹ nhàng, giai điệu phong phú, nhịp điệu lặp lại kiểu Groove và những đoạn riff mạnh mẽ. Sau 6 năm, nhóm nhạc mới trở lại vào năm 2015 và tung ra album thứ 2 có tên là Words Are All We Have. Band nhạc lúc này gồm Nicola Lori chơi bass và guitar cũng như Stefano Panunzi chơi keyboard, với một vocalist chính mới là Jakko Jakszyk huyền thoại (anh là thành viên của Tangent, King Crimson, Level 42, Battiato, v.v.). Tim Bowness (bạn đồng hành của Steven Wilson trong No-Man) tiếp tục tham giá hát trong một bản nhạc và Harrison lại là khách mời. Album dài hơn một giờ (68 phút) này có vẻ bụi bặm và thậm chí có thể mang nhiều âm hưởng nhạc jazz hơn với sự góp mặt của tiếng kèn trumpet của Mike Applebaum và kèn saxophone của Nicola Alesini trong khi Jakko thêm phong cách rock/jazz/Canterbury khá độc đáo của mình vào cả giọng hát thất thường cũng như tiếng guitar dữ dội của mình. Tuy nhiên có lẽ điểm nổi bật nhất chính là tiếng bass quanh co của Lori, rất dễ nhận biết và rõ ràng, khắc họa những tiếng âm trầm sâu lắng vào các sáng tác mơ màng và tạo ra một thứ một âm thanh riêng biệt rất khó có thể bắt chước. Kỳ quặc, nồng nhiệt, đặc biệt nhưng vẫn rất sang trọng và hợp thời, loại nhạc này có thể làm hài lòng cho rất nhiều người từ fan của Prog Rock tới Metal… Âm nhạc của Fjieri khiến cho người nghe liên tưởng tới các khía cạnh nào đó của Rain Tree Crow, Pink Floyd, Porcupine Tree, Brian Eno, King Crimson và No-Man. Đây là một band nhạc rất hay của Neo Prog Ý. Bộ sưu tập có album Words Are All We Have -2015 của nhóm.
Carptree Sau nước Ý, chúng ta sẽ tới với Thụy Điển. Nước này vốn là một cường quốc về Prog Rock trong thế hệ thứ 3 của dòng nhạc này nhưng một điều kỳ lạ là dường như Thụy Điển không mạnh về Neo Prog. Mặc dù vậy thì vẫn có một số nhóm khá hay, một trong số đó là Carptree. Nhóm thành lập tại Stockholm, Thụy Điển vào năm 1997. Tuy gọi là một band nhạc nhưng thực chất đây là dự án của một cặp đôi nhạc sĩ gồm Niclas Flinck – vocal và nghệ sĩ chơi keyboards Carl Westholm. Cặp đôi này vốn là những người bạn tâm giao suốt cả cuộc đời họ. Vào những năm cuối thập kỷ 90s, bộ đôi này quyết định thành lập một band nhạc với mục đích 'kết hợp những giai điệu hay và đôi khi hấp dẫn với những bản phối kịch tính và mang nhiều tính Prog hơn’. Dĩ nhiên chỉ với keyboards và vocal không thôi thì chưa đủ nhân lực nên họ sẽ mời thêm một số khách mời để tham gia trong từng albums. Năm 2001, họ đã phát hành album đầu tay mang tên chính mình và nhận được một số đánh giá trái chiều. Một số người cho rằng họ là một band nhạc tài năng, nhưng những người khác lại cảm thấy họ phụ thuộc quá nhiều vào synthesiser được lập trình sẵn. Âm nhạc thì cũng có một số tính Prog nhưng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ phong cách của David Bowie. Album trên thực tế chỉ có chất lượng ở mức khá mà thôi. Tuy nhiên, album tiếp theo của họ là Superhero vào năm 2003 lại dễ tiếp cận hơn một chút và thu hút được cả người hâm mộ Genesis và Marillion thời Fish, đồng thời cũng có những kết cấu kiểu Space hơn dưới dạng Porcupine Tree hoặc Pink Floyd. Ngoài ra thì những bài hát dễ nghe và hài hòa như kiểu của Supertramp vậy. Album này có chất lượng vượt hơn hẳn so với album trước. Năm 2005, Carptree đã mang một tông màu tối hơn nhiều với album tiếp theo là Man Made Machine. Nó vẫn phảng phất nét tân thời của Neo Prog, nhưng đã thử nghiệm thứ mà một số người mô tả là nhạc rock nghệ thuật Art Rock. Với sự trợ giúp của dàn nhạc No Future Orchestra Sự tự tin hơn của các khách mời mang đến cảm giác đây là một band nhạc thực thụ chứ không còn là một dự án của hai người. Dù là một album tối tăm, lạnh lẽo, phảng phất hương vị của Industrial, nó vẫn là một bước tiến lớn tiếp theo trong sự nghiệp của Carptree. Năm 2007 đã chứng tỏ là một năm then chốt với việc phát hành album Insekt, một lần nữa với sự giúp đỡ của dàn nhạc No Future Orchestra. Ngoài ra, Carptree đã có buổi biểu diễn đầu tiên cùng nhau với tư cách là một band nhạc tại ROSFest 2007, điều này chắc chắn đã mở ra cho họ một lượng khán giả thậm chí còn lớn hơn. Thế nhưng, với cách tiếp cận âm nhạc u ám, nặng nề, khó chịu, gây ra sự lo lắng đầy tính atmospheric của mình Carptree không thực sự có một lượng fan hâm mộ lớn. Mặc dù vậy họ luôn có một lượng fan hâm mộ nhỏ nhưng trung thành. Âm nhạc quá hiện đại để khiến cho các fan hâm mộ của thứ Prog Rock cổ chú ý nhưng những albums của họ luôn đảm bảo chất lượng rất cao trong sự buồn bã, cô đơn, đen tối và đôi khi là hoảng loạn nữa. Có thể miêu tả đơn giản nhất về âm nhạc của họ là Neo Prog với những giai điệu ám ảnh. Bộ sưu tập có album Man Made Machine -2005
Introitus Band nhạc này thành lập tại Vansbro, Thụy Điển vào năm 1999. Đây thực chất là một dự án của gia đình Benders gồm: cha, mẹ và các con nhà Bender. Mặc dù thành lập từ sớm nhưng dự án sẽ phát triển hơn trong những năm giữa thập kỷ 2000s khi band nhạc gia đình này có thêm sự trợ giúp từ những thành viên mới, mặc dù album đầu tiên Fantasy đã thực hiện phần nhạc từ trước đó. Album đầu tay "Fantasy" phát hành vào năm 2007 thực ra như là một album solo của Mats Bender, tay keyboards và là một người đồng sáng lập ra band nhạc. Những cái bài hát và tài liệu trong album này đã có từ đầu những năm 1970s. Do đó, âm nhạc trong album này dường như là Symphonic Prog và Neo Prog kết hợp nhạc jazz, nhạc dân gian Folk, nhạc Pop đại chúng Thụy Điển và thậm chí là một số hương vị Celtic ở đâu đó. Mặc dù có nhiều ảnh hưởng từ các band khổng lồ như Genesis hay Pink Floyd nhưng album được đón nhận nồng nhiệt đến nỗi Introitus cảm thấy rằng có thể sẽ rất tuyệt nếu tiếp tục sự nghiệp với nhiều loại nhạc hơn và thay đổi đội hình. Album thứ hai "Elements" ra mắt vào năm 2011 và thậm chí còn được đón nhận nồng nhiệt hơn trong thế giới nhạc progressive. Trong album này họ đã quyết định tăng thêm liều lượng của Symphonic Prog và giảm bớt hầu hết những ảnh hưởng của Folk và Pop, chỉ giữ lại những ảnh hưởng của Jazz. Dĩ nhiên với phong cách này thì âm nhạc nghe sẽ tập trung và trưởng thành hơn so với album trước. Album này cũng mang tới nhiều rung cảm tích cực hơn, khiến cho band nhạc giờ đây cảm thấy rằng Introitus là một dự án vững chắc hơn họ mong đợi. Nỗ lực thứ ba mang tên "Anima" được phát hành vào năm 2014. Trong album này, Introitus đã quyết định tích hợp thêm nhiều tính Metal vào âm nhạc, âm nhạc do đó nghe mạnh mẽ hơn hẳn so với những album trước đó. "Anima" có tất cả sự tuyệt vời của synth, lời bài hát đẹp và những góc cạnh cứng rắn hơn nữa của Metal. Và đây tiếp tục là một album rất hay của nhóm. Tiếp theo sự thành công của album này là nhóm thực hiện chuyến lưu diễn đầu tiên tại Vương quốc Anh, rất thành công. Vào thời điểm này, Introitus cũng đã trở thành một band nhạc biểu diễn live giỏi. Tiếp theo đó, Introitus bắt đầu thực hiện album mới "Shadows" vào năm 2017. Tuy nhiên tới thời điểm này thì cuộc sống của nhiều thành viên có nhiều thay đổi với công việc, sinh con và những sự kiện gia đình khác. Vì vậy, album này chỉ phát hành vào tháng 6 năm 2019, mất khá nhiều thời gian! Đây tiếp tục là một album rất hay nghiêng nhiều về Metal với những đoạn solo guitar rất mạnh mẽ. Có thể nói rằng âm nhạc của Introitus luôn lấy cảm hứng từ cả nhạc progressive metal cũng như nhạc ambient, chẳng hạn như Vangelis và Kitaro. Tất cả các thành viên của Introitus đều có những công việc full time khác và có lẽ âm nhạc chỉ là thú vui của cả gia đình. Mats và vợ anh là Anna Jobs Bender (hát chính) cũng đang thực hiện một vài dự án âm nhạc khác, nhưng Introitus luôn là đứa con đầu lòng và mang lại nhiều cảm xúc nhất của họ! Trong bối cảnh Neo progressive ở Thụy Điển rất nhỏ và band nhạc cũng sống khá xa những nơi trung tâm khiến việc di chuyển để biểu diễn tại các thành phố lớn trở nên khó khăn nên họ không nổi tiếng lắm tại Thụy Điển. Tuy nhiên, tại Vương quốc Anh thì Introitus được chào đón nhiệt tình và band nhạc đang nỗ lực thực hiện một chuyến lưu diễn tại Anh Quốc và trên lục địa châu Âu trong tương lai gần, nơi mà họ thành công hơn nhiều so với chính tại quê hương mình. Bộ sưu tập có album Anima -2014.
Eye 2 Eye Sau khi tới với Thụy Điển, chúng ta sẽ sang Pháp, một nước cũng rất yêu thích Prog tại châu Âu. Tại Pháp thì cũng có rất nhiều những dòng nhạc khác nhau trong nhánh Prog Rock nhưng họ có hai nhóm đặc biệt mạnh mà chúng ta đã biết là Zeuhl (đặc sản Pháp) và Avant Garde Prog - cũng rất gần với Zeuhl-(cùng với Bỉ). Nhưng vào những năm 2000s thì Pháp vẫn có những band nhạc Neo Prog khá tốt và chúng ta sẽ xem qua một số band. Đầu tiên là nhóm nhạc Eye 2 Eye. Nhóm này lúc đầu được gọi là Eye to Eye, thành lập vào đầu năm 2003, khi Didier Pegues (trống) và Phillipe Benabes (keyboards) quyết định thành lập một band nhạc mới khi nhóm nhạc trước đó của họ có tên là AND giải thể. Và khi tay bass nữ Cecile Carratero (bass) hợp tác với bộ đôi này sau khi band nhạc cũ Limelight của cô tan rã, Eye to Eye đã được đã chính thức ra đời. Sau đó họ có sự bổ sung của Mederic Colas (guitar) và Benoit Derat (hát, guitar) và band nhạc hoàn thiện đội hình. Thế nhưng đội hình này cũng không ổn định được lâu và phải tới giữa năm 2004, sau vài xáo trộn thì nhóm mới có thể bắt tay vào công việc chính thức. Vào năm 2005, các buổi thu âm cho album đầu tay của họ kết thúc, và trong khi quá trình phối nhạc và sản xuất được hoàn tất vào năm 2005, band nhạc bắt đầu tìm kiếm một hãng thu âm. Rất may mắn cho band nhạc là hãng thu âm huyền thoại của Pháp Musea Records quyết định ký hợp đồng với nhóm. Vào tháng 10 năm 2006, album đầu tay One in Every Crowd phát hành, và nhận được sự đón nhận tích cực. Tuy nhiên vào cuối năm 2006, band nhạc lại tiếp tục rơi vào bất ổn khi 2 thành viên rời đi. Mặc dù vậy, nhóm vẫn tiếp tục hoạt động như một nhóm trio trước khi tìm được người thay thế. Sau đó Eye to Eye tiếp tục bận rộn hoàn thiện các buổi thu âm cho album thứ hai của họ. Đến năm 2008, band nhạc đổi tên thành Eye 2 Eye, do một nhóm nhạc Hoa Kỳ chia sẻ biệt danh trước đó của họ. Vào cuối năm, quá trình master cho album thứ hai của họ đã hoàn tất và vào tháng 2 năm 2009, nỗ lực thứ hai của họ là After All... được phát hành thông qua Musea records. Cả 2 albums đầu tay của nhóm đều có chất lượng khá tốt với sự kết hợp giữa Neo Prog và Symphonic Prog. Sau 2 albums, nhóm nhạc đã có đủ sự tự tin để thực hiện một albums concept là The Wish. Album này dựa trên tiểu thuyết " The picture of Dorian Gray" của nhà văn người Ireland -Oscar Wilde. Đĩa nhạc này đầy cảm xúc, theo chủ nghĩa lãng mạn, nhưng vẫn có sự đen tối và kịch tính của cốt truyện. Với tiếng đàn guitar tuyệt vời, phảng phất âm nhạc phương Đông kết hợp với tính dẫn dắt của tiếng violin và tiếng nền mạnh mẽ của keyboards. Giọng hát mới, có phần hơi thô, nhưng đầy tính giai điệu, rất phù hợp với tính sân khấu mà cốt truyện yêu cầu. Đâu đó, chúng ta có thể nghe thấy những ảnh hưởng của Pop trong một số bài hát nhưng với liều lượng rất phù hợp khiến cho album nghe rất hài hòa và có lẽ là có chất lượng tốt hơn 2 albums đầu tay. Sau album này thì nhóm còn có 2 albums nữa là The Light Bearer -2017 và Nowhere Highway -2020 tuy ít người biết hơn nhưng vẫn có chất lượng khá tốt. Eye 2 Eye chắc chắn là một band nhạc rất đáng nghe của Neo Prog Pháp. Bộ sưu tập có album thứ 2 của nhóm là After All... -2009.
Mysterkah Band nhạc Neo Prog này gồm cả nhạc sĩ người Pháp và Anh, khởi nghiệp với tư cách là một nhóm nhạc bốn người vào năm 1995, tại một thị trấn nhỏ của Pháp tên là Chedde ở vùng Haute-Savoie. Trong nhiều năm, nhóm đã trải qua nhiều đội hình khác nhau, thậm chí có thời điểm tan rã hoàn toàn. Tuy nhiên, hai thành viên ban đầu vẫn gắn bó với nhau, cụ thể là nghệ sĩ chơi keyboard/ca sĩ chính Yleah White và nghệ sĩ guitar/bass Alec Hudson. Sau nhiều năm làm việc chăm chỉ và với sự giúp đỡ tận tình của tay trống người Pháp Xavier Richard, người lăn lội từ Bordeaux tới chỉ để làm việc với cặp đôi này, họ đã thu âm album đầu tiên vào năm 2001 có tựa đề "Fresq". "Fresq" là một album concept về một người ngoài hành tinh bị từ chối, người quyết định ở lại trong hang động trong hàng nghìn năm thông qua phương pháp đông lạnh, trong thời gian này thì loài người tự hủy diệt chính mình. Cho đến khi người phụ nữ sống sót cuối cùng tìm thấy anh ta, đánh thức anh dậy và cho anh ta một lý do mới để sống: giúp nhân loại xây dựng lại một thế giới tốt đẹp hơn. Về mặt âm nhạc, giọng hát của White và tiếng đàn keyboards mạnh mẽ cùng tiếng lead guitar của Hudson là những điểm đáng chú ý nhất. Giọng hát mạnh mẽ và với âm vực rộng của White gợi nhớ đến giọng hát của Isabelle Plante (Transcendence) và Tracy Hitchings (Landmarq); còn đối với Hudson, phong cách uyển chuyển và bay bổng của anh nằm giữa Steve Howe và Nick Barrett. Anh này còn chơi cả bass, nhưng cách chơi bass của anh lùi lại phía sau cũng như cách chơi bộ gõ của Xavier Richard. Không có gì quá phức tạp hay mang tính thử nghiệm lớn trong nhóm nhạc này, nhưng điểm mạnh của nó nằm ở các sáng tác năng động, các bản phối cực kỳ du dương và đôi khi hơi khoa trương một cách hợp lý (đặc biệt là tiếng synth của White) cũng như tính nhất quán tổng thể của album. Một tác phẩm neo prog tuyệt vời và là một tác phẩm đầu tay (cũng có thể là tác phẩm cuối cùng) đầy hứa hẹn. Những fan hâm mộ của Magenta, Janison Edge và Eloy có lẽ sẽ rất thích album này. Bộ sưu tập có album duy nhất này của nhóm.
Mindgames Bỉ thực chất cũng là một nước rất yêu thích Progressive Rock, nhưng nước này chủ yếu mạnh trong lĩnh vực Avant Garde. Nhưng trong thập kỷ 2000s thì có nhóm Mindgames chơi nhạc Neo Prog. Tại đây chúng ta sẽ gặp band nhạc này. Mindgames ra đời vào năm 1997, do Bart và Eric thành lập. Cặp đôi này trước đó đã chơi trong cùng một band nhạc khác và quyết định thành lập một band nhạc mới vì có chung sở thích là Prog Rock và Symphonic. Sau đó thì tay trống Benny và Tom (keyboards) gia nhập nhóm. Benny đã chơi nhạc Metal trong nhiều năm, còn Tom chơi piano cổ điển trong mười năm và rất thích kết hợp các phong cách khác nhau. Điều đó đã trở thành sức mạnh của band nhạc này khi kết hợp và pha trộn những ảnh hưởng cá nhân với rất nhiều nền tảng khác nhau. Do đó sau này, chúng ta sẽ nghe thấy vô số ảnh hưởng của những band nhạc trong suốt toàn bộ lịch sử nhạc rock tới âm nhạc của Mindgames. Những yếu tố chính có thể kể đến Pink Floyd, Yes, Genesis, Marillion và rất nhiều nhóm khác không thể kể hết ở đây. Nhưng cũng phải mất 2 năm ổn định được đội hình thì họ mới vào phòng thu để định hình bản demo thu âm đầu tiên của mình, cùng với đó là các buổi biểu diễn nhỏ. Các buổi tập cho album đầu tay của họ kéo dài tới ba năm cho đến khi album hoàn thành, vào năm 2002. Album cuối cùng được phát hành vào năm 2003 dưới cái tên International Daylight. Album này có cấu trúc rất cẩn thận với các bản nhạc trung bình dài và ba bản Epic tới hơn 10 phút. Đây là một album rất tinh tế, các bản nhạc được chơi chính xác và có sự cân bằng hoàn hảo giữa mạnh mẽ và nhẹ nhàng. Những giai điệu mạnh mẽ, nhiều lần thay đổi nhịp điệu và đoạn hòa tấu xuất sắc tạo ra vẻ đẹp của các bài hát là sự kết hợp hoàn hảo trong "International Daylight", một album đã đạt được thành công lớn trong cộng đồng những người yêu thích Symphonic Progressive. Album này được đánh giá cao và khiến cho band nhạc có hợp đồng với hãng Musea để phân phối lại album này. Sau đó thì nhóm đã có một số buổi biểu diễn lớn tại châu Âu. Năm 2005, Mindgames quay trở lại phòng thu để chuẩn bị cho album thứ hai của họ, "Actor In A Play", phát hành năm 2006 và nhận được những đánh giá rất tích cực từ báo chí quốc tế và người hâm mộ. Một album concept chứng tỏ sự trưởng thành vượt bậc của band nhạc. Với album này, Mindgames vẫn tiếp tục đi theo con đường từ khi bắt đầu, một âm thanh cân bằng giữa Neo và Symphonic, kết hợp với một số ảnh hưởng khác. Những năm sau đó Mindgames tiếp tục đi lưu diễn dài ngày nhưng vẫn tiếp tục sáng tác các bài hát cho album mới. Tuy nhiên sau đó nhóm đã có những thay đổi quan trọng về đội hình và công việc hoàn thiện cho album mới tiếp tục bị trì hoãn. Phải tới năm 2010 nhóm mới tung ra album thứ 3 có tên là MMX. Đây vẫn tiếp tục là một album tốt và dù có thay đổi trong đội hình nhóm vẫn giữ nguyên phong cách ban đầu của họ. Sau này, dù đội hình nhiêu thay đổi, nhóm nhạc vẫn cố gắng ổn định và tung ra các albums có chất lượng rất tốt như Paradox Of Choice -2015 hay Spirals in the Wider Space -2024. Bộ sưu tập có album MMX -2010 của nhóm.
Metamorphosis Metamorphosis là dự án của nhà soạn nhạc/nghệ sĩ chơi keyboards/tay trống người Thụy Sĩ Jean-Pierre Schenk, anh này sinh năm 1953. Năm 19 tuổi, anh tự học chơi trống và một năm sau, anh đã chia sẻ sân khấu với một số nghệ sĩ nhạc rock và jazz. Năm 1971, cùng với nghệ sĩ guitar Giovanni Esposito, anh đã thành lập band nhạc Nature với âm nhạc lấy cảm hứng rất nhiều từ Pink Floyd. Rất nhanh chóng, band nhạc trở nên nổi tiếng ở Thụy Sĩ. Khi ca sĩ chính rời nhóm 2 năm sau đó, Jean-Pierre Schenk bắt đầu hát và chơi trống giống như Phil Collins vào thời điểm đó. Vài năm sau, sau rất nhiều khó khăn để tìm kiếm người quản lý, Nature đã tan rã. Jean-Pierre Schenk sau đó đã làm việc với nhiều nhạc sĩ, sản xuất và chơi các thể loại nhạc Ý, Pháp và chơi "cover" với một band nhạc có tên là Monday Blues Band cho đến năm 1998. Ý tưởng về Metamorphosis đến khi anh mua một ngôi nhà vào mùa thu năm 2000, nơi anh có phòng thu tại nhà riêng. Phong cách âm nhạc là rất rõ ràng với anh: nhạc Prog rock, vì như anh tuyên bố"đây là thể loại nhạc duy nhất có thể chiếm trọn trái tim, tâm hồn và sự can đảm của tôi". Sau khi sáng tác và chuyển soạn tất cả các bài hát, mất 8 tháng, anh đã thu âm phần trống trong một phòng thu khác. Sau đó là phần giọng hát, anh thu âm tại nhà. Anh để Giovanni Espositio - còn ai nữa? - chơi guitar trong tất cả các bài hát ngoại trừ một bài. Năm 2001, Schenk và Esposito lại hợp tác và mời nghệ sĩ bass Dominique Schlafer tham gia. Nghệ sĩ guitar David Grillon và nghệ sĩ chơi sáo Milena Zaharieva, những người xuất hiện trong album đầu tiên của họ, cũng sẽ sớm trở thành thành viên cố định của band nhạc. Cuối năm 2000, nhóm đã có đủ các bài hát nhưng việc phối tất cả các bản nhạc là một công việc khó khăn. David Grillon, một kỹ sư âm thanh, đã chứng tỏ mình có năng lực hơn hẳn trong việc hoàn thiện dự án. Toàn bộ dự án cần 20 tháng để hoàn thành. Sau đó họ phát hành album đầu tay After All These Years vào năm 2002, có chất lượng khá ổn và gặt hái nhiều thành công. Nhóm sau đó tiếp tục tung ra hàng loạt albums với chất lượng ổn định như: Nobody Cares -2003, Then All Was Silent -2005, Dark -2009, The Turning Point -2016 và I'm Not a Hero -2021. Tất cả các albums của Metamorphosis vẫn mang đậm chất Floydian, với những sắc thái của Eloy và đặc biệt là Alan Parsons: âm nhạc cực kỳ thoải mái, thậm chí là u sầu, đầy những tiếng keyboards tuyệt vời và tiếng guitar rền rĩ. Các sáng tác dễ tiếp cận và dễ nhớ, âm thanh tuyệt đẹp và giọng hát, do chính Schenk thể hiện, cũng thoải mái như âm nhạc. Nếu chúng ta đang vội hoặc cần một thứ mạnh mẽ thì đây không phải là band nhạc mà chúng ta cần tìm kiếm. Tuy nhiên, nếu chúng ta thích một thứ âm nhạc ấm áp, thanh bình và mang lại cảm giác ngây thơ và yên bình trong sáng (một loại nhạc Pink Floyd mà không có "sự tức giận"), thì âm nhạc của Metamorphosis sẽ không làm chúng ta thất vọng. Với những fan hâm mộ các albums như "The Division Bell" hoặc "A Momentary Lapse of Reason" của Floyd thì đây là band nhạc cần phải nghe. Thứ âm nhạc này cũng sẽ hấp dẫn những người hâm mộ Satellite và RPWL, với giọng ca chính Yogi Lang nghe hơi giống Schenk. Bộ sưu tập có album Nobody Cares -2003 của nhóm.
D Project Sau những band nhạc tại châu Âu, chúng ta sẽ tới châu Mỹ và những phần còn lại của thế giới. Trước tiên chúng ta sẽ tới với Canada, trong thập kỷ 2000s thì có khá nhiều band nhạc rất hay. Tiêu biểu nhất có thể kể đến D Project. Dự án này thành lập vào năm 2006 tại Québec, Canada vùng nói tiếng Pháp. Người đứng sau dự án âm nhạc này là nghệ sĩ guitar/ keyboard/ca sĩ người Canada Stéphane Desbiens, một người rất sung sức và sáng tạo: năm 11 tuổi, anh bắt đầu chơi guitar và khi 20 tuổi, anh đã có rất nhiều kinh nghiệm, anh tham gia band nhạc Rose Nocturne và sau đó là band nhạc progrock Sense, năm 1996. Ngoài ra anh này còn có sự nghiệp solo khi phát hành album đầu tiên có tựa đề Desbienes Acoustic. Anh còn là kỹ thuật viên, nhạc sĩ phòng thu, giáo viên dạy guitar và thậm chí còn chơi trong một band nhạc dân gian Folk Ireland, thật là một lý lịch tuyệt vời! Trước dự án này, Stephane đã tạo dựng được tên tuổi với tư cách là người sáng lập và là thủ lĩnh của band nhạc Prog Rock SENSE, nhưng sau đó quyết định tự mình thực hiện các album vì anh muốn có nhiều tự do sáng tác hơn. Sense lúc đó trở thành một band nhạc khó giữ được sự gắn kết với một ca sĩ sống quá xa cách. Kể từ đó, Stephane tiếp tục tạo ra cùng một loại Retro-Prog theo cách hiện đại của mình với một số nhạc sĩ khách mời lớn từ các band nhạc prog. Album đầu tiên của D Project gần như là một album solo của Stephane có tên là Shimmering lights phát hành vào năm 2006. Đây là một album dạng phản concept, mang đến cho chúng ta trải nghiệm âm nhạc đặc biệt và không theo bất kỳ khuôn mẫu nào cả. Lấy cảm hứng từ nhiều nguồn âm nhạc khác nhau, từ nhạc blues, hard rock đến nhạc jazz và nhạc cổ điển, nghệ sĩ guitar tuyệt vời này đưa chúng ta tới một góc nhìn rất riêng tư và khác biệt về nhạc progressive rock. Hai năm sau album đầu tay, một D Project mới lại được thực hiện. Trong "The Sagarmatha Dilemma" -2008, Stephane khám phá những chân trời âm nhạc mới khi anh diễn giải trải nghiệm chinh phục đỉnh Everest theo cách đặc biệt của riêng mình. Một album concept rất thú vị kể về một người đàn ông đang trải qua những hoàn cảnh rất khó khăn và quyết định leo lên ngọn núi này với cảm giác rằng anh ta không còn gì để mất. Một hành trình liên tục đòi hỏi những yêu cầu khắt khe nhất cả về thể chất lẫn tinh thần. Khi anh ta lên đến đỉnh, anh ta nhận ra rằng anh ta muốn sống trở lại và tuyên bố "Tôi sẽ xuống". Có một số khách mời thú vị trong album này như John Green từ Singularity, Brett Kull từ Echolyn, Derek Sherinian từ Dream Theater và Stu Nicholson từ Galahad. Đây là một album dạng Retro Prog với rất nhiều ảnh hưởng khác nhau từ những nhánh trong dòng Prog Rock và có thể coi là một album kinh điển mới của Neo Prog. Trong thập kỷ 2010s, D Project dần vươn lên thành trụ cột của Neo Prog với một loạt các album có chất lượng rất tốt như Big Face -2011, Making Sense -2014, Find Your Sun -2018. Các albums thường có sự hỗ trợ của rất nhiều nhạc sĩ có tiếng tăm trong làng nhạc Prog từ khắp nơi trên thế giới. Các sáng tác của nhóm thường không quá phức tạp nhưng thường được mixed rất cẩn thận và phức tạp với piano, sáo, saxophone và violin. Âm nhạc thường được xây dựng xung quanh giai điệu mạnh mẽ chứa đựng sự cân bằng hoàn hảo với một số bầu không khí atmospheric tinh tế, u sầu và những đoạn nhạc nặng nề với tiếng guitar giòn giã đôi khi gợi nhớ đến King Crimson. Đây là một dự án Neo Prog rất đặc biệt vì các album ngày càng phát triển đa dạng, từ neo-prog đến jazzrock, symphonic rock và progressive melodic rock… nó tùy thuộc vào nền tảng của các nghệ sĩ khách mời trong từng album. Với những người yêu thích Prog và lối chơi guitar mạnh mẽ kiểu Metal sẽ hài lòng với dự án hết sức mạnh mẽ này! Bộ sưu tập có 3 albums của nhóm Gồm Shimmering Lights 2006 (bản của Nga do hãng Mals mua bản quyền, gatefold có obi) Big Face 2011 bản của Canada Making Sense 2014 (digipack)
Circa Sau Canada, chúng ta sẽ tới Mỹ, nước cũng có rất nhiều những band nhạc nhỏ khá hay của dòng Neo Prog. Đầu tiên là nhóm Circa. Nhóm nhạc thành lập tại California, Hoa Kỳ vào năm 2007 và thực chất không mấy xa lạ với những người yêu mến Prog vì các thành viên của nhóm đều là những nhân vật kỳ cựu. Các thành viên chính là Billy Sherwood, Tony Kaye và Alan White đều là những thành viên cốt cán trong các thời kỳ của band nhạc huyền thoại Yes. Trong Circa, họ hợp tác với nghệ sĩ guitar Jimmy Haun để bắt đầu cuộc phiêu lưu vào quá khứ và hiện tại của nhạc Prog Rock. Những dấu hiệu của Yes thập niên 70, 80 và 90 thể hiện rõ trong tất cả các sáng tác của band nhạc này, đồng thời là 100% các bài hát nhạc Prog rock của thế kỷ 21 với những âm hưởng cũ. Billy Sherwood và Tony Kaye - cả hai đều là cựu thành viên của Yes (Sherwood vào những năm 90 và Kaye vào cuối những năm 60/đầu những năm 70 và sau đó là vào những năm 80 đến giữa những năm 90) - đã quyết định hợp tác với nhau trong nhiều albums và thành lập ra Circa để chơi một thứ âm nhạc Prog hiện đại nhưng phảng phất âm hưởng của Prog Rock cổ. Những albums đầu tiên của họ thì chưa thực sự mang nhiều tính tập trung và chất lượng chỉ ở mức vừa phải. Phải tới album thứ 3 là And So On -2011 và Valley Of The Windmill -2016 thì họ mới được biết tới rộng rãi hơn. So với các album trước của Circa, các albums này có phần mạnh mẽ hơn và nhiều năng lượng hơn. Các albums này cũng nghiêng rất nhiều về phía giai điệu do đó nó dễ hấp dẫn những người nghe hơn. Âm thanh của Circa thường bị chi phối bởi các dòng bass giống Chris Squire của Billy kết hợp với giọng hát chính, đàn organ và keyboards mạnh mẽ của Tony, tiếng guitar giống Steve Howe của các tay guitar và giọng hát hòa âm mạnh mẽ. Âm nhạc của nhóm gần như dựa trên tất cả các thời kỳ khác nhau của Yes từ những năm 60 đến những năm 90, nhưng cũng pha lẫn một chút của Neo Prog và một phần nào đó của riêng họ. Thật đáng tiếc khi Circa thường không được quá yêu thích vì hay bị so sánh với Yes nhưng thực chất họ chắc chắn xứng đáng được công nhận nhiều hơn. Bộ sưu tập có album Valley Of The Windmill -2016 của nhóm