Em có nhầm lẫn 1 chút xíu, xin lỗi bác Sanh Trang, nhưng bác cũng coi lại một chút ông Phạm Xuân Ẩn là ai, một điệp viên 2 mang, tiễn đưa khá nhiều anh em sang bên kia thời chống đế quốc Mỹ. Còn bọn đế quốc Pháp Nhật thì đương nhiên là dã man rồi. PS: Nhưng SG thiếu gì cái đẹp ai lại đứa mấy cái ảnh đồng chí này nọ. Thôi em stop.
Topic này mà có bị gì thì em sẽ spam vào hòm thư của 2 ông cathang và teddy cho đến khi nào chán vào VNAV thì thôi. :evil:
Ông PXA em còn lạ gì, báo TT đăng mấy kỳ còn có ông Tây nào đó viết ra cuốn tiểu thuyết Điệp Viên Hoàn Hảo đó bác, ông này là điệp viên 2 mang. Nhưng sau đó thì bác biết rồi sau gp ông PXA có đc cái gì đâu, chìm còn hơn tàu Titacnic, cũng may phía Mỹ đồng ý cho con ông PXA đi du học, bác caithang có thể tìm lại bài cũ trên trên TT rồi ghép lại các tình huống logic giống như chơi puzzel thì sẽ ra hết thôi mà, ông PXA này cũng là 1 case tương tự đối với nhạc sĩ T..
Được chứ bác, mới hôm mùng 2 em đi qua mộ bác ấy ở Nghĩa trang TPHCM, xếp ở hàng danh dự cùng các tướng lĩnh nổi tiếng khác, trên bia có dòng chữ : "Thiếu Tướng Phạm Xuân Ẩn - Anh hùng tình báo " Em nghĩ đoạn kết của một người lính tình báo như vậy cũng được quá đi chứ, còn chuyện thêu dệt xung quanh bác Ẩn thì nhiều, bây giờ wikimedia cũng không còn tin được nữa là . Xin các bác đừng tiếp tục về bác Ẩn nữa, kẻo lạc đề. Tks
Em đọc được loạt bài này về những người đẹp một thời ở Sài gòn trước 1975, nhưng tìm mãi có một ít hình minh họa. Có bác nào cũng ấp ủ như em thì cho em xin hình với. Những mỹ nhân lừng lẫy Sài Thành xưa Có biết bao nhan sắc đã đi vào huyền thoại. Nhưng, như các cụ thường nói, ở đâu có nhan sắc, ắt ở đó sinh họa. Có thể người đẹp là nạn nhân, nhưng cũng không hiếm khi là nguyên nhân. Từ thuở lập đất, Sài Gòn trên bến dưới thuyền, phố phường trù phú, con người phóng khoáng, đôn hậu, nhan sắc cũng rộn ràng. Có lẽ vì thế mà ở đâu và thời nào, trong khốn cùng cũng như lúc bình an, giữa loạn lạc hay thái hòa, người ta vẫn nhận diện được những mỹ nhân sắc nước. Năm 1927, ở Nha Trang có một hotel mà các bậc vương tôn công tử trên toàn cõi An Nam đều biết tới, đó là khách sạn Terminus. Mọi tiện nghi và cơ sở vật chất đều đạt yêu cầu thời ấy. Duy chỉ có một thứ mà những địa phương khác muốn có cũng không tài nào sở hữu. Đó chính là cô con gái rượu của ông chủ khách sạn có cái tên hơi lạ: Kỳ Nam. Cô chính là sức thu hút không thể cưỡng nổi đối với toàn bộ khách hào hoa lui tới đây. Năm 1934, một vị hoàng tử đang theo học CĐ Công chánh ở Hà Nội nổi hứng đi nghỉ mát ở vùng cát trắng. Ngay từ ngày đầu tiên, chàng đã bị hớp hồn bởi nhan sắc của Kỳ Nam. Kết cục là một đám cưới Lào - Việt mà sự hoành tráng có lẽ chỉ kém đôi chút so với đám cưới vương giả của hoàng đế An Nam Bảo Đại. Kỳ Nam trở thành phu nhân của vị hoàng tử mà tên tuổi đã gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Lào với sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (Pathet Lào): hoàng thân Suphanouvong! Mỹ nhân đầu thế kỷ Nhan sắc của mỹ nhân An Nam theo từng thời gian và quan điểm thẩm mỹ của người đương thời thay đổi dần… Từ câu chuyện của Kỳ Nam, chúng tôi muốn cùng bạn đọc đi tìm lại những giai nhân một thời trên đất Sài Gòn xưa, những "hoa hậu không vương miện", như một cách lùi xa thời gian và nhớ về những hoài niệm đẹp. Năm 1932, hãng xà bông Trương Văn Bền được thành lập ở đường Quai de Cambodge (gần chợ Kim Biên, quận 5, TP HCM) và nhanh chóng được đón nhận với một sản phẩm trở thành thương hiệu kéo dài cả 5-6 chục năm: xà bông Cô Ba. Người phụ nữ đẹp được dùng làm nhãn hiệu cho sản phẩm là một phụ nữ miền Nam. Có người bảo, cô ta vốn là phu nhân của chính ông Trương Văn Bền. Thực ra, cô là con gái thầy Thông chánh tỉnh Trà Vinh, từng là đề tài của khá nhiều hò-vè xuất hiện ở Nam Kỳ Lục tỉnh vào những năm cuối thế kỷ 19. Nhan sắc của cô đẹp đến nỗi được sử dụng hình ảnh để in tem! Nhưng sau đó cô lấy chồng và sống một cuộc sống giản dị khiêm tốn đến tận cuối đời, khác xa những người đẹp đăng quang và nhiều tai tiếng của những thế hệ về sau. Cô Ba đã đoạt giải nhất trong cuộc thi Người đẹp Người Việt tổ chức năm 1865, sau cuộc thi cho Pháp Kiều năm 1864. Người đẹp được xem là kiểu mẫu nhan sắc của miền Nam lại là một phụ nữ có nguồn gốc xuất thân thế gia vọng tộc: Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan. Là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt tức Huyện Sỹ, người đứng đầu trong tứ đại danh gia: Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định, cô được dân miền Nam gọi là "đẻ bọc điều". Năm 1932, sau khi tốt nghiệp tú tài ở Pháp về nước, cô tình cờ quen biết với Vĩnh Thụy. Khi Vĩnh Thụy đăng cơ trở thành vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, cô trở thành Nam Phương Hoàng hậu vào ngày 20.3.1934, và cũng trở thành biểu tượng nhan sắc của cả nước. Thứ đến, ở Sài Gòn xuất hiện một mỹ nữ nức tiếng toàn cõi Nam kỳ: Cô Ba Trà (Yvette Trà). Cô sinh năm 1906, được mệnh anh là "Étoile de Saigon" (ngôi sao Sài Gòn). Với nhan sắc hiếm có của mình, cô lần lượt, thậm chí "đốn ngã" hàng loạt những tay chơi hào hoa giàu có bậc nhất Sài gòn như lưỡng vị Hắc-Bạch công tử, công tử Bích (người dám một lúc tặng cho cô 70.000 đồng trong lúc vàng 60 đồng một lượng). Thậm chí những tay trí thức, máu mặt chốn quan trường thời Pháp thuộc cũng đổ gục vì cô: quan tòa Trần Văn Tỷ, trạng sư Dương Văn Giáo, bác sĩ Lê Quang Trinh, Nguyễn Văn Áng, chủ sòng bạc Paul Ngọ tức Sáu Ngọ… Ngay cụ Vương Hồng Sển cũng đem lòng yêu thầm và kể lại rất rõ về cuộc đời cô Ba Trà trong quyển "Sài Gòn tả pí lù". Những ai được quen biết hay cô hạ cố giao thiệp đều xem đó là một niềm vinh dự để chứng minh đẳng cấp, đủ để hiểu ngoài việc xinh đẹp cô còn là một thương hiệu hiếm có, có lẽ do thông minh và hiểu tâm lý đàn ông! Một đàn em nối gót theo cô Ba Trà do chính cô đào tạo, nuôi dưỡng cho đến khi thành đối thủ cạnh tranh là Marianne Nhị hay còn gọi là Tư Nhị. Vốn cha Khmer - mẹ Việt nên cô Tư Nhị có nhan sắc đậm đà và hoang dã hơn cô Ba Trà. Từ Phnompênh về Sài Gòn, Tư Nhị trú tại nhà chị Ba ở khu vực chợ Thái Bình (quận 1, TP.HCM bây giờ). Từ ngày được cô Ba Trà dìu dắt, Tư Nhị lao vào cuộc chơi với giới thượng lưu Sài Gòn và nhanh chóng trở thành tình nhân của Fanchini, một trùm giang hồ gốc đảo Corse chuyên buôn thuốc phiện toàn cõi Đông Dương và tậu được một căn biệt thự khang trang ở đường Verdun (tức đường Cách Mạng Tháng Tám bây giờ). Với bản tính man dại và chủ trương cạnh tranh với bà chị đỡ đầu Ba Trà, Tư Nhị lao vào các cuộc chơi như một con thiêu thân. Người tình của Tư Nhị thay xoành xoạch và thú hút thuốc phiện đã nhanh chóng đẩy Tư Nhị vào bi kịch. Chỉ sau vài năm, trong lúc cô Ba Trà vẫn còn là một bông hoa đầy hương sắc, Tư Nhị biến mất. Sau nhiều năm, chính cụ Vương Hồng Sển đã bất ngờ gặp lại Tư Nhị trong bộ dạng một bà hành khất. Cô Ba xà bông Cùng thời của Ba Trà có một mỹ nhân khác, êm đềm và kín đáo hơn mặc dù nhan sắc có thể xem là số một thời ấy. Đó là bà Nguyễn Thị Huệ, tức Marie Huệ. Xuất thân từ vùng đất Lạc Quần-Bùi Chu, cô Huệ vào Sài Gòn từ những năm 30. Cô hùn vốn với một người Pháp để mở một nơi tụ tập các sĩ quan, viên chức là Pháp kiều sống tại Sài Gòn có tên Đông Pháp Lữ Quán. Sở dĩ người Việt ít biết đến cô Huệ chỉ vì cô chủ trương không qua lại với người bản xứ dẫu đó có là ai, giàu có đến đâu đi nữa. Cô Marie Huệ mất sớm vì bệnh ung thư buồng trứng khi đương độ xuân sắc, khiến giới ăn chơi Sài Gòn không khỏi bất ngờ! Sau thời Ba Trà, Tư Nhị, Marie Huệ… có thể nhắc đến một người, chúng ta có thể xem là hoa hậu sớm nhất của miền Nam, dù đoạt giải trong một cuộc thi không mang tên là cuộc thi hoa hậu mà lấy tên Concours Elegant Saigon (thi tuyển người lịch sự Sài gòn) vào năm 1937. Đó là cô Nguyễn Thị Liễu, sinh năm 1912, quê ở Hóc Môn. Cô lấy chồng năm 17 tuổi nhưng chỉ được 6 tháng thì chồng cô vắn số qua đời. Tình cờ gặp chủ tiệm may Phúc Thịnh, người đỡ đầu cho cuộc thi về trang phục, ông khuyến khích cô Liễu đi thi. Tại vườn Tao Đàn, với sự chủ tọa của trạng sư Kim và bác sĩ Lê Quang Trinh, 19 cô gái lần lượt khoe nhan sắc. Chưa đầy nửa giờ, tất cả đều chỉ vào cô Liễu mà hoan hô. Cô Liễu trở thành hoa hậu đầu tiên trong một cuộc thi nhan sắc của người Việt (cũng đầu tiên) trên toàn cõi thuộc địa Nam Kỳ! Sau cuộc thi, con gái ông Lê Trương Biểu mời cô Liễu đi dự thi ở Paris, nhưng cô không dám đi xa nên từ chối. Nếu không, cũng chưa biết chừng Việt Nam có danh hiệu hoa hậu quốc tế đầu tiên từ thập niên 30-40 thế kỷ 20… Nhưng nếu là người đẹp từng dự tranh với quốc tế thì đó lại là cô Vũ Thị Thu Minh. Năm 1957, Ngô Đình Diệm tổ chức một cuộc thi hoa hậu với sự tham gia của Ấn Độ, Hong kong, Campuchia, Lào… và 48 người đẹp Việt Nam. Kết quả hoa hậu Việt Nam là cô Vũ Thị Thu Minh và hoa hậu quốc tế là cô Nan, quốc tịch Campuchia. Rất tiếc, tư liệu và hình ảnh của cô Minh, hoa hậu Việt Nam đầu tiên một cách chính thức có quá ít nên chúng ta không thể tìm được gì thêm. Thẩm Thúy Hằng, một hoa hậu không chính thức nhưng toàn bộ người miền Nam không ai không gọi bà với danh xưng "Người đẹp Bình Dương". Bà tên thật là Nguyễn Kim Phụng, sinh năm 1941, nguyên quán ở Hải Phòng. Theo gia đình và lớn lên ở An Giang đến năm 16 tuổi, bà vượt qua 2.000 thí sinh trong một cuộc thi tuyển diễn viên điện ảnh do Hãng phim Mỹ Vân tổ chức. Nghệ danh Thẩm Thúy Hằng cũng là do chủ hãng phim Mỹ Vân đặt cho. Năm 1958, với vai Tam Nương trong bộ phim Người đẹp Bình Dương, bà được khán giả ái mộ gọi theo tựa phim và gần như trở thành biệt danh. Thẩm Thúy Hằng, nhan sắc đình đám một thời Suốt thời trước năm 1975, có thể nói bà được xem là mẫu của nhan sắc miền Nam và cũng hiếm có phụ nữ xinh đẹp nào đóng phim nhiều hơn bà, đóng một cách xuất sắc hơn là "một bình hoa biết đi" như nhiều diễn viên hiện nay. Năm 1972 - 1973, một phim do Liên Ảnh công ty thực hiện với vai chính là Hùng Cường - Phương Uyên, đã giới thiệu với khán giả Sài Gòn một mỹ nhân xuất sắc: Phương Uyên. Là một vũ công sexy sau thời nữ hoàng sexy Thu Thủy, nhưng cô nhanh chóng trở thành người đẹp nhất Sài Gòn lúc bấy giờ. Thời đó chưa có photoshop và các phương tiện hiện đại để nâng cấp nhan sắc, nhưng tất cả khán giả miền Nam khi nhìn thấy Phương Uyên đều phải trầm trồ theo kiểu "tượng đá cũng đổ mồ hôi". Có thể nói vào thời điểm đó, cô vượt xa những Kim Vui, Kiều Trinh và cả Thẩm Thúy Hằng về nhan sắc và sự nổi tiếng. Sau giải phóng, bà về sống với con gái và có một cuộc sống khá êm đềm không tai tiếng. Theo CSTC
Bài này thì e chả tìm được hình nào. Em hay sưu tầm các bài viết về SG, HN như thế này, nhưng thỉnh thoảng thiếu hình. Có ai cao nhân chỉ chỗ cho em tìm hình với. Em cảm ơn ạh. Phần 2: Và những mỹ nhân… ngoài luồng Trước 1975, những nhan sắc lẫy lừng thường mang theo tai họa hoặc ít nhiều… mắc đọa! Với những quan chức, binh sĩ Ngụy quyền trước 1975, thì các nhan sắc chỉ là… món hàng trao tay mà thôi! Những mỹ nhân có danh tiếng từ những cuộc thi hoặc những sự kiện đáng nhớ mà ai cũng biết chỉ là một phần rất nhỏ trong những "cái đẹp ở quanh ta". Thực ra, khi điểm lại những mỹ nhân không danh vọng tuy khá lừng danh, chúng ta có thể thấy… dường như họ đẹp hơn! Tuy nhiên, trước 1975, những nhan sắc lẫy lừng thường mang theo tai họa hoặc ít nhiều… mắc đọa! Với những quan chức, binh sĩ Ngụy quyền trước 1975, thì các nhan sắc chỉ là… món hàng trao tay mà thôi! Và sau này, những mỹ nhân dính với trùm xã hội đen, như vợ bé của Nam Cam, cũng buộc phải vào vòng lao lý! Một nhân vật mà những người từng sống ở miền Nam qua thời cái gọi là đệ I và đệ II Cộng hòa trước 1975 đều biết hoặc nghe nhắc tới: vũ nữ Cẩm Nhung, mỹ nữ số một Sài Gòn. Là một gái nhảy chuyên nghiệp, cô đã làm rất nhiều công tử hào hoa đất Sài gòn phải chết mê chết mệt. Cuối cùng cô cặp hẳn với trung tá Thức Công Binh. Nên nhớ vào thời Diệm-Nhu, cấp bậc trung tá không nhiều. Sống với nhau theo kiểu già nhân ngãi non vợ chồng được một thời gian, sau khi đã cắt đi hầu hết những quan hệ tình ái phức tạp khác, Cẩm Nhung nghĩ rằng mình có thể trở thành trung tá phu nhân. Mọi việc đến tai bà Năm Ra đô, ("hỗn danh" vùng nhà lô Cô Bắc) dành cho chính thất của trung tá Thức. Một kế hoạch tiêu diệt tình địch được tiến hành. Hai tên giang hồ có cỡ được thuê với giá 2 lượng vàng. Một ca acid đậm đặc được tạt thẳng vào gương mặt Cẩm Nhung. Có lẽ đây là vụ tạt acid đầu tiên của Việt Nam. Lãnh trọn ca acid, Cẩm Nhung gục ngay tại chỗ và với trình độ y học lúc bấy giờ, giữ được mạng cho cô gái đã là việc khó khăn. Vụ việc được xử lý khá nặng tay, nhưng trung tá Thức sau khi bị án phạt và buộc giải ngũ cũng không dại gì quay lại với người tình nạn nhân, khi nhan sắc cô ta đã bị tàn phá khủng khiếp. Tất cả những người ở Sài Gòn còn nhớ như in cảnh một bà hành khất với ngũ quan biến dạng đeo trên ngực một tấm ảnh lúc còn xuân sắc lay lắt quanh chợ Bến Thành để lây lất sống qua ngày… Thật là kinh khủng! Một nhân vật khác là bà Hà. Vợ của một trung tá không quân giải ngũ do sức khỏe, bà tìm đến bạn bè của chồng để "giao dịch làm ăn". Bà đẹp đến độ trong tất cả mệnh phụ phu nhân và cả nhân tình nhân ngãi của giới tướng tá Sài Gòn khi ấy không ai sánh nổi. Vốn là tiểu thư gốc Hà Nội ăn nói duyên dáng thanh lịch cộng thêm nhan sắc đẹp não nùng, chỉ trong thời gian ngắn, chẳng ai không biết đến bà và cũng chẳng ai nhớ đến ông chồng hom hem của bà đang nằm nhà đợi ngày quy tiên. Những cuộc chiêu đãi của đệ nhất phu nhân Kim Anh - vợ Nguyễn Văn Thiệu và bà đại tướng Trần Thiện Khiêm, lúc nào cũng thấy bà bên cạnh những nhân vật chóp bu của quân đội Sài Gòn. Sau khi trở thành Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ gia đình binh sĩ và là "nhân tình nhân bánh" của hơn hai chục tướng lãnh, bà Hà bắt đầu "làm ăn". Chiêu thức rủ hùn hạp thầu rác Mỹ xem ra hiệu nghiệm. Một ngày nọ, mỹ nhân biến mất không tăm tích sau khi thu hoạch khoảng gần 200 triệu đồng (khi ấy 32.000 đồng/lượng vàng) và một số quý kim, hột xoàn của các bậc mệnh phụ phu nhân đương thời. Ngoài ra, số tiền bạc vật chất của các vị tướng lãnh của quân đội Sài Gòn cũng tương đương lập tức rơi vào tình trạng "bắc thang lên hỏi ông trời…"! Điều lạ lùng là ngay cả mạng lưới tình báo của cảnh sát đặc biệt và phủ đặc ủy trung ương tình báo của chế độ cũ cũng bó tay không tìm ra mỹ nhân lừa đảo! Kim Loan trên băng đĩa trước 1975. Một mỹ nhân khác nổi danh hơn không phải vì lừa đảo mà vì một mối tình bí mật với Nguyễn Văn Thiệu. Ca sĩ Kim Loan theo học lò nhạc sĩ Nguyễn Đức từ năm 8-9 tuổi. Cô bắt đầu sự nghiệp ca hát năm 1966 và nhanh chóng được chú ý bởi vẻ đẹp khá Tây. Vẻ đẹp ấy luôn sáng rực khi bước lên sân khấu. Trong một lần giúp vui cho biệt động quân ở trại Đào Bá Phước theo lời mời của trung tá Ngân, trưởng phòng 3, ca sĩ Kim Loan hội ngộ với Nguyễn Văn Thiệu đang đến dự buổi lễ của binh chủng. Cùng với Hùng Cường, cũng là quân nhân biệt phái của binh chủng biệt động quân, ca sĩ Kim Loan tỏa sáng bởi nhan sắc hơn là giọng ca, và lọt vào mắt xanh của Tổng thống Thiệu. Sau đó bằng một kênh bí mật, Thiệu chỉ thị cho Đặng Văn Quang và trung tá Ngân đứng ra mai mối. Kim Loan trở thành vợ bé của ngài tổng thống một cách hết sức bí mật được khoảng gần một năm. Vợ Thiệu phát hiện và dọa sẽ cho người "thịt" tình địch, Thiệu hoảng sợ và bèn sắp xếp cho Kim Loan sang định cư ở Tây Đức. Sự nghiệp của ca sĩ-người đẹp chấm dứt vào năm 1969! Một mỹ nhân khác đã từng là người yêu của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh: Ca sĩ Minh Hiếu cũng nổi danh vì vừa có tài lẫn nhan sắc mặn mà hiếm có. Khi bước vào sự nghiệp ca hát, Minh Hiếu và ca nhạc sĩ Nhật Trường, tức Trần Thiện Thanh đã "phải lòng nhau". Một dịp lên Tây Nguyên ca hát phục vụ binh sĩ, Minh Hiếu lọt vào tầm ngắm của Trung tướng ngụy Vĩnh Lộc. Cũng cần nói thêm, khi về nắm chức tư lệnh quân đoàn 2 (toàn bộ Tây Nguyên), Vĩnh Lộc được nhiều người xem như vua. Khác hẳn những vị tiền nhiệm, vốn xuất thân từ dòng hoàng phái, ngang hàng với Bảo Đại nên Vĩnh Lộc uy quyền tuyệt đối. Sau một thời gian cưa cẩm, người đẹp xiêu lòng và trở thành trung tướng phu nhân. Uất quá, Trần Thiện Thanh bèn gởi gắm vào bài "Hoa trinh nữ" với dòng tự sự: "Tôi không phải là vua, nên mộng ước thật bình thường…". Lúc bấy giờ tướng Vĩnh Lộc đang giữ chức tư lệnh vùng 2 chiến thuật, và trung tá Hai Trề đang làm Tỉnh trưởng Phú Yên (từ 1965- 66 - và mấy tháng của năm 67). Một hôm trung tá tỉnh trưởng Hai Trề được lệnh ông tướng vùng phải đem xe ra sân bay đón nàng ca sĩ Minh Hiếu về tư dinh tỉnh trưởng. Nàng ca sĩ này từ Sài Gòn ra. Tỉnh trưởng Hai Trề được lệnh thượng cấp, buộc phải thi hành. Nhưng thay vì đem nàng về tư dinh tỉnh trưởng, để nàng tắm rửa sạch sẽ, nghỉ ngơi lấy sức cho thoải mái, xức dầu thơm "Intimate" gợi tình nồng nực, hầu tiếp đón "Anh cả Trường Sơn" cho đúng điệu cải lương Phùng Há, thì Hai Trề lại nổi máu lính "xăng đá", vứt nàng ca sĩ này ra ngoài khách sạn, ở đường Lê Thánh Tôn, thị xã Tuy Hòa. Về sau ca sĩ Minh Hiếu, người con gái có khá nhiều giai thoại tình trường, đã khiến Vĩnh Lộc bỏ vợ, và nghiễm nhiên nàng trở thành phu nhân trung tướng Vĩnh Lộc. Vì lý do Hai Trề không chịu đem Minh Hiếu về tư dinh tỉnh trưởng để "Anh cả Trường Sơn" thỏa mãn ái ân, và giựt le với người đẹp, nên tướng Vĩnh Lộc sanh tâm thù ghét Hai Trề, kiếm cớ tống khứ Hai Trề ra khỏi lãnh thổ quân khu 2. Tỉnh Phú Yên, Sông Cầu thời đó, có một người đàn bà xấu như ma lem, nhưng lại có một đứa con gái lai Tây rất xinh đẹp bất chấp thuyết di truyền, thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu tình cờ gặp. Thế rồi thời gian trôi đi, ông thiếu tá năm xưa đã trở thành “Tổng thống” Thiệu. Mỗi nơi dừng chân, Thiệu đã để lại ít nhất cũng một vài mối tình vụng trộm. Trong số ấy cô gái lai Tây này là một. Đến khi đã lên ngôi rồi, và đến lúc trung tá Bá đã được phong chức Tỉnh trưởng Phú Yên, “Tổng thống” Thiệu mới chợt nhớ đến mối tình để lại ở Sông Cầu thuở nào. Vì thế trong thời gian còn cầm quyền ở miền Nam, ông Thiệu thường hay kiếm cớ đi kinh lý tỉnh Phú Yên, cũng như đi họp ở Vũng Tàu vậy! "Lần đầu tiên, với chức vụ "Tổng thống Việt Nam cộng hòa", ông Thiệu đã bay ngay ra Phú Yên, và đã được đàn em năm xưa là trung tá Bá đón rước về tòa tỉnh. Câu hỏi đầu tiên của Thiệu đối với trung tá Bá trước mặt đông đảo văn võ bá quan và đại diện báo chí là: - Bá à, cái bà gì ở Sông Cầu lấy tây có còn ở chỗ cũ không? Câu hỏi này đã khiến trung tá Bá lặng người đi trong giây lát, và ấp úng mãi, trả lời không trôi. Điều dễ hiểu nhưng khó trả lời: Cô gái tên Oanh này hiện đang làm vợ bé của Bá, mà lúc bấy giờ ông Thiệu chưa khám phá. Sau khi dan díu với thiếu tá Thiệu, cô ta ở lại Sông Cầu, lấy chồng, là trung úy Hoành, chỉ huy địa phương quân. Hoành đã bị tử trận trong vụ quân giải phóng tấn công, tràn ngập căn cứ Chóp Chài (tỉnh Phú Yên). Vì thế dân địa phương thường gọi cô ta theo tên chồng là bà Hoành! Nhờ có chồng đã tử trận, bà Hoành được tuyển vào tòa tỉnh, làm điện thoại viên. Năm đó, vào khoảng 1967, và bà Hoành đã khoảng 35, 36 tuổi, tức trong thời kỳ nhan sắc cực kỳ hấp dẫn. Nhờ làm việc trong tòa tỉnh, nên nàng con gái lai Tây ở bến Sông Cầu này mới có dịp trở thành vợ bé của trung tá Tỉnh trưởng Trần Văn Bá. Việc ăn vụng này, Bá muốn giấu kín. Nhưng người đẹp lại không chịu kín miệng, nàng đem chuyện đã có con với Bá ra kể tùm lum, với mục đích làm tiền Bá, và đã khiến Bá phải bỏ tiền ra xây cất nhà cửa khang trang cho nàng cư ngụ, cũng như phải cung phụng nàng đầy đủ mỗi tháng... Trở lại chuyện trung tá Bá, bất ngờ bị "Tổng thống" hỏi đến người vợ bé cưng quí, giấu giếm của mình, Bá đâm ra cuống quít, lúng túng trông thật là thảm hại... Nhưng dù khôn khéo đến đâu, khi đã bị nghịch cảnh chi phối, trung tá Bá cũng đành chịu thua số phận. Thế là mỹ nhân lai Tây, một lần nữa lại đến với thiếu tá Thiệu, mà bây giờ là tổng thống! Sau ngày giải phóng 30-4-1975, các mỹ nhân thời quân đội Hoa Kỳ còn có mặt tại miền Nam đã dần dà đi vào quá vãng. Nhưng thật thiếu sót nếu chúng ta quên điểm đến những nhân vật ngoài luồng hay gọi một cách văn vẻ hơn là Giang Hồ Mỹ Nhân! Những năm 90 của thế kỷ trước, ở ngã tư Bảy Hiền, quận Tân Bình, TP.HCM có một cô gái khi nhắc tên giang hồ đều lắc đầu. Đó là Thủy “máu”! Cùng thời và cùng xuất thân ở quán café ôm đầu tiên tại Sài Gòn là Tuyết Xì Lỗ Mội, Oanh Gà Tre… Thủy “máu” đẹp, đẹp lắm. Người viết đã từng gặp và đã từng so sánh, lúc đẹp rực rỡ, Thủy hơn hẳn bất kỳ người đẹp, diễn viên nào đương thời. Thoạt đầu cô chỉ vui vẻ và cặp loáng thoáng với những giang hồ cỡ bự khu Tân Bình và chợ Trương Minh Giảng. Một hôm cô nhận được bản xét nghiệm khi đi thử máu trước khi lấy chồng: HIV dương tính! Và thế là cô sống xả láng. Nhậu nhẹt, ma túy, quan hệ với bất cứ gã đàn ông nào… Khi thực sự tàn tạ, cô chọn ngã tư Bảy Hiền làm nơi đón khách. Mỗi khi có chiến dịch truy quét, cô sẵn sàng chống trả và cắn lại những người thi hành nhiệm vụ. Gieo rắc căn bệnh thế kỷ cho đến một ngày, Thủy qua đời dưới gầm cầu với thân xác nhẹ hơn đứa trẻ con 8 tuổi! Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là Kim Anh, được xem là vợ bé Năm Cam. Xuất thân là con nhà giàu lại có dòng máu lai Tây, lúc 16 tuổi, Kim Anh đẹp không thể tưởng tượng. Năm 1973, có đến 2 hãng phim đến mời Kim Anh đi "mần dziễn viên". Cô lắc đầu từ chối một cách thẳng thừng. Mọi người ngạc nhiên vì hào quang danh vọng sao Kim Anh nỡ từ chối. Chỉ khi gia đình và đích thân ông trùm Năm Cam giải thích mọi người mới bật ngửa: "Nó có biết chữ đâu mà học kịch bản!". Hóa ra là vậy… Chuyện người đẹp còn dài, nhất là mỹ nhân giang hồ lắm chuyện, xin được tiếp tục với những giai thoại ly kỳ và tỉ mỉ hơn… (Theo CSTC)
Riêng bài này thì đã đủ hình. Do đã xin share nên em share trước ạh. Có cao nhân nào trên vnav biết thêm thì chỉ giáo hộ em. Phần 1: Những mỹ nhân trong luồng Những mỹ nhân một thời Họ là những hot girl, những ca sĩ, diễn viên nổi tiếng một thời bởi cả nhan sắc và tài năng vượt trội. Bây giờ họ ở đâu? Họ đã trở thành những bà mẹ, thậm chí có người đã lên chức bà nội, bà ngoại. Có người vẫn hoạt động nghệ thuật bền bỉ, có người rút vào sống âm thầm, có người đã qua đời... Cùng ngắm lại nhan sắc thanh xuân của họ và nhớ... ĐOÀN MAI PHƯƠNG (diễn viên kịch nói, điện ảnh): Từng đóng các phim Lầm Lỡ, Biển Bờ, Những Đứa Con Lạc Loài... và được chú ý trong chương trình “Chuyện trong nhà ngoài phố” của Đài truyền hình TP.HCM thập niên 80. Hiện sống ở Mỹ. KHÁNH LY- (ca sĩ): Tên tuổi lớn gắn liền với tình khúc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. KIỀU CHINH (diễn viên điện ảnh) Ngôi sao điện ảnh Sài Gòn trước 1975 với các phim Người tình không chân dung, Hồi chuông Thiên Mụ... Hiện sống và hoạt động điện ảnh ở Mỹ. MỘNG TUYỀN (nghệ sĩ cải lương, diễn viên điện ảnh) Ngôi sao cải lương Sài Gòn, từng được trao huy chương vàng giải Thanh Tâm năm 1963 với vai diễn trong Phu Tử Tòng Tử của đôi tác giả Hà Triều - Hoa Phượng. Ngoài cải lương, còn gây tiếng vang ở lĩnh vực điện ảnh với các phim Chân trời tím, Phận má hồng, Gánh hàng hoa... Sau 1975, được trao tặng giải nữ diễn viên chính xuất sắc nhất của Liên hoan phim Việt Nam lần VI năm 1983 với vai nữ chính trong phim Tình yêu của em. THẨM THÚY HẰNG (diễn viên điện ảnh, kịch nói) Ngôi sao điện ảnh Sài Gòn thập niên 60-70 mà tên tuổi vang xa trong và ngoài nước. Sau năm 1975, có tham gia các phim Như thế là tội ác, Ngọn lửa Krông Zung, Cho cả ngày mai, Nơi gặp gỡ của tình yêu... Được nhà nước trao tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú. THANH LAN (ca sĩ- diễn viên điện ảnh) Ca sĩ sinh viên nổi danh một thời với các tình khúc tiếng Pháp. Từng đóng các phim Bài hát đâu chỉ là nốt nhạc, Ván bài lật ngửa... Hiện sống và ca hát ở Mỹ. THANH LOAN (diễn viên kịch nói, điện ảnh) Nổi tiếng với các phim Người về đồng cói, Phương án ba bông hồng, Biệt động Sài Gòn...
THANH MAI (ca sĩ) Kết hợp với nhạc sĩ Quốc Dũng để làm thành đôi song ca thành tượng của giới trẻ Sài Gòn thập niên 70. Từng đóng phim. Hiện sống ở Mỹ. THANH NGA: (nghệ sĩ cải lương) Ngôi sao cải lương Sài Gòn trước 1975. Gây ấn tượng đặc biệt qua các vai diễn trong Tiếng trống Mê Linh, Bên cầu dệt lụa, Thái hậu Dương Vân Nga... Bị ám sát ở Sài Gòn năm 1978. Được nhà nước truy tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú. THÚY AN (diễn viên điện ảnh): Từng gây ấn tượng với các vai diễn trong Mùa gió chướng, Cánh đồng hoang, Biệt động Sài Gòn. Hiện sống ở Đức. THÚY LAN (diễn viên điện ảnh, nghệ sĩ violoncell)) Gương mặt điện ảnh thập niên 80. Từng tham gia các phim Pho tượng, Vụ án Hồ Con Rùa... Là thân mẫu của nghệ sĩ Bùi Công Duy. TRÀ GIANG (diễn viên điện ảnh) Ngôi sao điện ảnh cách mạng Việt Nam.
đúng Nghệ sĩ Thanh Nga vẫn là sắc đẹp số 1 vn mọi thời đại không thể bàn cãi được. Ngoài đời lại còn đẹp hơn nhiều so với ảnh. Tiếc quá.
Đại " Cathay" Chuyện giang hồ SÀI GÒN ngày xưa ... Phần 1 (KHONGLAAI)tgvh Hình ảnh của Đại Cathay cứ lẩn vẩn mãi, rảnh rỗi xem lại những câu chuyện về Đại Cathay với mái tóc bồng bềnh, quần Jean, giày cao cổ, trên môi không rời điều thuốc, Zippo, ... Những gì mà Đại Cathay đã tạo dựng chỗ đứng của mình trong giới giang hồ thật khác biệt. Ở đó sự liều lĩnh không được đánh giá cao bằng lối sống "tình nghĩa" đáng để suy ngẫm... Đại Cathay : sinh ra để làm TRÙM của những thằng trùm Nếu ai có theo dõi vụ án của Năm Cam thì chắc k0 ngạc nhiên khi nghe đến tên Đại Cathay, đại ca của Lâm chín ngón - kẻ đã bị nữ quái Dung hà tạt axit. Bài đầu của "Huyền thoại" giang hồ phương Nam xin post nhân vật này đầu tiên vì ảnh của Đại Cathay trên báo thực sự ấn tượng bởi vẻ điển trai cũng như nụ cười nhếch khóe môi của kẻ sinh ra để làm Trùm của những ông trùm này. Ngày ấy, thời Mỹ Ngụy, danh tiếng của người đứng đầu “tứ đại giang hồ” là Đại Cathay được cả miền Nam đều biết tiếng, nhất là sau này qua cuốn tiểu thuyết rẻ tiền của nhà văn Duyên Anh “điệu ru nước mắt”. Trận hỗn chiến giữa Đại Cathay với Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế đã đưa Đại lên đứng đầu nhóm này. Trận chiến kinh hồn với băng đảng người Hoa của Tín Mã Nàm đã cho Đại Cathay lập nên một đế chế mà khắp Sài Gòn chẳng có một băng nhóm nào dám đối đầu. Cả một bộ máy quân sự khổng lồ của miền Nam cũ với sự hà hơi tiếp sức của quan thầy Mỹ há sợ một tên du đãng Đại Cathay đến nỗi tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ phải “xuống nước” mời ra làm nhân viên công lực quốc gia hay tướng cảnh sát Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan mời làm đại úy cảnh sát. Xem ra báo chí văn chương đề cao gã du đãng này quá? Đại tuổi Thìn, sinh năm 1940. Theo tìm hiểu của chúng tôi, mẹ của Đại tên gì không rõ, chỉ biết người xung quanh thường gọi là bà Sáu. Còn cha Đại thì chính tên là Lê Văn Cự, vốn cũng là một tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Thuở nhỏ, gã sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, KHánh HỘi (nay la Đoàn Văn Bơ Quận 4). Cả cha lẫn mẹ của hắn đều nghèo, làm nghể chẻ củi thuê cho một vựa củi nằm bên kia Cầu Mống, cạnh chợ cũ, Quận 1. Đại thường xuyên trốn học chạy sang chơi vơi đám trẻ con bụi đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói, dù khuôn mặt rất ngầu, tính phóng khoáng, lại rất "lì đòn", những đức tính được "thừa kế" đầy đủ từ cha đã giúp Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh mến mộ. Mới 10 tuổi, gã đã thường xuyên luồn lách vào các chợ, sạp hàng xunh quanh, ăn trộm dưa, chuối về chia cho chúng bạn. Sau 1945 cha Đại tham gia kháng chiến và bị bắt vào cuối năm 1946, bị đày ra Côn Đảo và ít lâu sau thì chết. Cha mất, mẹ lấy chồng khác. Bố dượng là 1 tay máu me cờ bạc, lại nghiện thuốc phiện năng nên gia sản dần dần biến hết. Cáu bẳn vì sinh kế, ông dượng thường nọc đứa con riêng của vợ ra hành hạ để hả cơn bực tức. KHông chịu nổi, Đại bỏ học hẳn, sang vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo tự nuôi thân. Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh ngã tư Công Lý. Tại đó có 1 rạp chiếu bóng tên là Cathay. Không ngày nào trước cửa rạp hát không xảy ra những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì lợm và liều lĩnh, Đại cứ lăn xả vào đối thủ liên tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn nửa cái đầu cũng mặc. Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng, dù tay chân mặt mũi đầy vết rách bầm. Nghiễm nhiên, hắn trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng nghiễm nhiên, gã được quyền ráp thêm "tên đất" vào sau tên cúng cơm để trở thành Đại Cathay, "đại ca" đường Nguyễn Công Trứ. Đó là năm 1954 lúc Đại mới 14 tuồi. Trở thành "anh chị", Đại được quyền sống mà không mó tay vào bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em "đi làm" mang tiền về nộp. Mỗi buổi sáng, hàng chục thiếu niên Ba Binh, Ba Tướng, Ba Gà ( hỗn danh để gọi đám trẻ du đãng chưa có tên tuổi. Ba Binh là quân sư, Ba Tướng là những thằng trực tiếp đi đánh nhau còn Ba Gà là những tên thuyết khách) cả trai lẫn gái tụ tập quanh Đại Cathay nhận công việc và địa bàn do hắn cắt cử, sau đó túa đi, chiều lại đem tiền về cho Đại. Được cái, hắn rất hào phóng, Đại Cathay chia hết etiền cho đàn em, chỉ giữ lại cho mình 1 khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp. Những đàn em không may b5i ế báo, bị mưa ước thuốc, kẹo phải đền tiền, Đại Cathay cũng không chửi bới, đánh đập như những tên "chăn chíp" tham lam khác mà còn lấy của đứa "trúng mánh" cho thêm. Vì vậy, đàn em rất khoái và chị nghe lời "anh Đại". Tình trạng đánh lộn, tranh giành khách trong khu vực của Đại Cathay được dẹp yên. Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót cảnh sát quận Nhì, thường được gọi là bót Dân Sinh, nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều lần, sau khi dẫn đàn em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các băng nhóm đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị các ông cò bót quận Nhì xách tai lôi về bót. Hăm dọa, tát tai, đá đít đủ kiểu, thằng nhóc vẵn trơ trơ không chịu khai tên tuổi những đàn em tham gia ẩu đả, đám mã tà phú lít lại đành thả Đại về. Hết thuốc, các ông cò nảy ra đòn độc để trị Đại Cathay, bắt đàn em của đại đứng xam. Chúng bắt thằng nhóc quỳ giữa sàn nhà, hai ông cò hai bên xốc ngược tay Đại lên, cạy mồm, thả vào một con gián sống. Con vật lập tức chui tọt vào cổ họng lao thẳng xuống dạ dày. Ngứa ngáy, kinh tởm và nhột không chịu được, Đại Cathay ói ra mât xanh, mật vàng. Đám Ba Binh, Ba Tướng xung quanh lè mắt, có đứa hét lên ngất xỉu và đái ra quần. Đại Cathay, sau một hồi nôn thốc nôn tháo, bắt đầu trấn tĩnh, lại tiếp tục câm như hến, tuyệt đối không khai. KHông còn cách nào khác, các thầy cảnh sát đành tống Đại Cathay vào trại tế bần hoặc Trại giáo hóa thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức. Phần 2 : Khi Đại Cathay còn là một cậu bé đánh giày thì toàn bộ khu vực Cầu Mống _Dân Sinh - Cầu Ông Lãnh mà dân giang hồ gọi là khu Da Heo, đều do một tay giang hồ nổi tiếng là Tám Lâu cai quản. Ở trần, quần dài vắt vai, đi đứng nói năng khụng khiệng, nét mặt luôn đằng đằng sát khí, Tám Lâu bị bà con khu Da Heo coi như một hung thần. Nghề chính là đại xích lô, nhưng thực chất Tám Lâu là kẻ nhận quyền bảo kê thu thuế toàn bộ khu Da Heo, dưới trướng có hàng chục đàn em. Dưới nệm xích lô, Tám Lâu luôn thủ sẵn "hàng mã", sẵn sàng vung ra bất cứ lúc nào với bất cứ ai. Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày dẫn quân đập lộn, Tám Lâu đâm "chịu" Đại. Thỉnh thoảng ngồi nhậu thấy Đại đi qua, Tám Lâu lại ngoắc vào kê ghế cho ngồi cạnh mần hơi cho ấm bụng. Qua những lần nhậu ké đó, Đại Cathay được Tám Lâu giới thiệu như một tay trẻ tuổi tài cao đầy hứa hẹn với đám giang hồ đàn anh: Ba Hội, Cảnh Tượng... Tám Lâu cũng thường đưa Đại đến các khu Lò Heo (cũ), Chánh Hưng, hẻm Hai mươi thuơớc để làm quen với các tay anh chị khu vực khác. Nể tình Đại Cathay cũng hay ghé đến hẻm 110 Nguyễn Công Trức để thăm hỏi Tám Lâu. Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ trước uy thế của anh em Bé Bún, một trùm giang hồ quận 4, khu vực cạnh Hãng phân nơi Đại Cathay trú ngụ. Cậy đông quân lắm mã, đám này thường kéo rốc qua Cầu Ông Lãnh, tràn vào "thu thuế" gi75t bà con thiểu thương chợ vựa Cầu Muối, Tám Lâu không cản nổi. Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh thở ng8án than dài, nộ khí xung thiên, Đại Cathay đề xuất: - Anh Tám để đó em lo. Phải cho Bé Bún nằm viện, đám này mới ngán! Tám lâu gạt phắt: - Con nít biết gì? Tao còn thu nó, mày là cái đinh gỉ! Tự ái Đại Cathay bỏ về. Lúc này đám Ba Binh, Ba Tướng của Đại cũng đã lớn, toàn thanh niên 17, 18 tuổi, lại lăn lộn lề đường nhiều nên cũng khá dày dạn. Nghe lời Đại Cathay, đám này vác dao qua Bến Vân Đồn "chém bậy" vài tay em của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết, Bé Bún hô toàn bộ em út của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết, Bé Bún hô toàn bộ em út tấn công sang khu Da Heo hỏi tội Tám Lâu. Quân Bé Bún quá đông, khiến Tám Lâu và đám đàn em hoảng hốt, định bỏ chạy. Nhưng vừa qua khỏi Cầu Ông Lãnh, băng Bé Bún đã ôm đầu máu chạy ngược trở lại, kêu la vang trời. Không nói trước với đàn anh nửa câu, Đại Cathay đã âm thầm cho đàn em của mình "trải đệm", bất ngờ "luộc" băng Bé Bún. Dưới sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tân bình tả xung hữu đột lăn xả vào chém quân Bé Bún, xộc thẳng sang cả bên kia cầu. Nói là làm, Đại Cathay đã xỉ cho Bé Bún mấy nhát sau đó phải nằm viện thật, không dám bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa. Sau trận hỗn chiến, Tám Lâu đâm ớn "tài ba" của Đại Cathay. Một mặt, Tám Lâu tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn quyền xử sự, mặt khác y lại lo ngay ngáy bị Đại Cathay lấy làm đối thủ. Biết ý, Đại tuyên bố không giành đất, khu Da Heo vẫn của Tám Lâu. Phần Đại, gã chỉ thu thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút trong khu vực. Tiếp đó, Đại vươn tay bảo kê tất cả các ngành nghề kinh doanh lậu bao gồm xưởng nấu xà phòng, lò mổ heo, lò rượu...trong khu. Có tiền có quyền, Đại dần dần đã khiến các tay anh chị khác phải dạt ra. Đại Cathay tha hồ ăn chơi và làm mưa làm gió Phần 3 : Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào hippie bắt đầu thâm nhập vào miền Nam. Các cậu ấm cô chiêu con nhà giàu tuy được ăn học đàng hoàng nhưng cũng học đòi nhau, thường xuyên có mặt ở các nhà hàng, vũ trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo tóc tai dị hợm. Đại Cathay tuy ít học nhưng cũng không hề kém cạnh các bậc trí .... giả trong khoản ăn chơi. Nhẵn mặt ở các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với một đám sinh viên, kỹ sư, bác sĩ con nhà gia thế, trong đó có anh em Dzách Bửu, Dzí Bửu, Hùng Đầu bò, Hoàng Sayonara (tay này móc classic bản Sayonara rất "não nùng")... và nhiều văn sĩ nghệ sĩ khác. Đám nghệ sĩ trí thức cũng nể Đại Cathay chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã- trông bụi đời, hippi hơn cả. Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến lược làm ăn và chinh phạt cho Đại. Nghe lời các quân sư, Đại Cathay đứng ra cùng với Bảy Si, bà Bảy Trà đá mở sòng bài lấy xâu ở khu vực Cầu Muối. Ban Đầu Đại Cathay không thích mở sòng bài vì dân giàu có đã có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung... Mở nữa e không cạnh tranh nổi, Hoàng Sayonara vẽ: - KHông chỉ giàu mới máu me đen đỏ. Các sòng lớn như Kim Chung, Đại Thế Giới toàn dân quí tộc, chức sắc, dân giang hồ, người buôn bán ngại vô. Ta mở sòng vừa vừa kéo khách từ đám này. Đại Cathay đồng ý. Ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Si đã có sòng bài sẵn, nhưng khi nghe Đại Cathay đề nghị hùn hạp, Bảy Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại nống ra cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với Hỏi, trùm, khu Cây Da Xà. Hắn mua của Hùng Đầu bò một chiếc Traction - 15, chiều chiều cho đàn em lái đi khắp các ngả đường vứt lên từng xấp "phơi" đề cùng với hàng cọc tiền chở về. Quyền lực được tiền bạc hậu thuẫn khiến Đại Cathay càng thêm uy thế. Đến năm 1962, 1963, Đại Cathay đã trở thành một ôm trùm khét tiếng. Gần như hầu hết nhà hàng khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều coi hắn như ông chủ đích thực, Đại Cathay và đàn em tha hồ ăn chơi nhảy múa mà không một nơi nào dám viết hóa đơn, thậm chí còn lấy làm vinh hạnh vì được đàn anh chiếu cố. Nhưng nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại không phải từ tiền thuế bảo kê. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là kẻ tình nguyện đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác. Cả anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (Vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người HOa là những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các "vu", Đại Cathay cũng làm quen, "chơi chịu" được với khá đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác. Chỉ năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm không đối thủ, được toàn giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi. Nhưng vẫn còn ba ông trùm "lừng lẫy" khác không ưa gì Đại Cathay, đó là Huỳnh Tỳ, ôm trùm Lê Lại, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Cho rằng Đại "chơi kèo trên", giành mối, giành đất, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định "hội đồng" diệt Đại. Hai tên giang hồ họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New World) cùng một giang hồ gộc là Thế Aristo - chủ vũ trường - có thêm Hùng phốc và Luân - 2 giang hồ cộm cán khác cùng hỗ trợ, mời Đại đến "bàn công việc". Không chút nghi ngờ, Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế Aristo đá lộn cổ trở xuống. Bốn kẻ phục kích cũng nhất tề rút dao xông vào chém. Đại Cathay vừa đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình mẩy đầy thương tích nhưng may không chết. Những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại đã đơn thương độc mã giắt dao đi tìm từng tên một trị tội. Cả năm tên đều lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương. Cuối cùng Tám Lâu phải nhờ Cảnh Tượng, Ba Hội và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp cho năm tên, Đại Cathay mới nguôi giận, đồng ý "hòa giải". 1960 đã đẻ ra danh xưng “Tứ đại giang hồ” Đại – Tỳ - Cái – Thế, với Đại Cathay, kẻ không đối thủ đứng đầu và xếp phía sau là ba đói thủ của kẻ …không đối thủ Phần 4 : Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết định bành trướng xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo người Hoa, xưa nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm. So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Dưới thời Diệm - Nhu, toàn bộ hoạt động kinh tài của các bang hội Hoa Kiều Chợ Lớn đều có cổ phần của giới Hắc Đạo. Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc, tiệm hút... đều do giới này quản lý hoặc hùn hạp. Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11.1963, do tham lam, chính Tín Mã Nàm đã khiến giới Hắc Đạo suy yếu. Bắt tay với khá nhiều tướng lĩnh, chính khách thuộc phe đảo chính, "Con ngựa điên" đã bán đứng một số cơ sở kinh tài của các bang hội cho chính quyền mới, tố họ là "cơ sở kinh tài của Diệm - Nhu". Mặt kh ác, Tín Mã Nàm cũng tố cao và giao nộp cho cảnh sát một loạt tay giang hồ Hoa kiều không ăn cánh với y như Hỏi Phòong Kin, Sú Hồng, Cọp Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy Chảy... nh8àm củng cố địa vị "Vua Hắc Đạo" của mình. Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê Ngọc Trụ - Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng dụng và ưu đãi, trong khi bị nhiều đàn em oán giận và tìm cách trả đũa. Trong những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán tên Chó, người giúp việc cho Tín Mã Nàm quản lý ngành kinh doanh cờ bạc. Biết được sự chia rẽ đó, Đại Cathay đã sai đàn em dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng Tín Mã Nàm, kéo một lượng lớn các con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế Giới, hào Huê về Cầu Muối cho sòng của Đực Bà Tiều và Bảy Si thuộc quyền Đại Cathay, đồng thời bỏ luôn khu Chợ Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng bạc ở khu Sài Gòn. Biết chuyện, Tín Mã Nàm hạ lệnh cho giới Hắc Đạo: - Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay bén mảng xuống Chợ Lớn. Chỉ chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay đã liên tục đổ quân tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín Mã Nàm ở vùng Chợ Lớn, chém phứa vào bất cứ ai rồi tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân lành, khách chơi, chính vì vậy họ đâm sợ các điểm ăn chơi giải trí của Hắc Đạo, không dám lui tới nữa. Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê của Tín Mã Nàm đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp kỷ luật của ông trùm. Nhưng cứ tên Hắc Đạo nào lọt xuống khu Sài Gòn là tên đó bị đàn em của Đại Cathay chặn đánh. Đầu năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết phong độ, Đại Cathay quyết định đánh trận cuối, Đại dẫn theo 9 tên đàn em "chiến đấu" nhất, trong đó có Ba Thế và Lâm chín ngón đi trên 5 xe Goebel bất thình lình tấn công vào quán cà phê ngay trước rạp Hào Huê, đối diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của các tay đàn em Tín Mã Nàm vào 2 buổi sáng chiều. Cuộc tập kích thất bài, hai bên đều thiệt hại nặng nề. Nhưng máu liều của Đại Cathay càng được giới giang hồ truyền tụng và vì nệ. Tín Mã Nàm cũng lo lắng: nếu cứ để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy, giới Hắc Đạo chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn ai dám bén mảng. "Con ngựa điên" phải kìm cơn điên, cử người đến mời Đại Cathay lên nhà hàng Đồng Khánh điều đình. Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang cọp, e bị "trải điệm" nhưng Đại Cathay nổi máu yêng hùng, vẫn quyết định nhận lời. Để tài xế ngoài cửa, Đại một mình tay không lên nhà hàng hội kiến với Tín Mã Nàm. Cử chỉ ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền . Phần quân 5, Chợ Lớn, Đàn em của Đại được phép hoạt động với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc Đạo. Riêng các khu vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm "dzách bạc hồ hãn" (hẻm 100), Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được xâm phạm, vì đó là giang sơn riêng của Tín Mã Nàm, nơi vợ bé của y sinh sống. Nhân đây nhắc lại vụ phục kích ở vũ trường Aristo. Lần đó cả băng Aristo bày tiệc trên lầu rạp hát mời Đại Cathay đến giao lưu. Không mảy may nghi ngờ, Đại Cathay tới ngay. Chưa lên hết cầu thang, Đại Cathay đã chột dạ: nụ cười đón khách của Thế Aristo đột nhiên thay đổi. Chưa kịp hỏi, Đại Cathay đã bị Thế đá lộn cổ xuống thang lầu. Cùng một lúc, Tỳ, Cái, Luân, Hùng bốn kẻ phục kích nhất tề rút dao xông vào chém tới tấp. Vừa đỡ đòn, vừa tìm đường thoát thân, Đại Cathay lết được ra khỏi tử địa, mình mẩy đầy thương tích nhưng may mắn thoát chết. Về chuyến tập kích băng Tín Mã Nàm của Đại có liên quan đến biệt danh "Lâm Chín ngón": Khi đó, vì quá hăng máu nên băng Cathay bị giới Hắc Đạo dụ chạy sâu vào trong các con hẻm, sau đó hạ cửa sắt bít đường rút đầu các hẻm lại và túa ra phản công. Phe Đại Cathay chỉ có 10 người, không chống nổi hàng chục tên Hắc Đạo với dao búa hung hãn nên tên nào cũng thương tích đầy mình. Trong lúc nguy cấp, Lâm Chín ngón đã liều chết xông ra chém đứt dây xích cột cửa, mở đường máu cho Đại Cathay và cả bọn chạy tháo thân. Trong lúc tả xung hữu đột, ngón cái tay phải của Lâm đã bị đối phương chém đứt lìa. Bịệt danh Lâm Chín ngón bắt đầu từ đó, do chính Đại Cathay đặt. Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một phen khiến người đi đường khiếp vía. Như một gã con trời thứ thiệt, Đại Cathay chễm chệ trên băng trước chiếc Mustang mui trần do Năm Công lái, có cả chục tên đàn em phóng xe máy theo sau hộ tống. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh tha hồ vỗ tay cười hô hố. Có lúc cao hứng, Đại Cathay còn thượng cả hai chân ra trước kính xe hoặc thò ra bên cửa hông gỏ thùng xe loạn xạ… Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay khiến những kẻ tai to mặt lớn và cảnh sát ngụy hết sức tức tối, nhiều lần tống cổ Đại vào khám. Nhưng bắt cóc bỏ đĩa, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn lâu, đành phải thả. Dùng luật không xong nhiều quan chức ngụy tìm cách mua chuộc hắn. Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, viên tướng cao bồi Nguyễn Cao Kỳ - có lẽ do muốn chơi trội – bèn cho gọi tên du đãng đến. Kỳ phủ dụ: - Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn có quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được. Tên du đãng ít học đời nào chịu suy nghĩ những ba ngày. Kỳ chưa dứt Đại Cathay đã trả lời luôn: - Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp? Tướng râu kẽm bầm mặt nhưng vẫn ngọt nhạt: - Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi Đại Cathay vẫn ngổ ngáo: - Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được… Sau Nguyễn Cao Kỳ đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc Nha cảnh sát Đô Thành. Tuyên bố “Đặt giang hồ ra ngoài vòng pháp luật”, tướng Sáu Lèo cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở bên kia cầu Bình Triệu (quận 9) và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm tiêu diệt giang hồ do đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng. Theo lệnh Sáu Lèo, “Biệt đội hình cảnh” được bắn bỏ bất cứ tên giang hồ nào trên đường phố nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát. Sau một thời gian hoạt động, “Biệt đội hình cảnh” vẫn chỉ tóm được một số tên du đãng “tép riu”, tướng Sáu Lèo bèn quay sang tìm cách mua chuộc Đại Cathay hòng “dĩ độc trị độc”. Đính thân Mã Sâm Nhơn, phụ tá của tướng Sáu Lèo đến gặp, đưa giấy mời của ngài chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan cho Đại Cathay. Cùng một đàn em, Đại Cathay có mặt y hẹn. Nguyễn Ngọc Loan ra giá: - Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du đãng. Đại Cathay từ chối: - Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh liệt. Nguyễn Ngọc Loan hạ giá: - Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành. Đại Cathay đồng ý với điều kiện để cho y và đàn em toàn quyền làm ăn và cai quản khu cảng Sài Gòn, Khánh Hội, khu vực chợ vựa Cầu Muối, và hai bên bờ Kinh Tẻ. Thấy tên giang hồ cứng đầu, Nguyễn Ngọc Loan nổi đóa: - Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu không giang hồ, du đãng sẽ không còn đất sống! Đại Cathay trả lời: - Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác được. Cuộc mặc cả kết thúc. Tiếng tăm Đại Cathay nổi như cồn trong giới giang hồ vì “dám vuốt râu kẽm” tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước của Nguyễn Ngọc Loan ban cho. Đại Cathay càng vênh váo hơn. Nhưng chính bằng sự nổi tiếng ấy, Đại Cathay đã tự ký cho mình bản án tử hình Quá ngạo mạn, đang đang là giai đoạn cực thịnh của băng Cathay, Đại vẫn tiếp tục lộng hành. Không chi ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái lon chuẩn tướng và trọng trách “Chief” ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan đang nắm giữ. Vào thời điểm đó, Sài Gòn ngập tràn trong không khí sống gấp và hưởng thụ, không cần biết đến tương lai. Một trong những mốt thời thường của các nhà buôn giàu có, các sĩ quan cộng hoà hào hoa, các công tử con nhà gia thế là công khai có nhân tình nhân ngãi hoặc cặp bồ với cave, nghệ sĩ trẻ đẹp. Đường đường là một vị tướng, Nguyễn Ngọc Loan đâu thèm để mắt tới các cô cave, ca sĩ phòng trà bình thường. Người ta thường thấy “ông tướng độc nhỡn” thường xuyên có mặt tại vũ trường Olympic trên đường Lê Lợi vào mỗi tối thứ 7. Tại đó, Nguyễn Ngọc Loan là chủ nhân của một vưu vật: ca sĩ Phương Dung nổi tiếng xinh đẹp và quý phái, người được mệnh danh là “con nhạn trắng Gò Công”, lấy vũ trường này làm đất biểu diễn. Mỗi lần đến thăm tình nhân, viên tướng xách theo cả chục tên vệ sĩ thuộc hàng thiện xạ, cũng nổi tiếng ngổ ngáo và chịu chơi, phóng xe Jeep bạt mạng với những đường cua cong lề bạt phố, đạp phanh cháy cả mặt đường. Olympic cũng là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới. Hơn thế nữa, Thủy Tàu – tài pán vũ trường Olympic còn là một “mối” rất khoái Đại Cathay. Khác với viên tướng và đám lâu la bụi bặm, Đại Cathay thường lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hoà không khí, choáng lộn và êm ru nhẹ nhàng bơi đến cửa vũ trường. Loại xe đó, cả Sài Gòn chỉ có dăm ba chiếc. So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại và băng Cathay luôn sẵn sàng “xài lớn”, rút tiền chẳng bao giờ đếm, người ngợm củng “kẻng” hơn, dĩ nhiên là được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều. Bị “gác kèo”, đám vệ sĩ tức lắm, nhiều lần hậm hực, nhưng Đại Cathay và đám đàn em vẵn phớt ănglê, coi như “chuyện tép”. Một tối, Đại và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín ngón và Lành Cầu Muối – một tay cảnh sát ăn “rơ” với giang hồ kéo đến Olympic từ khá sớm. Thấy các đàn anh, đám cave ríu rít túa ra vây lấy bá cổ níu tay, chí choé cả gian bar trên lầu 2. Cả đám “vui vẻ” mới chừng nửa tiếng, cánh cửa lại xịch mở. Đám vệ sĩ của Sáu Lèo – không có chủ tướng đi cùng – xộc vào, cũng cỡ chục tên. Ngồi chờ cả 15 phút, đám vệ sĩ vẫn không thấy cô cave nào đến săn sóc. Trong khi đó, ở mấy bàn bên vẵn lien tục vọng sang tiếng cấu véo giỡn hớt rúc rich của băng Cathay với đám cave như thể trêu ngươi. Nổi cáu, cả đám vệ sĩ đưa mắt nhìn nhau và đứng bật dậy. Thiếu úy Hải, một tay nổi tiếng thiện xạ tiến sang, đứng đối diện với Hải Súng của băng Cathay, hất hàm: - Vui vẻ quá hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?” Vẫn không buông vai cô “đào nhí”, Hải Súng hất mặt: - Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm phải uống nước đục, trách gì? Viên thiếu úy gườm gườm, đưa tay vào bụng đặt lên báng súng: - Đừng chơi quê tụi này chớ! - Thì đã sao? – Hải Súng hếch mặt lên. Lúc này băng Cathay và đám cave cũng đã ngưng đùa giỡn, ngẩng lên thủ thế. Được khích lệ, Hải Súng tiếp: - Thịt người tanh không ăn được, đừng doạ nhau, tụi này không thích! Bị khiêu khích, mắt thiếu úy Hải vằn lên. Hắn xấn xổ chụp lấy tay cô đào nhí kéo về phía mình, tuyên bố: - Không thích cũng bắt! Sợ hãi, cô cave thét lên. Không nói không rằng, Hải Súng vớ ngay chai Black and White trên bàn giáng thẳng xuống đầu đối thủ. Phản xạ nhanh, thiếu úy Hải vội buông cô cave nhảy vọt sang một bên và móc súng. Hai băng xông vào nhau. Bàn ghế ly tách bay tứ tán. Đột nhiên, Đại Cathay hét lên: - Tụi nó chơi súng, rút, tụi bây. Pằng! Pằng! Pằng! Ầm Đại chưa dứt câu, dàn đèn phe lê đã rơi ụp xuống sàn, vỡ tung toé, đồng thời một viên đạn cũng nhằm đầu gối Đại găm tới, xô y gục xuống. Hải Súng vội xô tới xốc Đại lên bỏ chạy. Trong băng chỉ có Hải và Lâm Chín ngón giắt súng theo. Cả hai cũng vội móc ra bắn loạn xạ. Lâm Chín ngón gào lên: - Anh em rút đi, để tôi lo! Lúc này, đám cave, bồi bàn đã hoảng hồn bỏ chạy hết. Thủy Tàu khá nhanh trí, vội chạy bổ vào trong sập cầu dao điện. Bóng tối chụp lấy vũ trường đã hỗ trợ cho băng Cathay bỏ chạy. Bị thương, Đại Cathay khó khăn lắm mới được Hải Súng và Ngân Pôcon dịu được xuống lầu và kéo thẳng ra đường. Lúc này, Lành Cầu Muối cũng vừa vặn trờ chiếc Mustang tới, hốt cả bọn lên xe chạy thẳng. Lâm Chín ngón chạy sau cùng. Sauk hi nhả hết đạn, y cũng vội đu cửa số phóng xuống được Tạ Thu Thâu cắm đầu chạy luôn một mạch. Sau lưng, đám vệ sĩ Sáu Lèo vẫn nã đạn theo chíu chíu. Không thu phục được Đại Cathay, tướng Sáu Lèo đã ra lệnh cho “Biệt đội hình cảnh” bắt bỏ tù hàng loạt đàn em nhằm cô lập hắn. Núng thế, Đại Cathay đành tìm cách hoãn binh. Một buổi tối, hắn mua nguyên nhà hàng Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Khi rượu đã chếnh choáng, Đại Cathay mới ngỏ ý: - Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh… Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, từ chối thẳng thừng: - Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu. Nếu là trước đó mười hôm, máu côn đồ của Đại Cathay sẽ nổi lên ngay. Nhưng đang yếu thế nên Đại vẫn nhũn nhặn: - Ồ không không. Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi. Còn hôm nay mời đại úy đến là để an hem vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì. Viên đại úy không vui vẻ được lâu, cũng chẳng còn thời gian để bận tâm lâu hơn nơi cõi thế. Sau buổi tiệc chỉ nửa tháng, một chiếc xe “be” chở gỗ không rõ xuất xứ đã “bò” ngang qua chiếc xe hơi CV2 của Trần Kim Chi khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ. Đại úy Chi và viên lái xe chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất tăm, “không nhận dạng được biển số”. Giới giang hồ đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại Trần Kim Chi Cái chết của Trần Kim Chi đã đánh dấu chấm than cuối cùng cho cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8.1966, với tội danh “Du đãng đặc biệt”, Đại Cathay lại bị tóm cổ. Cùng với một loạt du đãng khác, ngày 28.11.1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc. Gọi là “Trung tâm hướng nghiệp” nhưng chính xác, đây là nơi lưu đày những tên lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo nhưng không có chứng cớ để bắt quả tang, do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm “bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”. Trại là những dãy nhà dã chiến thấp lè tè nằm trong rào kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương Đông. Gọi là “hướng nghiệp” cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt, đánh mạt chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm, đang đánh mạt chược, Đại Cathay bảo: - Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt lại tên cho nó đi. Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học đề xuất: - Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó. Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng”. Không giống như dự định của tướng Sáu Lèo và sảnh sát ngụy, Trại “Cửu Sừng chẳng những không “hướng” được chút “nghiệp” nào cho đám đầu trâu mặt ngựa mà ngược lại hoàn toàn. Toàn bộ đám du đãng bị bắt vào đây như Đại Cathay, Hải Súng, Hoà áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu Hao.. sau này đều là những tên giang hồ cộm cán nhất của Sài Gòn – Chợ Lớn, càng ngày càng hung hãn hơn. “Trại Cửu Sừng” như một con dấu chất lượng để đánh giá giang hồ. Tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu Sừng” sau này đểu trở thành đàn anh, được quyền ăn trên ngồi trốc trên chốn giang hồ. Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đối diện với vũ trường Olympic. Khi Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài Gòn, biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng anh trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay. Đầu tháng 1.1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm nuôi đám du đãng bị nhốt ở Trại Cửu Sừng. Gặp Đại Cathay cô báo cho chồng biết đã lo xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Đám lính gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn sẽ đưa đám tù ra khơi, có tàu hải quân do Nhân bố trí sẵn rước về đất liền. Để mua chuộc đám lính gác, Nhân đưa cho Đại một chiếc áo bluson và dặn dò kỹ lưỡng. Nhìn bề ngoài, nó chỉ là một chiếc áo lạnh rẻ tiền, sau lưng có một con rồng ấp quanh bản đồ Việt Nam thêu hai màu, nửa miền Bắc màu đỏ, nửa miền Nam màu vàng. Loại áo này bán nhan nhản dọc các tiệm đường Lê Thánh Tôn, trong chợ Dân Sinh… chủ yếu để đám lính Mỹ sắp hồi hương mua về làm kỉ niệm. Khi chuyển áo cho Đại Cathay, tên lính canh của trại hướng nghiệp Phú Quốc thấy nó nặng hàng ký nên đâm nghi ngờ. Lần theo lưng áo hắn sờ thấy giữa hai lần vải có hàng chục miếng kim loại mỏng được khâu đầy trong đó. Đoán là vàng, tên lính canh định lôi ra khám xét. Lập tức cái liếc xéo mắt của tên sĩ quan đứng cạnh đã ngăn hắn lại. Tên lính đành trả lại áo cho Đại Cathay mang về phòng. Theo lời đồn đại của giới giang hồ thì khi về phòng, Đại Cathay đã xé chiếc áo lấy ra đúng 62 lá vàng loại 1 lượng khâu trong đó. Với số vàng này, Đại đã mua chuộc đám cai ngục để chúng bố trí cho lính gác làm ngơ khi Đại bỏ trốn. Đi theo Đại Cathay có khoảng một chục đàn em trong đó có Xì kíp, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và Lâm Chín ngón… Đến phút cuối, Đại Cathay theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón – gã đệ tử thân nhất - ở lại. Đại nói với cả đám: - Thằng Lâm lóc choc, dễ làm bể chuyện lắm. Vả lại, chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nó còn trẻ, tội lắm. Chi bằng để nó lại, mình thoát rồi lo cho nó về sau an toàn hơn. Trước giờ khới sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín ngón đến và bảo: - Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách. Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô bình thường do chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng nồng độ. Phê thuốc, Lâm Chín ngón quay ra ngủ say như chết. 12 giờ đêm ngày 7.1.1967, Đại Cathay dẫn đàn em đào thoát ra ngoài. Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ hai, có Đại Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Bất ngờ, khi cả hai tốp vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Tốp thứ nhất, gồm Xì kíp, Hùng Mỏ chuột,.. bị tóm cổ lại ngay. Đại Cathay và Hải Súng vội đổi kế hoạch, chạy lên phía Bắc đảo, lần vào khu núi tượng, nơi có Quân giải phóng hoạt động. Đến đây, không ai còn tận mắt gặp lại Đại Cathay và Hải Súng. Và hàng loạt giai thoại giải thích sự mất tích của hai tên du đãng đầu sỏ bắt đầu xuất hiện. Theo hồ sơ về cái chết của hai tên du đãng mà chúng tôi có được: Biết không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên đãng làm bẽ mặt, chuẩn tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay. Khi biết cô Nhân – vợ Đại – đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục… Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn Đại và Hải, chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng. Sau đó, Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại và Hải, bắn hạ chúng. Khi đi, toán biệt kích dù phải thay quần áo bà ba, đội mũ tai bèo, mang dép râu và sử dụng súng AK47, giả trang làm Quân giải phóng để đổ vấy cho việc giết Đại Cathay và Hải Súng cho phía Cách Mạng. Diệt xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ, đề bia tử tế để dễ bề nhận diện và gây dư luận. Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ súng hạ gục Đại Cathay. Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn sự việc, song trước khi ngụy quyền sụp đổ, không một tờ báo nào dám viết về âm mưu hại địch thủ của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy, lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay – tên du đãng ngoại hạng. --------------------------------------------------------------------------------
Đệ tử của Đại Cathay: Cửu chỉ Lâm Chín Ngón Lê Ngọc Lâm, tự Lâm "chín ngón", chở vợ và con trai 6 tuổi đi ăn tối trên đường Sư Vạn Hạnh nối dài (quận 10, TP HCM). Anh ta vừa dừng xe cho vợ con bước xuống thì bất ngờ một thanh niên nhảy xổ tới, tạt thẳng một ca axít vào mặt Lâm. Hét lên một tiếng, Lâm ngã xuống mặt đường quằn quại. Sự việc xảy ra lúc 20h ngày 14/7/1999 làm Lâm cháy toàn bộ khuôn mặt, hai tai và mũi rụng, cằm chảy ra dính chặt vào ngực. Hai mí mắt cũng chảy ra dính vào nhau, bịt kín con mắt. Tuy qua nhiều lần phẫu thuật chỉnh hình, lột toàn bộ da mông, đùi đắp lên mặt, nhưng mặt Lâm vẫn biến dạng hoàn toàn. Hai mắt gần như loà hẳn, với hai hốc mắt nhỏ xíu được mở nhân tạo. Mỗi lần lấy ngón tay ấn lên, những giọt nước đục như nước gạo từ hố mắt lại ứa ra. Bị hại, nhưng Lâm "chín ngón" vẫn không cho gia đình báo công an. Trước sau, anh ta chỉ một mực cho rằng tai vạ hôm nay chính là nghiệp chướng mà anh ta đã vay thì phải trả. Mọi con đường đều dẫn đến... nhà tù Lê Ngọc Lâm sinh năm 1945 tại Hà Tây, theo gia đình di cư vào Sài Gòn năm 1954. Ba năm sau, những biến cố thời cuộc làm gia đình tan nát, Lâm phải vào Cô nhi viện Thủ Đức khi mới 12 tuổi. Được một thời gian, Lâm trốn khỏi cô nhi viện, nhập vào đám bụi đời, bán báo trên hè phố Sài Gòn. Cô nhi viện dạy cho Lâm biết chữ, còn lề phố dạy cho Lâm biết... đánh lộn để giành mối, cạnh tranh. Những cuộc đụng độ xảy ra như cơm bữa đã biến Lâm thành một người ngang tàng và rất lỳ đòn. Năm 1963, Lâm thi hỏng tú tài và bị bắt vào quân dịch nhưng đã trốn về Sài Gòn sống lang thang, sau đó gia nhập nhóm bụi đời ở khu Da Heo, đường Nguyễn Công Trứ, quận 1 do Đại Cathay cầm đầu. Vốn liều lĩnh và to khoẻ, anh ta nhanh chóng trở thành một trợ thủ đắc lực của Đại Cathay trong các trận chiến phân chia lãnh địa. Năm 1964, một cuộc tranh hùng như vậy đã chém mất một ngón tay của Lâm. Biệt hiệu Lâm "chín ngón" ra đời từ đó, do chính Đại Cathay đặt. Tháng 11/1966, băng Đại Cathay bị cảnh sát ngụy bắt đày ra đảo Phú Quốc. Tại đó, Đại Cathay tổ chức vượt ngục và mất tích. Lâm "chín ngón" bị bỏ lại, ngồi tù thêm nửa năm thì được thả. Trở về Sài Gòn, Lâm chuyển sang nghề "ăn bay" (cướp bằng xe máy) và nhanh chóng trở thành một "quái bay". Sử dụng xe Honda 67, loại xe tốt nhất thời bấy giờ, Lâm "chín ngón" đã gây ra hàng chục vụ cướp giật với những người vừa lĩnh tiền ngân hàng đi ra. Trong một lần "ăn bay" cuối năm 1970, Lâm bị cảnh sát ngụy bắt tại trận và bị tống vào trại giam Chí Hoà. Tại đó, Lâm đã được hội ngộ với hầu hết những "tay chơi cộm cán" nhất của Sài Gòn. Thời hai tay ba đao Vào thời gian đó, bộ máy cảnh sát, nhà tù của chế độ ngụy Sài Gòn gần như bó tay trước nạn lộng hành của đám lưu manh, du đãng được hỗ trợ bởi ma tuý bán đầy rẫy và rẻ như bèo. Lúc cao điểm, trại Chí Hoà có khoảng 2.000 tên tù hình sự thì cũng gần như ngần đó con nghiện. Vì vậy, bán ma tuý, thuốc phiện đem lại cho các "ông trùm" một nguồn lợi có thể lên tới 20-25 lượng vàng/ngày. Số vàng này khiến chúng vây bè, kết cánh hùng cứ quyền bán ma tuý ở các dãy buồng giam, tranh giành lãnh địa, hoặc hạ bệ nhau, nhằm ngoi lên làm ông trùm để độc quyền thu lợi. Là "đàn anh", như Lâm "chín ngón" ở dãy FG, tuy có thể tự do đi lại giữa các dãy nhưng lần nào cũng phải có vài ba vệ sĩ tháp tùng, nếu không ăn đao là cái chắc. Mỗi khi tham chiến, những tên du đãng này đều hai tay nắm chắc hai con dao. Con thứ ba giắt ngang bụng, phòng khi dao trên tay bị đánh rơi hay bị đối phương tước mất. Hỗn danh "thời hai tay ba đao" bắt nguồn từ đó, để chỉ giai đoạn 1970-1974 trong trại giam Chí Hoà. Là cánh tay phải của Đại Cathay, từng đâm trầy mặt và hạ bệ "tướng cướp cô đơn" Điền Khắc Kim để giành địa vị ông trùm, Lâm "chín ngón" trở thành một "cao thủ" được độc quyền bán thuốc phiện ở khu FG, đồng thời trở thành đại lý cung cấp loại "hàng đen" này cho toàn bộ trại Chí Hoà. Quyền khai thác "hàng trắng" ở dãy này thuộc về Chương "khùng", một tên giang hồ có số khác, kẻ từng dẫn đầu hàng chục tội phạm người Việt xông vào khu AB cướp thùng đựng tiền của đám tù nhân người Hoa gốc Hong Kong, Ma Cao, Đài Loan... và bị chém trọng thương. Đúng định kỳ, hàng đen từ bên ngoài được gửi vào "thăm nuôi" Lâm "chín ngón". Cai tù biết nhưng làm ngơ để được chia 30% lợi nhuận. Khoảng giữa năm 1972, đám con nghiện đâm đầu sang mua "hàng đen" khiến thu nhập của Chương "khùng" tụt xuống nhanh chóng. Đàn em của Chương bỏ đi phò Lâm "chín ngón". Chương tức giận, chửi bới om sòm. Một tên "ngang cơ" khác là Năm Lương đổ thêm dầu vào lửa: "Mày chỉ giỏi võ mồm. Thừa biết thằng nào hạ bệ rồi, mày có giỏi thử đụng đến nó coi". Án mạng bất ngờ Bị kích động, Chương khùng nổi cơn. Hắn lấy bộ đồ võ vận vào người rồi nuốt 3 viên Renoval để thêm dũng khí, hằm hằm tuyên bố: "Tìm thằng Lâm chín ngón nói chuyện cho phải quấy". Nghe đàn em cấp báo, Lâm đang chơi bóng chuyền ở sân trại liền dừng ngay để đợi. Gặp nhau, Lâm hỏi trước: "Chương! Nghe nói mày đòi dẹp. Mày bảnh thì chơi lại tao coi". Đang uống nước, sẵn ly cầm trong tay, Lâm "chín ngón" ném ngay cái ly uống dở vào mặt Chương khùng và nhào tới. Quá bất ngờ vì không nghĩ tới chuyện đối thủ phản ứng quá mạnh, lại thấy đàn em của Lâm kéo tới khá đông, Chương "khùng" vội né người tránh ly nước đập vào mặt rồi... bỏ chạy, mặt mũi hầm hầm. Ở khám Chí Hòa lúc đó có Cương "võ sĩ", tức Vũ Đình Cương, vốn là võ sĩ quyền anh có đẳng cấp, từng nhiều lần thượng đài khắp miền Trung - Nam và Campuchia, nếu đấu tay đôi sòng phẳng, cỡ Lâm "chín ngón" hoàn toàn không phải là đối thủ. Năm 1970, Cương bị bắt vì tội buôn bán ma tuý. Lại là em ruột của Vũ Đình Sơn trùm ma tuý ở Sài Gòn thời bấy giờ nên Cương được đám giang hồ phong làm "đại ca của các đại ca", toàn quyền sắp đặt, sai phái toàn bộ giang hồ trong trại Chí Hoà. Khi các băng nhóm xích mích, chỉ cần Cương nói một vài lời là tất cả đều răm rắp tuân theo. Sự việc xảy ra lúc Cương "võ sĩ" đang tụ tập với mấy tay anh chị trong dãy BC. Thấy Chương "khùng" vừa chạy qua vừa khóc, Cương bèn ngăn lại hỏi. Chương tố láo: "Thằng Lâm ỷ đông, kéo đàn em đến đòi xử tôi, cấm không cho tôi bán ma túy nữa". Nghe tới đó, máu "yêng hùng" nổi lên, Cương bèn dẫn nửa tá dân anh chị sang khu FG để "hỏi tội thằng Lâm". Phần Lâm "chín ngón", đang lúc đấm thình thình vào tường buồng giam 3F4, dọa "luộc thằng Chương", thì được một tên đàn em cấp báo: "Anh Lâm cẩn thận, anh Cương đang dẫn người qua tìm anh đó". Vừa nói, tên này vừa giúi vào tay Lâm mấy con dao lá lúa, dặn: "Anh cầm theo để phòng thân". Lâm bảo "một dao đủ rồi" và chạy ra nghênh tiếp. Khi hai bên đứng đối diện nhau, Cương võ sĩ hỏi: "Lâm! Ở đây, mày với tao, ai là đàn anh?". Lâm chưa kịp mở miệng đã bị Cương tung ngay một cú thôi sơn vào mặt. Nhanh mắt, Lâm né đầu tránh được. Cú đánh khá mạnh nhưng không trúng mục tiêu khiến Cương võ sĩ hụt đà chúi thấp đầu về phía trước. Lợi dụng phút này, Lâm "chín ngón" nắm ngay cổ áo địch thủ lật lên và quơ tay ra sau lưng rút dao... Tất cả diễn ra quá nhanh nên không ai kịp can. Cương chỉ kịp "hự" lên một tiếng rồi ôm ngực vật ra sàn. Nghe ai đó kêu lên: "Anh Lâm, đừng đâm nữa", tên hung đồ mới sực tỉnh. Nhát dao đâm trúng tim, Cương võ sĩ chết ngay tại chỗ. Lâm "chín ngón" mặt tái mét, vội thanh minh trước khi bị dẫn đi: "Tôi không cố ý, tại anh Cương... Thôi, anh em thắp cho ảnh mấy nén nhang giùm tôi". Sau tai nạn, Lâm trở thành một con người khác hẳn, không nói, không cười, chỉ ở lì trong căn nhà mà ngoài vợ con không ai biết địa chỉ. Anh ta một mực bảo rằng, cuộc đời Lâm chín ngón coi như đã hết và Lâm cũng không hề có ý định sẽ trả thù theo kiểu ân oán giang hồ như anh ta đã từng làm trong hàng chục năm qua. Bị Lâm giết mất em ruột là Cương võ sĩ, Vũ Đình Sơn, tức Sơn đảo, tay buôn ma tuý có hạng cộng với những "chiến tích" nửa thực, nửa bịa mang về từ 5 năm ngồi tù tại Côn Đảo, lồng lộn lên. Y tuyên bố: "Sẽ lấy mạng thằng Lâm bằng bất cứ giá nào". Kẻ báo thù đầu tiên được Sơn chọn là Tuấn đả (quê Hộ Hải, Ninh Hải, Ninh Thuận). Khi bị bắt giam tại quân lao Nha Trang, Tuấn từng đâm lòi ruột Sơn trắng, sếp sòng quân lao này, để tiếm quyền. Máu liều Tuấn có thừa, nhưng y khó chơi tay đôi mà thắng được Lâm chín ngón. Sơn chỉ có nước tuồn "chó lửa" vào tù để Tuấn hạ Lâm. Nhưng do cảm kích vì từng được Lâm đứng ra bảo lãnh, giúp thoát khỏi trận đòn hội đồng của toàn thể đám đàn anh ở trại tạm giam Chí Hoà khi vừa mới chuyển đến, nên Tuấn đã từ chối "hợp đồng" mà Sơn đảo nhờ, kèm lời giải thích: "Anh Đại (Đại Cathay) gọi nó là Lâm điên, gọi tao là Tuấn khùng. Không lẽ thằng điên đi bắn thằng khùng". Mất gần cả năm trời, Sơn mới tìm được người thay Tuấn . Gã này tên là Nguyễn Văn Hoàng, tự Hoàng đầu lâu (theo hình xăm trên bả vai). Nói về võ nghệ, cả trại Chí Hoà không ai sánh kịp Hoàng. Mang đai đen tứ đẳng Taekwondo, Hoàng đã từng hạ hàng chục cao thủ cả Việt lẫn Miên trên sàn đấu. Biết vợ con Hoàng đang sống khó khăn, Sơn bèn bỏ tiền mua một căn nhà mặt phố nhỏ đem tặng, sau đó lại sang một sạp vải ở chợ cho vợ Hoàng đứng bán, làm kế sinh nhai... làm Hoàng tối mắt gật đầu bán mình. Khổ nỗi, trong giới giang hồ Hoàng chỉ thuộc hàng "chiếu dưới", án tù cũng nhẹ, không thể "ngồi cùng mâm" với Lâm chín ngón, để có cơ hội tiếp cận và hạ sát địch thủ. Nhằm tạo cơ hội cho Hoàng, Sơn đã tốn công vạch ra một kế hoạch chi tiết nhằm giúp Hoàng... tăng án, "được" ngồi biệt giam, đồng thời nâng uy tín trong làng dân chơi chứ không vì tăng án mà gây thù hằn, xích mích với một kẻ nào khác. Trong trại Chí Hoà có một cai ngục là trung sĩ Cách, cháu ruột gọi phó giám thị trại bằng cậu. Ỷ thế, tên này rất "bố láo", luôn tìm cách ăn chặn, phá phách đồ thăm nuôi của tù nhân. Đám tù rất ghét nhưng không tên nào dám ra tay. Một hôm, sau khi nghe các "đàn anh" ta thán, Hoàng đầu lâu xung phong: "Để em thịt nó cho". Kỳ thăm nuôi đến, khi Cách đang xăm soi hũ thịt rim, bẻ đôi từng cái bánh để khám xét thì một tên tù tự giác đến rót vào tai hắn: "Trung sĩ, có người muốn gặp riêng". Tưởng được hối lộ, Cách bỏ ngay việc theo tên cò đi vào phía trong. Không ngờ, Hoàng đã núp sẵn. Ngay khi Cách bước vào liền cầm thanh mã tấu nhằm mặt chém đứt lỗ mũi của tên trung sĩ. Máu xối ra, Cách ôm mặt quằn quại... Với chiến tích này, Hoàng đầu lâu nghiễm nhiên trở thành "dân chơi thứ thiệt", được giới giang hồ kiêng nể. Trong khi đó, tội nặng thêm, y bị tống xuống khu biệt giam. Ở ngoài, Sơn lại vung tiền lo lót với giám thị, cai tù. Kết quả là hai tháng sau, Hoàng đã ôm giỏ đồ của mình chuyển sang ở cùng một buồng giam với Lâm chín ngón. Kinh nghiệm sống và những lời thì thào to nhỏ trong đám giang hồ đã giúp Lâm thừa biết Hoàng sắp làm gì, nên cũng âm thầm chuẩn bị. Nhờ đàn em bên ngoài kiếm cho một chiếc quai đeo ba lô hình chữ X bằng inox cho vào quả bí đỏ chuyển vào tù, Lâm mài mỏng thành con dao nhọn hoắt. Sau đó nhờ người mua hộ một chai rượu Remy Martin mời Hoàng uống. Say rượu, Hoàng lăn ra ngủ. Lâm bèn bảo Lý "lắc", cậu bé ở chung buồng giam chuyên phục vụ trà nước đấm bóp cho Lâm đun nồi nước tắm. Khi nước sôi sùng sục, Lâm bê nguyên cả nồi đổ ụp xuống mặt Hoàng. Hoàng thét lên, quằn quại, nhưng không thấy đường để chạy. Rút dao đã chuẩn bị sẵn, Lâm đâm lên hồi vào người Hoàng mặc cho tên này van xin. Chỉ đến khi Hoàng đầu lâu cong người lên, ngáp ngáp mấy cái nằm im, Lâm mới ngừng tay. Tất cả 37 nhát. Lý "lắc" kinh hoàng đứng nép vào góc tường bưng mặt so vai mà không dám khóc. Cuộc giằng co xảy ra khá nhanh và bất ngờ. Khi Lâm đập ầm ầm vào cửa sắt báo mình đã giết người, viên cai ngục đang ngủ gật vẫn không tin. Lúc chạy vào, nhìn xác Hoàng hoen máu nằm thẳng đơ trên nền gạch, viên cai ngục mới thất kinh hỏi: "Sao mày giết nó?". Vứt dao, Lâm đứng thừ người: "Tôi không đâm nó, nó cũng giết tôi". Lâm chín ngón lại bị tống vào biệt giam. Ở ngoài, Sơn đả vẫn lồng lộn. Nhưng chưa kịp nghĩ ra cách giết Lâm thì chính Sơn lại bị giết chết. Cũng như em ruột là Cương võ sĩ, Sơn bị hạ vì sĩ diện và bỏ mạng bởi đàn em: Phạm Bá Y, tức Y cà-lết. Nghiệp chướng của một ông trùm. Sau năm 1975, với những tội lỗi đã gây ra, Lâm chín ngón tiếp tục phải sống một thời gian dài trong nhà tù của chế độ mới, chuyển qua nhiều trại giam từ Chí Hòa đi Côn Đảo, về trại cải tạo Cà Mau (năm 977), sang trại Z30D Hàm Tân, Bình Thuận (năm 1982), lại chuyển qua trại Phú Sơn, Phú Khánh. Năm 1988, sau hơn 20 năm tù tội, Lâm được trả tự do, trở về TP HCM, làm đủ nghề kiếm sống. Năm 1993, Lâm cưới vợ và sinh con, lo chí thú làm ăn, mong muốn đoạn tuyệt hẳn với giới giang hồ. Nhưng nghiệp chướng đã trót đeo đẳng, chưa chịu buông tha cho Lâm "rửa tay gác kiếm", an phận với cuộc hoàn lương. Một ngày cuối năm 1994, gặp 3 tên giang hồ mới nổi là Trúc lùn, Khải nheo, Tùng nhĩ ở quán thịt chó, Lâm đã nhận lời xuống vũng Tàu đòi Minh Samasa phải tìm cách lấy lại xe máy cho đàn em. Nguyên do là vợ chồng Đức năm nghệ - Sương L'Amour nhận lời cho đàn em xuống Vũng Tàu giúp Minh Samasa đuổi đánh đối thủ cạnh tranh là Phước đầu lâu, Hải lộ. Sau cuộc hỗn chiến, bọn Trúc và một số tên ở lại phá phách, bị công an tạm giam và tịch thu xe máy. Khi xuống Vũng Tàu, Lâm được Minh đón tiếp niềm nở, đồng thời tổ chức nhiều chuyến ăn chơi du hí, rồi mời hợp tác làm ăn. Thấy nguồn lợi quá lớn (đám Dũng ba lém, Minh samasa tên nào cũng giàu sụ), Lâm chín ngón đồng ý. Sự có mặt của Lâm ở Vũng Tàu đã khiến cho các nhóm lưu manh khác khiếp vía, dạt ra hết, tạo điều kiện cho tụi Dũng, Minh độc chiếm cảng cá, tha hồ nâng hạ giá, bán mua tùy ý để làm giàu. Đổi lại, Lâm chỉ việc chường mặt ra cảng nhưng không phải mó tay vào bất cứ việc gì. Mọi chi phí ăn uống chơi bời đều được "bao cấp", kèm sổ lương 5 triệu đồng/tháng. Minh và Dũng còn sắm cả xe máy cho Lâm để "đàn anh tiện đi lại làm việc". Thấy đất Vũng Tàu làm giàu quá dễ, Lâm nảy ra ý đồ làm ăn riêng, quyết không để đám tài phiệt cảng cá "lợi dụng tên tuổi mình mãi". Ngay sau khi Lâm tuyên bố dự định này, lũ đàn em liền tức tốc gọi vợ chồng Đức - Sương xuống Vũng Tàu, gây áp lực để đuổi Lâm. Tuy "có số có má", nhưng thân cô thế cô, không đương đầu nổi với liên minh tài phiệt kia nên sau vài tháng "chiến tranh", Lâm chín ngón ngậm ngùi chạy trối chết khỏi Vũng Tàu để giữ mạng sống và "giữ tiếng trong giới giang hồ". Hai năm sau, Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ra quân xoá sổ nạn bảo kê lộng hành trên các cảng cá ở đây. Minh samasa và nhiều tên trong đám tài phiệt cùng nhau vào tù. Thấy vậy, Lâm lại rắp tâm quay lại độc chiếm cảng cá, nhưng cũng không xong do Đức năm nghệ bắn tin: "Nếu Lâm chín ngón mò xuống Vũng Tàu, mạng sống của Lâm và gia đình sẽ không được bảo đảm". Thấy trước không chơi được, Lâm đành tạm bằng lòng với vị trí ông chủ quán thịt chó, sáng chở con đi học, tối đón con về. Mọi chuyện tưởng chừng đã yên, bất ngờ tai vã bỗng chụp lên đầu Lâm chín ngón. Nhưng anh ta không hề có ý định trả thù và luôn cho rằng, kể từ nay, Lâm chín ngón không còn tồn tại nữa. Đúng hơn, trong giới giang hồ không còn hiện hữu cái tên Lâm chín ngón. A. Các vụ án do Trương Năm Cam và đồng bọn thực hiện Đăng bởi shopvothuat III. Vụ cố ý gây thương tích Lê Ngọc Lâm (Lâm “Chín Ngón”) Lê Ngọc Lâm sinh năm 1945 tại Hà Tây. Năm 1954, theo mẹ và bố dượng di cư vào TP HCM. Đến năm 1957 thì bị bố dượng đuổi ra khỏi nhà, bắt đầu cuộc sống lang thang. Quá trình ở ngoài xã hội đã giao du với các phần tử xấu hoạt động phạm pháp, bị chính quyền Sài Gòn bắt giam nhiều lần về các tội: trộm cắp, cưỡng đoạt, đánh người, giết người… Từ năm 1966 đến 1968, bị bắt đi trại tập trung tại Phú Quốc. Từ năm 1970 đến 1975, bị giam tại Côn Đảo. Năm 1975-1988, chính quyền cách mạng vẫn tiếp tục giam giữ cải tạo sau đó trả tự do (BL: V3 T1: 37, 131, 132, 133, 134). Năm 1995-1996, có quan hệ mật thiết với Minh Samasa, trùm xã hội đen chuyên hoạt động cưỡng đoạt, trốn thuế tại cảng cá Vũng Tàu sau đó đã bị lực lượng công an xoá sổ. Với bề dày hoạt động tội phạm như vậy, Lâm “Chín Ngón” được giới tội phạm tôn sùng như một “đại ca”. Lợi dụng hoàn cảnh của Lâm khi mới ra tù gặp nhiều khó khăn, Trương Văn Cam đã tìm cách “giúp đỡ” Lâm với ý đồ để Lâm bị mang ơn mà thực hiện các yêu cầu phạm pháp của Trương Văn Cam sau này, bằng cách nói với anh Mười Đen cho Lâm một phần hùn bán đồ điện tử tại chợ Huỳnh Thúc Kháng. Kinh doanh được một thời gian thì anh Lâm và anh Mười Đen mâu thuẫn nhau, hai người chia vốn không làm chung nữa. Anh Lâm chuyển sang quận 10 buôn bán thuốc tây. Đồng thời, Năm Cam lại hùn hạp với Tư Râu, Mười Đen, Chín Cam thuê mặt bằng tại 49 Huỳnh Thúc Kháng buôn bán hàng điện tử. Thấy Năm Cam làm ăn phát đạt, Lâm thường qua lại kiếm chuyện chửi Mười Đen, thỉnh thoảng còn chửi xiên xỏ Năm Cam: “Tụi bay dựa hơi Năm Cam, tao thách tụi bay kêu Năm Cam ra đây” (BL: V3 T1: 47, 53). Bắt đầu từ thời điểm này, mâu thuẫn giữa hai người phát sinh. Tiếp đến năm 1995, bà Nguyễn Thị Mai chủ vựa cá tại chợ Cầu Ông Lãnh có hợp đồng tiêu thụ cá với Xí nghiệp đánh cá Kiên Giang. Khi chuyển ngư trường về Vũng Tàu thì bị một số tên xã hội đen hăm doạ giết và cản trở việc kinh doanh cá. Bà Mai đã tìm cách liên hệ với nhóm người này qua điện thoại để xin được yên ổn làm ăn thì được trả lời người quyết định việc này là anh Lâm. Nguyễn Hữu Thế Trạch (con rể bà Mai) đã nhờ Năm Cam nói với Lâm để được giúp đỡ. Việc vai trò của Lâm rất đặc biệt đối với giới xã hội đen ở Vũng Tàu và việc một “ông trùm” như Trương Văn Cam lại phải đi xin Lâm giúp làm danh dự của bị tổn thương, nhưng vì nể Trạch, Trương Văn Cam đã phải nhịn nhục, đích thân cùng Trạch tới nhà Lâm để nói với Lâm: “Đây là thằng cháu có gì nhờ anh giúp” (BL: V3 T1 : 44, 51, 54). Khoảng năm 1997-1998, có lần Lâm mời Trương Văn Cam đến uống bia tại nhà hàng karaoke trên đường Trần Hưng Đạo, quận 5. Khi thấy một số đàn em của Lâm mời Trương Văn Cam uống bia và tỏ vẻ thân thiện, Lâm chửi đàn em ” Đ…mẹ bọn bay, nó là thằng cờ bạc chứ là gì mà tụi bay xum xoe nó”. Ngoài ra, còn có thông tin đến tai Trương Văn Cam (Bình Kiểm nói) là Lâm muốn gây chuyện với Cam. Tháng 7/1999, vợ Lâm điện thoại tới nhà Trương Văn Cam, yêu cầu Cam phải tới nhà Lâm trao đổi công chuyện, nếu không đến mai mốt đừng trách. Tất cả những mâu thuẫn trên đã làm cho Trương Văn Cam hết sức bực bội và quyết định thanh toán Lâm để loại trừ hiểm hoạ (BL: V3 T1 : 44, 50, 52, 54). Tối ngày 9 hoặc 10/7/1999, Vũ Hoàng Dung (Dung Hà) hộ khẩu thường trú tại số 1/23 phố Trạng Trình, phường Phan Bội Châu, quận Hồng Bàng, TP Hải Phòng, tạm trú tại số 19 Bùi Thị Xuân, quận 1, TP HCM đi xe máy do Nguyễn Duy Quân (Quân béo) hộ khẩu thường trú tại số 22/10 đường Trần Nguyên Hãn, phường Cát Dài, quận Lê Chân, TP Hải Phòng, tạm trú tại số 448/3G đường Nguyễn Tất Thành, phường 18, quận 4, TP HCM chở đến nhà Trương Văn Cam ở số 107/38 đường Trương Định, phường 6, quận 3, TP HCM để thăm Trương Văn Cam bị ốm. Trong lúc Trương Văn Cam nói chuyện với Vũ Hoàng Dung có Nguyễn Duy Quân cùng ngồi nghe. Cam nói với Dung Hà: “Có Lâm “Chín Ngón” thường nói xấu anh, làm mất uy tín của anh giữa đám đàn em của Lâm. Em xem cho đứa nào chém cho Lâm “Chín Ngón” vài dao để nó không kiếm chuyện với anh nữa”. Vũ Hoàng Dung nói: “Chém làm gì, vì mang dao đi lình kình, cho nó một ca axít”. Trương Văn Cam đồng ý và gọi điện cho Nguyễn Văn Thọ (Thọ “Đại Uý”) đi mua axít. Hôm sau, Thọ mang axít về đựng trong bình nhựa màu trắng (loại can nhựa 1 lít) đưa cho Dung tại nhà Trương Văn Cam. Vũ Hoàng Dung hỏi Trương Văn Cam mặt Lâm chín ngón. Trương Văn Cam đã chỉ số nhà Lâm chín ngón ở 297, đường 3-2, quận 10 và tả hình dáng Lê Ngọc Lâm cho Vũ Hoàng Dung. Dung đổ một ít axít trong can xuống cống thoát nước tại nhà Trương Văn Cam để thử và và chê axít này loãng quá không đạt yêu cầu rồi nói với Trương Văn Cam để em mua axít đậm đặc, Cam đồng ý. Sau đó, Quân chở Dung đem theo can axít còn lại về số 19 Bùi Thị Xuân, quận 1, nơi Dung tạm trú, cất can axít và hai người tiếp tục đi đến ngã tư đường 3-2 – Sư Vạn Hạnh (khu vực nhà Lê Ngọc Lâm). Tại đây Quân ngồi uống nước mía còn Dung đi bộ cách xa chỗ Quân ngồi khoảng 100 m, gặp và nói chuyện với Nguyễn Văn Thọ và 3 thanh niên nữa nhưng Quân không biết tên. Sau đó, Quân lại chở Dung về số 19, Bùi Thị Xuân, quận 1 (BL: V3 T1 : 45, 48, 50, 56). Khoảng 20h15″ ngày 14/7/1999, sau khi dọn hàng xong, Lê Ngọc Lâm chở vợ là Nguyễn Thị Kim Liên cùng con trai 4 tuổi đi ăn tối tại quán phở Lài trên đường Cửu Long thuộc cư xá Bắc Hải phường 15, quận 10, TP HCM. Khi đến nơi, chị Liên và con trai vào bàn ngồi trước (lúc này khoảng 20h30″), Lâm đang dựng xe máy thì bị một thanh niên khoảng 30 tuổi đi đến cầm chiếc ca nhựa màu đỏ đựng axít bất ngờ tạt vào mặt và bỏ chạy sang bên kia đường, nhảy lên chiếc xe máy đang nổ máy đợi sẵn bỏ chạy. Lâm hét lên và gục xuống. Chị Liên cùng mọi người đưa Lâm đến cấp cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy (BL: V3 T1 : 15-35). Kết quả giám định pháp y tại bản giám định y-pháp số 41/GĐYP ngày 18-5-2002 của Viện Y học Tư pháp Trung ương – Bộ Y tế khu vực phía Nam kết luận: Tổn thương do bị tạt axít để lại di chứng sẹo xấu vùng mặt gây ảnh hưởng thẩm mỹ bình thường của mặt, tổn hại toàn bộ mi mắt, hở mi, sau đã ghép da phục hồi, tổn hại giác mạc gây sẹo mộng thịt giả co kéo giác mạc, tổn hại hai bên, giảm thị lực nghiêm trọng. Tổn thương bỏng do bị tạt axít đã gây ảnh hưởng về mặt tâm lý cho nạn nhân. Tỷ lệ tổn hại sức khoẻ toàn bộ vĩnh viễn là 75% (BL: V3 T1: 9). Được tin báo của quần chúng, công an phường 15, quận 10 đã đến ngay hiện trường đưa Lâm đi cấp cứu, đồng thời ghi lời khai của những người biết việc. Thu tại hiện trường một chiếc ca nhựa màu đỏ có quai, cao 11,3 cm, đường kính miệng ca 9,7 cm, đồng thời tiến hành ghi lời khai ban đầu của Lâm. Ngày 15/7/1999, công an phường 15 báo cáo và chuyển hồ sơ ban đầu cho trực ban đội Cảnh sát Điều tra công an quận 10 (BL: V3 T1 : 15-24). Quá trình thụ lý vụ án, Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Bộ Công an đã xuống công an quận 10 để xác minh thì được báo cáo hồ sơ đã bị thất lạc. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an chỉ thu được bản phôtô hồ sơ ban đầu của công an phường 15 còn lưu lại tại phòng Cảnh sát Hình sự công an TP HCM và chiếc ca nhựa màu đỏ thu được ở hiện trường do công an quận 10 chuyển giao (BL: V3 T1 : 127, 128, 129, 130). Sau khi bị tạt axít gây thương tích, Lâm không dám tố cáo mặc dù nghi vấn chủ mưu việc này do Trương Văn Cam (vì sợ thế lực của Trương Văn Cam trong giới giang hồ). Nếu tố cáo, sẽ liên lụy đến bản thân và gia đình. Đến khi Trương Văn Cam bị bắt trong vụ án khác, ngày 12/12/2001, Lâm mới gửi đơn đến cơ quan pháp luật tố cáo sự việc trên. Trước cơ quan điều tra, Trương Văn Cam đã thừa nhận toàn bộ việc chủ mưu để Vũ Hoàng Dung tổ chức thực hiện việc tạt axít Lâm “Chín Ngón” như nêu trên. Lời khai của Nguyễn Duy Quân, người trực tiếp chở Dung Hà tới nhà Trương Văn Cam, chứng kiến cuộc trao đổi giữa Cam với Dung Hà, chứng kiến việc Cam giao nhiệm vụ tạt axít cho Dung, việc thử axít, việc nhận diện Lâm “Chín Ngón” (BL: V3 T1: 96, 97, 98, 99) phù hợp với lời khai của bị can là chứng cứ khẳng định vai trò chủ mưu của y. Anh Lê Ngọc Lâm có trình bày với cơ quan điều tra: Trước khi anh bị tạt axít khoảng hơn 30 phút, anh có nhận một cuộc điện thoại của người có tên Phạm Sinh bán dụng cụ y khoa tại Trung tâm Thương mại quận 10, rủ Lâm cá độ bóng đá. Cũng ngay sau đó có 4 người gồm: Đặng Huy Hải (Nam lùn), Nguyễn Phúc, Hoàng nổ (còn gọi là Hoàng MEXICO) cùng một thanh niên nữa đi hai xe máy đến nhà Lâm tại số 297, đường 3-2 quận 10 rủ Lâm đi nhậu nhưng Lâm không đi. Cơ quan điều tra đã triệu tập ghi lời khai của Phạm Sinh, Đặng Huy Hải (Nam lùn), Nguyễn Phúc đều khai không quen biết gì với Lâm, không có quan hệ gì, không biết số điện thoại của nhà Lâm và chưa bao giờ rủ Lâm đi nhậu. Cơ quan điều tra đã cho Lâm và Đặng Huy Hải đối chất nhưng anh Hải vẫn khẳng định không quan hệ và chưa bao giờ đến rủ Lâm đi nhậu. Người có tên là Hoàng “Nổ” (còn gọi là Hoàng MEXICO) chạy xe ôm ở cổng Trung tâm Thương mại quận 10, cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không biết họ tên thật và địa chỉ cư trú và từ năm 2001 Hoàng không còn chạy xe ôm ở đó nữa (BL: V3 T1: 74 – 84). Theo nguồn tin của quần chúng thì Hoàng “nổ” hiện làm cho Tân “Hói” buôn bán xe ôtô ở quận 4. Cơ quan điều tra gọi hỏi Nguyễn Trọng Hoàng (Hoàng “đệ”) đang làm thuê cho Tân “Hói” hiện ở 240 Đoàn Văn Bơ, phường 14, quận 4 nhưng Hoàng không thừa nhận có quan hệ với anh Phạm Sinh, Nguyễn Phúc, Đặng Huy Hải. Các anh Sinh, Phúc, Hải và cả Lâm, người bị hại, cũng xác định Hoàng “Đệ” không phải là Hoàng “Nổ” (BL: V3 T1: 123, 125). Do vậy cơ quan điều tra thấy không đủ cơ sở kết luận số đối tượng mà Lâm tố cáo có liên quan đến vụ án. Dương Hà Thanh (Thanh “Xoăn”) phạm nhân đang cải tạo tại A2-V26 – Bộ Công an khai báo: Tháng 12/1992, Trương Văn Cam triệu tập đàn em đến quán cà phê số 50 Nguyễn Huệ, quận 1, để bàn việc xử lý Lâm do Lâm coi thường và làm nhục Cam, thường quậy phá các sòng bạc do Cam tổ chức. Trương Văn Cam giao cho nhóm tội phạm đâm thuê chém mướn gốc Hải Phòng là Thành (Thành “Chân”) đang định cư ở nước ngoài, Quốc “Lủi”, Long “Rắn”, Thuỷ “Ba Thỏ”, Dũng “Bắc Cạn”, Sơn “Con”, Tuấn “Cơm”, Văn “Con” (đã chết), Tiệp “Chó”, Tới “Hen” (đã bị tử hình về tội giết người) tổ chức đánh nhau tại cầu Công Lý (sở dĩ chọn điểm này vì đây là địa bàn giáp ranh giữa phường 7 quận 3 và phường 16 quận Phú Nhuận có nhiều đường ngang ngõ tắt dễ bề tẩu thoát) với băng nhóm của Lâm chín ngón gồm: Sáu “Nhỏ”, Đức “Năm Nghệ”, Châu “Râu”, Út “Dẹp”, Long “Lòi”, Tuấn “Điên”, Hùng “Chuột”, Cu “Sún”, Quý “Heo”. Kết quả là Tuấn “Cụm” bị chém vào vai trái, Tiệp “Chó” bị chém trúng bàn tay phải, Út “Dẹp” bị chém trúng lưng và một số tên khác bị chém vào đầu và tay. Cuối cùng băng của Lâm đã thua và bỏ chạy (BL: V3 T1: 119 – 122). Cơ quan điều tra đã tiến hành ghi lời khai Lê Kim Quyền (Cu “Sún”) hiện bị tạm giam tại trại Chí Hoà về tội mua bán ma tuý, từ năm 1990 đến 1997, Cu “Sún” đang thụ hình trong trại Tống Lê Chân nên không thể tham gia đánh nhau tại cầu Công Lý vào năm 1992 được. Dũng “Bắc Cạn” không thừa nhận tham gia đánh nhau đêm 23/ 12/1992 vì đầu năm 1993 Dũng mới vào TP HCM. Đức “Năm Nghệ” khai không biết sự kiện đêm 23/12. Trương Văn Cam, Lê Ngọc Lâm đều không công nhận tổ chức vụ đánh nhau như nêu trên. Do vậy không có cơ sở kết luận lời khai của Dương Hà Thanh là đúng sự thật (BL: V3 T1: 100 – 104, 108, 117, 118). Căn cứ vào tài liệu điều tra thu thập được, kết luận: Giữa Lê Ngọc Lâm và Trương Văn Cam có mâu thuẫn gay gắt với nhau trong việc tranh giành quyền lợi, vị trí ngôi thứ trong “thế giới ngầm”, Trương Văn Cam quyết định thanh toán Lâm, tiêu diệt Lâm để ngăn ngừa hiểm hoạ về sau. Để tránh bị bại lộ từ phía nạn nhân và cơ quan công an, Trương Văn Cam đã chỉ đạo Vũ Hoàng Dung, trùm “xã hội đen” gốc Hải Phòng, tổ chức thực hiện tạt axít Lâm “Chín Ngón”. Hành vi sử dụng axít đậm đặc với thể tích lớn tạt vào mặt và đầu nạn nhân là rất nguy hiểm, xâm hại tới sức khoẻ, thẩm mỹ và cả sinh mạng của Lâm. Nhưng do Lâm có thể lực tốt, lại được cấp cứu kịp thời nên thoát chết, nhưng bị thương tật rất nặng (tỷ lệ 75%), đã cấu thành tội cố ý gây thương tích được quy định tại điều 104 Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này, Trương Văn Cam giữ vai trò chủ mưu, Vũ Hoàng Dung giữ vai trò tổ chức thực hiện, Nguyễn Văn Thọ là người mua axít và chỉ nhà, chỉ mặt Lê Ngọc Lâm cho Vũ Hoàng Dung nhận diện. Nhưng do Vũ Hoàng Dung đã bị bắn chết ngày 2/10/2000 nên không khởi tố bị can đối với Dung. Nguyễn Văn Thọ đã bị khởi tố bị can, nhưng do y bỏ trốn nên cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định truy nã, khi nào bắt được sẽ xử lý sau. Mặc dù quá trình điều tra rất công phu nhưng tới nay ngoài Vũ Hoàng Dung, kẻ trực tiếp tổ chức thực hiện vụ tạt axít, cơ quan điều tra chưa tìm thêm kẻ mà Dung Hà cử trực tiếp tạt axít anh Lê Ngọc Lâm. Hành vi của Trương Văn Cam đã phạm vào tội cố ý gây thương tích, tội danh được quy định tại khoản 3, điều 104 Bộ luật Hình sự.
Những vụ việc đình đám của giới giang hồ SG một thời vang bóng này cũng hay quá ! đáng để lưu trữ, nhưng bác sưu tập từ nguồn nào mà nhiều lỗi chính tả quá ...
Sài Gòn thời loạn: Điền Khắc Kim .tgvh Hắn là một trùm chuyên đột nhập vào gia đình của những người Mỹ giàu có để trộm cắp. Số tiền mà hắn lấy được chủ yếu được dành cho những cuộc ăn chơi phè phỡn. Những thói chơi bệnh hoạn đã biến hắn thành một giang hồ khét tiếng. Xưng tên xong, Điền Khắc Kim còn cẩn thận viết cái tên này ra giấy ném lại cho cô gái. Trước khi rút lui, không hiểu sao hắn còn giải thích: - Cô may mắn đấy. Tôi chỉ trả thù mấy thằng Mỹ chứ không trả thù người Việt. Ngay tức khắc, báo chí Sài Gòn lại tranh nhau chạy những hàng tít giật gân về vụ cướp nhà người Mỹ, với đích danh thủ phạm là Điền Khắc Kim, dù chẳng ai có thể xác định được ai là Điền Khắc Kim giữa thành phố 4 triệu dân này. Chưa hết, nhiều tớ báo còn nhanh nhảu tự điều tra, gán thêm rất nhiều nguyên nhân ly kỳ rùng rợn, biện minh cho hành động làm nhục nạn nhân của Điền Khắc Kim ở các vụ trước đó là để “trả thù dân tộc”?! Sau vụ cướp này, để tránh bị tóm, Điền Khắc Kim đăng ký đi quân dịch, với cái tên giả là Lê Minh Hùng, hắn trở thành một binh nhì mang số quân 71/116964 của Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 48 bộ binh ngụy. Ba tháng quân trường vừa kết thúc, máu giang hồ lại trỗi dậy, hắn lại đào ngũ về Sài Gòn tiếp tục đi ăn cướp. Tháng 5 năm 1970, Điền Khắc Kim đột nhập vào nhà một người Mỹ là giám đốc Hội cha mẹ nuôi Quốc tế trên đường Trần Qúy Cáp (nay là Võ Văn Tần). Đi đêm lắm có ngày gặp ma, trong khi hắn đang sắp sửa giở trò đồi bại với bà vợ ở phòng ngủ thì trong phòng tắm ông giám đốc đã cởi được dây trói, chạy thoát ra ngoài gọi cảnh sát. Hoảng quá, hắn vội bắt cóc bà vợ làm con tin và tẩu thoát xuống quận 8. Sau khi hành hạ bà đầm chán chê, Điền Khắc Kim đã gọi taxi đưa trả bà về với ông chồng Mỹ. Vì sự liều lĩnh bỡn cợt này, hắn đã bị cặp vợ chồng người Mỹ kia nhận diện và bị bắt, phải ra tòa lãnh án 20 năm tù. Vào trại Chí Hòa, họp mặt với toàn những tay anh chị đầu trâu mặt ngựa, Điền Khắc Kim dù không băng đảng, người không một hình xăm vẫn nghiễm nhiên được đám tù hình sự xếp vào “chiếu trên”. Sự táo tợn, liều lĩnh và những cú “trả thù dân tộc” được các báo lá cải khai thác tối đa đã vô tình tạo cho Điền Khắc Kim một lai lịch đầy ánh hào quang, khiến những tên du thủ du thực phục lăn phục lóc. Nhờ có sự hỗ trợ của những tên đại bàng cộm cán ở Chí Hòa, Điền Khắc Kim có đủ tiền để mua được một tờ “giấy đi phép”, tức được phép tự do ra ngoài 12 hoặc 24 giờ, sau đó về trình diện. Lợi dụng “giấy đi phép” hắn trốn luôn. Vừa ra khỏi nhà giam, hắn đã mò vào nhà một tên thiếu tá CIA Mỹ để cướp. Là một quân nhân quen hoạt động trong bóng tối, tên “xịa” không dễ gì để bị Điền Khắc Kim bắt nạt, đã kịp thời móc súng chống trả. Đang loay hoay trèo qua ban công, tính nhảy từ lầu hai xuống đất, Điền Khắc Kim đã bị tên thiếu úy CIA quất trúng một viên đạn vào bụng, sụm ngay tại chỗ và bị cảnh sát ngụy tóm cổ, đưa vào Tổng Y viện Cộng hòa (nay là Quân Y viện 175) chữa trị. Vết thương vừa tạm bình phục, người còn xanh rớt như tàu lá, Điền Khắc Kim lại cưa còng trốn thoát. Sau mấy tháng nằm dưỡng thương, hắn lại lên kế hoạch tấn công một nhà buôn Mỹ trên đường Công Lý (nay là Nguyễn Văn Trỗi), cướp được 5.000 USD và 20 triệu đồng. Đúng lúc hắn đang hành hạ nữ nạn nhân người Mỹ xinh đẹp thì ông chồng bà ta trở về. Một cuộc đọ súng nổ ra. Trước khi ngã quỵ vì đạn khẩu Colt 45 của tên tướng cướp, tay nhà buôn Mỹ cũng đã kịp bấm cò tặng cho tên tướng cướp một viên vào ổ bụng. Vết thương quá nặng, Điền Khắc Kim đã không còn cơ hội để trốn tù. Lần này, vì là một quân nhân, phạm tội khi đang đào ngũ, Điền Khắc Kim đã bị tống vào quân Lao Gia Định, nơi giam giữ toàn những tên du đãng xuất thân từ lính tráng. Vào tù, để “giựt le” với đám du đãng đu thần thất học, Điền Khắc Kim tự khai đã học hết đệ nhị (lớp 11), dù kỳ thực hắn chưa hề học hết trung học đệ nhất cấp (cấp 2), kiến thức bị gió giang hồ thổi bay gần hết nên chữ xấu như gà bới. Lờ tịt sự khai man này, chỉ nhằm lợi dụng uy thế của tên tướng cướp lừng danh để trị bọn tiểu yêu trong quân lao, đám cai ngục ở đây đã phong cho hắn cái chức “thư ký quân lao”. Dù là tên cướp đang ở tù, hắn vẫn ăn mặc tử tế như một sinh viên với áo sơ mi đóng thùng cẩn thận, trên nắp túi còn gắt thêm một cây viết paker cho thêm phần tri thức. Có một điều kỳ quái là, trong giới giang hồ, ngôi vị cao thấp thật sự chỉ được phân định rạch ròi khi ở… trong tù. Là “thư ký đề lao”, nghiễm nhiên Điền Khắc Kim trở thành vua một cõi. Đó là chính là lúc bản chất lưu manh mạt hạng của tên tướng cướp bộc lộ đầy đủ nhất. Không có gì để nghi ngờ, việc Điền Khắc Kim trở thành hung thần, chuyên cướp, hiếp những người Mỹ giàu có khởi nguồn từ cái chết bi thảm của Helen Diễm, mục đích chính là để trả thù. Nhưng, đó chỉ là những vụ đầu tiên, còn sau này, hắn đi cướp chỉ vì một mục đích duy nhất: kiếm tiền ăn chơi phè phỡn. Diễm chỉ là kỷ niệm thoáng qua, một màn sương mờ cay nồng khói pháo, một gam màu lạ để Điền Khắc Kim tô vào bức tranh đầy hào quang ảo cho thêm phần thê thiết. Đích thực, hắn là một tên bệnh hoạn. Mỗi lần cướp về, hắn thường xổ tung tiền, vàng cho chúng bay vung vãi khắp nhà rồi nằm lăn lộn trên đó để tìm khoái cảm. Trong tù, bao nhiêu tiền làm luật hoặc do đàn em cống nộp, Điền Khắc Kim trải đầy ra dưới tấm drap để “nằm cấn lưng nghe kêu rột rột đã tai chơi”. Đồng tiền được phong thánh thì nhân cách hóa tên đồ tể. Điền Khắc Kim không tiếc tay đánh đập đàn em, những tên tù hạng tép riu tứ cố vô thân, để thị oai và tiêu khiển. Và, khi gặp đúng đối thủ, hắn sẽ phải trả giá cho điều đó. Sự buông lơi kỷ luật đã khiến khối hình sự trại giam Chí Hòa ngày càng trở nên hỗn loạn, đâm chém, thanh trừng nhau diễn ra liên miên. Không chịu nổi, cuối năm 1974, nhà tù Chí Hòa đã tiến hành một đợt thanh lọc, tống những tên đầu bò đầu bướu nhất của trại này sang quân lao Gia Định để tiện bề quản lý, tất cả có 32 tên. Vừa đến nơi ngồi tù mới, nhưng tên cộm cán này đã la ó vang trời tính chuyện “làm reo”. Là “thư ký đề lao”, Điền Khắc Kim cũng có mặt trong buổi tiếp nhận những thành viên mới. Muốn thị oai, hắn xông ra quát: - Muốn làm loạn hả? Không biết ông nội bay đang ở đây sao? Nổi nóng, Lâm chín ngón nhảy xổ ra: - Mày là thằng chó nào? Điền Khắc Kim tức lắm bảo: - Đừng lộn xộn, ông nội mày là Điền Khắc Kim đây. Lời hắn chưa dứt, Lâm chín ngón đã nhảy xổ tới, một tay kẹp ngang cổ họng, một tay rút luôn cây paker trên túi áo hắn đâm thẳng xuống đầu kẻ mạnh mồm. Hung hăng nhưng nhỏ con, Điền Khắc Kim không chọi lại gã hộ pháp Lâm chín ngón, cứ quẫy đạp lung tung nhưng vẫn không thoát, lãnh nguyên nhát đâm vào giữa trán. May cho hắn, đầu bút chọc trúng vết thẹo cũ do đạn của Biệt đội hình cảnh trước đây tặng. Thẹo trơn, vết đâm chệch đi nên Điền Khắc Kim không chết nhưng máu cứ tuôn xối xả, đỏ lòm khuôn mặt. Đến lúc đó, Lâm Chín ngón mới chịu buông tay, vứt “thằng oắt” sang một bên mặc cho hắn kêu la chói lói. Sau trận đó, Điền Khắc Kim mới hết ngổ ngáo, tỏ ra biết điều hơn. Tháng 4 năm 1975, sau khi phân loại, Điền Khắc Kim và một loạt tù trọng án tại quân lao Gia Định bị đổ xuống tàu, tống ra Côn Đảo. Tàu cập bến ngày 22/4/1975 thì 8 ngày sau, Côn Đảo giải phóng. Lợi dụng tình hình lộn xộn, Điền Khắc Kim và nhiều tên tù hình sự khác đã đánh lính gác, cướp súng chạy thoát ra ngoài. Vừa được hít thở khí trời, hắn đã lập tức xông vào khu gia binh, gây liền hai vụ cướp tại nhà hai cảnh sát chế độ cũ. Côn Đảo đã giải phóng, thù dân tộc không còn nhưng trò đồi bại thì vẫn tồn tại, tên súc sinh đã không quên cưỡng đoạt vợ hai bà vợ lính rồi rút lên núi trốn. Nhưng chỉ ba hôm sau, hắn đã bị lực lượng quân quản của đảo tóm cổ. Sau một thời gian thụ hình tại Côn Đảo, Điền Khắc Kim được chuyển về trại giam Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Tại đây, giữa tháng 5 năm 1978, cùng với tên Nguyễn Ngọc Á – một trí thức ngồi tù vì tội… buôn heo lậu. Điền Khắc Kim đã cạy vách tôn nhà xí phòng giam trốn trại, sau đó trốn về Sài Gòn, lén lún trốn tại nhà vợ bé ở đường Hưng Phú, quận 8. Trước khi trở thành tên tướng cướp lừng danh (1968), Minh con đã lấy vợ, - một phụ nữ bình thường nhà ở đường Tôn Đản, quận 4. Khi vợ sinh con đầu lòng, gió giang hồ đã cuốn Minh con đi mất, vợ con hầu như chẳng được mấy lúc đoái hoài. Tiền bạc cướp được, hắn chỉ ăn chơi, đập phá cho kỳ hết, chẳng giúp gì được vợ con. Đã thế, hắn lại còn đeo thói trăng hoa. Năm 1969, trong một lần trốn sự truy lùng của biệt đội hình cảnh ngụy tại khu vực Bến Tàu, quận 8, hắn tình cờ gặp chị Phạm Thị Dung. Khuôn mặt ưa nhìn của cô gái bán sương sâm đã khiến tên cướp sa cơ thoáng chạnh lòng. Ngoắt chị Dung lại, tướng cướp Điền Khắc Kim gọi một lúc 10 ly sương sâm, ngồi tì tì húp. Xong xuôi, hắn chùi mép, bảo: - Đói quá, tôi ăn sương sâm trừ cơm. Bữa nay không có tiền, em cho tôi thiếu, mai mốt muốn bao nhiêu tôi trả bấy nhiêu. Khuôn mặt hiền lành, khắc khổ, giọng nói có vẻ thành thật khiến cô gái bán sương sâm nghèo không nỡ làm dữ, chỉ im lặng thở dài và quảy gánh đi. Độ một tuần sau, khi quay trở lại chỗ cũ, chị đã thấy Minh con đứng từ xa toét miệng cười. Đưa cho chị một xấp tiền dày cộm, hắn bản: - Khỏi thối, để đó tôi ăn sương sâm trừ dần. Rồi hắn lại bắt chị ngồi múc từ từ đủ 10 ly để hắn ngồi nhẩn nha ăn, vừa ăn vừa nói đủ thứ chuyện huyên thuyên chi địa. Khi số sương sâm đã đủ với số tiền Minh con đưa thì cũng đủ thì giờ để cô chủ buông đòn gánh nằm vào lòng hắn. Hắn bảo: - Anh làm công nhân, nghèo, không có tiền làm đám cưới, em chịu không? Thở dài, chị lại gật đầu. Đã thương rồi thì không đám cưới với ăn sướng sâm thiếu nào có khác gì nhau. …ở với nhau được một mặt con, Dung mới biết mình đã có vợ có con, nhưng ván đã đóng thuyền, cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Lâu lâu hắn tạt về đưa cho chị một số tiền lớn (vừa cướp được) bảo là mới “trúng áp phe”, để chị sửa cái nhà, sắm thêm cho mẹ, cho con vài ba tấm áo mới, thế là đủ mãn nguyện để khoe với láng giềng. Không ngờ cuối năm đó, sau nhiều tháng hắn đi biền biệt, Minh mới ngớ ra: Minh con- anh chồng hiền lành tử tế - lại là Điền Khắc Kim, “tướng cướp cô đơn” khét tiếng. Chị khóc, khóc rất nhiều. Sau ba bốn bận thăm nuôi, chị đánh xem như Minh con đã chết, chị câm nín bán sương sâm nuôi mẹ già và ba đứa con thơ. Đùng một cái, thằng chồng dối trá quay trở lại. Hung thần với ai, tướng cướp với ai, chứ với chị, hắn mãi mãi là một “anh Minh”, cha của ba đứa nhỏ. Khuyên không được, chị cũng không nỡ tố giác chồng, đành nhẫn nhục cưu mang che dấu Điền Khắc Kim, dù chị biết rất rõ chồng mình là tên tù vượt ngục. Với Điền Khắc Kim, tấm lòng người vợ chính là nơi trú ẩn cuối cùng. Vợ lớn của hắn ở đường Tôn Đản, ngay sau khi hắn bị đày ra Côn Đảo đã bán nhà, ôm con đi biệt xứ, không còn trong mong gì nữa… Ở nhà một thời gian, Điền Khắc Kim mò ra đường Hồ Văn Ngà, tìm một người bạn gái cũ đang sống lay lắt bằng nghề bán lạc – xoong (đồ cũ) tính cậy nhờ để tìm sinh kế. Vừa ra đến nơi, hắn đã bị công an phát hiện và bắt giữ, sau đó bị đưa lên cải tạo tại trại Tống Lê Chân (Sông Bé). Ngồi trại đến tháng 7-1983, hắn lại trốn. Con thú dữ xổng chuồng ngày càng liều lĩnh và hung bạo hơn. Vừa đặt chân trở lại Sài Gòn, hắn đã một mình gây ra hàng loạt vụ cướp mới. Lần này đa số nạn nhân của tên cướp hết thời đều là đàn bà, con nít, những kẻ yếu ớt cô đơn. Một lần, vừa cướp được một chiếc xe đạp trên đường Nguyễn Thị Minh Khai (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) thì hắn bị công an vây bắt. Cùng đường, hắn kê súng vào bụng anh công an bóp cò nhưng đạn lép, không nổ nên hắn bị tóm tại trận. Trở vào trại giam, cố hết sức Điền Khắc Kim vận công, gồng bụng làm bục vết thương Mỹ bắn ngày nào. Được công an đưa vào bệnh viện Bình Dân cấp cứu. 3 giờ sáng, lợi dụng lúc anh công an gác cửa đang ngủ, hắn lại bẻ còng trốn thoát. Vì vụ đào tẩu này, dư luận Sài Gòn lại có dịp ồn lên. Trong khi Điền Khắc Kim đang bị truy nã ráo riết thị tại những quầy sách ở đường Đặng Thị Nhu, tại quận 1 lại có kẻ bạo gan xuất hiện xưng danh hắn. Ông ta đi tất cả các quầy sách, gom hết những cuốn “Bố già” của Mario Puzzo mà không hề trả tiền. Nghe xưng Điền Khắc Kim các chủ quầy sách thất kinh, vội đi báo công an. Bị bắt, gã điên này sừng cồ: - Để xem Điền Khắc Kim với bố già Victor Don Carléon ai bảnh hơn ai. Nó ngon, tôi thách nó đấu súng.Không thể nhốt một gã điên, công an đành phải cho xe chở hắn về chỗ cũ. Được thả, hắn phải đối quyết liệt: - Sao không bắt tôi? Người ta bảo: - Ông có tội gì mà bắt? Hắn tỉnh queo: - Sao không? Điền Khắc Kim là tôi, kẻ cướp, hiếp, bắn lòi ruột cả chục thằng Mỹ, sao không có tội? Tiếng tăm đen đúa lẫy lừng là thế nhưng đoạn cuối cuộc đời ngang dọc, Điền Khắc Kim đã tự biến mình thành một tên lưu manh mạt hạng. Không còn những vụ đột nhập xuất quỉ nhập thần, không còn các phi vụ đột nhập rượt đuổi và đấu súng dữ dội, cũng không còn vương mùi thuốc pháo đớn đau hay bị ngọt mát lãng mạn của ly sương sâm bên bến tàu vất vả, cái còn lại của hắn chỉ là những vụ trộm cắp, cướp giật vặt vãnh của một tên hạ lưu bần tiện. Lần cuối cùng, hắn bị dân phòng phường 12, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh tóm cổ trong đêm khi đang tẩu tán chiếc xe đạp và mớ quần áo do một đàn em tên là Lê Văn Thanh trộm được ở một căn nhà bên cầu Rạch Ông, quận 8. Lúc đó là tháng 4-1985. Khi chị Dung dẫn ba đứa con, đứa lớn 15 tuổi, đứa nhỏ mới lên 3 vào trại giam thăm nuôi, Điền Khắc Kim đã ngượng ngùng cúi mặt. Và khóc, hắn biết thời làm mưa làm gió đã hết. Cái tên Điền Khắc Kim đã vĩnh viễn không còn ám ảnh hay khuấy động được ai nữa. Trong quá trình ngoi lên thánh ông trùm của giới tội phạm Sài Gòn, Năm Cam đã lần lượt thực hiện các bước núp bóng, lợi dụng rồi hạ bệ hàng loạt đàn anh lớn nhỏ. Giang hồ sợ Năm Cam nhất ở điểm hắn không từ bất cứ ai, và sắn sàng xuống tay cực kì tàn bạo để tiêu diệt những kẻ cản đường hắn, cho dù người đó từng là chiến hữu, đàn anh hay có tình đệ tử lâu năm ân nghĩa với y. Ngoài Lâm chín ngòn trở thành tàn phế vì acid, Dung Hà bỏ mạng vì ăn đạn, trong danh sách giang hồ cộm cán bị Năm Cam “lấy số” còn phải kể thêm Hùynh Tỳ, kẻ có thời được giang hồ Sài Gòn xem như nhân vật số 2 chỉ đừng sau Đại Cathay trong nhóm “Tứ đại giang hồ”. Lai lịch một danh xưng Huỳnh Tỳ tên thật là Nguyễn Thuật Lai, sinh năm 1944, hơn Năm Cam 3 tuổi. Có lẽ anh ta là tay giang hồ “có số má” duy nhất từ nhỏ chí lớn vẫn không thay đổi chỗ ở, hàng chục năm nay vẫn sống ở số nhà 4/1 Nguyễn Văn Tráng, quận 1, Tp. Hồ Chí Minh. Năm 1960, học hết đệ tam (lớp 10) ở trường Nguyễn Bá Tòng, chú nhóc Nguyễn Thuật Lai nghỉ ngang, theo cha làm lơ xe đò tuyến Sài Gòn- Nha Trang – Pleicu. Chính nghề lơ xe đường dài đã khiến tên học trò hiền lành nhanh chóng tiêm nhiễm đủ thói hư tật xấu của đàn ông con trai thời chiến. Đến tuổi quân địch, để tránh bị bắt lính, Nguyễn Thuật Lai đổi tên thành Huỳnh Tỳ – một cái tên gắn chết cả đời với nghiệp chướng giang hồ. Góc đường Lê Lai quận 1 có một rạp hát khá nổi tiếng là Aristo. Năm 1954, gánh hát Kim Chung của ông bầu Long di cư vào Nam, lấy rạp Aristo làm đại bản doanh. Ăn theo gánh hát, những trục đường như Lê Lai, Gia Long (nay là Lý Tự Trọng), Nguyễn Văn Tráng…quán ăn, hàng giải khát nổi lên khá náo nhiệt, đồng thời cũng kéo theo không ít dân trộm cắp, móc túi, trẻ bán báo, đánh giày qui tụ . Khu vực này lại gần chợ Bến Thành và ga Sài Gòn. Mỗi lần “móc đổng” (giật đồng hồ), “ăn kẹp” (móc túi) ngoài chợ xong, đám lưu manh thường chạy ngay về khu Lê Lai để trốn tránh. Tam giác Lê Lai – Nguyễn Văn Tráng – Gia Long nhanh chóng trở thành một mảnh đất màu mỡ để hứng hàng ăn cắp, móc túi bán giá rẻ và tổ chức các loại dịch vụ như sòng bài, động chích, tiệm hút, gái…cho đám côn đồ các đảng này ăn khao bằng tiền trộm cướp. Cùng với hai tay anh chị khác là Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế, Huỳnh Tỳ với kinh nghiệm “du thủ du thực” học được trên những chuyến xe đò đường trường đã đứng ra nhận bảo kê toàn bộ các dịch vụ nhám nhúa này. Thằng lơ xe cục tính nhanh chóng ngoi lên vị trí ông trùm, sau hàng loạt những vụ chém lộn tưng bừng với các băng đảng khác. Ngoài Ngô Văn Cái và Ba Thế, dưới trướng Huỳnh Tỳ còn có thêm một loạt đàn em khác như Cu Ba đen, Tâm vồ, Hùng phốc, Luân sún…Trong gánh hát, bầu Long cũng thu hút thêm những tay đao búa nổi tiếng một thời tại Hà Nội, để làm chân bảo vệ. Đám này gồm Sinh càn, Phúc đen, Tâm ba tai…Ngoài giờ bảo vệ, bọn chúng thường tập trung tại quán Kiều Chánh cạnh rạp Aristo. Ngứa mắt, Huỳnh Tỳ và đàn em đã gây nhiều trận đập lộn tóe lửa với đám bảo vệ này. Để yên thân, bầu Long đã khôn khéo đãi tiệc dàn hòa hai bên, thu dụng luôn cả băng của Huỳnh Tỳ, chấp nhận đặt các ông tướng gốc Hà Nội vào dưới trướng của y đồng thời để cho Huỳnh Tỳ và đàn em ra vào rạp Aristo tùy thích. Khi quân đã hùng, tướng đã mạnh, nội các tam đầu chế gồm Tỳ, Cái, Thế thường tụ nhau bia rượu, bài bạc suốt ngày tại rạp hát Aristo cho nên được giang hồ gọi luôn là băng Aristo để phân biệt với băng Cathay do Lê Văn Đại cầm đầu có khu vực hoạt động là chợ Cầu Ông Lãnh, cách đó chỉ hơn nửa cây số Khoảng năm 1964, nhờ sự liều lĩnh của Đại Cathay, băng Cathay bắt đầu mạnh lên. Sau khi diệt băng Bé Bún, quận 4, đâm tên này đổ ruột, Đại dần dần thôn tính được toàn bộ khu Da Heo (đường Nguyễn Công Trứ) của tay anh chị Tám Lâu, thò tay gom luôn cả sòng bạc hẻm 100 của Bảy Sy (anh rể Năm Cam) rồi vươn ra thâu tóm luôn cả sòng bạc của Đực Bà Tiều tại Chợ Cầu Muối…trở thành đại ca có máu mặt nhất của khu vực quận Nhất, quận Nhì và quận Tư. Lo sợ thế lực của băng Cathay sẽ “nuốt” mất cả khi Lê Lai, Huỳnh Tỳ bàn với hai phó tướng Ngô Văn Cái và Thế Aristo tìm các diệt Đại. Rủ thêm Hùng phố và Luân, hai giang hồ cộm cán khác, cả băng Aristo bày tiệc trên lầu rạp hát mời Đai Cathay tới giao lưu. Không mảy may nghi ngờ, Đại Cathay tới ngay. Chưa lên hết cầu thang, Đại Cathay đã chột dạ: Nụ cười đón khách của Thế Aristo đột nhiên thay đổi. Chưa kịp hỏi, Đại Cathay đã bị Thế đạp lộn cổ cầu thang lầu. Cùng một lúc, Tỳ, Cái, Luân, Hùng bốn kẻ phục kích nhất tề rút dao xông vào chém tới tấp. Vừa đỡ đòn, vừa tìm đường thoát thân, Đại Cathay lết ra được khỏi tử địa, mình mẩy đầy thương tích nhưng may mắn thoát chết. Khi những vết thường vừa bắt đầu kéo da non, Đại Cathay đã giắt dao, đơn thương độc mã đi tìm từng tên một để hỏi tội. Huỳnh Tỳ và bốn tên giang hồ đồng mưu lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương trong cùng một hoàn cảnh, là khi chúng đang ngồi nhậu tại quán Kiều Chánh. Nhắm thế không chơi lại Lê Văn Đại, cũng không thể “trải đệm” tên này, vì băng Cathay quá mạnh, Huỳnh Tỳ đành thay mặt cả băng bắn tiếng cầu hòa. Đang say máu, Đại Cathay không nghe, vẫn tiếp tục tìm 5 tên để chém. Hoảng quá cả 5 tên phải mời bầu Long đứng ra tìm Tám Lâu, đàn anh cũ của Đại Cathay nhờ nói giúp. Biết tính Đại Cathay, Tám Lâu lại phải cạy cục nhờ hai tay anh chị lừng danh là Ba Hội và Cảnh Tượng (đều lớn hơn Đại Cathay vài mươi tuổi), bày tiệc tại quán Biên Thùy ở chợ Cầu Muối mời thằng em đến khuyên giải. Nể tình và nể tuổi tác, Đại mới nguôi ngoai, chấp nhận cho Huỳnh Tỳ và 4 tên cùng băng đến dập đầu xin lỗi, để rồi sau đó băng Aristo vĩnh viến xóa sổ, quân tướng đều qui về dưới quyền sai phái của đại ca duy nhất là Lê Văn Đại. Cuộc hợp nhất giang hồ giữa thập kỉ 1960 đã đẻ ra danh xưng “Tứ đại giang hồ” Đại – Tỳ - Cái – Thế, với Đại Cathay, kẻ không đối thủ đứng đầu và xếp phía sau là ba đói thủ của kẻ …không đối thủ. --------------------------------------------------------------------------------
Bi hài chuyện đặt biệt danh trong giới giang hồ .giadinh.net.vn Năm Cao, một giang hồ lừng danh Nha Trang thời Mỹ, khi gặp mặt ai cũng té ngửa. Gã cao chưa đến 1m55… có danh Năm Cao là do thuở còn trẻ đi bán cao dán ở bến xe chợ Đầm. Đại tá Nguyễn Kim Tây, Liên đoàn trưởng Biệt động quân tổng trừ bị quân đội Sài Gòn, trong chuyến hành quân sang Campuchia quyết định tìm lấy một vệ sĩ "ngon" theo cách tướng cao bồi Nguyễn Cao Kỳ. Ông ta xuống tận các tiểu đoàn trực thuộc và sau một hồi kén cá chọn canh, bèn chỉ ngay chóc Hiển Ly. Với gương mặt ma chê quỷ hờn, sẹo chằng chịt và có vẻ nhanh nhẹn, Hiển Ly theo "ông thầy" ra trận. Ngay ngày đầu tiên, loạt đạn pháo 130 ly nã vào bộ chỉ huy, tất cả đều nháo nhào tìm chỗ trốn. Dứt trận pháo, Đại tá Tây không thấy ông vệ sĩ "ngon" của mình đâu. Tìm mãi mới bắt gặp Hiển Ly trong giao thông hào, run như con thằn lằn vừa đứt đuôi. Khi được chất vấn, tay giang hồ Phú Lâm có gương mặt cỡ Bảy Viễn gặp cũng chẳng dám nhìn thẳng… cho biết: Biệt danh Hiển Ly có từ năm 13 tuổi. Một ngày đẹp trời nọ, trong xóm có đám đánh nhau, cậu bé Hiển núp sau cây cột nhà để xem cho tỏ trường náo nhiệt. Nào ngờ một cái ly quên địa chỉ, bay thẳng vào mặt, sinh hậu quả trầm trọng. Ngoài ra, Hiển vốn dĩ vào lính để làm oai trong xóm, chẳng gan dạ máu me gì! Thọ Đại úy, con Tư Sẩm, cháu ruột Năm Cam, chưa hề có một ngày khoác áo lính. Biệt danh "Đại-úy" ra đời từ hẻm 148 Tôn Đản, khi Thọ còn là thằng nhóc vắt mũi chưa sạch. Với lỗ tai giảo (vảnh) nhất xóm, lũ trẻ trứng gà trứng vịt bèn lấy nhân vật phản diện trong vở cải lương "Tìm lại cuộc đời" là Đại úy Gian Thành Giảo đặt cho Thọ. Gọi dài khó nhớ, thế là gọi tắt thành Thọ đại úy! Hiệp Phò mã lại là một kiểu khác. Khi còn là một anh chàng cà lơ phất phơ theo bố vợ bán sơn ở cầu Calmet, bạn bè đem chuyện "mơ làm hoàng đế giang hồ" của ông Năm ra chế giễu, bèn phong chức "phò mã" cho Hiệp. Nhưng nếu gọi Hiệp bằng biệt danh này trước mặt Năm Cam, khó tránh khỏi việc ông trùm khó chịu, tai họa khó lường! Tèo Búa, một giang hồ gốc thủy quân lục chiến ở khu ngã ba Ông Tạ, đàn em Sơn Đảo, có chữ Búa gắn vào tên là do chuyên lận búa Tomahawk, loại búa chiến chuyên dùng của dân da đỏ Apache trong quân đội Mỹ, đi chém lộn. Tên thật Phạm Văn Nữ của Tèo Búa không được dùng vì… mềm quá. Tâm Cá voi, một sát thủ nhứt nhì của Luông Điếc và Năm Cam, tên thật là Nguyễn Văn Thanh sinh năm 1961 ở hẻm 100 Đinh Tiên Hoàng, Bình Thạnh, có hỗn danh chỉ vì hình xăm con cá voi tổ bố ngay bụng. Hài hước hơn, gã còn xăm một mạng nhện ở vành tai và một đầu cọp ở… lưỡi! Thu Chuột, một chị hai giang hồ có số ở Bình Thạnh thì xăm một bầy chuột từ cẳng chân lên tận… phía trên, nên trở thành biệt danh. Trang Chùa, con Luông Điếc - Hà Trề thì biệt danh xuất phát từ một lần đi chơi về khuya bị Luông Điếc cạo đầu chùa. Thế là thành danh! Hùng Inox, luôn che giấu sự thật trắng trợn của biệt danh. Khi được hỏi về chữ Inox kèm tên, Hùng vỗ bụng: Bụng lót inox, hàng này bao đâm! Nghe hoành tráng thật. Nhưng hỏi lại, giang hồ bằng hữu lâu năm của Hùng, thì chúng chỉ trề môi: Nó nhát thít! Gọi là inox vì nó hà tiện… Vậy thôi! Nam Hề, một giang hồ dữ dằn ở Sài thành, có biệt danh lạ như thế chỉ vì… gặp mặt lần đầu, hiểu ngay tắp lự! Gương mặt của gã chẳng khác gì gã Hề trong phim Batman! Không cười mới lạ… Một câu chuyện thành danh khác, hơi xưa nhưng khá buồn cười. Ai cũng nghe đến Sơn Đảo của thập niên 70 ở Tân Bình. Tên thật của y là Vũ Đình Khánh, gốc Hà Nội, gọi theo xóm Cầu Sạn là Sơn. Một hôm Sơn cùng Sơn Méo quịt tiền taxi từ quận 1 về xóm, do tinh nghịch,bị một tốp Thanh niên Bài trừ Du đãng (Nguyễn Cao Kỳ lập ra) bắt, ra tòa với tội danh gán ghép "gian nhân hiệp đảng" tương tự loại hình hoạt động tội phạm có tổ chức bây giờ, tống ra Côn Đảo với mức án 5 năm tù. Sau khi về, hào quang đi đảo gắn vào tên Sơn. Thế là quy tụ được giang hồ ngã ba Ông Tạ. Cộng thêm sự ủng hộ của Thiếu tá Đường nhảy dù, Sơn Đảo nhanh chóng trở thành cộm cán nhất nhì Sài Gòn... dẫn đến cái chết lãng nhách do va chạm với Phạm Bá Y, tức Y Cà lết khu Xóm Đạo Nguyễn Bá Tòng. Rim Ba, một quái xế lừng danh ở khu Vườn Xoài - Phú Nhuận, có biệt danh vì… nổ! Số là, khi ngồi với bạn bè, y khoe vừa ăn được một con Dream III, lúc đó chỉ có Dream II là xịn nhất. Lúc đầu bạn bè tin sái cổ, và chờ xem mặt mũi chiếc xe huyền thoại Dream III. Sau vài năm, kho bom của y bị phá sản. Tên Rim Ba ra đời, quen thuộc đến mức chẳng ai nhớ nổi tên thật của y. Năm Cao, một giang hồ lừng danh Nha Trang thời Mỹ, khi gặp mặt bèn té ngửa! Gã cao chưa đến 1m55… danh Năm Cao là do thuở còn trẻ đi bán cao dán ở bến xe chợ Đầm. Khác với giang hồ miệt trong, giang hồ miệt ngoài đa số có hỗn danh do ghép tên cha hoặc mẹ mà thành. Nhưng đương nhiên, không phải tay giang hồ nào cũng có hỗn danh theo cách… truyền thống ấy. Thắng Bà Dậu, là con bà Dậu, sau nhiều năm bị gọi trại đi trở thành Thắng Tài Dậu. Dung Hà, Dũng Hồ, Thành Trân, Hải Bánh… đều theo môtíp này. Nhưng cũng có những biệt danh phải đổ máu mới có. Tịnh Què, một giang hồ Hải Phòng thuộc vào loại sừng sỏ, gốc Thanh Hóa bị dân quân bắt khi đi ăn trộm, chống trả quyết liệt trước khi thúc thủ đã bị chém trúng chân, thế là què! Tương tự trong Nam có Trung Mặt Quỷ, bị úp hỏa tốc (bao nylon nấu chảy), gương mặt biến dạng thành danh. Kim Hỏa Lò, thành danh trong Nam tuy gốc Hà Nội, thì do gán ghép. Gã chưa từng biết đến trại giam Hỏa Lò nhưng khi vào Sài Gòn cứ tự xưng đã từng tù tội ngoài Bắc. Giang hồ trong Nam bèn tương luôn hai chữ Hỏa Lò vào tên của Kim cho phân biệt và dễ nhớ. Lâm Hổ, một giang hồ khét tiếng thời Hòa Củi, Linh Gù… xăm con cọp trước ngực. Vào trại Phú Sơn, rồi chuyển đến Ba Sao, Kim Bảng, đã quá già. Cọp nhăn nheo theo thời gian, bọn giang hồ kin kin (mới lớn) bèn gọi luôn là Lâm Mèo Già! Lắm khi, hỗn danh cũng nói lên đẳng cấp và tính tình. Với nhiều mức độ khác nhau, những từ Rồ, Hấp, Hâm, Chập, Điên… đều nói lên tính điên, bất chấp tất cả. Khánh Rồ, Hải Hấp, Vượng Hâm, Thắng Chập, Bờ Điên (Lê Văn Bờ)… là trường hợp này. Lâm Già, Sơn Tóc Bạc, Dũng Hồ… 3 tay đàn anh thuộc tay tổ chiếu trên của Cu Lý, Cu Nên, Dung Hà… ở Hải Phòng, có biệt danh từ ngoại hình. Cung Củ Đậu, một đại úy công binh quân đội Sài Gòn, bạn thân Nguyễn Cao Kỳ… xuất thân cùng băng Chemise Noir (Sơ Mi Đen) khét tiếng Trường Bưởi, đã thành danh nhờ chọi đá vào đầu đối phương. Ba năm võ Tầu không bằng một chầu củ đậu! Thiện Chọi, có danh trong giới giang hồ Hà Nội vì Trung tá Xuyên, Giám thị Trưởng trại Nam Hà, Ba Sao, thuở thập niên 80, đã gọi thằng nhóc lì lợm cứng đầu này là "đồ gà chọi"! Biệt hiệu, hỗn danh, biệt danh… giang hồ hết sức tùy tiện và đều có nguyên thủy khá hài hước, nên khi tìm hiểu về chúng, mọi người không khỏi bất ngờ. Nhưng giang hồ lắm chuyện, tránh sao khỏi sự thêu dệt? Những tay giang hồ ngớ ngẩn... Năm Vĩnh, một giang hồ thứ thiệt khác, vốn là bạn thân của Tài Ba Đô… Một hôm, đụng độ với giang hồ chùa Miên (khu Trần Quốc Thảo) Tài hẹn "trải đệm" ở góc Ngô Thời Nhiệm, quận 3. Giờ chót, Tài không đến… Năm Vĩnh tức khí: "Để đó tao tính!". Chính vì câu nói này mà sau đó đã… mang đến cho Năm Vĩnh một bản án tù 20 năm vì tội giết người. Và khi vào trại giam Z30A, y không còn một ai thân thuộc đến thăm, kể cả "thằng bạn thân" Tài Ba Đô! Ngọc Man ở quận 5, giang hồ gọi là ăn trộm thành tinh. Một hôm đi nhập nha ở Bình Thạnh. Xúi quẩy, chủ nhà gặp bằng hữu lâu năm mời về nhà chơi. Canh me hoài, gia chủ vẫn thức trò chuyện, Ngọc thiếp đi trên mái tôn ngáy như bò rống và thức dậy trong trụ sở Công an phường. Tám Răng Vàng, một giang hồ khoác áo lính của vùng cổng xe lửa số 6 (Phú Nhuận) đi cùng lũ bạn vào quán cà phê Uất Kim Hương ở Buôn Ma Thuột. Các loại lính đánh nhau, ném ra một quả lựu đạn M26 lăn lông lốc trước mặt Tám. Cả bàn theo phản xạ, lăn xuống đất chờ tiếng nổ kinh hoàng. Riêng Tám vẫn ngồi yên trên ghế không thèm nhúc nhích. Sau khi xử lý trái lựu đạn, cả bọn trầm trồ khen đại ca bản lĩnh. Đến lúc đó Tám mới lắp bắp: "Tao hoảng quá, không nhúc nhích nổi, bọn mày giúp tao với!... Cứu! Cứu!". Chôm Chôm, một cao thủ nhập nha khác, đi ăn trộm ở khu cư xá Tự Do. Khi vào nhà vắng chủ, chưa kịp khua khoắng gì, chủ bất chợt trở về. Gã hoảng quá chui vào chiếc tủ quần áo để ẩn nấp. Gã cũng không hiểu sao chiếc tủ trống trơn. Sau một lúc gia chủ huyên thuyên với vài thanh niên lực lưỡng, chiếc tủ được khiêng lên xe ba gác. Ngạc nhiên vì chủ nhà bán chiếc tủ quá nặng, nặng trên mức cần thiết, cả nhóm khuân vác quyết định mở tủ xem. Thế là Chôm Chôm chuyển từ “chiếc tủ” nhỏ sang chiếc tủ lớn hơn xây từ thời Pháp thuộc: Khám Chí Hòa! Ngớ ngẩn nhất trong các loại giang hồ ngớ ngẩn là Ngô Văn Cái, tức Woòng Cái. Mang danh của Tứ Đại Thiên Vương Đại Tỳ Cái Thế, nhưng ông ta quyết định rửa tay gác kiếm, vĩnh viễn rời bỏ giang hồ đa sự. Trở về khu Lê Lai, dù sống kiếp vỉa hè nhưng ông ta vẫn có được chiếc xích lô làm phương tiện sinh nhai. Một ngày nọ, 4 tên nhóc ác đến tìm, nhờ anh Cái chở giùm ít vải từ chợ Bến Thành qua quận 4 huyền thoại. Trên đường đi, công an chặn. Đến lúc đó Woòng Cái mới bật ngửa khi biết được số vải ấy do cạy sạp mà có. Ôm mức án 2 năm tù vì tội đồng phạm trộm cắp trở về, Ngô Văn Cái quyết định chỉ chở loại khách có ngoại hình và lý lịch tử tế! Rồi những chuyện thanh toán sặc mùi phim xã hội đen Hồng Kông, đôi khi xuất phát từ những điều ngớ ngẩn đến mức chỉ được nhận ra khi đối tượng đã xộ khám và nạn nhân đã vào bệnh viện. Huệ Sầu Đời, một giang hồ thú dữ ở quận 10, bạn nối khố của cọp dữ Phương Khùng, bị bằng hữu Cu Nhứt thách đâm tay bo khi đã cột tay bằng khăn rằn, loại hình phổ biến ở trại giam Đồng Hòa và Bố Lá, chỉ vì thấy ngồi lù lù một đống, hổng ưa! Hạnh Nhí, con Năm Em khét tiếng thời giang hồ lộn xộn, một hôm đi giật đồng hồ ở rạp Hưng Đạo. Khi nạn nhân giằng lại và thêm vài người can thiệp, Hạnh nổi khùng rút dao đâm bừa. Thế là miệt mài suốt 20 năm trên trại Gia Trung chỉ vì… thuận tay! Đang nhậu vui vẻ, Hùng Xào nổi máu yêng hùng đòi dẹp quán của Chương Còm, Phú Nhuận. Dù vẫn gọi Hùng Xào là anh nhưng Chương không thể bỏ qua. Vài phút sau, Hùng Xào nằm một đống trên vũng máu. Lưng bị chém đến độ rúm ró cả người. Một con cọp Tân Bình suýt mất mạng chỉ vì gọi bia mà quán mang ra chậm… Một vụ hài hước hơn là chuyện của V. trại hòm. Khi Thành Lùn, một giang hồ lâu năm, trở về từ trại giam sau khi đã chung đủ mức án 20 năm, V. đã hơi có chút máu mặt. Mỗi lần tụ tập ăn nhậu ở quận 7, V. hết sức khó chịu khi Thành luôn cho mình là "nhóc con". Chịu hết xiết, V. nhờ thêm một trợ thủ vốn sống lang thang bụi đời từ bé ở quận 4 sang. Cả hai canh me đại ca Thành Lùn suốt mấy ngày. Phát hiện Thành đang ở khu bến đò Tân Thuận, cả 2 lao vào đâm đại ca. Thành quýnh quáng chặn được dao, giật lấy. Kết quả V. bị đâm 2 nhát, gã bụi đời chiến hữu không còn cơ hội lang thang sau khi bị đâm vài nhát chí tử! Thành Lùn bỏ trốn, trên mình không một vết trầy xước… Một đại ca Hải Phòng khác vào lập nghiệp tại TPHCM từ những năm 90 đã suýt mất mạng chỉ vì đãng trí. Gã lên quận 12 chơi với vài tên đàn em đang ăn nên làm ra. Sau chầu nhậu bí tỉ đủ để trở thành con ruột Ngọc Hoàng, gã và đám đàn em cà khịa với thanh niên địa phương. Dù phe ta ít hơn nhưng gã và nhóm đàn em vẫn chủ động tấn công. Bị vây quá rát, gã thò tay vào bụng móc "hàng nóng" ra thị uy. Hỡi ôi, gã để quên ở nhà! Thế là cả bọn tả tơi với trận đòn mang tính dạy dỗ của các du đãng nông dân có cánh tay to hơn bắp đùi giang hồ Hải Phòng! Đỉnh cao trí tuệ của sự ngớ ngẩn, theo giang hồ bình bầu lại thuộc về nhân vật khá nổi tiếng: K.A. Với mộng làm chị hai giang hồ, ngay cả khi anh Năm còn là ông trùm, K.A. ra sức thu phục những tay giang hồ khét tiếng. Nghe đồn về Hùng Xào, ai cũng xào một chảo, không biết ngán ngại ai, K.A. quyết định đầu tư. Cu Nhứt đưa Hùng Xào đến diện kiến K.A. trong một ngày vui vẻ. Hùng Xào đã tự khép cánh đại bàng một thời gian khá dài sau sự cố bị Chương Còm chém te tua, bằng nghề mua bán chó thịt cho hàng loạt tiệm cầy tơ. K.A. đưa cho Hùng Xào 20.000 USD để làm vốn phát triển mạng lưới cờ bạc. Nhận xong tiền, Hùng Xào ra sức phát triển mạng lưới cờ bạc mà K.A. hằng mong mỏi bằng cách nướng sạch 20.000 USD vào sòng bạc người khác. Điên tiết, K.A. cho người đi tìm để nói chuyện phải quấy với Hùng Xào. Nhưng hỡi ôi, giang hồ trốn nợ giang hồ, có trời mà tìm… Thế là toi luôn số tiền nhờ giang hồ đi tìm Hùng Xào. Đã vậy, thông qua hệ thống thông tin liên lạc của giới giang hồ hết sức nhanh chóng và chính xác, Hùng Xào bắn tin: sẽ luộc K.A khi có dịp! Dũng Nhị Tỳ, một giang hồ hùng cứ chợ Xã Tài (chợ Phú Nhuận) có thêm biệt danh Dũng Vịt hơi lạ, liên quan đến vụ trốn trại ngớ ngẩn của mình. Sau khi đã vượt thoát thành công 3 lớp rào, 2 lớp tường và bắt đầu mơ về nơi xa lắm, Dũng chợt… đói bụng. Quay lại khu chăn nuôi của trại, Dũng bắt một con vịt rồi vào rừng tìm cách nướng. Sau khi căng bụng, Dũng đi lạc lòng vòng suốt 2 ngày trong cánh rừng chồi sát bờ sông Sài Gòn và quyết định nhắm hướng trại giam để quay về. Gã tin rằng, về lại trại giam, ít nhất cũng không đến nỗi chết vì đói khát nếu đi lạc trong rừng. May mắn thay, lần này Dũng nhắm hướng khá chính xác. Sau khi trình diện, Dũng xin một bữa no nê rồi tiếp tục thụ hình cho an toàn. Hỗn danh Dũng Vịt ra đời từ đó! Bình Râu, một tay giang hồ có tầm cỡ, mất mạng vì… tiểu đường! Khi đang là chồng hờ của người đẹp K.A., gã rất chịu đụng chạm dù hết sức nhát gan và vô cùng dở hơi. Một hôm đi nhậu về, dựng xe vào lề đường tìm chỗ giải quyết nỗi buồn, Bình khó chịu khi chỗ thích hợp nhất đang bị một gã thanh niên chiếm lĩnh. Chửi thề vài câu, Bình dọa đánh gã thanh niên. Gã thanh niên lẳng lặng bỏ đi. Được thế, Bình chửi đổng vài câu rồi bắt đầu cho việc xả trút. Bất ngờ gã thanh niên quay lại cùng cả chục tên đồng bọn. Chỉ bằng vũ khí thời thượng cổ là tay, chân gạch đá… bọn thanh niên này tiễn luôn Bình Râu về xứ khác! Trong đám ma Bình Râu, khi được hỏi về nguyên nhân mất mạng của gã, câu trả lời hết sức ngắn gọn: bị chết do… tiểu đường! Hoàng Bộ Đội, một giang hồ chuyên đóng giả bộ đội vùng Đệ Nhứt Khách Sạn thuở trước, bị một trận ra trò chỉ vì quên mất mình đang ở đâu và mình là ai. Gã được tha về nguyên quán. Sau một thời gian đi làm thuê cho bọn buôn gỗ lậu tận Bù Đốp với tên gọi mới là Hoàng Búa (đóng giả búa Kiểm Lâm), gã quyết định… tu. Chạy xe ôm tại Bình Long một thời gian, Hoàng bèn xin bảo vệ cho một nơi karaoke đầy phức tạp. Băng xe ôm trúng mánh, xuống chỗ Hoàng đang bảo vệ để nhậu. Nhậu vào hơi lưng tưng, nhóm xe ôm bèn quậy cho thêm phần hào hứng. Hoàng ra can thiệp một cách dở hơi là vỗ ngực: Tao là Hoàng Bộ Đội đây, tù tội như cơm bữa! Men bia đã giúp băng xe ôm bớt ngán ngại, bèn bu vào nện cho Hoàng một trận ra trò… Cọp dữ, xe ôm với nhân lực cỡ đó cũng chẳng coi ra gì, huống hồ là cọp… giấy! Hoàng buồn tình bỏ nghề, rủ 2 tay giang hồ gốc ruộng tham gia một phi vụ kinh hoàng: trộm kho bạc của huyện! Khi vào được bên trong kho bạc bằng cửa lưới thông hơi phía sau, Hoàng mò mẫm trong bóng tối và chuyển ra ngoài một bao bạc căng cứng. Cả bọn mừng rỡ vì trúng mánh, kéo nhau ra bãi đất trống gần bến xe để chia chác. Than ôi, do trời tối nên Hoàng đã vác ra một bao bạc toàn tiền mệnh giá nhỏ! Rốt cuộc đếm đi đếm lại, cả 3 chỉ chia cho nhau không quá 10 triệu đồng. Hai hôm sau, cả bọn bị bắt vì không đủ tiền đi trốn! Trong trại giam, cả bọn chửi nhau như mổ bò vì chuyện ngớ ngẩn của Hoàng Bộ Đội khi đột nhập kho bạc thành công mà vác ra một bao tiền lẻ! Giang hồ... Yêu! Sáu Ba Vạn yêu một gã giang hồ có ngoại hình không mấy hấp dẫn nhưng bù lại khá nhanh nhạy trong các phi vụ trộm cắp. Sau một thời gian, gã chồng bị rớt khi khổ chủ khôn hơn gã nghĩ. Sau khi chồng bị bắt, Sáu đi thăm nuôi hết sức đều đặn cho đến khi ra tòa. Mức án 4 năm không dài với bất kỳ ai nhưng với Sáu thì quá dài để nuôi con và chờ đợi. Thế là Sáu cặp luôn với gã bạn của chồng cho dễ, khỏi phải đi tìm kiếm và tìm hiểu. Gã chồng mới tiếp tục nuôi Sáu, nuôi con của Sáu và nuôi cả chồng cũ của Sáu! Khi gã chồng mới rớt, chồng cũ cũng vừa mãn hạn tù, Sáu và chồng cũ tiếp tục mối lương duyên như chưa từng có gì vướng mắc. Và ngoài việc tiếp tục có trách nhiệm với gia đình, gã chồng cũ vẫn lòn tiền cho Sáu đi thăm nuôi thằng bạn cũ và cũng là tình địch! Và hài hước hơn khi cả chồng cũ lẫn chồng mới đều hội ngộ trong trại giam Đồng Phú! Sáu nuôi con không nổi, bèn tìm luôn một gã chồng mới hơn, cũng từ nhóm bạn của cả hai chồng cũ! Chặt cua là khuất bóng, qua cầu rút ván, gài thêm trái lựu đạn… là chuyện thường ngày của giới giang hồ. H. về làm vợ Phước Nhám do đứa em là Tí Bụi Đời mai mối. Phước quyết tâm làm lại cuộc đời, trở thành người tử tế. Về thuê nhà ở khu vực chùa Bà Đầm, Phú Nhuận, Phước cắt đứt toàn bộ mối dây liên hệ với giang hồ. Kinh qua hàng loạt nghề ngỗng khác nhau, kể cả buôn đồ phế liệu, cuối cùng Phước ngừng lại ở nghề buôn bán băng, đĩa ca nhạc. Nhưng đã là cái nghiệp quả là không dễ dứt bỏ. Minh Nẫu bị Chó Đen đâm chết tại hẻm Quốc Thanh vì khai báo toàn bộ băng nhóm. Cả bọn lần lượt xộ khám. Út Dẹp, chiến hữu của Phước, cũng nhập kho khu BC Chí Hòa trong đợt này. Phước bị bắt gần như cuối cùng. Thoạt đầu, H. đi thăm nuôi khá thường xuyên và tử tế. Sau hơn một năm lịch đều đặn hàng tuần, đột ngột cầu thăm nuôi bị cắt. Phước nhờ đủ mọi người tìm cách liên lạc với vợ để hiểu tình hình. Thông qua một chiến hữu ở gần nhà, Phước tá hỏa khi nghe tin H. đã lấy chồng khác và chồng mới của H. là một người không xa lạ gì với Phước! Ngay sau khi nhận được tin sét đánh, tâm tính Phước thay đổi hẳn. Gã hung dữ và tàn ác hơn bất kỳ ai. Gây ra hàng loạt vụ đâm chém, đánh nhau với bạn tù, Phước bị cách ly vào khu I. Một buổi sáng, phạm nhân dọn vệ sinh phát hiện ra Phước đã chết do cắt động mạch ở cổ tay bằng đót thuốc lá đốt và mài bén… Tình yêu đã giúp Phước trở về cuộc sống của một người lương thiện và cũng chính sự sụp đổ của tình yêu ấy đã phá hủy, giết chết Phước… Tình yêu của trai tứ chiếng gái giang hồ thường hết sức chóng vánh. Từ khâu có để ý, tìm hiểu, sống với nhau như vợ chồng… đôi khi chỉ trong một ngày! Mỹ Chà, có biệt danh như vậy chẳng phải do lai… Chà, mà bởi thành tích "chà đồ nhôm" đã gắn luôn với tên của Mỹ. Thoạt đầu, bước chân vào chốn giang hồ đầy tai ương bất trắc, Mỹ Chà chọn Tuấn Sốt Rét khu bệnh viện Gia Định để trao thân gởi phận. Cả 2 cùng xộ khám một lượt do vụ giết người. Với vai trò đồng phạm, Mỹ cũng thụ hình án ở Bố Lá. Mối tình vợ chồng của Tuấn Sốt Rét và Mỹ vẫn tiếp tục dù cách nhau 2 dãy hàng rào trại T40. Tuấn bị điều chuyển đi trại Tống Lê Chân, Mỹ ở lại Bố Lá. Sau khi được trả tự do, toàn bộ giang hồ Bình Thạnh đều té ngửa khi thấy Mỹ Chà có chồng mới là Vũ Bình, một gã nghiện xì ke dặt dẹo. Mối tình tưởng là bền vững của Tuấn tan như bọt xà phòng…
đại Thế Giới - Từ Thiên đàng đến địa Ngục Tác giả Thương Hồng TỪ SÁU NGỌ ĐẾN ĐẠI THẾ GIỚI Saigon vào những ngày đầu thế kỷ 20 nổi lên những tay "yên hùng", những tay lục lâm, nhưng lại thích tự xưng mình là hảo hán. Trong số này phải kể đến trước tiên là Tư Mắt và Sáu Ngọ. Tư Mắt thuộc hàng "anh chị", tức dân giang hồ, dao búa, một loại trùm du đãng thuộc hàng "bố già" vào thời ấy. Khắp Saigon, Chợ Lớn, thậm chí cả Nam Kỳ Lục Tỉnh hể nghe danh Tư Mắt là đều khiếp sợ (tất nhiên chỉ trong giới giang hồ và lương dân). Ở bài này, chúng tôi chưa nói đến Tư Mắt, mà chỉ xin nhắc qua Sáu Ngọ, một người có dính líu tới "lịch sử đỏ đen" của Saigon năm xưa. Người ta nói, người Pháp đến Việt Nam vào hạ bán thế kỷ 20 nói là khai phá một nước chậm tiến, nhưng lại mang theo hai thứ họa lớn: sự xâm lược đô hộ và một nếp sống sa đọa, ngoại lai. Sự sa dọa đầu tiên là nạn cờ bạc, hút xách. Nói như thế không có nghĩa là ở Việt Nam trước đó không có cờ bạc, và các tệ nạn xã hội, tuy nhiên nếu có thì cũng ở mức độ nhỏ, một thứ tệ nạn "nội địa". Phải đợi khi người Pháp có mặt, đồng thời được sự tiếp tay của một số người Hoa Kiều, thì những gì của ngoại bang mới thực sự xâm nhập vào Việt Nam, đặc biệt là vùng đất phía Nam của nước ta (Saigon là tiêu biểu). Người dân Saigon đã bắt đầu nghe nói về những "thiên đàng" đỏ đen ở Macau, Monte-Carlo và Las Vegas. Và một hậu quả của tất yếu của sự lây nhiễm này là sự ra đời của các sòng bạc, những nơi mang hình thức casino, và sự nổi lên của những "ông trùm", trong số này có Sáu Ngọ. Sáu Ngọ được dân Saigon gọi bằng Thầy Sáu, không phải do có chức tước gì, hay giàu sang phú hộ gì, mà chỉ vì là "Trùm". Ông nổi lên từ hàng dân đen, có máu giang hồ và có mộng làm "dân cậu". Đầu tiên "Thầy Sáu" bắt chước Tây, đứng ra làm các "xẹc" (Cerle - câu lạc bộ giải trí) riêng cho người Việt Nam. Thực chất đây là các sòng bạc, được tổ chức lén lút, trong phạm vi hẹp, tuy nhiên mức sát phạt thì không nhỏ. Vào những năm đầu thế kỷ, hệ thống sòng bạc của Sáu Ngọ hiện diện khắp Saigon - Chợ Lớn và các vùng phụ cận, Sáu Ngọ là chủ chứa, là trùm hay gọi là đầu nậu cũng được, và nếu cần cũng có thể gọi là "bố già" của một dạng mafia thời đó. Ông ta tổ chức tổ chức băng nhóm những tay anh chị, du côn để bảo vệ công việc làm ăn, đồng thời để trấn áp những địch thủ dám phá bĩnh việc "kinh doanh" của Thầy Sáu, giống như kiểu mafia Ý, Sáu Ngọ gần như mua đứt làng lính, mua cả quan tòa, biện lý người Pháp nổi tiếng là dữ dằn, để vô hiệu hóa mọi sự cản trở hoạt động của ông ta. Sáu Ngọ còn chơi trội, dùng tiền mua luôn quốc tịch Pháp, lấy tên là Paul, và lộng hành càng dữ. Đứng trước tình hình đó, một số quan tòa Pháp tỏ ra cứng rắn hơn, trong số này có biện lý Lafrique. Ông này quyết bằng mọi cách triệt hạ cho được Sáu Ngọ, đôi lần làm cho "vua cờ bạc" phải điêu đứng. Nhưng rồi bằng nhiều mánh khóe, thủ đoạn, Sáu Ngọ vẫn tồn tại, và nạn cờ bạc vẫn lan rộng ở Saigon và các tỉnh Nam Kỳ. Và đây là nguyên nhân dẫn tới việc ra đời một casino qui mô lớn hơn, đó là Đại Thế Giới và Kim Chung. Đại Thế Giới (Grand Monde) được người Pháp chính thức cho thành lập với các lý do: thà cho cờ bạc công khai, có lấy thuế, còn hơn để kiểu cờ bạc lén lút nhưng tràn lan như kiểu Sáu Ngọ, vừa thất thu thuế, vừa bị xúc phạm đến quyền lực của chính phủ bảo hộ Pháp. Đồng lúc thành lập với Đại Thế Giới có sòng bạc Kim Chung ở khu vực Cầu Muối (nay là Khu Dân Sinh, phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1) Nhưng Kim Chung có qui mô kém hơn, đối tượng chơi thuộc loại bình dân, nên mỗi khi nhắc tới casino tiêu biểu của Saigon, người ta hay nói đến Đại Thế Giới. Đại Thế Giới tọa lạc trên đường Gallieni (nay là Trần Hưng Đao, quận 5) trong một khuôn viên rộng lớn mênh mông, vòng rào tường cao, cửa ra vào có bảo vệ mặc đồng phục canh gác cẩn mật, người ra vào tự do, nhưng không phải ai cũng mạnh dạn vào, bởi muốn bước vào phải có tiền và bởi cái 'Sát Khí' của Thần đỏ đen luôn vừa quyến rũ thiên hạ, lại vừa hù dọa mọi người. Trên cổng lớn sáng rực ánh đèn néon, hàng chữ Grand Monde (Đại Thế Giới) như một lời xác nhận với mọi người dân Saigon rằng nơi đó là sòng bạc được nhà nước bảo trợ, cứ mặc tình mà sát phạt!. AI LÀ CHỦ NHÂN ĐẠI THẾ GIỚI Phép hoạt động là của nhà nước cấp, nhưng tư nhân điều hành. Ngay từ đầu khai trương, ai cũng thưởng Sáu Ngọ hay vài tay có máu mặt sở tại sẽ được cho đứng thầu, nhưng không, chủ thầu là một tay nào đó từ Hong Kong đến. Sở dĩ người Pháp cho các tay Hong Kong trúng thầu vì họ hiểu rằng , chỉ có những người từng am tường về tổ chức sòng bạc tầm cở thì mới có khả năng đưa Đại Thế Giới lên ngang tầm với các sòng bạc ở Á Châu. Người trúng thầu vốn xuất thân từ các sòng bạc ở Macau, đã sành sỏi về tổ chức casino, do đó ông ta đã rập khuôn từ mọi hình thứcđến mọi mánh khóe. Cùng kéo sang "miền đất hứa" mới với chủ còn có những cô hồ - lì (người đứng điều khiển cuộc chơi của từng môn đỏ đen, theo cách gọi của người trung Hoa) xinh đẹp và sành điệu, thừa sức làm vui lòng khách chơi, dù có bị thua cháy túi!. Ngay từ lúc mới mở cửa, Đại Thế Giới đã thu hút ngay con số khách đỏ đen kỷ lục : tuần lễ đầu luôn có một vạn người tới thử thời vận mỗi ngày, nhà chứa thu vô không dưới một triệu đồng (một triệu đồng bạc Đông Dương hồi đó hết sức lớn, bằng bạc tỷ bây giờ). Tiền nộp cho nhà nước không phải ít, từ 200.000 sau lên 300.000 và có lúc lên đến 500.000/ngày, vậy mà chủ chứa vẫn hốt đậm hơn bất cứ nghành kinh doanh nào khác. Khách chơi lúc đầu còn giới hạn trong giới trung lưu, đến người nhiều tiền, lần hồi thu hút tới những giới bình dân, cả phu kéo xe, phu bốc vác bến tàu, vì có đủ hình thức chơi, từ hốt me, tài xỉu, đến ru-lét ..v..v. Người chơi không cần phải động não nhiều, và cũng không cần có nhiều vốn. Nhiều thua nhiều, ít thua ít, chỉ không đánh mới không thua! Vậy mà Đại Thế Giới như có bùa, như ma túy gây nghiện, nó có thứ ma lực lạ lùng càng lúc càng lôi cuốn người chơi lao vào như con thiêu thân trước ánh đèn. Thế là bước đầu người Pháp thắng một keo quan trọng. Loại được Sáu Ngọ một cách nhe nhàng hiệu quả.... CUỘC CHIẾN ĐỎ ĐEN Gọi là cuộc chiến vì không còn từ ngữ nào để dùng cho sát nghĩa hơn. Cuộc chiến giữa khách chơi và nhà cái, cuộc chiến giữa bản thân người chơi và gia đình họ, và cuộc chiến cực kỳ quyết liệt, quyết liệt giữa những thế lực để giành quyền chi phối sòng bạc Đại Thế Giới. Từ ngày Đại Thế Giới mở ra, đã có không biết bao nhiêu thảm cảnh gia đình xảy ra. Có người là công chức cấp cao của nhà nước, giàu sang tột bực, vậy mà chỉ trong vài tuần "làm quen" với Grand Monde đã nướng hết sản nghiệp vào đó, và tất nhiên là nướng cả cuộc đời. Có những người vợ, những cô này bà nọ, chỉ vì ham vui, vào thử vài lần rồi bắt bén vào tiếp và..... cuối cùng lột hết vòng vàng nữ trang, lấy cắp cả tiền nhà, "cúng" sạch, và sau đó là "cúng" luôn cả cái ngàn vàng của mình! Thời đó cầu Bình Lợi được xem là nơi kết liễu những cuộc đời bất hạnh, sau một đêm cháy túi ở Đại Thế Giới.... Cả Saigon, vùng phụ cận, cả Nam Kỳ Lục Tỉnh nữa, và cũng không thiếu người ở những miền xa của đất nước đổ xô về Saigon, về với Đại thế Giới lập lòe ánh sáng ma quái, để chơi, để khóc và cà để chết. Vậy mà như một luồng thác lũ, không thể ngăn nổi. Trong khi đó một cuộc đổ xô khác, ở phía những thế lực muốn nắm Đại Thế Giới, cũng đến hồi quyết liệt. Hồi ông vua cuối cùng của triều Nguyễn, Bảo Đại, Đại Thế Giới như rồng lên mây, như được chắp thêm cánh bay. "Đức Quốc Trưởng" Bảo Đại đã được người Pháp giao lại nguồn lợi Đại Thế giới, như một món quà ân thưởng, làm cho ông vua sành cờ bạc này thích thú không gì bằng. Đệ nhị thế chiến nổ ra, tình hình sôi sục, nhưng vẫn không ảnh hưởng gì đến sòng bạc Đại Thế Giới, nếu không muốn nói nó còn chuẩn bị sức để phất mạnh hơn ở tương lai. Giai đoạn "sục sôi" nhất của Đại Thế Giới là thời điểm yên hùng lục lâm và vài tay chính trị hàng đầu chĩa mủi dùi vào sòng bài. Từ năm 1947 đến 1953, đã nhiều lần Đại Thế Giới nằm trong tầm ngắm của nhiều người. Đến khi xảy ra cuộc đối đầu chính trị giữa phe ông Ngô Đình Diệm và phe trung thành của vua Bảo Đại, thì rỏ ràng có một người rắp tâm nuốt chửng cái "máy hốt bạc "này. Người đó là Bảy Viễn, thủ lãnh của nhóm Bình Xuyên. Vốn là tay "anh chị", từng nuôi mộng như Sáu Ngọ, nên khi được quyền lực trong tay, được vua Bảo Đại ủng hộ, được các tướng lãnh thân Pháp hậu thuẫn, Bảy Viễn đã làm một cuộc "đảo chánh", lật đổ sự thống trị của các nhà thầu Hong Kong khỏi lãnh địa Đai Thế Giới. Bình Xuyên đã trúng thầu khai thác Đại Thế Giới với giá 500 ngàn đồng mỗi đêm, thừa sức có tiền nuôi quân đóng bên kia cầu chữ Y của họ, và thả sức ăn tiêu, bỏ túi riêng. Đại Thế Giới như một mỏ vàng vô tận, ai nắm được nó thì nắm được sức mạnh chính trị về tay mình. Đã có lúc người ta ngỡ là Bảy Viễn sẽ trở thành nhân vật hàng đầu nhờ khai thác quyền lợi béo bở đó. Kịp đến khi nổ ra cuộc "huynh đệ tương tàn" trong nội chính - chính phủ miền Nam lúc đó, giữa tổng thống Ngô Đình Diệm và Bình Xuyên, mà cuối cùng Bình Xuyên bị thua, tan rã và Đại Thế Giới cũng bị khai tử luôn. Những ngày đầu năm 1955 đã đánh dấu ngày tàn của Grand Monde, khi chính quyền thời đó trước áp lực của đồng bào quần chúng, đã phải ngậm ngùi ký sắc lệnh dẹp sòng bạc lớn nhất Đông Nam Á. Người Saigon thở phào nhẹ nhõm mỗi khi đi ngang qua nơi vừa "Thiên Đàng" vừa "Địa Ngục" mà không còn nhìn thấy mấy chữ Grand Monde - Đại Thế Giới.....
Bạch công tử tgvh Có nguồn ghi Lê Công Sảng Theo một bài báo thì đó là người anh thứ hai của ông Lê Ngọc Chiếu là Lê Hoàng Phi Bạch công tử là một tay chơi nổi tiếng ở miền Nam những năm của thập niên 1920, 1930. Cùng với Hắc công tử, tức Công tử Bạc Liêu, Bạch công tử để lại nhiều giai thoại về ăn chơi hoang phí. Bạch công tử còn là người có rất nhiều đóng góp cho nghệ thuật cải lương ở miền Nam khi đó. Ông là chồng của nghệ sĩ nhân dân Bạch công tử tên thật là Lê Công Phước, còn thường gọi George Phước. Tên Bạch công tử là để phân biệt với Công tử Bạc Liêu Ba Huy, vì có nước da đen nên được gọi Hắc công tử. George Phước là con trai thứ tư của Đốc phủ Lê Công Sủng[1], người ở làng Điều Hòa, tỉnh Mỹ Tho xưa, nay thuộc phường 3, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Theo các tài liệu còn ghi lại thì Đốc phủ Sủng là người gốc miền Trung, khoảng thập niên 1880 vào làm quận trưởng Châu Thành, sau làm quận trưởng Chợ Gạo và định cư tại đây. Là một trong những người có thế lực trong vùng thời bấy giờ, Đốc phủ Sủng từng đại diện cho tỉnh Mỹ Tho đi dự hội chợ bên Pháp và cũng nhờ vậy Bạch Công tử được đi du học tại Pháp vào năm 1909. Điều nầy trong Điếu Cổ Hạ Kim thi tập in năm 1909 có nhắc tới. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường thì gia đình Đốc phủ Sủng không giàu. Ông Sủng có nhiều vợ, trong đó có bà Đào Thị Linh là người ở Chợ Cũ, Mỹ Tho, có quốc tịch Pháp. Hai người kết hôn chính thức có hôn thú, nhưng nửa chửng thì chia tay nhau. Thời gian sau, khi bà Linh bị bệnh lao (bấy giờ là bệnh nan y) thì không hiểu lý do gì hai người tái hợp và kết hôn lại. Sau đó Đốc phủ Sủng thuê một căn phố ở Sài Gòn để nuôi bà Linh. Sau khi bà Linh chết khi còn rất trẻ và để lại một gia tài lớn cho cha con ông Sủng. Theo Điếu Cổ Hạ Kim thi tập năm 1915 của Nguyễn Liên Phong thì đám tang bà Linh bấy giờ được tổ chức khá ầm ĩ, có lính Tây đem dàn nhạc tới đưa tiễn. Gánh hát Phước Cương và Huỳnh Kỳ Vốn là người rất mê cải lương, trong thời gian ở Pháp George Phước từng học về ngành sân khấu. Về nước, George Phước cùng ông Nguyễn Ngọc Cương lập gánh hát Phước Cương (tên ghép của hai người). Gánh gát quy tụ được rất nhiều đào kép nổi tiếng thời bấy giờ như Năm Phỉ, Tám Danh, Tám Mẹo... Nhưng chỉ một năm sau George Phước tách ra và lập gánh Huỳnh Kỳ với sự tham gia của Phùng Há, Ba Vân, Năm Phỉ, Tám Du, Năm Thiện, Ba Thâu, Ba Đồng, Chín Móm, Năm Kiệt, Hai Sự, Hai Nữ, Tư Bé, Tư Hélènne... Theo nhiều tài liệu ghi lại thì đây là gánh cải lương có quy mô lớn ở vùng lục tỉnh Nam kỳ. Và cô đào nổi tiếng nhất Bảy Phùng Há chính là vợ của Bạch công tử. Trong thời gian đó, George Phước cho xây dựng rạp hát cũng với tên Huỳnh Kỳ, bên cạnh ngôi nhà của ông tại Mỹ Tho để làm nơi gánh hát biểu diễn thường xuyên. Đến khi George Phước sạt nghiệp thì cả ngôi nhà và rạp hát đều bán lại cho ông Lê Ngọc Chiếu, một người giàu có ở vùng Chợ Gạo và rạp hát sau đó được đổi tên thành rạp Lê Ngọc. Khoảng năm 1963, ông Chiếu bán lại rạp hát cho người khác và đổi tên thành rạp Viễn Trường, đến thập niên 1980 lại được đổi tên thành rạp Mỹ Tho. Rạp hát hiện vẫn còn trên đường Đinh Bộ Lĩnh, thành phố Mỹ Tho. Còn ngôi nhà sau năm 1975 được sử dụng làm trụ sở UBND phường 3, hiện nay là trụ sở Phòng Văn hóa Thông tin và Thể thao Mỹ Tho. Bạch Công tử đã tiêu tốn rất nhiều tiền vì sự nghiệp cải lương. Thời đó những gánh hát khác đều đi bằng ghe chèo thì Bạch Công tử lại sắm một lúc tới 3 chiếc ghe có gắn máy dùng để chở đào kép đi lưu diễn và được trang bị như là du thuyền. Theo mô tả thì chiếc đi đầu chở Bạch Công tử và Phùng Há, có lầu, phía trước có cột cờ và treo cờ vàng, biểu tượng của gánh Huỳnh Kỳ. Đào kép thì đi trên chiếc ghe thứ hai, được ngăn thành nhiều phòng, nhiều ô cửa sổ, có bếp ăn, chỗ vệ sinh... Chiếc thứ ba thì chở thầy đờn, nhân viên phục vụ và cả một đội bóng. Mỗi khi gánh hát đi tới đâu, Bạch Công tử cho đào kép lên bờ đứng xếp hàng và bắt tay xã giao với chính quyền sở tại. Sau đó thì hát bản Đoàn ca, cờ vàng được kéo lên và Bạch Công tử lấy súng lục ra đưa lên trời nổ liền mấy phát. Sau đó, trong lúc đào kép lo chuẩn bị cho đêm diễn thì đội bóng thi đấu giao hữu với đội bóng của địa phương, với mục đích thu hút khán giả tối đi xem hát. Và cho dù thắng hay thua, đội bạn cũng được chiêu đãi và mời xem hát. Nhờ lưu diễn bằng ghe nên thời đó dù ở những vùng chợ quê xa xôi như Vĩnh Kim, Ba Dừa, Cái Thia... đều có gánh hát tới. Được biết trong hồi ký của nghệ sĩ Ba Vân cũng có nhắc tới việc này. Ông xem Bạch Công tử như là người ơn, vì đã có công đóng góp, tạo điều kiện cho sân khấu cải lương phát triển. Vở tuồng ăn khách nhất của gánh Huỳnh Kỳ là Giọt máu chung tình, do Năm Thiên đóng vai Võ Đông Sơ và Phùng Há vai Bạch Thu Hà. Mỗi lần gánh hát dời đi nơi khác, Bạch Công tử lại cho kéo cờ vàng, đốt pháo và rút súng lục ra bắn. Khán giả thì đứng chen trên bờ vẫy tay chào. Không chỉ để lại dấu ấn trong lòng người dân miền sông nước, gánh Huỳnh Kỳ của Bạch Công tử còn thu hút được khán giả Sài Gòn. Trong hồi ký Nổi trôi trong ánh đèn màu, nghệ sĩ Bảy Nhiêu đã viết: "Đến 3 giờ chiều thì vé các hạng của gánh Huỳnh Kỳ đều hết. Nhiều người thất vọng đón buổi tối để mua cho được vé đêm mai". Đến năm 1930, do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, đời sống người dân hết sức khó khăn, nhiều gánh cải lương buộc phải giải tán, trong đó có gánh Huỳnh Kỳ. Khoảng 5 năm sau, Bạch Công tử cho tái lập lại nhưng không gây được tiếng vang. Vì vậy ông cho giải thể, chấm dứt sự nghiệp theo cải lương. Cuối đời Lúc còn hưng thịnh, Bạch công tử từng tuyên bố ông sẽ không bao giờ nhờ vả người khác. Nếu có sạt nghiệp thì ông sẽ lái xe hơi ra Vũng Tàu và chạy thẳng xuống biển để kết liễu cuộc đời. Nhiều người cho rằng gọi là "ăn chơi" nhưng thực ra Bạch Công tử cũng chỉ lo cho gánh hát. Mặc dù vậy ông cùng với Công tử Bạc Liêu để lại khá nhiều giai thoại. Và trong giai đoạn đó, những người như Bạch Công tử, như thầy Năm Tú (người nhập cảng linh kiện từ Pháp về tổ chức lắp ráp và kinh doanh máy hát đĩa thời đó) đã có công trong việc phát triển cải lương ở Nam bộ. Vương Hồng Sển, trong hồi ký 50 năm mê hát của mình cũng viết: "Tôi có nhiều cảm tình riêng đối với Cậu Tư". Sau khi chia tay với Phùng Há, Bạch công từ ngày càng lún sâu vào nghiện ngập. Tài sản lần lượt bán hết, người ta thấy ông lang thang ở vườn Ông Thượng (nay là Tao Đàn, thành phố Hồ Chí Minh). Mặc cho cơn nghiện và đói khát hành hạ, ông không hề ngửa tay xin xỏ hay nhờ vả ai. Sau đó ông được một người thân mang về chăm sóc. Đó là ông Nguyễn Ngọc Phi[2], một điền chủ đất ở chợ gạo, con trai một người bạn thân của ông Lê Công Sủng, bố của Bạch công tử. Cuối năm 1949, Nguyễn Ngọc Phi đưa Bạch công tử về về chăm sóc tại gia đình ông ở thị trấn Chợ Gạo. Nhưng vì hậu quả của nghiện ngập, Bạch công tử mất đầu năm 1950. Theo ông Trương Ngọc Tường thì sau khi đã thành danh, nữ nghệ sĩ Phùng Há nhớ lại những người từng là ân nhân trước đây như thầy tuồng, đạo diễn, bà đã bỏ tiền ra xây mồ mả cho nhiều người. Trong đó có việc cải táng mộ Đốc phủ Lê Công Sủng và 2 người con của bà với Bạch Công tử đưa về Sài Gòn. Riêng mộ Bạch Công tử thì vẫn còn tại Chợ Gạo. Công tử Bạc Liêu Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy (1900-1973, còn có tên khác là Ba Huy) là một tay chơi nổi tiếng ở Sài Gòn và miền Nam những năm 1930, 1940. Ngày nay, Công tử Bạc Liêu trở thành một thành ngữ để chỉ những kẻ ăn chơi. Thành ngữVốn thành ngữ "Công tử Bạc Liêu" ra đời từ những năm đầu thế kỷ 20. Thời đó, thực dân Pháp đã ổn định về tổ chức của vùng đất thuộc địa Nam Kỳ. Do việc phân chia lại ruộng đất, đã làm nảy sinh rất nhiều đại điền chủ ở vùng đất này. Thời đó dân gian đã có câu "Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Trạch" để chỉ 4 vị đại điền chủ giàu có nhất vùng đất Nam Kỳ. Theo phong trào khi ấy, các đại điền chủ, hào phú quyền quý khắp Nam Kỳ thường cho con lên Sài Gòn học ở các trường Pháp, thậm chí du học bên Pháp. Tuy nhiên, hầu hết các vị công tử giàu có này, ảnh hưởng bởi sự phồn hoa đô hội, sẵn tiền, nên thường đi vào con đường tay chơi để thể hiện mình. Trong số vị công tử ấy, không ai đủ sức xài tiền như các công tử Bạc Liêu. Thành ngữ "Công tử Bạc Liêu" có từ lúc ấy. Về sau, thành ngữ này chỉ dùng để chỉ công tử Trần Trinh Huy vì chẳng công tử nào sánh kịp về khả năng tài chính và độ phóng túng đối với vị công tử này. Từ đó "Công tử Bạc Liêu" trở thành danh xưng riêng của Ba Huy, không một ai có thể tranh chấp. [sửa] Công tử Bạc Liêu[sửa] Xuất thânTrần Trinh Huy, tên thật là Trần Trinh Quy sinh ngày 22 tháng 6 năm 1900, nhưng do cho rằng cái tên "Quy" không sang trọng nên ông đổi lại thành "Huy". Ngoài tên Công tử Bạc Liêu, Trần Trinh Huy còn mang nhiều tên khác như Ba Huy, Hội đồng Ba (cách gọi của tá điền, sự thật thì Ba Huy không là thành viên trong hội đồng nào), Hắc công tử (do nước da ngăm đen và để phân biệt với Bạch công tử). Trần Trinh Huy là con trai ông Trần Trinh Trạch, tức Hội Đồng Trạch[2], một người xuất thân là thư ký làng, nhờ cưới được cô Tư, con gái của ông bá hộ Phan Văn Bì, người có đất ruông nhiều nhất trong tỉnh Bạc Liêu, người ta tặng cho ông Bá hộ là "Vua lúa gạo Nam Kỳ". Ông Bá hộ chọn rể cho cô con gái thứ Tư trong trường hợp đặc biệt. Hằng năm ông tới Tòa Bố (tòa Hành chánh) tỉnh đóng thuế điền địa. Trong nhiều năm ông chấm viên thư ký điền địa tên Trần Trinh Trạch là người đứng đắn đàng hoàng. Ông hỏi thăm gia thế thì biết thầy ký Trạch chưa vợ. Ông mời về nhà chơi, tạo thuận lợi cho thầy ký Trạch trông thấy cô con gái thứ tư của ông. Nhiều lần tới lui, hai bên "mến tay mến chân". Ông Bá hộ thấy hai đứa nhỏ "tình trong như đã mặt ngoài còn e" liền làm lễ cưới. Ông cho con gái và rể một sở đất để ra riêng. Thầy ký Trạch xin nghỉ làm công chức điền địa để làm chủ điền. Với trình độ văn hóa tương đối khá, lại có ông già vợ cho đất, giúp vốn nên không bao lâu thầy kỳ Trạch phất lên. Với huê lợi hàng năm, ông sắm thêm đất điền. Có điều ông Bá hộ không thích là đất ông tách bộ cho các con của ông lần lượt chạy về tay chàng rể thứ tư. Nguyên do là các con ông mê cờ bạc nên đem đất điền cầm cố nơi anh rể. Cầm cố lâu năm không chuộc kể như mất luôn. Ông Bá hộ chỉ tự an ủi là "lọt sàng xuống nia", các sở đất đó không rơi vào người ngoài, thương con gái thì phải thương rể. Nhờ vậy, Hội Đồng Trạch càng ngày càng giàu có, đồn điền ruộng lúa có thể được xếp vào hàng bậc nhất miền Nam lúc bấy giờ. Có người viết: Nghèo đến thằng mình còn chạy quýnh Giàu như ông Trạch cũng buồn thiu Trần Trinh Trạch là chủ sở hữu của 74 sở điền, với 110.000 ha đất trồng lúa, gần 100.000 ha ruộng muối. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu lúc bấy giờ (gồm 4 quận Vĩnh Lợi, Cà Mau, Vĩnh Châu, Giá Rai) có 13 lô ruộng muối thì 11 lô là của ông Hội Đồng Trạch, một lô còn lại của cha sở và một lô của dân thường. Ông Trạch có 7 người con, 4 gái, 3 trai. Trong 3 người con trai của ông Trạch (Trần Trinh Đinh, Trần Trinh Huy và Trần Trinh Khương) thì Ba Huy là ăn chơi hơn cả. [sửa] Con ngườiTrần Trinh Huy từng đi du học ở Pháp, sau ba năm về nước không một mảnh bằng, để lại một người vợ Pháp và một đứa con ở lại Paris. Khi Ba Huy về nước ông Trạch kéo gia đình lên Sài Gòn đón quí tử. Chiếc xe Ford đang dùng tốt nhưng ông nói nhân sự kiện đặc biệt này phải sắm thêm một chiếc xe mới, cho xứng với học hàm, học vị của cậu Ba, cho rạng mặt Trần gia. Trần Trinh Huy là người cao lớn, khoảng 1,70 m, lực lưỡng nhưng không cục mịch, trái lại dáng người rất thanh thoát, sang trọng, da đen, mày rậm... người đầy sinh lực. Tính tình Huy rất dễ dãi và hào phóng. Người trong nhà lầm lỗi, Huy cũng ít rầy la. Bà con ở xa lên thăm, Huy đều cho tiền. Tá điền không thấy Huy đòi nợ ai bao giờ, ai nghèo quá, năn nỉ Huy còn bớt lúa ruộng. Cho nên tá điền Bàu Sàng ít ai oán ghét Ba Huy. Trong các mối quan hệ, Ba Huy là người khoáng đạt, không dè dặt và mưu toan gì. Thời đó, các cậu công tử lẫn điền chủ điều chơi với người Pháp thì rất khúm núm, nịnh nọt, gọi là "chơi thế". Riêng Ba Huy thì cứ "toa toa" "moa moa"[3] sòng phẳng, ngang hàng. Nếu như trong mắt giới giang hồ tứ chiếng, Ba Huy là một người ngon nhất Nam bộ, thì trong mắt người Pháp, Huy được nể trọng vì có vợ đầm và mướn người Pháp làm công cho mình. Tánh của Ba Huy vị tha và coi tiền như rơm rác. Bút tích của Huy cho thấy tuy nét chữ bay bướm nhưng lại rất xấu, chứng tỏ đó là một con người thông minh, từng trải nhưng đường học vấn không đến nơi đến chốn. Ba Huy cũng là người rất cởi mở, không cổ hủ, cực đoan như nhiều điền chủ khác. Ông từng ủng hộ Việt Minh một lúc 13.000 giạ lúa. Công tử Bạc Liêu còn tỏ ra là một con người tự trọng, đã hứa với Chính phủ những gì thì ông sẽ làm thế ấy. Ông đã hứa với người lãnh đạo cao nhất của Tỉnh ủy Bạc Liêu là giảm tô, không hợp tác với Pháp, gửi vải vóc thuốc men cho kháng chiến và thực hiện đúng như vậy. Thích hội hè, Ba Huy có lẽ là người tổ chức hội chợ và hội thi "Hoa hậu miệt đồng" đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long. Ba Huy có bốn người vợ và rất nhiều nhân tình. Người vợ đầu là người Pháp, trong thời gian Ba Huy đi học ở Paris. Về nước ông cưới một người vợ ở Bạc Liêu là Ngô Thị Đen. Bà này ở với Ba Huy sinh được người con gái là cô Hai Lưỡng. Sau cô Hai Lưỡng qua Pháp sống. Từ năm 1945, Ba Huy lên Sài Gòn ở hẳn. Ông lấy thêm một bà nữa (bà Nguyễn Thị Hai) và sinh được ba người con: Thảo, Nhơn, và Đức. Bà cuối cùng, khoảng năm 1968, Ba Huy dọn về căn nhà phố đường Nguyễn Du, Sài Gòn. Mỗi sáng đứng trên lầu nhìn xuống, ông thấy một cô gái gánh nước đi qua đẹp quá. Hỏi thăm thì đựơc biết cô gái đó là con ông già làm nghề sửa xe đạp. Ba Huy đến nhà ông già xin "đổi" căn nhà đó lấy cô gái. Ông già và cô gái sau khi bàn bạc đồng ý. Và đó là người vợ cuối cùng của Ba Huy, kém ông đến 50 tuổi. Bà sống chung thủy với ông đến ngày ông qua đời. Họ có ba con trai và một con gái tên Hoàn, Toàn, Trinh và Nữ. Ba Huy còn rất nhiều con với các nhân tình. Tuy những người đó không phải vợ chính thức nhưng con cái của họ đều được Trần gia thừa nhận. Ông mất năm 1973 ở Sài Gòn và được đưa về an táng trong phần mộ gia đình tại ấp Cái Dầy, xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, Bạc Liêu. [sửa] Những giai thoại[sửa] Thú chơi xeÔng Trạch giao cho Ba Huy việc trông coi điền sản. Huy đi vào các sở điền bằng xe hơi hoặc ca nô. Việc này là một sự kiện đặc biệt, Ba Huy đi đến đâu tá điền ùn ùn kéo đến xem, vì cả đời họ chưa được nhìn thấy xe hơi, ca nô bao giờ. Đi đòi nợ các tỉnh, Ba Huy dùng chiếc Ford Vedette, còn đi chơi ông có chiếc Peugeot thể thao, sản xuất năm 1922. Loại xe đó cả miền Nam khi ấy chỉ có hai chiếc, chiếc kia là của vua Bảo Đại. [sửa] Thuê người Pháp làm côngBa Huy còn thuê một người Pháp làm công cho mình. Đó là ông Henri, chồng bà Tư Nhớt, một người trong gia tộc Trần Trinh. Ông này làm quản lý, điều hành gia sản cho ông Hội Đồng Trạch, dưới quyền ba Huy. Theo hợp đồng, quản lý được hưỏng 10% trên tổng số lợi tức thu được hàng năm. Chính vì vậy ông Henri mới bỏ "mẫu quốc" qua làm mướn cho bên vợ, mãi đến tháng 4 năm 1975 mới về nước. [sửa] Thú mê võCông tử Bạc Liêu rất mê nghề võ. Vào nửa đầu thế kỷ 20, học võ là một cái mốt với nhận thức: Học võ để nâng cao cái khí phách thượng võ của kẻ anh hào. Ba Huy không học võ Tây hay võ Ta mà học võ Xiêm. Ông ta đã cất công qua Xiêm mướn một ông thầy thượng hạng về dạy cho mình và Tám Bò, là em út của ông ta. [sửa] Người Việt đầu tiên sở hữu máy bayMột sự kiện chấn động cả nước khi đó là Ba Huy đi thăm ruộng bằng máy bay. Và lúc ấy cả Việt Nam cũng chỉ có 2 chiếc là của Công tử Bạc Liêu[4] và của vua Bảo Đại. Một lần bay qua thăm điền Rạch Giá, Công tử Bạc Liêu hứng chí bay ra biển Hà Tiên chơi, cứ bay mải miết cho đến khi kim báo xăng không còn nhiên liệu, buộc lòng Ba Huy phải đáp khẩn cấp. Xuống đất, Ba Huy hoảng hốt biết mình đã bay lọt sang tận nước Xiêm. Trần Trinh Huy bị Nhà nước Xiêm bắt giữ và phạt 200 ngàn giạ lúa. Ông Hội đồng Trạch phải chở một đoàn ghe chở lúa thật dài qua tận Xiêm để chuộc quí tử về. Ông là người Việt Nam đầu tiên sở hữu máy bay tư nhân và sân bay tư nhân.[5] [sửa] Thú vui di chuyểnBa Huy sinh hoạt cực kỳ sang trọng và xa hoa. Ra đường là đóng bộ veston, thứ hàng đắt tiền nhất thời đó. Thói quen của Ba Huy là ăn sáng kiểu Tây, trưa ăn cơm Tàu, chiều ăn cơm Tây. Mỗi lần từ Bạc Liêu đi Sài Gòn là ông ta ngồi trên chiếc xe cáu cạnh, có tài xế lái. Khi lên Sài Gòn ít khi Công tử Bạc Liêu ở ngôi biệt thự của Trần gia mà vào một trong những khách sạn nổi tiếng sang trọng ở Sài Gòn. Có khi hứng chí đi dạo mát Ba Huy thuê cả chục chiếc xe kéo, ông ta ngồi một chiếc, những chiếc còn lại chở những món đồ như mũ, cây "can"... Công tử Bạc Liêu là một người luôn xê dịch và rất ham vui, những cuộc ăn chơi nổ trời diễn ra, Trần Trinh Huy lặn ngụp trong những bàn tiệc với rượu sâm banh. Mỗi chủ nhật ông đều đi nghỉ cuối tuần ở Vũng Tàu, Đà Lạt hoặc về Cần Thơ. Ba Huy cũng là một kẻ mê cờ bạc, có những khi ông đánh một cây bài 30.000 đồng, trong khi lúa chỉ 1,7 đồng một giạ[6], lương của Thống đốc Nam Kỳ chưa tới 3.000 đồng một tháng. [sửa] Giao tranh Hắc - Bạch công tửBạch công tử là Lê Công Phước hay còn gọi là George Phước, con trai của Đốc phủ Lê Công Sủng[7], người ở làng Điều Hòa, tỉnh Mỹ Tho[8]. Phước cũng là một tay chơi nổi tiếng khi đó, da trắng nên được gọi Bạch công tử để phân biệt với Ba Huy. George Phước say mê cải lương, từng qua Pháp học về sân khấu. Về nước Phước cùng một người khác bỏ tiền lập hai gánh hát Phước Chương và Huỳnh Kỳ nổi tiếng với cô đào chánh đệ nhất tài sắc đương thời là cô Bảy Phùng Há và một cô đào tài sắc khác là Năm Phỉ. Cùng nổi tiếng ăn chơi, Bạch công tử và Hắc công tử trở thành kỳ phùng địch thủ. Tác giả Nguyễn Thiện viết: “ "Đang lúc cô Ba Trà, một người con gái có sắc đẹp làm xao xuyến tâm hồn Bạch công tử, thua bài sạch túi, ông trưởng giả lớn tuổi chưa kịp cung phụng tiền bạc tiếp để vừa lòng mỹ nhân, Bạch Công tử lù lù lái xe lại nhà cô Ba Trà, rủ xuống Cần Thơ ăn cá cháy và đánh bài gỡ bạc. Hai người vừa xuống đến quán Bungalows ở Cần Thơ, máy xe chưa nguội thì chiếc Sport tám máy của Hắc Công Tử cũng vừa tới, thắng cái két. Cả hai lâm vào cảnh khó xử, việc chiếm được mỹ nhân chỉ còn cậy vào tài chinh phục của bản thân mình. Cả ba cùng đưa nhau vào khách sạn. Bạch Công tử lột chiếc cà rá hột xoàn trị giá 3.000 đồng vào thời đó để trên bàn trước khi vào phòng tắm. Lúc trở ra, thấy cô Ba Trà đeo thử nó trên tay, Bạch Công tử liền lên tiếng tặng luôn. Sau đó Hắc Công tử đã mua tặng cô Ba Trà một chiếc nhẫn trị giá gấp đôi..." ” Một lần, đoàn Huỳnh Kỳ cùng cô Bảy Phùng Há về Bạc Liêu biểu diễn, Bạch công tử mời Hắc công tử đến xem. Đang xem, Bạch công tử móc thuốc hút, vô ý làm rớt tờ giấy con công (tờ 5 đồng thời đó), Bạch công tử cuối xuống tìm kiếm. Hắc công tử thấy vậy hỏi: - Chú kiếm gì vậy? - Tôi kiếm tờ con công. Hắc công tử mỉm cười nói: - Để tôi đốt đuốc cho chú kiếm. Nói rồi Hắc công tử móc tờ giấy bạc bộ lư (tờ 100 đồng) châm lửa soi cho Bạch công tử kiếm[9]. Bị một vố quá nặng, vãn tuồng, Bạch công tử mới nói: - Toa chơi moa[10] một cú đau quá. Bây giờ nếu toa ngon, toa với moa cân mỗi người ký đậu xanh, rồi lấy tiền nấu, ai sôi trước người ấy thắng? Hắc Công Tử đáp: - Chú cũng vậy nữa kìa! Ấy dà, Chú muốn chơi hả? Được,vậy để tôi chơi cho chú chết luôn! Tối hôm sau, Hắc công tử cho trải thảm đỏ từ ngoài cổng vào tận thềm nhà cứ mỗi thước cho một gia nhân cầm đuốc soi đường, nghinh đón phái đoàn của Bạch công tử. Cuộc thi được tổ chức ở đại sảnh nhà lớn của Trần gia. Lửa của tiền giấy thì rất kém nhiệt, chỉ cháy nhỏ, vì thế họ nấu chè rất lâu trong sự căng thẳng của rất nhiều người chứng kiến. Trán ai cũng rịn mồ hôi hột, nhất là những người trong gia đình họ Trần. Cuối cùng, nồi chè Bạch công tử sôi trước, Hắc công tử đành thua cuộc. Nhưng Ba Huy tuyên bố rằng ông ta thua trong danh dự.[11] [sửa] Dấu tích "Công tử Bạc Liêu" ngày nay Khách sạn Công Tử Bạc Liêu.Ngày nay, Công tử Bạc Liêu trở thành một thương hiệu du lịch hấp dẫn của tỉnh Bạc Liêu. Tòa biệt thự của Ba Huy khi xưa nay trở thành Khách sạn Công tử Bạc Liêu. Ngôi biệt thự của công tử Bạc Liêu được xây dựng từ năm 1919, do kỹ sư người Pháp thiết kế. Để đảm bảo độ bền và diện mạo kiến trúc, chủ nhân đã đặt hàng và cho chuyên chở toàn bộ vật liệu xây dựng như thép đúc, cửa, cẩm thạch lát nền, gạch, khung sắt trang trí từ Pháp qua. Các bù loong, ốc vít cho các chi tiết xây dựng đều được đóng dấu chìm mẫu tự P rất hoa mỹ, chứng thực sản xuất tại thủ đô Paris. Người dân Bạc Liêu gọi đây là "Nhà Lớn". Không chỉ đẹp về kiến trúc, nội thất mà nhà Hội đồng Trạch cũng qui tụ vô số đồ gỗ, sứ, đồng... quý giá. Những bảo vật đó đến nay không còn do con cháu không giữ được, do mất mát vì chiến tranh hoặc những nguyên nhân khác. Có hai món đồ quí hiện được giữ nguyên vẹn ở chùa Chén Kiểu, Sóc Trăng là chiếc giường ngủ chạm khắc tuyệt mỹ và bộ bàn ghế cũng chạm trổ công phu. Đây là hai món quà do Ba Huy hào phóng tặng nhà chùa. Hiện nay, ngôi biệt thự đó trở thành khách sạn Công Tử Bạc Liêu (trực thuộc Văn phòng Tỉnh ủy Bạc Liêu) với 6 phòng ngủ. Trong đó 5 phòng bình thường và căn phòng Ba Huy từng ở trước đây có giá gấp đôi. "Phòng công tử" có một giường đôi, ti vi, máy lạnh, một bàn viết, một tủ áo và toilet khá rộng kế bên. Điểm độc đáo nhất của căn phòng này là chiếc máy điện thoại có từ đời Pháp thuộc đến giờ vẫn sử dụng tốt. Căn "phòng công tử" luôn đắt khách, nhất là người nước ngoài. Du khách muốn nghỉ đêm tại đây buộc phải đặt phòng trước cả tháng. Cách khách sạn Công Tử Bạc Liêu không xa, còn có một cụm khách sạn, nhà hàng khác cũng mang tên Công Tử. Nhà Công tử Bạc Liêu hiện nay được bày biện, phục tráng gần như nguyên trạng. Tuy nhiên do qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau vật dụng trong gia đình đã thất lạc rất nhiều. Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, Ba Huy mất đã 2 năm, gia đình còn lại của Ba Huy lâm vào cảnh khốn khó, anh em, con cháu trong gia đình bỏ đi tứ xứ. Một người con của Công tử bạc Liêu là ông Trần Trinh Đức phải trôi dạt lên Sài Gòn và sau khi cô con gái lớn của ông bị lừa tình và mắc nợ, bị bệnh tâm thần phân liệt, phải bán nhà trả nợ, gia đình ông làm đủ thứ nghể để mưu sinh như bán giầy cũ, chạy xe ôm... [12]. Năm 2009, gia đình ông được sự giúp đỡ của các mạnh thường quân đã trở về Bạc Liêu sinh sống [13]. Cuối năm 2004, nhà văn Phan Trung Nghĩa của báo Bạc Liêu đã cho xuất bản quyển Công tử Bạc Liêu - Sự thật và giai thoại gồm nhiều câu truyện và tư liệu sưu tầm về Trần Trinh Huy.
Bảy viễn thủ lĩnh Bình xuyên http://thuvien.maivoo.com/Lich-su-c4/Ba ... yen-d32018 ..Thoạt kỳ thủy, hai tiếng "giang hồ" được dùng để định danh một lớp người phiêu bạc, lấy việc hành hiệp trượng nghĩa giúp kẻ yếu người cô giành lại sự công bằng làm mục đích; lấy phô diễn tài năng, hơn thua cao thấp - chủ yếu về sức mạnh võ nghệ làm niềm vui ... Với ý nghĩa đó, "giang hồ" được nhìn nhận như 1 lối sống, một loại tính cách, đẹp và mã thượng... Nếu đầy đủ hơn khi nói về thế giới giang hồ, lẽ ra cuốn sách của chúng tôi phải thêm vào tối thiểu ba nhân vật nữa, đó là "cọp rừng Sác" Lê Văn Viễn nhưng năm 40-60; là "Vua hắc đạo" Tín Mã Nàm những năm 60-70 và "Fifth Orange", trùm "xã hội đen" cuối thế kỷ. Bảy Viễn ko chỉ là một giang hồ nổi tiếng, ông ta còn là một nhân vật khuấy nên một phần lịch sử, từng tham gia kháng chiến chống Pháp rồi trở mặt đầu Tây, trở thành Thiếu tướng trong quân đội Liên hiệp Pháp, được Bảo Đại giao trách nhiệm cai quản an ninh toàn bộ khu vực Sài Gòn - Gia Định. Đã có ko ít cuốn sách viết về nhân vật có tính cách phức tạp và cuộc đời sôi động, đầy bi kịch này. Dưới ngòi bút của nhà văn Nguyên Hùng, Bảy Viễn đã hai lần trở thành nhân vật trung tâm và là chất liệu để tác giả dựng nên hai cuốn sách dày cộm là "Người Bình Xuyên" và "Bảy Viễn - Thủ lĩnh Bình Xuyên". Nếu ko gọi là toàn bộ thì dưới ngòi bút chi tiết của nhà văn Nguyên Hùng, chân dung Lê Văn Viễn cũng đã hiện ra quá đầy đủ. Có viết lại, tư liệu của chúng tôi cũng ko thể hơn, chỉ tổ mang tiếng "múa rìu qua mắt thợ", trong khi xào nấu lại tư liệu lại là điều mà lòng tự trọng của người cầm bút ko cho phép. Ngược lại, với Tín Mã Nàm, trở ngại mà chúng tôi vấp phải là chưa thể thu nhập đủ thông tin. Tên thật là Trần Hà Tư, đẳng cấp giang hồ là một Thầu Dậu (đầu gà), nổi tiếng với biệt danh Tín Mã Nàm (con ngựa điên), nhân vật này đã làm mưa làm gió suốt hai thập niên 60-70, thống lĩnh toàn bộ giới tội phạm người Hoa khu vực Chợ Lớn. Có nhiều thông tin cho rằng Tín Mã Nàm chính là kẻ giữ vai trò Hồng Trượng, kẻ đứng thứ hai, vai vế chỉ thua Hoàng Long, nắm toàn quyền chỉ huy an ninh trong tổ chức tội phạm Tam Hoàn Hội chi nhánh Sài Gòn - Chợ Lớn, quyền lực đen và mức độ tàn bạo của tên giang hồ này lớn hơn rất nhiều so với tầm hình dung của một người lương thiện. Thế nhưng dù đã gặp được một số người thân quen của hắn thì với đặc tính kín đáo cố hữu của người Hoa, chúng tôi vẫn ko thể thu thập được gì chính xác hơn ngoài những câu chuyện truyền miệng đậm chất giai thoại, khó có thể tùy tiện gọi đó là sự thật. Vì thế, dù rất tiếc, một chân dung đầy đủ về nhân vật Tín Mã Nàm vẫn cứ là món nợ mà chúng tôi đành khất lại cùng bạn đọc. Nhân vật thứ ba, Năm Cam, nếu xét về ảnh hưởng xấu thì thừa đủ để có thể cho vào sách. Tư liệu về y lại càng ko thiếu khi đã có hàng ngàn trang báo phô bày trong suốt 2 năm đầu của thế kỷ XXI. Thế nhưng, trong mắt chúng tôi, Năm Cam dù là 1 tên tội phạm sừng sỏ, dù đầy tội ác nhưng vẫn ko đáng được gọi là giang hồ. Điều duy nhất mà Năm Cam làm được, hơn đút nhiều tên tội phạm khác, là đã mua chuộc được một bộ phận thoái hoá trong bộ máy công quyền ở nhiều cấp. Với thế mạnh này, từ một tên gá bạc nhãi ranh, Năm Cam đã ngoi dần lên trên từng nấc thang của quyền lực tội ác. Thế nhưng, trước sau Năm Cam vẫn bị giới giang hồ xem như một trùm xã hội đen sừng sỏ chứ ko hề là một giang hồ có số. Lý do đơn giản, trên con đường ngoi lên, Năm Cam thiếu hẳn 3 tiêu chuẩn: bản lĩnh cá nhân, cách chơi đúng luật (luật đen) và ân uy với đàn em ... Xét về cấu trúc, trong giang hồ chỉ có quan hệ đàn anh - đàn em (được phân ngôi tùy theo đẳng cấp, trình độ, bản lĩnh chứ ko theo tuổi tác), tuyệt nhiên ko có quan hệ chủ - tớ. Với tham vọng biến thành "vua", Năm Cam đã biến tất cả những kẻ dưới trướng thành đầy tớ khiến chúng chỉ sợ mà phục tùng chứ ko nể trọng. Vì thế, Năm Cam chỉ đáng được xem như một tên trùm tội phạm kiểu xã hội đen mà ko đáng được coi là "NGƯỜI CỦA GIANG HỒ". Ngoài ra, còn một loạt "tên tuổi lớn" khác của giang hồ mà chúng tôi chưa có dịp đề cập, hầu hết đều xuất thân từ Trung Hoa đại lục. Họ là những người có công lớn trong tiến trình hoằng dương võ học có nguồn gốc Thiếu Lâm vào Việt Nam. Đó là Lương Vũ Tế, tức là Nguyên Tế Công Đại sư, ông tổ của Vịnh Xuân quyền Việt Nam; là Trương Tòng Phú, hậu duệ đích tôn của Thái cực Võ Đang Trương Tam Phong, chưởng môn phái Võ Đang tại Chợ Lớn; là Đoàn Tâm Ảnh vốn là một áp tiêu lừng danh trên đoạn đường từ núi Côn Luân (TQ) đến HongKong, sau qua Việt Nam "phong kiếm qui ẩn" trở thành Đại lão võ sư Đoàn Tâm Ảnh, Chưởng môn phái Thiếu Lâm Côn Luân (Thủ Đức); tiếp là Hạng Văn Giai, nguyên là thiếu tướng, Quân đoàn phó Quân đoàn Vân Nam ly khai của Quốc dân Đảng sau biến cố 1.10.1949, theo nhiều người trước ông từng là Biệt đội trưởng Biệt đội ám sát của Tưởng Giới Thạch, một trong những "tác giả kịch bản" của vụ ám sát Uông Tinh Vệ tại Hà Nội nổi tiếng thập niên 1930... Trích "Người của giang hồ" Tác giả: Nguyễn Hồng Lam
Hay và nhiều quá bác ạh. Bác còn tiếp k thì post lên giúp. Giá mà có thêm hình ảnh tư liệu thì quí, bác nhỉ. Cám ơn bác rất nhiều.
Tín Mã Nàm So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Dưới thời Diệm - Nhu, toàn bộ hoạt động kinh tài của các bang hội Hoa Kiều Chợ Lớn đều có cổ phần của giới Hắc Đạo. Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc, tiệm hút... đều do giới này quản lý hoặc hùn hạp. Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11/1963, do tham lam, chính Tín Mã Nàm đã khiến giới Hắc Đạo suy yếu. Bắt tay với khá nhiều tướng lĩnh, chính khách thuộc phe đảo chính, ;Con ngựa điên đã bán đứng một số cơ sở kinh tài của các bang hội cho chính quyền mới, tố họ là cơ sở kinh tài của Diệm - NhuMặt khác, Tín Mã Nàm cũng tố cáo và giao nộp cho cảnh sát một loạt tay giang hồ Hoa kiều không ăn cánh với y như Hỏi Phòong Kin, Sú Hồng, Cọp Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy Chảy... nhằm củng cố địa vị Vua Hắc Đạo của mình. Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê Ngọc Trụ - Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng dụng và ưu đãi, trong khi bị nhiều đàn em oán giận và tìm cách trả đũa.Trong những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán tên Chó, người giúp việc cho Tín Mã Nàm quản lý ngành kinh doanh cờ bạc. Biết được sự chia rẽ đó, Đại Cathay đã sai đàn em dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng Tín Mã Nàm, kéo một lượng lớn các con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế Giới, Hào Huê về Cầu Muối cho sòng của Đực Bà Tiều và Bảy Si thuộc quyền Đại Cathay, đồng thời bỏ luôn khu Chợ Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng bạc ở khu Sài Gòn. Biết chuyện, Tín Mã Nàm hạ lệnh cho giới Hắc Đạo Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay bén mảng xuống Chợ Lớn.Chỉ chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay đã liên tục đổ quân tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín Mã Nàm ở vùng Chợ Lớn, chém phứa vào bất cứ ai rồi tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân lành, khách chơi, chính vì vậy họ đâm sợ các điểm ăn chơi giải trí của Hắc Đạo, không dám lui tới nữa. Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê của Tín Mã Nàm đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp kỷ luật của ông trùm. Nhưng cứ tên Hắc Đạo nào lọt xuống khu Sài Gòn là tên đó bị đàn em của Đại Cathay chặn đánh. Đầu năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết phong độ, Đại Cathay quyết định đánh trận cuối, Đại dẫn theo 9 tên đàn em chiến đấu nhất, trong đó có Ba Thế và Lâm chín ngón đi trên 5 xe Goebel bất thình lình tấn công vào quán cà phê ngay trước rạp Hào Huê, đối diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của các tay đàn em Tín Mã Nàm vào 2 buổi sáng chiều.Cuộc tập kích thất bại, hai bên đều thiệt hại nặng nề. Nhưng máu liều của Đại Cathay càng được giới giang hồ truyền tụng và vị nể. Tín Mã Nàm cũng lo lắng: nếu cứ để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy, giới Hắc Đạo chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn ai dám bén mảng. Con ngựa điên phải kìm cơn điên, cử người đến mời Đại Cathay lên nhà hàng Đồng Khánh điều đình. Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang cọp, e bị trải điệm nhưng Đại Cathay nổi máu yêng hùng, vẫn quyết định nhận lời. Để tài xế ngoài cửa, Đại một mình tay không lên nhà hàng hội kiến với Tín Mã Nàm. Cử chỉ ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền . Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được phép hoạt động với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc Đạo. Riêng các khu vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm dzách bạc hồ hãn (hẻm 100), Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được xâm phạm, vì đó là giang sơn riêng của Tín Mã Nàm, nơi vợ bé của y sinh sống.
NĂM CAM dưới cái nhìn dân giang hồ SAIGON Họ là những người từng có quá khứ dữ dội, nhiều năm lăn lộn đâm thuê chém mướn, là cơn ác mộng của chế độ Sài Gòn cũ. Nay ở tuổi xế chiều, với những day dứt, dày vò về quá khứ xưa, họ có những nhận xét rất riêng về Năm Cam - trùm xã hội đen thời nay. Đ., nổi danh trước 1975 với nghề đâm chém, cướp giật, giờ đang viết những dòng cuối cuộc đời trên căn gác xép 12 m2 mà gia đình vợ thương tình cho ở nhờ, phía trong hẻm 72 Xô Viết Nghệ Tĩnh, Bình Thạnh. Nhìn ông già 70 tuổi gầy gò với mái tóc bạc trắng, tai bắt đầu nghễnh ngãng, không ai ngờ rằng ngày trước, ngay tại câu lạc bộ hải quân của línhViệt Nam cộng hòa, ông đã kê khẩu M16 cưa nòng vào thái dương một sĩ quan Mỹ và lạnh lùng xiết cò, vì hắn dám sỉ nhục người tình của ông. Bị săn lùng, Đ. “lặn” xuống Phước Tuy, sau đó sang Campuchia. Năm 1976, không còn cơ hội vẫy vùng như trước, Đ. rửa tay gác kiếm, dắt díu vợ con đi kinh tế mới ở Tây Ninh cho đến năm 1986 thì trở về TP HCM. Ông bảo: “Ngày trước thường giao du với Đại cathay, nói đến Lâm “Chín Ngón”, Bảy Sy thì anh biết, chứ mạt hạng như Năm Cam đâu có đáng. Anh biết đến thằng này hồi 1996, khi nó bắn tin mời anh hợp tác. Anh từ chối thẳng với lý do đã gác kiếm, không muốn gây thêm ân oán giang hồ. Cũng nhờ vậy, thằng Luông Điếc (cha của Dũng “Liều”) mới được nó nâng đỡ, trở thành trùm khu vực quận Bình Thạnh”. Theo ông Đ., so với Đại - Tỳ - Cái - Thế (những ông trùm băng xã hội đen thời trước), tổ chức của Năm Cam tuy sinh sau đẻ muộn nhưng chặt chẽ và tinh vi hơn. Gọi băng nhóm của Năm Cam là tập đoàn tội ác cũng không sai, bởi cách thức tổ chức, điều hành của hắn giống như các bố già maphia Italy. Ông nói: “Sơn Đảo và Y “Cà Lết” quyết đấu công khai, cả giới giang hồ đều biết, nhưng cũng không ném đá giấu tay như Năm Cam. Bất nhân quá. Vụ Phan Lê Sơn và người bạn Hồ Phước Hưng, có thù oán với ai mà chúng ra tay tàn độc thâm hiểm như vậy. Khác hẳn ngày xưa, giang hồ cũng quất sụm nhiều cảnh sát, nhưng đây là những kẻ lợi dụng cảnh loạn lạc, chiến tranh mà khoác áo công chức đi gây tội ác. Cám ơn trời phật đã cho anh sự sáng suốt để từ chối Năm Cam. Nếu không chưa biết chừng hôm nay anh cũng sẽ có mặt tại tòa”. M., “sát thủ vô tình” theo tước phong của giới giang hồ Sài Gòn xưa cũng có đánh giá như ông Đ. Sau 1975, ông ta gây tiếp một số vụ đâm chém ở khu vực Lò Heo (hẻm 222 Lê Văn Sỹ, quận 3) và bị bắt và lãnh án 10 năm tù. Nay đã bước sang tuổi 68, ông sống giản dị trong một căn nhà cấp bốn ở khu Cống Bà Xếp, với nghề sửa xe đạp. Ông tâm sự: “Thủ đoạn của Năm Cam với Lâm “Chín Ngón” và Dung Hà hết sức hèn hạ. Cỡ như anh, tay từng nhuốm đỏ máu mà còn cảm thấy kinh tởm nữa là. Dù sao Lâm cũng là bậc đàn anh, sao Năm Cam muốn lật đổ lại láu cá nhờ Dung Hà rồi rũ bỏ trách nhiệm. Thằng này lại dùng kẻ bất nghĩa như Hải Bánh để trừ khử Dung Hà, em kết nghĩa của mình. Rồi thằng Hoàng “Lựu Đạn” mà cũng được nó tin dùng... Loại bất nhân, bất nghĩa như Năm Cam nếu pháp luật không trừng trị thì một ngày nào đó cũng sẽ bị đám em út lột da. Đã 21 năm nay lương thiện, thế mà đêm nào anh cũng ác mộng, toàn cảnh người mình lỡ giết trong quãng đời 40 năm dao búa hiện về bắt đền mạng. Không hiểu thằng Năm Cam lúc chỉ đạo em út giết người có nghĩ đến kết cục bi thảm như hôm nay hay không?”. (Theo Tiền Phong
Những mỹ nhân máu lạnh chốn giang hồ Người đẹp tạo nên giai thoại, và thông tin truyền khẩu hóa thành xác tín để rồi người đời sau làm nốt những gì còn lại. Tuy nhiên, những mỹ nhân ngoài luồng với những giá trị tạo thành bằng bạo lực hoặc mưu kế thâm sâu hiểm độc mới trở thành những câu chuyện truyền kỳ trong giới giang hồ lưu manh. 1. Từ những năm 70 thế kỷ trước, Trang - với nhan sắc làm đổ gục tay giang hồ số 1 Sài Gòn là Vũ Đình Khánh - tức Sơn Đảo, và đốn gục luôn ông trùm mới phất trong thế giới buôn bán xì-ke là "Y cà lết" - tức Phạm Bá Y, chắc hẳn là đẹp lắm. Khi Sơn Đảo và "Y cà lết" cùng theo đuổi một mục tiêu, một cuộc chạm trán ắt có đã xảy ra vào ngày Tết. Đến nhà Trang trước từ sáng sớm, "Y cà lết" tíu tít quanh mỹ nhân. Sơn Đảo đến sau như Thủy Tinh, hết sức cay cú. "Y cà lết" chìa tay ra cho tình địch. Thay vì bắt tay, Sơn Đảo tát luôn vào mặt Y cà lết" kèm theo câu gằn: "Mày là cái thá gì mà đòi bắt tay tao…". Ôm hận quay về, Y lên kế hoach hạ sát Sơn Đảo. Bàn bạc với em ruột là Phạm Văn Xã tức Xã Xệ, "Y cà lết" cho người theo dõi Sơn Đảo ngày đêm để tìm cơ hội. Không hề biết mối nguy hiểm chết người đang đeo bám sau lưng, Sơn vẫn lao vào các cuộc ăn chơi. Một tối, Sơn đi cùng Ba Gà, một trùm cờ bạc khu Cầu Sạn trên chiếc Yamaha 125 mới cáu cạnh. Khi bước ra từ vũ trường, Sơn phát hiện 2 bánh xe bị xì. Không hề cảnh giác, Sơn dắt xe băng qua đường tìm chỗ vá vỏ. Sơn không hề kiểm tra để biết rằng, nắp chụp bugi xe cũng bị nhét giấy. "Y cà lết" bám theo trên chiếc Honda 67 xoáy "cẩu xập" tăng ga vút lên. Xã Xệ nhảy xuống đường hoàng rút khẩu Colt 45 ra nhắm vào ngực Sơn bóp cò! Trúng đạn nhưng Sơn vẫn phóng tới phía Xã Xệ. Viên thứ 2 găm vào cổ gây đứt động mạch cảnh. Sơn quỵ xuống. Ba Gà gọi taxi chở Sơn đến Bệnh viện Quân y dù và Sơn chết lúc 2 giờ sáng. "Y cà lết" và Xã Xệ trốn luôn lên Đà Lạt, tránh khỏi sự lùng sục của cánh du đãng khoác áo lính dù vốn xem Sơn Đảo như đại ca. Cho đến tận ngày giải phóng, phe Sơn Đảo vẫn không thể trả được mối thù. Phạm Bá Y và Xã Xệ ngựa quen đường cũ, bèn vác súng đi ăn cướp. Mọi chuyện êm xuôi cho đến khi vợ Xã Xệ mang chiếc máy ảnh có một không hai hiệu Leika đi bán với giá 3.000 USD. Công an tóm gọn cả 2 anh em và cả Y lẫn Xã đều đền tội nơi pháp trường. 2. Người đàn bà thứ hai làm cả 2 tay giang hồ dữ dằn nhất Sài Gòn (trước 1975) mất mạng trong cùng một ngày là Lệ Thanh. Là gái snack bar, Lệ Thanh vốn tham lam vô độ như cái thế giới mà cô sống khi đó. Khi quân dù được phân công luân phiên về đóng ở vườn Tao Đàn và dinh Độc Lập để chống đảo chánh, băng sĩ quan lực lượng dù bắt đầu bung ra hoạt động tại Sài Gòn. Đứng đầu là trung úy Hợi, kế tới là Kha, thiếu úy Thanh, Hồ Tường, Ngọc Tường… Mục tiêu béo bở nhất Sài Gòn chính là khu vực Tự do (Đồng Khởi bây giờ) với hàng loạt snackbar, vũ trường, restaurant… gần như chỉ dành riêng cho quân Mỹ và quân các nước Đồng minh. Ngặt một nỗi, khu vực này nằm trong tay của lực lượng người nhái thuộc hải quân. Nhờ là cận vệ cho Nguyễn Cao Kỳ, Châu Nhị được xem là thủ lãnh của nhóm người nhái gồm: Trọng Tấn, Tầm, Tòng bác sĩ, Vincent… Cuộc đàm phán nhanh chóng kết thúc với việc phân chia quyền lợi vui vẻ cả hai bên. Tuy nhiên Lệ Thanh, vốn xuất thân ngay vùng tranh chấp mờ mắt vì quyền lợi đã thỏ thẻ với Hợi "điên" (kẻ đang sống già nhân ngãi-non vợ chồng với thị): "Băng người nhái đang ngán cánh lính dù của anh, tội gì phải chia chác… Trải đệm (từ lóng, có nghĩa là thanh toán, xử lý) toàn bộ người nhái, thâu tóm luôn cho rồi!". Hợi nghe lời nhân tình bèn tổ chức một cuộc gặp với Châu Nhị. Trước giờ hẹn, Hợi, Kha, Thanh… ập vào, xả sạch đạn của 3 khẩu súng CAR 15 lên người Châu Nhị. Sau khi hạ thủ, Hợi chạy ra cửa tẩu thoát. Không hổ danh lực lượng tinh nhuệ binh chủng người nhái, Trọng Tấn chụp súng ruleau bên cạnh nã luôn 4 phát vào gáy Hợi "điên", vì biết chắc Hợi luôn mặc áo giáp chống đạn. Chỉ trong một ngày, hai cọp dữ mất mạng vì lời nói của một mụ đàn bà! 3. Cũng thời kỳ đó, tại Sài Gòn rộ lên những băng nhóm nữ quái hoạt động dữ dội không thua gì cánh đàn ông. Đứng đầu là băng Lamour với thủ lĩnh là Nguyệt Lamour. Những mỹ nhân xinh đẹp dưới trướng có thể nhắc đến Nga Sou. Vốn là một cô gái dân chơi theo cách yêu cuồng sống vội của phong trào hippy, Nga nhanh chóng hòa vào thế giới thượng lưu và chơi khá thân với Cao Văn Dũng, con trai đại tướng Cao Văn Viên. Là công tử thuộc dạng nhất nhì miền Nam, các thể loại giang hồ làm sao dám động đến Nga, cục cưng của Dũng. Nga đẹp và sống xả láng nên nổi danh trong giới quý tộc Sài Gòn. Với phong cách bạt mạng ấy, cộng thêm nhan sắc rực rỡ của các thành viên, chỉ trong một thời gian ngắn, băng Lamour nổi như cồn. Những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng mặc cho lệnh giới nghiêm và các cuộc thanh toán như phim găng tơ Mỹ đã làm các băng cạnh tranh phải rụt rè khi nghĩ đến chuyện va chạm với băng Lamour. Thế nhưng ngoài Nga Sou và chục cô có nhan sắc khác, những "mỹ nhân ma chê quỷ hờn" cũng nhào vào "tìm nơi giải trí và tá túc". Nổi bật trong băng Lamour theo kiểu "có nhan sắc của một gã đàn ông xấu trai" có thể kể đến Sương Lamour. Theo đóm ăn tàn một thời gian và được "quý tử Dũng" bảo kê khỏi bị pháp luật sờ gáy, Sương trở về với bảng thành tích dày cộp những vụ đâm chém. Lấy chồng để an phận nữ nhi thường tình? Không! Sương lấy một gã giang hồ khác cũng thuộc diện số má là Đức năm nghệ và từng một thời tung hoành cùng với Minh Samasa ở Vũng tàu. Trở lại chuyện Nga Sou, mỹ nhân số một của băng Lamour, sau khi kết hợp được với 2 mỹ nhân "mặt gạch" khác là Tâm và Sương (một người khác) đã thống trị toàn bộ giang hồ nữ quái. Do có nhan sắc và cũng sẵn sàng nói chuyện với những kẻ không ưa bằng dao lê, Sương khét tiếng thời bấy giờ mà ngay cả những "nam tử Hán" cũng e ngại khi phải đối đầu! Đến tận ngày cuối cùng của chế độ cũ, Nga Sou và 2 bóng hồng sát thủ vẫn tiếp tục tổ chức những vụ cướp tiền vàng của hàng loạt người di tản để thỏa mãn cơn nghiện ma túy trót dính vào từ thời còn xuân sắc. Sau ngày giải phóng, băng Lamour tất nhiên tan rã, kẻ vào tù người đi kinh tế mới. Bây giờ, để gặp lại Nga Sou chỉ cần đến gần góc đường Trần Quang Khải - Hai Bà Trưng, quận 1, sẽ nhìn thấy một phụ nữ gầy gò lui cui sắp xếp từng bao thuốc lá vào tủ cho con gái ngồi bán. Chẳng ai ngờ đó lại là một mỹ nhân một thời làm điên đảo giới "giang hồ khoác áo lính" của miền Nam… 4. Đã kể đến những mỹ nhân giang hồ, không thể không kể đến hàng loạt nữ quái khác, tuy không phải là "nhất tiếu khuynh nhân" nhưng hễ nhắc đến tên thì không ai trong giới giang hồ miền Nam không biết. Đó là chị Ba Jacqueline. Chị Ba là một người mà khi thoạt nhìn chẳng ai phán đúng về giới tính và hết sức trung thành với chiếc xe Goebel lúc nào cũng tinh tươm cáu cạnh. Khá giỏi võ và xuất thân từ môi trường snackbar nên Ba Jacqueline hết sức “gấu”. Nhậu nhẹt, hút thuốc, đánh nhau và sẵn sàng đi cướp nếu có ai đó đề nghị, Ba Jacqueline là người phụ nữ đầu tiên được giang hồ Sài Gòn thuở ấy xem như đàn ông! Nhưng có một phụ nữ khác, Ba Jacqueline tự xem như "dưới màu": Hai Ba Vạn. Trong một gia đình có đâm chém trừ cơm, Hai Ba Vạn không đi lăng quăng nhậu nhẹt quậy phá mà chủ yếu chỉ "động dao động thớt" khi biết chắc có tiền. Chính vì vậy, từ Hai Ba Vạn, Sáu Ba Vạn đến đám con cháu lóc nhóc mãi sau này, đều chọn nghề "đâm thuê, chém mướn" đặc biệt là… đi đánh ghen giùm với giá cả phải chăng! Một nhân vật khác hết sức đặc biệt mà các tướng tá quân đội Sài Gòn cũ hay đem ra làm câu chuyện trêu chọc lẫn nhau: bà Năm Tốt! Vốn là chủ một động mại dâm "deluxe" của Sài Gòn chuyên phục vụ theo đơn đặt hàng của các tướng lãnh miền Nam, bà Năm Tốt nổi tiếng hơn cả hoa hậu khi ấy. Dưới tay có hàng trăm cô gái xinh đẹp và nhìn vẻ ngoài hết sức sang trọng, quý phái, bà Năm Tốt đã trở thành "nhân vật không thể thiếu" của giới thượng lưu Sài Gòn. Nhưng nếu chỉ có vậy thì cụm từ "Bà Năm Tốt" làm sao có thể trở thành một phương ngữ của giới chóp bu Sài Gòn? Tất cả phát xuất từ viên tướng tư lệnh đội quân dù khét tiếng Dư Quốc Đống! Không phải truyền thuyết mà là sự thật, tướng Đống có một "kích thước quá khổ". Để có thể giải tỏa cho mình, với kích thước ngoại cỡ đó, Đống phải xuất ngoại thường xuyên định kỳ. Hiểu rõ điều đó và để nắm lấy viên tướng hung hãn chỉ huy lực lượng đặc biệt tinh nhuệ này, Nguyễn Văn Thiệu tự trích quỹ đen ra đài thọ cho Đống đi Âu châu định kỳ. Một lần nọ, lên Đà Lạt chơi với các bạn cũng đang là tướng tá, Đống được giới thiệu với bà Năm Tốt, đang chuẩn bị mở thêm "chi nhánh" trên vùng Tuyên Đức. Điều bất ngờ xảy ra: Đống chết mê chết mệt bà Năm Tốt. Từ đó, những chuyến du lịch ngắn ngày đi Âu châu của Đống không còn cần thiết cho đến tận ngày giải phóng. Bà Năm Tốt nổi tiếng là vì vậy!? 5. Sau giải phóng, giang hồ miền Nam im hơi lặng tiếng. Đến thập niên 80-90, một số nữ quái ngóc đầu dậy. Những năm tháng ấy, giang hồ nữ "rớt" vào trại tạm giam Công an quận 1, được biết tới bằng cụm từ trại Mạc (đường Mạc Đĩnh Chi), không ai không biết Thu chuột và Hồng nẫu. Thu chuột rất đẹp và trước khi chuyển vùng hoạt động qua nhà ga Sài Gòn (Công viên 23-9 bây giờ), Thu đã có hàng trăm (không ngoa) cuộc tình với giang hồ các loại, các kiểu, các đẳng cấp. Đổ vỡ hàng… trăm lần, Thu bèn xăm một bầy chuột từ gót chân lên đến tận trên bắp vế và thế là thành biệt danh. Thu vẫn đẹp, dù bắt đầu bước qua độ tuổi "nghe những tàn phai". Chính vì vậy vẫn hàng tá giang hồ số má cộm cán vây quanh ra sức và đổ máu giúp thị làm ăn. Thu sống bằng một nghề mà bây giờ đã mất tích: cho thuê quần áo, phấn son, giày dép… mà khách hàng là các cô gái bán hoa quanh vùng nhà ga Sài Gòn, công viên Quách Thị Trang, bến xe bus Hàm Nghi. Thu chuột đẹp nhưng cánh đàn ông vẫn e dè khi tiếp xúc. Nghe đâu cô ta thỉnh thoảng lên cơn rút dao múa lung tung trước khi tự rạch vào tay một phát. Hồng nẫu điềm đạm hơn, nên dù không đẹp bằng nhưng nhân tình luôn là những tên máu mặt nhất nhì vùng chợ Sài Gòn và Tân Cảng. Cả hai, Hồng nẫu và Thu chuột khét tiếng ở trại Mạc chỉ vì sự tàn ác với các bạn nữ đồng cảnh ngộ. Cả hai đều sáng tạo ra những cách tra tấn, đánh đập và khủng bố tinh thần xuất sắc đến độ, những cô gái lỡ dại "rớt" vào trại Mạc, cho vàng cũng không dám để bị sa vào đó lần thứ 2. Những phương pháp, không tiện kể ra, nhưng là bài bản được nhân rộng từ trại Mạc lên trại tạm giam Chí Hòa và hàng loạt trại giam khác! Bây giờ, nạn đại bàng đã bị tiêu diệt hẳn ở các trường trại, nhưng ký ức về những trận đòn thù mà Thu chuột, Hồng nẫu sáng tạo ra vẫn là một ám ảnh kinh hoàng cho bất kỳ nữ phạm nào của Sài Gòn thuở ấy! AN NINH HINH SU BAO CONG AN
NĂM CAM ÔNG TRÙM SAI GON Sài Gòn những năm đầu thập kỷ 50,trong ký ức đã bạc mầu thời gian của Năm Cam, là một vùng đất thưa người, hoang vắng và ngoài kỷ niệm tuổi thơ, chẳng còn gì gọi là hấp dẫn. Thuở ấy,con kinh chạy dài từ đầu Cầu Quay đến tận Chợ Lớn còn sạch lắm. Nước lên xuống theo thủy triều và đủ để cho lũ trẻ con ở truồng nhồng nhỗng lặn hụp suốt ngày chơi trò thủy chiến. Quận 4, nơi sinh ra và lớn lên của Năm Cam-lúc ấy là mảnh ruộng đồng đầy ao vũng, sình lầy và lắm muỗi mòng.Còn nhớ, cho đến tận những năm đầu thế kỷ, nơi này còn có cả lũ cá sấu hoa cà dữ tợn từ Rừng Sác-Cần Giờ tìm về gây họa. Những khu xóm lụp xụp tối tăm,ban đêm được soi bằng những bóng đèn dầu hột vịt hoặc tệ hơn, bằng ánh trăng huyền hoặc.Năm Cam đã trưởng thành từ nơi khốn khó, chẳng trách y có một tham vọng đổi đời bất chấp mọi thủ đoạn để dành thắng lợi. Cha của Năm Cam tên thật là Trương Văn Bưởi-còn được gọi là ông Mừơi Củi, đó chính là lý do khi có ai đó nói đùa với y: Chanh,Tắc(quất)gì cũng được, nhưng nói đến Bưởi và Quýt thì không xong!Đã rời bỏ quê hương Quảng Nam để vào đất Sài Gòn sinh sống từ những năm 30. Nghe đâu ngoài Tư Xẩm, Năm Cam, hai ông bà Mười Củi đã ngậm ngùi bỏ mất hai đứa con trai ở quê cũ vì không có tiền mua thuốc trị bệnh. Đó cũng chính là nguyên nhân hai vợ chồng quyết tâm ra đi không chút quyến luyến và gần như quên đi rằng họ từng có một quê hương nào đó xa vời vợi tận miền Trung. Khát vọng đô(i đời thoát nghèo đã buộc họ ra đi. Năm Cam đã ngỡ rằng ngoài cha mẹvà chị Tư Xẩm, chẳng còn ai để nó gọi bà con. Thế nhưng, vào một buổi chiều tối, cha nó dắt hai chị em ăn mặc tươm tất, tương đối khá hơn cái gọi vựa củi của ông già Mười nhiều. Năm Cam và Tư Xẩm được giới thiệu với người đàn bà chủ nhà, và được đeo tang ông chồng của bà chủ nhà vừa chết. Từ đó, trong trí óc non nớt của Năm Cam đã ghi nhận được rằng: ở ngôi nhà tại chợ Xóm Chiếu này, cha nó có một người em gái tên là Trương Thị Quýt. Chồng của cô Quýt vừa chết, Năm Cam và Tư Xẩm phải gọi là dượng- Dượng Thừa, một ông dượng mơ hồ xa lạ dù hoàn toàn có thật. Nhưng cũng mối quan hệ bà con duy nhất này đã dạy cho Năm Cam một bài học, quan trọng và đầy chua xót khi nó đã bắt đầu lớn khôn đủ nhận thức về một thế giới phức tạp đầy dẫy chuyện tồi tệ ở chung quanh. Một thế giới quan khắc nghiệt đã định hình bởi bài học cay đắng ấy. Ngày ông Mười Củi dắt hai đứa con đến đám tang của chồng em gái trờ về, ông bắt đầu ngã bệnh và các triệu chứng của căn bệnh lao phổi thời kỳ cuối cùng. Đó là kết quả của công việc lao động quá sức để nuôi vợ và hai con. Được gần hai năm, ông Mười mất. Năm Cam còn nhớ, lúc cha chết, những chiếc xe của phòng thông tin chạy rông khắp ngõ phát ra rả trên loa: “ Nghe vẻ nghe ve, nghe vè Bảo Đại....”. Nhờ vậy sau này, một người bạn trí thức của Năm Cam có thể khẳng định được năm ông Mười qua đời là năm 1955, năm thủ tướng Ngô Đình Diệm chơi trò trưng cầu dân ý để phế truất Bảo Đại khỏi cương vị quốc trưởng và bắt đầu cho việc lập nền đệ nhứt cộng hòa. Cô Quýt cũng được báo tin dữ bởi đích thân bà chị dâu nghèo khổ. Không khác gì một người khách vãng lai, cô Quýt ghé đến đám ma thắp một nén nhang, uống vội một ngụm trà, và dúi vào tay chị dâu một ít tiền phúng điếu trước khi bước lên Taxi ra về. Nét mặt cô như một tảng nước đá, không buồn cũng chẳng vui. Lúc ấy, trí óc non nớt của Năm Cam chưa cho phép nó hiểu rằng người cô cư xử hết sức xấu với gia đình người anh, cô Quýt thậm chí không buồn có mặt khi hạ huyệt. Đối với cô đến thắp nhang ông anh đã là tốt lắm rồi. Về sau khi chớm hiểu cuộc đời, Năm Cam đã hiểu được một điều rất đơn giản nhưng cũng là nổi ám ảnh suốt một đời của một gã giang hồ ít học: Phải giàu có dù bằng bất cứ cách nào: nếu nghèo khó- những điều đơn giản và dễ hiểu nhứt như tình thân bằng quyến thuộc, cũng đừng hòng! Bài học càng rõ nét hơn khi bà Mười, vào một lúc quá bế tắc, đã dắt đứa con đến tìm con của cô Quýt nghe đâu rất khá giả. Hai mẹ con cùng đi chân đất, đầu trần giữa một buổi trưa Sài Gòn đầy nắng và bụi, đến đứng tần ngần trước cửa hàng tạp hoá bề thế của Sang- đứa con trai đầu của Dưỡng Thừa và cô Quýt. Anh ta thờ ơ theo kiễu một con buôn. - Xin lỗi, thực ra tôi cũng chẳng nhớ là có một người bà con nào, nếu có hẳn mẹ tôi nói cho chúng tôi biết rồi chứ!? Sang nói một cách lạnh lùng sau khi quan sát kỹ cách ăn mặc của hai mẹ con của người muốn nhận họ hàng với gã. Chắc mối quan hệ thân quyến này chẳng mang đến cho gã chút lợi lộc nào mà ngược lại, sẽ làm cho gã hao tốn không ít thời giờ và tiền bạc. Với bản chất một con buôn, Sang hiểu- tốt nhứt là gã nên vờ đi là xong! Theo thói đời, cách xử sự ấy hoàn toàn hợp lý... Bà Mười tủi thân bật khóc rồi dắt con trai quay về. Cuộc sống nghèo khó rồi cứ thế tiếp diễn. Mỗi buổi, bà lọ mọ mua về ít khoai, bắp bên vựa và luộc lên bán quẩn quanh trong xóm cho lũ trẻ con trong bụng ỏng eo. Năm Cam, dù mới chỉ mười hai, muời ba tuổi đầu cũng biết cùng bọn đồng trang lứa qua khu chợ cá Cầu Ông Lãnh, Cầu Muối để xoáy từng con cá, củ khoai về “cải thiện”. Đối với những cư dân làng Khánh Hội lúc bấy giờ, đó là lẽ tất nhiên, chẳng có gì là lạ. Sống tươm tất, đó mới là chuyện đáng lưu ý... Và rồi Tư Xẩm có chồng. Chồng cô là một tay anh chị có chút ít tiếng tăm ở địa phương: Bảy Xi- tên thật của Nguyển Văn Xi. Thực ra Bảy Xi không phải là người sống ở hẻm Chủ Phước. Cha mẹ của Bảy Xi có nhà cửa ở chợ Xóm Chiếu. Anh ta đến hẻm chôn nhau cắt rốn của chị em Năm Cam do mối quan hệ giang hồ với Mười Sở, một tay giang hồ có máu mặt ở khu Cống Lấp. Như bất kỳ một cuộc tình nào khác xảy ra ở một vùng đất nghèo khổ, sình lầy này, Bảy Xi yêu và cưới Tư Xẩm thật gọn gàng chóng vánh khi cô gái chớm bước qua tuổi mười tám. Tình nghèo thuở ấy như vậy là phổ biến. Chỉ là một mâm cơm tương đối gọi là, với khách mời duy nhất là Mười Sở, Bảy Xi ra mắt mẹ vợ và sống tạm ở căn nhà rách nát ấy một thời gian ngắn, trước khi đưa vợ về ở chung cùng cha mẹ mình. Bảy Xi có một nghề để kiếm tiền mà hiện nay, cách kiếm tiền ấy không còn bắt gặp đâu trên toàn cõi Việt Nam nữa. Không đẹp trai, chân lại bị khập khiễng, bù lại Bảy Xi có giọng ca khá mượt đủ làm xiêu đổ trái tim các cô gái lối xóm hằng đêm tụ tập ở phong ten nước. Bằng giọng ca trời phú, Bảy Xi mỗi ngày ôm một xấp bài tân cổ thời thượng đi khắp các hóc hẻm Sài Gòn để bán. Tất nhiên, muốn bán được một cách dễ dàng với số lượng nhiều, Bảy Xi phải ca thử, ca một cách hết sức ai oán mùi mẫn. Theo chân anh rể, năm Cam cũng bắt đầu biết đến một Sài Gòn khác hẳn. Một Sài Gòn với những đường phố rộng thênh thang, nhà cửa tráng lệ, người mua bán tấp nập. Sài Gòn được biết đến sau này khác xa với Sài Gòn tuổi thơ của Năm Cam, có không ít trò lừa lọc và lối cư xử có không ít tàn nhẫn. Tư Xẩm chuyển qua buôn bán nồi niêu xoong chảo bằng nhôm và bắt đầu chuẩn bị cho đứa con đầu lòng chào đời. Bảy Xi đưa vợ về hẻm Sáu Căn ở Tôn Đản để thuê nhà. Đúng với tên gọi của nó, hẻm 148 thời bấy giờ chỉ lèo tèo vài căn nhà nằm lọt thỏm giữa một bãi tha ma tiêu điều quạnh vắng. Thọ, đứa con trai đầu của Bảy Xi và Tư Xẩm đã ra đời trong một căn nhà mái lá, vách phên tre vào năm 1957, năm mà Bảy Xi vẫn tất bật với công việc mua bán bài nhạc một cách lương thiện. Mỗi chiều, Năm Cam lại theo lũ bạn ra cây cầu Ông Lãnh để tắm táp, vui đùa. Thuở ấy, bọn trẻ có thể nương theo dòng nước để lội từ Cầu Chông đến tận chợ Cầu Cống mới trèo lên con lộ nhựa trèo về nhà. Vài năm sau khi về ở hẻm Sáu Căn, Bảy Xi sinh tật có thêm vợ bé. Tuy vậy, anh ta vẫn quan tâm đến Tư Xẩm và đứa con mới chập chững biết đi. Hai mẹ con Năm Cam ở căn nhà phía ngoài, còn Tư Xẩm ở trong sâu. Khi hai vợ chồng cãi nhau kịch liệt về việc vợ bé- vợ mọn của Bảy Xi, Tư Xẩm dứt khoát: “ hoặc thôi vợ bé, hoặc đi luôn!”. Bảy Xi bỏ đi. Thế là Tư Xẩm bế luôn đứa con trai về với mẹ trong một căn nhà tồi tàn rách nát cách đấy không xa. Rất nhiều năm sau này, Năm Cam cố nhớ lại vì sao cả Bảy Xi lẫn mẹ con Năm Cam lại tìm đến hẻm 148 Tôn Đản này để sinh cơ lập nghiệp. Phần Năm Cam và mẹ thì rõ rồi, họ phải theo vợ chồng Bảy Xi đi bất kỳ nơi đâu để tồn tại, dù tồn tại theo kiễu hết sức khổ cực. Còn Bảy Xi? Hoá ra, người rủ Bảy Xi về hẻm Sáu Căn sinh sống là anh Bảy Huê Kỳ. Anh Bảy Huê Kỳ là một tay kỳ bẻo có tầm cở nhứt nhì Sài Gòn lúc bấy giờ, nhưng nghèo rớt mồng tơi. Có tay nghề giỏi nhưng vẫn có thể chết đói nếu không biết liên kết và thiếu kế hoạch, Năm Cam đã nghiệm ra được như vậy ở tấm gương anh Bảy Huê Kỳ. Để phụ giúp gia đình, Năm Cam theo bạn bè gia nhập đội ngũ những kẻ bán xà bông bột quanh chợ Bến Thành. Mỗi bịch xà bông bán được chỉ đem đến mười xu lãi nhưng nếu mỗi ngày nếu chịu khó đi cho đến cặp chân mõi rũ rượi, Năm Cam cũng có thể mang về nhà được hơn chục đồng bạc. Năm Cam đó được một người bạn thân mồ côi cha mẹ cũng làm nghề đi bán dạo xà bông như nó. Bé Tám ở chung nhà với anh chị nhưng cũng được giành cho một không gian riêng biệt ở phía sau và thường rủ thằng bạn quận 4 quí hóa về ngủ qua đêm trên chiếc ghế bố hẹp bốc mùi ngai ngái. Tuy là một đứa trẻ con loắt choắt vì thiếu ăn và phải bươn chải nhưng Năm Cam đã thực sự trưởng thành theo cách nhìn của bọn giang hồ lưu manh từ năm 14 tuổi. Nó theo chân các ông anh trời ơi ở khu Cống Lấp để đáp xe buýt lên ngã ba Chú Ía, trong tay cầm chặt tờ giấy bạc hai mươi đồng! Cô gái mặt bự phấn cười rũ ra khi nhìn thấy thằng trẻ con đang thập thò núp sau lưng gã anh chị mặt mũi cô hồn mình xâm chằng chịt! - Nó à? Cô gái hỏi gã đàn anh của Năm Cam khi đã ngừng trận cười * * * Sau lần tìm hiểu đàn bà đầu tiên trong đời, Năm Cam trở nên dạn dĩ, nó sẵn sàng đi một mình khi thấy rủng rỉnh ít tiền trong túi. Tệ hại hơn, như những hạt cỏ dại khác mọc xô bồ ở mảnh đất phức tạp ở quận Tư, nó cũng tham gia hầu hết các trò đồi bại của bọn trẻ con quỉ quái. Nó cũng bơi dọc theo bờ kinh để rình rập những phụ nữ sơ hở trong lúc tắm táp vệ sinh và cũng chẳng từ cơ hội nào để thỏa mãn trí tưởng tượng hết sức phong phú về tình dục của nó. Cho đến một ngày nọ... Ơû chợ Bến Thành, nó và bé Tám có một bà chị nuôi rất xinh đẹp và tử tế. Nguyệt, tên cô gái-năm ấy 23 tuổi, sống bằng gánh trái cây và quen biết Năm Cam qua sự giới thiệu của bé Tám. Chính cô cũng không ngờ thằng trẻ con láu lỉnh, khéo ăn nói và nhiệt tình phụ giúp cô mỗi khi dọn hàng, lại có thể nhìn cô với kiểu nhìn hết sức dung tục, đồi bại. Hai chị em quấn quýt nhau những ngày mưa gío buôn bán ế ẩm. Công việc buôn bán xà bông của Năm Cam tỏ ra nhiều thời giờ rảnh hơn cô gái nên nó giúp đỡ cô khá nhiều. Hôm ấy, trời đổ mưa to. Nhìn cơn mưa ngày lúc càng nặng hạt không có dấu hiệu gì sẽ chấm dứt. Nguyệt thở dài với đứa em nuôi: - Kiểu này chắc dọn về luôn chớ buôn bán gì nữa? Năm Cam hăng hái lao vào trong mưa để gọi xích lô và nó thoăn thoắt dọn hàng cho cô chị nuôi lên xe. Tất nhiên khi dọn xong, đầu tóc nó ướt đẫm. - Thôi, lên xe về nhà chị...để ướt đầu cổ thế này bệnh chết! Cô nói. Cô ngồi lên ghế, hàng và đỗi quang gánh đặt dưới chân. Năm Cam lay hoay chẳng biết phải ngồi vào đâu. Nguyệt phì cười, cô ngoắc tay: - Leo lên đây, ngồi vào lòng chị nè ông tướng! Nó mừng rỡ trèo lên xe ngồi lọt tỏm vào lòng cô chị nuôi xinh đẹp. Nguyệt thoạt đầu cũng không nghĩ ngợi gì khi ôm thằng em nuôi trong lòng. Thế nhưng khi xe chuyển bánh, sự cọ xát giữa hai cơ thể khác giới khiến cô có chút bồi hồi. Tấm bạt che, đủ để những tư tưởng đồi bại phát sinh, và đủ để hai chị em không cùng huyết thống bớt đi sự xấu hổ cần thiết. Nguyệt bất giác thở dài rồi ghì xiết vòng tay ngang bụng thằng bé.... Nó cũng chẳng phải là trẻ con như ngoại hình loắt choắt dễ đánh lừa tâm lý phòng thủ của phụ nữ, nên cũng bắt đầu giở trò. Nguyệt không còn tự chủ, cô nói nhỏ vào tai đứa em nuôi: - Em có thương chị Nguyệt không? Dĩ nhiên là Năm Cam gật đầu. Về đến nhà, cô đưa thằng em nuôi ra sau nhà tắm rữa rồi rúc vào phòng riêng trước cái nhìn không chút nghi ngại của gia đình. Từ đó, Nguyệt luôn tranh thủ cơ hội để bày trò với Năm Cam. Tất nhiên, sau đó ít lâu, Nguyệt có thai. Cô giấu biệt tác giả cái bào thai với gia đình vì làm sao thuyết phục được mọi người thân đồng ý với “ cuộc tình” trái khoáy của cô với đứa em nuôi mới 15 tuổi đầu! Đứa con trai đầu tiên của Năm Cam ra đời trong hoàn cảnh như thế và mãi sau này, ngay cả với nó, Năm Cam cũng không bao giờ kể lại một cách cụ thể mối quan hệ của Nguyệt và y. Nguyệt đặt tên cho đứa bé là Trương Văn Hùng và bế con giao lại cho Năm Cam. Cô không thể tiếp tục quan hệ với Năm Cam bởi áp lực của gia đình và một phần vì cô, vốn là một phụ nữ xinh đẹp hiếm có, làm sao có thể chấp nhận lấy một đứa trẻ con không mấy gì xuất sắc, điển trai. Chẳng qua đó cũng chỉ là nỗi đam mê nhất thời trót gây ra hậu quả mà thôi! Cũng lại là chị Tư Xẩm, thương em trai nên phải è cổ gánh luôn trách nhiệm nuôi thằng con trai của Năm Cam. Chị đặt cho nó cái tên Hai Dái, theo thông tục của các gia đình ít học để tránh bệnh tật, tai ương cho thằng bé. Tuy nhiên, đối với bất kỳ ai, Hai Dái không hề là con trai của Năm Cam và coi như Năm Cam chưa từng có vợ. Ai có thể tưởng tượng nổi một thằng nhóc loắt choắt mới 15 tuổi đầu như Năm Cam đã lên chức bố? Càng lớn, Trương Văn Hùng giống như Năm Cam như tạc... Hẻm Sáu Căn có thêm một thành viên mới, nghe đâu rất có máu mặt. Năm Cam nghe lũ bạn kháo nhau nên cũng quay về để xem “ ông Mười Côn Lôn là ai ?” Nô Cao Giò, một thanh niên ở xóm cũng thuộc vào loại “ có tiếng nói” do đã có lần tù tội. Lúc bấy giờ, việc đi ở tù là ghê gớm lắm, trừ những ai đi làm quốc sự, ngoài ra-đều được nhìn với ánh mắt e dè sợ sệt. Mười Côn Lôn được Nô Cao Giò đưa về xóm giới thiệu với bạn bè đồng trang lứa: “ Anh Mười đàn anh của tao!” . Lời giới thiệu không cần dài dòng nhưng hết sức hiệu quả. Năm Cam không cần biết nhiều, như thế đã quá đủ để nó và các bạn ngưỡng mộ Mười Côn Lôn lắm rồi. Có một lần “ anh Mười” làm Năm Cam phải thất vọng. Một rừng không thể hai cọp, huống hồ con cọp đến sau chưa có một thành tích nào khả dĩ thuyết phục các hảo hán địa phương. Hẻm 122 nổi danh đã từ lâu về việc cung cấp hàng loạt anh chị cho giới giang hồ bến tàu, đâu thể chấp nhận một tay lạ hoắc nào đó đến xưng hùng xưng bá ở con đường Tôn Đản này? Thế là một buổi chiều tối, hai anh em Được-Lót, xếp sòng hẻm 122 dắt một tốp em út cỡ vài chục mạng, mang theo dao bầu, mã tấu, gậy gộc, xuống thẳng hẻm 148 để tìm anh Mười Côn Lôn với mục đích thử lửa xem là vàng thật hay vàng dỏm! Vừa bước trong nhà ra chưa tới đầu hẻm, Năm Cam đã lãnh luôn một gậy vào lưng! Khổ thân thằng bé, mới 14-15 tuổi, biết gì chuyện tranh bá đồ vương của các bậc đàn anh, nhưng vẫn bị đối phương xem là “ đàn em của Mười Côn Lôn” để nện với mục đích buộc Mười Côn Lôn phải lộ diện ứng chiến. Tất nhiên Mười Côn Lôn không phải là thằng ngốc! Diễu võ dương oai suốt cả giờ đồng hồ vẫn không thấy tướng địch xuất hiện, Được-Lót hạ lệnh thu quân. Mãi đến lúc đó Năm Cam mới lóp ngóp chui lên từ mé ao cạn, vừa vào nhà tắm rửa giặt giũ vừa làu bàu trách “ ông Mười” tại sao không ra mặt để đối phương đừng “ khi dễ”! Tuy nhiên, cũng qua sự việc trên-Năm Cam cũng rút ra được một bài học: đừng vì hai chữ anh hùng mà húc đầu vào đó! Khi cần, vẫn có thể chịu nhục mà lánh thân, miễn là bảo toàn được tánh mạng, danh tiếng vẫn còn lấy lại như thường! Đầu năm 1962, mẹ Năm Cam qua đời sau một cơn bạo bệnh. Năm Cam đã trở thành một kẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời của Năm Cam đã lật sang trang mới, cay đắng và khốc liệt hơn trước nhiều Trong giới giang hồ miền Bắc từ trước đến nay, cái tên Sơn “bạch tạng” được nhắc đến với nhiều câu chuyện thêu dệt về nhân vật “cầm trịch” dân đao búa đất Hà thành. Không giống như Khánh “trắng”, Phúc "bồ", Vinh "đồng", Dương Tử Anh... hay nhiều anh chị có máu mặt khác thích "trống giong cờ mở", Sơn lặng lẽ thu mình thống lĩnh việc cờ bạc và các hoạt động "đen" khác. "Tảng băng chìm" này của Sơn mang lại rất nhiều lợi nhuận và danh thế... Là một trong những tay anh chị nổi tiếng nhất trong giang hồ nên Sơn "bạch tạng" luôn được các đơn vị công an "chăm sóc" kỹ lưỡng, đặc biệt là Phòng CSĐT tội phạm về TTXH của Công an TP Hà Nội. Tuy nhiên với sự khôn ngoan của kẻ đã lăn lộn trên giang hồ, Sơn "bạch tạng" vẫn giữ được "chất" của mình và luôn khiến dân đao búa đất Hà thành bái phục. Trên khắp đất nước, bất kỳ một dân chơi nào cũng đều biết tiếng Trần Quốc Sơn tức Sơn "bạch tạng" như là một ông trùm thực sự của giang hồ Hà Nội. Các đại ca khét tiếng như Cu Nên, Cu Lý, Lâm "già", Minh "xăm", Thành "xăm"... đều phải kiêng nể Sơn trong các cuộc ân oán. Khi giang hồ vào thời loạn, thế kiềng ba chân Sơn "bạch tạng" - Phúc "bồ" - Khánh "trắng" tan vỡ. Sơn có cơ hội thống lĩnh xã hội đen Hà Nội. Không bỏ qua thời khắc quý giá này, Sơn "chiêu binh mãi mã", xưng hùng xưng bá ở khu vực chợ xe Phùng Hưng và các sòng bạc lớn ở Hà Nội. Sinh năm 1962, Sơn cầm tinh con hổ. "Chúa sơn lâm" luôn ngồi ghế tiên chỉ của dân đao búa trong mọi cuộc chơi. Tính Sơn nhỏ nhẹ, ít rượu chè, trong thời gian đấu đá với các đối thủ, Sơn lại càng lặng lẽ. Mỗi khi Sơn xuất hiện tại các vũ trường, tất cả những cô đào đẹp nhất phải ra hầu rượu. Mỗi khi Sơn "trót" sa chân vào vòng lao lý, tất cả các phạm nhân đều phải thừa nhận Sơn là "huynh trưởng". Đã nói là làm, đã làm là tới cùng, tính cách ấy thể hiện rõ trong các phi vụ làm ăn cũng như những cuộc thanh trừng bằng máu khiến bọn đàn em vô cùng khiếp sợ. Khi Khánh "trắng" bị bắt, Sơn đã "lên ngôi" và trở thành "anh cả" tại giang hồ miền Bắc. Thế và lực của Sơn rất lớn bởi tiền và những gã đàn em máu lạnh, sẵn sàng xuống tay dao mỗi khi đại ca ra lệnh. Cùng lúc đó ở Hải Phòng, Minh "sứt" cùng "tứ đại hộ pháp" của mình là Dũng "Bắc Kạn", Dũng AK, Dũng "đui", Dũng K cũng phô trương thanh thế thống lĩnh giang hồ đất Cảng. Minh đi buôn lậu hàng điện tử, hêrôin, xăng dầu... nên nguồn tài chính của gã hết sức khổng lồ. Đây là sự hậu thuẫn rất lớn cho Minh trong việc phong tỏa giang hồ cả nước. Ngoài ra, "tứ Dũng" của Minh đi đâu cũng vác hàng nóng đi theo nên băng nhóm của Minh ngày càng lừng lẫy thanh thế. Thậm chí chúng còn có cả súng AK đi áp tải hàng lậu. Ngay từ đầu, Sơn và Minh đã chẳng ưa gì nhau nên mối quan hệ của giới hắc đạo hai thành phố rơi vào tình trạng "chiến tranh lạnh". Ngoài việc buôn ma tuý ra, đàn em của Minh là Dung "hà" mở các sới bạc tại Thuỷ Nguyên, Kiến An... cạnh tranh với Sơn và Thắng trong nghề đỏ đen bịp bợm. Không những thế, Dung còn cậy thế anh mình phong toả "giới tín dụng đen" tại Casino Hải Phòng khiến Hạnh "sự", một người em kết nghĩa của Thắng, mất đất làm ăn... Quê gốc của Sơn "bạch tạng" ở phường Phương Liệt, Thanh Xuân nhưng sau đó chuyển về phố Ngô Thì Nhậm sinh sống. Là con út trong một gia đình nề nếp nhưng từ nhỏ Sơn đã quậy phá, ngỗ ngược và liên tục bị chính quyền địa phương tập trung cải tạo. Mới 15 tuổi, Sơn đã bị công an quận Hoàn Kiếm bắt vào vì tội móc túi (năm 1977). Đến ngày 20/3/1978, Sơn tiếp tục bị tra tay vào còng cũng về tội "hai ngón". Ngày 19/1/1979, TAND quận Hoàn Kiếm xử Sơn 8 tháng tù, 12 tháng thử thách. Đến ngày 16/3/1980, Sơn lại tiếp tục bị bắt về tội danh trên. Không những thế, khi còn trẻ, ông trùm này còn rất nổi tiếng vì "máu lạnh" trong những cuộc đánh lộn, đâm chém. Trước những hành vi phạm tội liên tiếp đó của Sơn, chính quyền địa phương buộc phải lập hồ sơ đưa đi cải tạo tại trại Thanh Lâm, Thanh Hoá. Do đã gây dựng được "số má" ở ngoài đời nên khi vào trại, Sơn được ngồi ghế "đại bàng". Ở đây, ông trùm máu lạnh này thu phục hàng loạt đàn em trong Nam ngoài Bắc để nhân rộng thanh thế. Đặc biệt là những đàn em ở Hải Phòng, Nam định được "đại ca" biệt đãi hơn cả. Ngoài bản lĩnh do những ân oán giang hồ tạo nên, Sơn còn được đàn em hết sức nể phục vì sự điềm đạm, ăn nói khéo léo nhẹ nhàng và tính cách "nhất ngôn cửu đỉnh". Đã nói là làm và đã làm là hết mình nên Sơn được đàn em nể trọng không kém gì Thắng. Hơn nữa, ít ai thấy Sơn nói tục chửi bậy, uống rượu, không bao giờ sử dụng ma tuý nhưng đã ra tay thì hết sức lạnh lùng. Sau những phi vụ làm ăn, Sơn bao giờ cũng tỏ ra cưu mang đàn em và không nhận phần nhiều về mình. Thậm chí, khi những cuộc xung đột trong hai giới hắc bạch xảy ra, Sơn cũng đứng ra dàn xếp tránh đổ máu cho đàn em và các băng nhóm khác. Khi cải tạo trong trại, mỗi lần nhận được quà cáp gửi vào, Sơn "bạch tạng" thường chia đều cho đàn em nhưng kẻ nào có ý định vượt mặt thì Sơn không bao giờ bỏ qua. Không sống một cách vương giả tại Hải Phòng được nữa, mang theo mối hận trong lòng, Dung "hà" vào TPHCM theo hai đàn anh của mình là Minh "sứt" và Thành "chân" lập nghiệp giang hồ. Tuy nhiên, đi đến đâu cũng bị Thắng cản mũi, niềm uất hận của Dung lại càng cháy bỏng. Im hơi lặng tiếng hơn Dung nhưng Ngô Chí Thành tức Thành "chân" là đại ca giang hồ thực sự của Hải Phòng. Thành không thích trống giong cờ mở, phô trương thanh thế nhưng có thực lực trên giang hồ. Cu Lý, Cu Nên, Lâm "già", Dũng "Bắc Kạn", Oanh "hà", Dũng AK, Dũng "đui", Dung "hà" đều sợ Thành "chân" một phép. Vào thời gian này, tại các vũ trường như Mưa rừng nhiệt đới, Đêm màu hồng, Phi thuyền... hàng đêm, Thành ngồi uống rượu một mình. Hầu hết các dân chơi, bảo kê có số má như Tài "ba đô", Dũng "lợn"... đi qua đều phải cúi chào lễ phép. Năm 1995, Sơn "bạch tạng" bị phạt thi hành án tại trại tạm giam Thanh Hà (Phú Thọ), tiếng tăm của hắn vang đến tai Năm Cam, lúc đó cũng đang cải tạo tại đây. Hai người làm quen, và nhanh chóng trở thành cạ cứng của nhau. Năm Cam rất quý Sơn "bạch tạng", chúng kết tình huynh đệ. Ra khỏi trại giam, Năm Cam tin tưởng giao cho Sơn quản lý nhiều sòng cá độ ở thành phố, có việc gì quan trọng cũng đều gọi và giao trực tiếp cho người em kết nghĩa này. Trở thành đàn em thân tín của anh Năm, được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, Sơn trở thành cái gai trong mắt nữ quái Dung Hà. Trước khi Sơn xuất hiện, Dung Hà được anh Năm sùng ái. Năm Cam từng hứa giúp thị mở sòng bạc tại 17, phố Bùi Thị Xuân, TP HCM. Sòng bạc mở được 3-4 hôm, đang làm ăn thuận lợi, mỗi ngày thu về hơn 70 triệu đồng thì bỗng nhiên vắng khách. Cho đàn em điều tra, Dung Hà biết Thắng "tài dậu" cùng Sơn "bạch tạng" vừa từ Bắc vào, được Năm Cam tin dùng, giao cho quản lý một số sòng. Vì vậy sòng bài của thị bị phong toả, số con bạc lai vãng đến đây ít đi. Để cứu vãn tình hình bi đát, Dung Hà đến xin được làm ăn cùng Năm Cam tại sòng bạc ở quận 8, nhưng bị từ chối thẳng thừng. Mở sòng thì không có khách, muốn chung sòng cũng không xong, Dung Hà càng nhảy dựng lên khi phát hiện, trong khi từ chối lời đề nghị của thị, Năm Cam lại cho Sơn chung sòng ở quận 8. Hơn nữa, Sơn không phải đóng "thùng tẩy", được hưởng 30% lãi thu được, đây là ngoại lệ trong giới giang hồ TP HCM. Thế là bao nhiêu nỗi cay cú được trút lên đầu Sơn "bạch tạng". Biết Sơn có việc phải ra Hà Nội, Dung Hà tổ chức đàn em phục kích tại khách sạn Las Vegas ở số 7 Lê Văn Hưu. Nhưng kế hoạch bị đổ bể vì Sơn đã được báo trước nên không xuất hiện. Về Sài Gòn, Sơn thưa lại mọi chuyện với ông anh kết nghĩa, Năm Cam lập tức cho gọi Dung Hà để hỏi, thị chối đây đẩy. Để làm rõ chuyện, Năm Cam tổ chức buổi đối chất tại nhà hàng Maxim giữa Thắng "tài dậu", Sơn "bạch tạng", Dung Hà cùng hai người nữa. Hà tiếp tục không thừa nhận, vì vậy Năm Cam đưa cho thị 3.000 USD với yêu cầu bỏ qua xích mích, và không quên cảnh cáo Dung Hà nếu muốn lấy mạng Sơn "bạch tạng" thì phải bước qua xác anh Năm. Khi mâu thuẫn của Dung "hà" và Thắng "tài dậu", Sơn "bạch tạng" lên tới đỉnh điểm, Thành đã khuyên răn cô em đồng bóng của mình rất nhiều. Là kẻ lọc lõi trên giang hồ, Thành hiểu độ nham hiểm và sự tàn bạo của đối thủ. Thấy Dung không nghe, Thành liền bỏ đi Canađa sinh sống... Khi Sơn "bạch tạng" và Thắng "tài dậu" bị đàn em Dung "hà" săn đuổi thì Hạnh vẫn có những mối quan hệ mật thiết với giang hồ đất Cảng. Còn Sơn bay vào TPHCM để "yểm bùa" đám giang hồ "Ba Ke" đang quấy nhiễu tại các vũ trường, nhà hàng. Vào thời gian này, dân dao búa miền trong rất ngại những tay anh chị từ Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội mò vào. Những cái tên như Hưng "mi nhon", Trường "xoăn", Tuấn "tăng", Thuỷ "lẩm", Dũng "heo", Dũng “paléttin"... khiến dân giang hồ miền Nam toát mồ hôi hột. Những trận huyết hận tương tàn của vài chục tên côn đồ miền Nam cùng lắm chỉ làm đổ máu chút ít. Lâu lâu mới nhỡ tay đao khiến có kẻ vong mạng. Nhưng khi giang hồ miền Bắc đã ra tay thì không tàn phế suốt đời cũng hồn lìa khỏi xác. Với sở trường lạnh lùng như thế, giới hắc đạo miền Nam ngại dân anh chị miền Bắc một vành. Vì vậy, Sơn "bạch tạng", kẻ cầm tinh con hổ lẫy lừng này cũng như hàng chục đàn em trung thành của Sơn luôn là "bức tường thép" lấy le với giới hắc đạo Hải Phòng, Nam Định... Ngày 16/3/2002, Đội đặc nhiệm, Phòng Cảnh sát hình sự bắt Sơn ngay tại đầu ngõ Lương Sử A và di lý ông trùm đao búa này vào miền Nam phục vụ việc điều tra mở rộng các vụ án liên quan... Những vụ tranh hùng của giang hồ đất Bắc Năm 1997, ba băng 'xã hội đen' do Ánh “thiệp”, Thắng “chập”, Trà “hinh” cầm đầu thực hiện cuộc “Nam tiến”. Từ đây, đất Sài thành luôn xảy ra những cuộc thanh trừng đẫm máu. Từ những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, các băng, nhóm tội phạm hình sự chuyện nghiệp phía Bắc có sự chuyển biến mới về địa bàn hoạt động. Chúng di chuyển khỏi địa bàn cát cứ vào miền Nam bằng nhiều ngả và chọn TP HCM là 'điểm đến'. Trong đó nổi cộm nhất là ba băng xã hội đen của Thắng 'chập'; Ánh 'thiệp' và Trà 'hinh' với hơn 40 tay 'giang hồ' gốc Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh, Hà Tây... Xuất phát từ những mâu thuẫn sẵn có trước đấy tại vùng đất Nam Định, cộng thêm sự tranh giành địa bàn 'làm ăn' tại nơi mới đến, băng của Thắng 'chập' và Ánh 'thiệp' tìm cách 'thanh toán' lẫn nhau. Và trên con đường tiến thân vào giới 'giang hồ' đang cát cứ ở Sài Gòn, chúng luôn tìm cách 'gây chiến' với các băng nhóm khác như để nâng 'hạng' của mình trong giới 'anh, chị'. Cuộc thanh toán nảy lửa đầu tiên xảy ra giữa hai băng Ánh “thiệp” và Thắng “chập” vào lúc 11h ngày 5/3/1998, tại bến xe A10, đường Phan Văn Trị, phường 7, quận Gò Vấp. Hai băng nhóm với hơn hai mươi tay kiếm, dao, mã tấu, đằng đằng sát khí, xông vào nhau đâm, chém, gây kinh hoàng những người chứng kiến. Nhưng khi công an có mặt, chiến trường chỉ còn là những mảnh đồ đạc vỡ vụn, còn kẻ gây ra cuộc hỗn loạn biến mất như chưa từng xuất hiện. Sau khi chém nhau khá nặng, các bên lặng lẽ 'thu quân', dìu nhau vào bệnh viên cấp cứu theo đúng luật 'im lặng' của thế giới ngầm. Sở dĩ có cuộc đụng độ 'tóe khói' này là do trước đó đàn em của Thắng 'chập' dám gây hấn với Ánh 'thiệp'. Năm 1997, sau khi 'Nam tiến', Ánh hùn vốn mua xe tải với Trường "sửu", cũng là người Nam Định để làm ăn nhưng được một thời gian, nảy sinh mâu thuẫn. Lợi dụng mâu thuẫn giữa hai bên trong việc đứng tên chủ quyền xe, Đức 'xuyên', một đàn em của Thắng 'chập' đã nhảy vào dàn xếp và đòi... bảo kê. Điều kiện mà Đức 'xuyên' đưa ra là Ánh 'thiệp' phải trả công cho hắn bằng việc đứng tên chủ quyền xe của Ánh. Không được chấp thuận, Đức liên tục gây sự với Ánh mà đỉnh điểm là việc Ánh bị Đức ném ấm trà nóng vào đầu trong bến xe A10, ngay giữa bàn dân thiên hạ khiến Ánh phải mang vết lõm giữa trán từ đó. Hạ quyết tâm 'rửa nhục', Ánh tìm đến các đàn anh giang hồ cùng quê Nam Định đang có mặt ở Sài Gòn, nhờ đòi lại 'công bằng'. Được các đàn anh là Tuấn 'thiệp'; Trung 'thịnh'; Sơn 'lẫm' đồng ý, Ánh trang bị dao phay, mã tấu, kéo quân đến hỏi tội Đức 'xuyên'. Tại bến xe A10 Phan Văn Trị, hai bên đụng độ nhau. Thắng 'chập' và Đức 'xuyên' bị băng của Ánh chém gục tại trận song may mắn thoát chết vì được người dân do không biết đây là hai tên đao búa, đưa đi cấp cứu kịp thời. Vụ ầm ĩ thứ hai kéo dài từ tháng 9/1998 đến tháng 10/1998 là việc thanh toán nhau giữa băng nhóm của Thắng 'chập' và băng nhóm của Trà 'hinh'. Trong lần Thắng cùng đàn em là Nghiệp 'choe' đến nhà Trung 'heo' đánh xóc đĩa, Thắng không biết kẻ ngồi cùng chiếu bạc với mình là Tuấn 'con', đàn em của Trà 'hinh', một tay giang hồ khét tiếng từ ngày còn ở đất Bắc. Trong cuộc đỏ đen đó, Thắng thua cháy túi nhưng cậy đông người đã đòi giết chết Tuấn 'con' để lấy lại tiền. Thân cô, thế cô, Tuấn 'con đã ngoan ngoãn để mặc cho Thắng và đàn em vét sạch túi. Cay cú vì đàn em bị bắt nạt, Trà ra lệnh cho "thuộc hạ" bằng mọi cách phải giết bằng được Thắng 'chập' để 'rửa hận'. Dưới lệnh của Trà, Tuấn 'con' gọi ra Hà Nội, Hà Tây, huy động lực lượng vào để ngày đêm lục sục tìm giết Thắng. Song có lẽ 'đánh hơi' được sự nguy hiểm, thày trò Thắng không xuất đầu lộ diện. Sau nhiều lần bị truy sát, Thắng và Nghiệp có bốn lần chạm trán băng của Tuấn 'con' nhưng đều thoát chết trong gang tấc. Riêng Nghiệp 'choe' bị phát hiện hai lần nhưng cũng may mắn chạy thoát trước khi những lưỡi kiếm sắc lẹm tung ra. Trong một thời gian dài, Tuấn 'con' cùng 3 đàn em mang theo kiếm tự chế và dao bầu, giấu trong túi đựng vợt tennis, kiên trì đến phục bên ngoài các sòng bạc của Nam Cam để rình nhưng vẫn không chém được Thắng 'chập'. Nổi giận về sự 'vô dụng' của Tuấn, sau khi "tặng" nhát búa vào đầu Tuấn như một hình thức cảnh cáo, Trà 'hinh' đuổi Tuấn về Bắc. Tuấn hậm hực quay ra Hà Nội song vẫn nung nấu ý định giết Thắng 'chập' để lập công với 'ông chủ'. Biết Thắng 'chập' có 'nợ máu' với Ánh 'thiệp', Tuấn lại quay vào Nam, ngày đêm nghĩ cách tiếp cận với Ánh. Thông qua Chúc 'hòa', một tay giang hồ trung gian, Tuấn bắt tay với Ánh, cùng lên kế hoạch tìm diệt Thắng 'chập'. Tối 12/9/2000, Ánh 'thiệp' nhận được tin báo Thắng 'chập' đang ở ga Hòa Hưng, liền báo cho Tuấn 'con' biết. Tuấn lệnh cho Chung 'con' và Tú 'sủi' mang 2 dao chọc tiết lợn ra ga Hòa Hưng. Thấy Thắng đi cùng với Mão 'mèo', một đàn em của Năm Cam, Chung 'con' liền xin Tuấn cho chi viện. Giấu khẩu K54 vào bụng, Tuấn bảo Quang 'gà' cùng phóng đi. Theo đến khu vực đường Bình Giã, thấy Thắng và Mão 'mèo' chia tay, mỗi người một ngả, Tuấn liền thúc 'quân' xông tới. Chung 'con' giơ dao chém hai nhát chí mạng vào Thắng, khiến Thắng lăn kềnh ra đường. Tiếp đến, Tuấn xuống xe, lạnh lùng giương súng bắn bốn phát vào bụng, chân Thắng. Sau khi trả xong 'ân oán' với Thắng, nhóm Tuấn lặng lẽ rút, mặc Thắng nằm gục trong vũng máu. Do cao số, một lần nữa Thắng lại thoát chết. Những viên đạn Tuấn dành cho Thắng chỉ vào phần mềm, nhưng tay giang hồ này bị thọt vĩnh viễn. Không chỉ tìm cách tiêu diệt lẫn nhau, những băng cướp này liên tục gây ra những vụ cướp vàng, tiền táo tợn ở các thành phố lớn, gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Phạm Đức Bình (tức Bình "kiểm") là một đối tượng côn đồ hung hãn. Trong con người hắn hội đủ bản chất của một tên giang hồ cộm cán, lì lợm, tàn ác và vô cùng gian manh. Nhiều lần vào tù ra khám nhưng Bình "kiểm" chưa một lần hoàn lương, cứ ra trại là hắn tiếp tục gây tội ác "Kho" vũ khí của Bình "kiểm" Vào thời điểm năm 1996, Bình "kiểm" đang chấp hành án tại Trại giam Tống Lê Chân về tội cố ý gây thương tích và tổ chức đánh bạc. Ngày 4/4/1996, Bình "kiểm" trốn trại về Tp.HCM tiếp tục mở lại sòng bạc. Hàng đêm, Bình "kiểm" cùng đám đàn em kéo lên vũ trường Viễn Đông ăn chơi trác táng. Tại đây, Bình "kiểm" quen với một gái nhảy tên Nguyễn Thị Quỳnh (30 tuổi). Quỳnh sinh ra và lớn lên ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. 19 tuổi, Quỳnh trở thành gái nhảy có tiếng tăm ở vũ trường Viễn Đông. Trước khi đến với Bình "kiểm", Quỳnh đã sống như vợ chồng với Chung Quốc Minh (A Lấn). A Lấn (37 tuổi), xuất thân là nghề thợ bạc kiêm buôn bán ma túy. Tối nào A Lấn cũng đến vũ trường Viễn Đông với một xấp tiền và xài hết mới chịu về. Vì thế, A Lấn sớm nằm trong tầm ngắm của Quỳnh. Chỉ sau ít lần gặp gỡ, A Lấn đã "dính lưới" của Quỳnh. Cả hai thuê một căn nhà ở quận 5 để sống với nhau như vợ chồng. Vụ cưỡng đoạt 15.000 USD Người ta nói, "phụ nữ hư trước mới có tiền", nhưng khi có tiền Quỳnh càng hư hỏng, chị ta thường xuyên đi đánh bạc với Lê Thị Kim Anh (vợ nhỏ Năm Cam) và nhiều lần bị Kim Anh vét sạch túi. Càng thua càng gỡ và càng gỡ càng nợ chồng chất. Những lần như thế, Quỳnh thường về nhà ăn cắp tiền, vàng của A Lấn để trả nợ. Cuối cùng thì A Lấn cũng phát hiện ra và đoạn tình với Quỳnh. Thấy A Lấn đã cặp bồ với người khác, Quỳnh tìm cách trả thù. Biết Bình "kiểm" là tên giang hồ có số má, Quỳnh đã chủ động làm quen với Bình "kiểm" và dựng lên những chuyện ly kỳ để kể xấu về A Lấn cho Bình "kiểm" nghe. Một buổi tối tháng 8/1998, A Lấn và cô bồ tên Xuân đang vui vẻ ở vũ trường Viễn Đông thì đàn em của Bình "kiểm" bao vây, gí hàng nóng vào bụng hăm dọa: "Nếu không chung cho anh Bình (Bình "kiểm")10.000 USD thì chúng tao sẽ báo Công an về tội buôn bán ma túy của mày và con bồ mày sẽ bị rạch nát mặt". Mấy hôm sau, A Lấn mò đến vũ trường và xin số điện thoại của Bình "kiểm". Sau khi liên lạc, Bình "kiểm" hẹn A Lấn đến một nhà hàng trên đường Nguyễn Du, quận 1 để đàm đạo. Biết không thể chậm trễ với tên giang hồ gớm mặt này, ngay hôm sau, A Lấn đã vội vàng mang đủ 10.000 USD nộp cho Bình "kiểm". Thấy bở, Bình "kiểm" tiếp tục hăm dọa A Lấn để đào "mỏ vàng" này. Một lần, đang đi trên đường thì A Lấn nhận được điện thoại của Bình "kiểm": "Tôi đang gặp khó khăn, cần 5.000 USD. Hẹn trong 7 ngày, ông anh thu xếp cho" rồi cúp máy. A Lấn nghe xong cú điện thoại mà chân tay rụng rời. A Lấn điện thoại hẹn Bình "kiểm" đến nhà hàng Tân Hải Vân để giao tiền. Trong lần giao tiền này có sự chứng kiến của "nữ quái" Kim Anh, Quỳnh và một vài "nữ quái" đàn em của Năm Cam. May mắn cho A Lấn là sau vụ chung tiền này được ít bữa thì ngày 12/9/1998, Bình "kiểm" bị Công an Tp.HCM bắt theo lệnh truy nã về tội tổ chức đánh bạc và trốn trại. Những vụ thanh toán giang hồ tại Trung tâm Giáo dục Huy Khiêm Ngày 22/5/2000, Bình "kiểm" bị cưỡng bức đi lao động cải tạo tại Trung tâm Giáo dục Huy Khiêm 24 tháng vì hành vi "côn đồ hung hãn, có tiền án tiền sự, mới được tha về tiếp tục hoạt động theo kiểu xã hội đen, tổ chức đánh bạc, cho vay nặng lãi ". Trong thời gian ở Trung tâm Giáo dục Huy Khiêm đóng tại huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận, Bình "kiểm" có điều kiện tập hợp và dung dưỡng đám đàn em ngay trong trại. Trung tâm này có hàng chục đối tượng của 8 băng nhóm giang hồ cộm cán ở Tp.HCM bị tập trung giáo dục cải tạo như băng "Nghĩa râu" ở Bình Thạnh; băng "Được đen" quận 6; băng "Hải đen" ở quận 5; băng "Tí khùng" ở quận 11; băng "Hiển con" ở Thủ Đức; băng "Cảnh đô la" ở quận 10. Ngoài ra, còn có băng "Danh Chùa Miếu" ở Bà Rịa-Vũng Tàu gồm "Bình thổ", Hoàng Văn Danh, Nguyễn Tiến Việt, Nguyễn Ngọc Tuấn và những băng nhóm này đều bị Bình "kiểm" thống trị. Bình "kiểm" đã tổ chức cho đàn em đánh "Tài ba đô" và "Lâm sát thủ" - đàn em của Năm Cam suýt chết ngay trong Trung tâm Giáo dục Huy Khiêm. Vào những năm 2000, "Tài ba đô" và "Lâm sát thủ" chuyên bảo kê các dịch vụ xe taxi, xe ôm, nhà hàng, vũ trường, quán bar và chăn dắt gái ở khu vực quận 1. Một lần, "Tài ba đô" kéo đàn em tới vũ trường Phi Thuyền ở quận 1 chơi, bất ngờ gặp Dương Ngọc Lan (31 tuổi), vợ Bình "kiểm" trong vũ trường. "Tài ba đô" giở trò sàm sỡ, bị Lan chửi, "Tài ba đô" liền "tặng" Lan một bạt tai. Lúc này, Bình "kiểm" đang nằm ở Trung Tâm Giáo dục Huy Khiêm, Lan đành điện cho đám đàn em của Bình "kiểm" là "Hậu lé" (Mai Phúc Hậu). "Hậu lé" kêu "Thanh xà bông" và một lũ lau nhau kéo tới móc "hàng" tính đánh "Tài ba đô". "Tài ba đô" xua đám đàn em như: "Sơn chóe", "Dũng bia", "Sơn đen", "Ba râu", "Dũng nẫu", "Vũ cụt", "Hạnh nhí", "Lâm sát thủ" toàn những tên đâm thuê chém mướn vằn vện chiến tích giang hồ ở khu vực bến đò Cây Bàng, Thủ Thiêm, rượt đánh đám đàn em Bình "kiểm" chạy trối chết. Ngay hôm sau, đàn em Bình "kiểm" thuê taxi lên Trung tâm Huy Khiêm hót với Bình. Ít ngày sau, "Lâm sát thủ" cũng bị nhập Trại Huy Khiêm. Ngay buổi chiều nhập trại, Bình "kiểm" đã sai đàn em "tặng" "Lâm sát thủ" nguyên một hòn gạch đinh vào giữa mặt, làm gẫy sống mũi. Thế rồi duyên nợ giang hồ đưa đẩy, ngày 22/6/2001, "Tài ba đô" cũng bị đưa vào Trung tâm Giáo dục Huy Khiêm cưỡng bức lao động, cải tạo về tội gây rối TTCC. Được tin, Bình "kiểm" đã gian manh chỉ đạo "Bình thổ" (Phạm Văn Bình, 31 tuổi), Phạm Tiến Việt (29 tuổi) là những tên giang hồ ở Bà Rịa-Vũng Tàu đứng ra gom đám đàn em trong trại, chuẩn bị mỗi tên một cây gỗ giấu trong người. Chiều 24/6/2001, "Tài ba đô" vừa xuất hiện ở sân đá bóng của trại, "Bình thổ" cùng đám đàn em lao vào nện "Tài ba đô" một trận mưa gậy. Khi lực lượng quản giáo có mặt thì "Tài ba đô" đã bị trọng thương, mặt bê bết máu. Tài được đưa đi bệnh viện cấp cứu, vết thương trên mặt phải khâu tới hơn chục mũi. Sau hai vụ ân oán giang hồ này, đám đàn em của Bình "kiểm" bị kỷ luật và phải kéo dài thời hạn giáo dục cải tạo tại trại. Riêng Bình "kiểm" gian manh đứng sau giật dây nên "vô can". Vụ Năm Cam: Bộ Chính trị yêu cầu 9 tập thể, cá nhân kiểm điểm Ba tập thể đó là: Đảng ủy Công an trung ương, Ban cán sự Đảng ủy VKSND Tối cao, Ban thường vụ Thành ủy TP HCM. Ba cá nhân thuộc ngành công an: Trung tướng Bùi Quốc Huy (Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Công an, nguyên giám đốc Công an TP HCM), thiếu tướng Hoàng Ngọc Nhất (Thứ trưởng Bộ Công an); thiếu tướng Đỗ Năm (Cục trưởng Quản lý trại giam, Bộ Công an). Ba cá nhân ngoài ngành công an phải kiểm điểm: Phó trưởng Ban Dân vận trung ương Lê Thanh Đạo (nguyên viện trưởng VKSND Tối cao); ông Phạm Sĩ Chiến (nguyên phó viện trưởng VKSND Tối cao); Ủy viên Trung ương Đảng Trần Mai Hạnh (nguyên tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, nguyên phó chủ tịch kiêm tổng thư ký Hội Nhà báo Việt Nam). Theo yêu cầu của Bộ Chính trị và Ban Bí thư trung ương Đảng, nội dung kiểm điểm với 3 tập thể tập trung vào việc thiếu trách nhiệm đôn đốc, chỉ đạo các đơn vị cấp dưới trong phạm vi của mình, để băng nhóm Năm Cam tồn tại trong thời gian dài, lũng đoạn xã hội, mua chuộc, lôi kéo và làm tha hóa nhiều cán bộ, để cho một số cán bộ cấp dưới có quan hệ không rõ ràng với các đối tượng trong vụ Năm Cam. Về kiểm điểm cá nhân, với ông Bùi Quốc Huy, chủ yếu tập trung vào một số vấn đề thời kỳ ông làm giám đốc Công an TP HCM (đã tiến hành trong hai ngày 18-19/6, cùng với việc kiểm điểm Ban thường vụ Thành ủy TP HCM). Với ông Hoàng Ngọc Nhất, kiểm điểm xoáy vào trách nhiệm trong việc ký các văn bản liên quan đến việc thả Năm Cam, về mối quan hệ với một số đối tượng trong vụ Năm Cam; về nguồn gốc một số tài sản của gia đình. Ông Đỗ Năm phải giải trình trách nhiệm trong việc ký các văn bản của Cục Quản lý trại giam (V26) đề nghị tha Năm Cam trước thời hạn. Ông Lê Thanh Đạo kiểm điểm trách nhiệm khi là viện trưởng VKSND Tối cao, đã bút phê vào Công văn 333 của Hội Nhà báo Việt Nam (do ông Trần Mai Hạnh ký) để sau đó chuyển cho ông Phạm Sĩ Chiến, yêu cầu giải quyết, tạo "cơ hội" cho ông Chiến can thiệp và đề nghị thả Năm Cam. Ông Trần Mai Hạnh và Phạm Sĩ Chiến đã bị đình chỉ công tác do nghi vấn chạy tội cho Năm Cam. Mối thâm giao giữa Thứ trưởng Bộ Công an Bùi Quốc Huy và đàn em Ban chấp hành Trung ương Đảng vừa quyết định cách chức ủy viên trung ương, đề nghị cách chức thứ trưởng Bộ Công an, hạ cấp từ trung tướng xuống thiếu tướng với ông Bùi Quốc Huy, do có nhiều sai phạm liên quan đến vụ án Năm Cam. Một trong những vấn đề nổi cộm của nguyên giám đốc Công an TP HCM này là mối quan hệ với Hồ Việt Sử - tay chân đắc lực của "ông trùm". Ông Võ Viết Thanh, nguyên chủ tịch UBND TP HCM, từng tâm sự với báo chí rằng, Năm Cam và đồng bọn lộng hành trong thời gian dài, làm mưa làm gió được vì ngay trong nội bộ cơ quan bảo vệ pháp luật đã có những suy thoái nghiêm trọng cả ở cấp thấp và cấp cao. Ông khẳng định: “Không ai hết, chính anh ta (tức Bùi Quốc Huy hay Năm Huy), lúc đó là giám đốc Công an TP HCM phải chịu trách nhiệm. Tôi đã nhiều lần kêu lên nhắc nhở, nhưng anh ta viện lý do này nọ, để rồi trở thành... đối lập với tôi. Hãy tìm hiểu mối quan hệ của Hồ Việt Sử với Năm Huy thì sẽ rõ hơn”. Hồ Việt Sử, tay thân tín của Năm Cam, có mối quan hệ với ông Huy khi ông còn công tác tại Công an tỉnh An Giang. Từ An Giang, Sử chuyển về TP HCM buôn bán ôtô, xe máy. Năm 1987, khi Sử xin nhập khẩu thành phố, cấp phường đến thành phố đều đã từ chối vì “không đủ tiêu chuẩn theo quy định hiện hành”. Lúc này, ông Huy là Tổng cục trưởng An ninh, đã can thiệp thành công. Nhưng sau đó trong một đợt tổng kiểm tra, Ban giám đốc Công an thành phố đã phát hiện hồ sơ không đủ tiêu chuẩn và quyết định xóa tên Hồ Viết Sử. Phải đợi đến năm 1996, khi ông Huy được điều về làm giám đốc Công an TP, Sử mới được nhập khẩu trở lại. Về thủ tục, việc nhập khẩu phải có ý kiến của trưởng công an phường, nhưng lúc đó sĩ quan này đã từ chối. Sử bèn bố trí “dằn mặt” người này bằng cách mời đến bàn nhậu lúc có mặt ông Năm Huy... Một sĩ quan công an thành phố kể, ở nhà ông Huy từ đám giỗ, đám tiệc, cho đến việc nhà đều có mặt Hồ Việt Sử. Các quan khách đến đây đều chỉ biết Sử với vai “cháu của chú Năm”. Mối quan hệ trở nên thân thiết đến mức Sử làm Chủ tịch HĐQT Công ty Song Tiến còn con trai ông Huy làm giám đốc. Ông Huy còn giao cho Sử khu đất 230 Nguyễn Trãi, quận 1 của Công an thành phố để lập liên doanh. Để có tiền góp vốn, ông Huy cắt phụ cấp hàng tháng của các chiến sĩ công an thành phố (100.000 đồng/tháng) với lý do: dành vốn cho liên doanh phát triển kinh tế. Nhưng kết quả đến nay các khu đất trên vẫn hoang phế. Việc ông Huy giao nhiều tài sản của đơn vị cho Hồ Việt Sử gặp phải phản ứng quyết liệt của nội bộ lãnh đạo Công an thành phố, nhưng ông đều phớt lờ. Sử được thể ngày càng lấn tới. Có lần y đã đập bàn chỉ tay chửi một phó giám đốc Công an thành phố bằng lời lẽ của dân đao búa. __________________
Giai thoại nhà chú Hỏa songpham tgvh Tọa lạc tại số 97, đường Phó Đức Chính, Q1, TPHCM trải qua bao thời gian, tòa nhà vẫn sừng sững với dáng dấp cổ kính, tĩnh lặng, thâm u, càng làm cho những giai thoại về chủ nhân và ngôi nhà thêm phần huyền hoặc. Dù nay đã là trụ sở Bảo tàng Mỹ thuật thành phố nhưng ngôi nhà vẫn chất chứa rất nhiều điều bí ẩn, gợi tò mò bởi nó gắn liền với nhiều huyền thoại cùng tên tuổi một đại phú người Hoa lừng lẫy của Sài Gòn trăm năm về trước. Đó là chú Hỏa, một trong tứ đại hào phú lừng lẫy của Sài Gòn xưa mà dân gian từng tôn vinh: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa” (Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt; Tổng đốc Phương - Đỗ Hữu Phương; Bá hộ Xường - Lý Tường Quan và chú Hỏa - Hui Bon Hoa). Tuy xếp thứ tư nhưng chú Hỏa là người có nhiều huyền thoại và để lại nhiều dấu ấn nhất, trong đó phải kể đến tấm lòng không chỉ thu vén cho riêng mình mà còn biết hướng tới cộng đồng của ông, “tuy làm giàu cho mình đã đành, nhưng cũng giúp ích rất nhiều cho sự mở mang thạnh vượng kinh tế miền Nam” (Vương Hồng Sển - Sài Gòn năm xưa, phần VII: Nhơn vật Hoa kiều) Chú Hỏa - Hui Bon Hoa, hay như nhiều người Sài Gòn cũ vẫn gọi thân mật là chú chệt Hứa Bổn Hòa, gốc người Minh Hương - nhóm người Hoa rời bỏ Trung Quốc di cư sang nước ta khi triều đình Mãn Thanh tiêu diệt nhà Minh - được chúa Nguyễn cho định cư ở Nam bộ từ thế kỷ 17. Tương truyền, từ hai bàn tay trắng với một gánh ve chai trên vai, chú đã tạo dựng nên sự nghiệp lừng lẫy khiến cho người đời sau còn nhắc nhớ. Vua nhà đất “Đi tàu chú Hỷ, ở nhà chú Hỏa” là câu truyền khẩu nổi tiếng của người Sài Gòn xưa. Nếu như chú Hỷ là ông “vua tàu bè” có tàu Thông Hiệp chạy khắp Nam kỳ - Lục tỉnh lúc bấy giờ thì chú Hỏa là ông “vua nhà đất” với gia sản ước trên 20.000 căn nhà phố khắp khu vực Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn. Ông thành lập Công ty Hui Bon Hoa và các con, cực thịnh vào khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, có những đóng góp rất quan trọng trong việc xây dựng thành phố Sài Gòn. Theo nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển: “Hui Bon Hoa có nhiều con cháu luôn luôn hòa thuận, gia tài giữ nguyên vẹn không chia phần manh mún, chỉ cùng nhau chia lợi tức, và mỗi khi cần dùng số tiền to tát thì người trong họ phải xin chữ ký của người trưởng huynh, khi ấy ngân hàng mới phát bạc. Nhờ giữ gìn có phương pháp cho nên sự nghiệp Hui Bon Hoa ngày càng đồ sộ thêm mãi, không sứt mẻ mảy may nào. Sơ khởi, chú Hỏa nghe đâu hùn hiệp với một người Pháp bao thầu khuếch trương các tiệm cầm đồ (Mont de piété) trong Nam Kỳ. Hiện nay phố xá Sài Gòn một phần lớn là của Công ty Hui Bon Hoa làm chủ. Nhưng công ty này được tiếng là “rất biết điều” và không eo xách, làm khó người mướn phố”. Không chỉ xây các dinh thự hoành tráng cho gia đình mình, chú Hỏa còn xây những dãy phố, cùng hàng loạt các công trình dân dụng dành cho cộng đồng như bệnh viện, chùa chiền… Trong số các công trình tiêu biểu vẫn được sử dụng cho đến ngày nay có Bảo tàng Mỹ thuật thành phố, khách sạn Majestic, Bệnh viện Từ Dũ, Trung tâm cấp cứu Sài Gòn, Nhà khách Chính phủ, chùa Kỳ Viên, khách sạn Palace - Long Hải… Majestic là khách sạn đồ sộ bậc nhất thời ấy, được thiết kế theo đồ án của một kiến trúc sư người Pháp. Cũng như Bảo tàng Mỹ thuật hay Nhà khách Chính phủ, Majestic xây dựng theo phong cách Baroque rất được ưa chuộng thời bấy giờ và ngay cả hiện nay, nó mang dáng vẻ kiến trúc cổ châu Âu thời phục hưng, cổ kính và sang trọng bậc nhất Sài Gòn ngay khi xây xong vào năm 1925. Mua ve chai nhặt được vàng Đó là giai thoại được kể nhiều nhất khi nói về chú Hỏa, trong đó có nhiều điểm trùng nhau, ví dụ sinh thời chú Hỏa làm nghề mua bán ve chai. Nhiều người kể, có dịp vào nhà chú Hỏa lúc trước giải phóng đã nhìn thấy đôi quang gánh đặt trong tủ kính, chưng giữa nhà như vật vừa trang trí, vừa là kỷ niệm thuở hàn vi. Rất nhiều người kể, trong một lần thu mua ve chai, chú Hỏa nhặt được cả túi vàng nằm trong một chiếc ghế nệm cũ; người khác nói chú mua được bức tượng đúc đồng nhưng bên trong đầy vàng. Còn theo một số người khác, khi lê la hầu như khắp Sài Gòn - Chợ Lớn để thu mua những thứ bỏ đi của thiên hạ, chú Hỏa đã mua trúng đồ cổ, “chú thạo chữ Hán nên biết trong đám đồ người ta vứt ra có đồ cổ từ thời Nguyên, đời Thanh, thậm chí từ đời Hán”. Một giai thoại nữa cho rằng chú Hỏa rất rành về phong thủy nên đã an táng mộ cha đúng long mạch nên làm ăn phát đạt. Số khác cho rằng chú vốn dòng dõi nhà Minh, do ly loạn nên tạm chôn giấu của cải để lánh thân, về sau chú trở lại quê nhà Trung Quốc, đào số của cải gia bảo ấy lên mang sang làm vốn hùn hạp làm ăn với người Pháp rồi dần dà phát đạt. Số khác lại cho rằng vào thời ấy chú đã là… đại lý ve chai, khấm khá, chú chuyển sang mở tiệm cầm đồ, một mặt mua đất cất nhà bán hoặc cho thuê. Nói theo ngôn ngữ bây giờ thì chú là “trùm nhà đất”, mà “kinh doanh bất động sản thì thời nào chả chóng phất” - nhiều người bình luận. Một giả thuyết khác cho rằng chú Hỏa đã làm việc với một chủ người Pháp, nhờ tính siêng năng lại thật thà nên ông chủ Pháp thương, giúp chú vốn liếng mở tiệm cầm đồ và buôn bán. Các giai thoại trên đều mơ hồ nhưng có một thực tế ít ai đề cập đến đó là ngoài sự cần mẫn làm ăn, chịu khó, chú Hỏa còn có một đầu óc kinh doanh siêu hạng. Không chỉ nổi tiếng trong nước, bấy giờ, chú Hỏa còn lừng lẫy khắp Đông Dương không chỉ bởi gia sản kếch sù mà còn bởi sự thức thời. Chú có hơn chục người con thì hầu hết được cho đi du học tại các nước lớn như Anh, Pháp, Đức, Nhật… Được biết, các con chú ai nấy đều học hành thành đạt, mỗi người đều được nhập quốc tịch, được lưu lại làm việc ở nước sở tại. Dinh thự có 99 cửa Nằm ở khu tứ giác đắc địa của Sài Gòn là Phó Đức Chính - Lê Thị Hồng Gấm - Calmette - Nguyễn Thái Bình, hiện tòa nhà được dùng làm Bảo tàng Mỹ thuật thành phố. Từ trước 1975 đã có rất nhiều lời đồn đại, cho rằng ngôi nhà này có… ma! Nhiều người kể đã nhiều lần nhìn thấy bóng trắng thấp thoáng lướt đi qua các dãy hành lang trong đêm khuya, người khác khẳng định đã nghe hồn ma đêm đêm hiện về gào khóc. Giai thoại ngày càng nhiều, đến nỗi trước 1975 có cả một bộ phim tựa đề “Con ma nhà họ Hứa” (hãng phim Dạ Lý Hương, đạo diễn Lê Mộng Hoàng), gắn liền với tên tuổi của các ngôi sao màn bạc VN thời bấy giờ như Bạch Tuyết, Thanh Tú, Dũng Thanh Lâm, Thanh Việt, Tùng Lâm, Năm Sa Đéc… Bộ phim gây tiếng vang lớn, là một trong những bộ phim ma đầu tiên của điện ảnh VN, dù kỹ thuật “nhát ma” của ta lúc ấy được xếp vào hạng… thô sơ. Tòa nhà vốn là dinh thự chính của chú Hỏa, được thiết kế rất đẹp và độc đáo theo phong cách Art - déco, kiểu dáng kiến trúc cổ hòa hợp giữa hai trường phái xây dựng Á-Âu, tường nhà được đúc kiên cố, dày từ 40-60cm. Ngôi nhà hiện đã trên trăm tuổi, được xây dựng vào những năm 20 của thế kỷ trước. Tương truyền khi thiết kế, dinh thự này có một trăm cửa lớn, cửa nhỏ và cửa sổ. Thế nhưng, Toàn quyền Đông Dương khi duyệt thiết kế đã bắt chủ nhân bỏ đi một cửa và không được mở cổng chính với lý do cổng này to hơn cổng Dinh toàn quyền, vậy nên hiện nay dinh thự chỉ có chín mươi chín cửa. Mặt bằng tổng thể khối nhà hình chữ U, cấu trúc bên trong tòa nhà hiện bao gồm: tầng hầm dành cho khối văn phòng làm việc; tầng trệt dành cho các gallery hoạt động triển lãm và kinh doanh tranh như Không Gian Xanh, Lạc Hồng, Nhật Lệ, Spring…; lầu 1 là nơi trưng bày tranh tượng mỹ thuật; lầu 2 trưng bày các đồ gốm sứ, thủ công mỹ nghệ truyền thống. Chính thức thành lập từ năm 1987, và đưa vào hoạt động năm 1992, cho đến nay số hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật TP đã lên đến gần 20.000, trên diện tích hơn 4.000m2, đây là nơi lý tưởng để tổ chức các hoạt động triển lãm và sinh hoạt văn hóa nghệ thuật. SONG PHẠM Kỳ II: “Hồn ma” trong ngôi nhà cổ Cũng như chuyện chú Hỏa xuất thân ra sao và vì đâu trở nên giàu có lạ thường, chuyện về “hồn ma” trong dinh thự chú Hỏa cũng có nhiều giai thoại huyền hoặc chẳng kém... Giai thoại Vào thời ấy, ngoài bộ phim “Con ma nhà họ Hứa” do đạo diễn Lê Mộng Hoàng thực hiện trước 1975, đã có không ít sách báo và cả sân khấu cũng không bỏ lỡ cơ hội khai thác đề tài này bên cạnh những câu chuyện truyền khẩu góp phần làm cho sự thật càng thêm mờ mịt. Theo những lời đồn đại, chú Hỏa có hàng chục người con trai nhưng con gái thì chỉ có một, lại rất xinh đẹp nên chú đặc biệt cưng chiều. Bỗng nhiên, không còn ai thấy cô con gái ấy xuất hiện nữa. Từ đó, vào những đêm khuya thanh vắng, từ trong tòa nhà vẳng ra tiếng kêu khóc thảm thiết. Rồi một sáng, người Sài Gòn giở nhật trình ra, ngỡ ngàng thấy có mẩu tin chú Hỏa đăng cáo phó báo con gái mất. Mẩu tin còn cho biết do con gái bị bạo bệnh ra đi bất đắc kỳ tử, lại nhằm vào giờ trùng nên tang lễ chỉ làm sơ sài, thi hài sẽ được đưa đi an táng tại khu đất thuộc Long Hải, cạnh ngôi biệt thự nghỉ mát của gia đình. Từ đó, dư luận bắt đầu đồn đại dữ dội, không ít người quả quyết đã tận mắt thấy “hồn ma” con gái chú Hỏa đêm đêm xuất hiện trong khu nhà gào rú, khóc than. Người khác bảo thấy có bóng áo trắng, tóc xõa, phất phơ lướt đi trong đêm, dọc hành lang, qua những cửa sổ để ngỏ (dinh thự chú Hỏa đặc biệt có rất nhiều cửa sổ). Một hôm, đám người hiếu kỳ vồ lấy một anh thợ được thuê vào dinh thự sửa chữa điện, rồi cùng toát mồ hôi lạnh khi nghe anh này kể về một căn phòng rất đặc biệt trên tầng cao nhất. Phòng rất đẹp và đầy đủ tiện nghi nhưng lại rất giống một phòng giam bởi sự kiên cố và bí hiểm bao trùm. Cửa ra vào phòng này có khoét một ô nhỏ và anh thợ điện quả quyết đã nhìn thấy người làm rón rén truyền khay thức ăn qua ô cửa nhỏ đó… Các câu chuyện được dịp bùng nổ. Người bảo con gái chú Hỏa còn sống, người bảo đã chết, người nói cô con gái ấy còn sống nhưng cũng như đã chết vì bị tâm thần… Về ngôi biệt thự ở Long Hải, người ta tiếp tục đồn rằng tất cả những người làm của tiểu thư lúc còn sống đều được chuyển tới Long Hải để phục dịch cho… người chết. Thời gian sau, các tờ báo lá cải Sài Gòn lúc đó lại đưa tin: vì hám của (người Hoa thường chôn theo người chết nhiều của cải), nên vào một đêm, hai tên trộm lẻn vào quật mồ con gái chú Hỏa và họ thấy quan tài trống rỗng… Một quyển sách có tựa đề “Ngôi mộ cổ nhà họ Hứa” khá phổ biến trên văn đàn người VN tại hải ngoại, của tác giả Phạm Phong Dinh lại viết: cô con gái chú Hỏa tên thật là Hứa Tiểu Lan, mất vì bệnh nan y, được chôn cất trong ngôi mộ cổ cạnh nghĩa trang Biên Hòa. Một hôm có anh thương binh tên Tính, tình cờ đi lạc vào khu nghĩa trang. Đoạn này, sách mô tả: “Dưới ánh trăng mờ, Tính trông thấy một cái bóng trắng đang đi vòng quanh những nấm mồ, tà áo dài bay phất phới theo từng cơn gió đùa. Một con cú đang đậu trên chòm cây cao su rúc lên một tràng dài kinh dị. Có lẽ nó đã trông thấy chiếc áo trắng ma quái chập chờn giữa những nấm mồ hoang...”. Sự thật? Chú Hỏa có cô con gái đang độ tuổi thanh xuân, đột nhiên mắc bệnh nan y mà y học lúc đó phải thúc thủ. Chú Hỏa mặc dù tài sản vô số, cũng đành bất lực nhìn con gái chịu đau đớn về thể xác và tinh thần. Vì con gái cứ gào khóc đêm đêm và tự hành hạ, hủy hoại mình khiến xuất hiện quá nhiều lời đồn đại. Chú Hỏa buộc phải nhốt con gái trong một căn phòng kín và sai gia nhân chăm sóc nhưng tiếng kêu than đau đớn của cô gái nhiều khi không cách gì kìm hãm đã vượt thoát qua những bức tường dày của ngôi dinh thự, làm kinh hồn những người bất chợt nghe thấy, nhất là trong những đêm khuya. Đôi lần, khi những người làm bất cẩn, cô gái lập tức thoát ra khỏi căn phòng, hình hài tiều tụy, tóc tai xõa xượi, bù rối, cười cười khóc khóc chạy khắp các dãy hành lang… Càng về sau, khi những lời xầm xì làm ảnh hưởng đến chuyện làm ăn kinh doanh và uy tín của cả gia đình, dù rất đau đớn, chú Hỏa một mặt cáo phó cho con gái, mặt khác kín đáo đưa con gái về nghỉ dưỡng tại khu biệt thự ở Long Hải (sau này là khách sạn Palace trên bãi biển thuộc Bà Rịa – Vũng Tàu), sai người tiếp tục trông nom, chăm sóc cho đến ngày cô gái ấy thực sự qua đời tại nơi này. Thế nhưng, con người thành đạt và giàu có vốn rất giỏi suy tính ấy ít nhất đã tính sai trong việc đánh lừa dư luận bởi sau đó những lời đồn đãi còn dữ dội hơn và ngày càng đi quá xa. Và, trong vô số các mẩu chuyện huyễn hoặc, câu chuyện trên có lẽ gần sự thật hơn cả. Thế nhưng, cũng theo nhiều người, mọi sự thật về chú Hỏa và con gái chú đã theo chú xuống mồ. “Con ma nhà họ Hứa” trở lại? Ngôi nhà có “hồn ma” con gái chú Hỏa nay đã được dùng làm nơi triển lãm, trưng bày các tác phẩm nghệ thuật, hàng ngày mở cửa đón khách trong và ngoài nước đến tham quan. Diện mạo mới cùng sự ngăn nắp, sang trọng và không khí nghệ thuật ngập tràn đã đẩy lùi vẻ thâm u của dinh thự và phần nào đẩy lùi những giai thoại huyền hoặc chất chứa đầy màu sắc mê tín vào quá khứ. Nhưng, trong một chuyến về nước, đạo diễn Lê Hoàng Hoa - một đạo diễn say mê làm phim kinh dị hiện đang sinh sống tại Ba Lan - đã hâm nóng sự quan tâm của mọi người về đề tài “hồn ma con gái chú Hỏa”. Ông dự kiến sẽ làm bộ phim kinh dị với tựa đề “Con ma nhà họ Hứa trở về” với các diễn viên Nguyễn Chánh Tín, Lê Khanh, Thúy Hằng... Bối cảnh được tiết lộ sẽ quay tại Đà Lạt (trong một ngôi biệt thự rất nổi tiếng bởi lâu nay chịu cảnh hoang phế cũng vì lời đồn đoán có… ma!). Chưa biết chuyện phim sẽ khai thác đề tài này ở góc độ nào nhưng theo nhận định của một số người trong nghề, chắc chắn sẽ thu hút sự quan tâm của khán giả bởi sự hấp dẫn, gợi tò mò vốn có của câu chuyện mang đầy màu sắc ly kỳ này. Kỳ III: Đi tìm ngôi mộ chú Hỏa Khi còn sống đã có không ít giai thoại ly kỳ về bản thân, về gia đình và về ngôi nhà rất đặc biệt của mình; khi mất, chú Hỏa lại gây tò mò bởi những bí ẩn tiếp nối về nơi mình được chôn cất. Vì sao? Những chiếc lá tìm về cội Tháng 7-2006, vài thành viên trong dòng họ Hui Bon Hoa từ Pháp trở về, mục đích thăm lại cảnh trí cũ, mồ mả cha ông và tìm hiểu lịch sử gia đình. Họ ngụ tại khách sạn Majestic, “Nơi ông cố của chúng tôi đã xây dựng từ thập niên 20 của thế kỷ trước, với sự giúp sức của một kiến trúc sư người Pháp và hoàn tất vào năm 1925. Hiện trang web của khách sạn, ở phần lịch sử cũng có ghi, tuy sai một chút ở tên ông tôi” - một thành viên trong đoàn tên Eddie Hui-Bon-Hoa - cho biết. Tháng 4-1975, Eddie theo gia đình sang Pháp khi còn trong bụng mẹ. Những thành viên trong dòng họ Hui Bon Hoa ghé thăm ngôi nhà lừng lẫy của dòng họ và tỏ ý hài lòng thấy nơi đây giờ trở thành một bảo tàng lớn của thành phố. “Có lẽ đây là thay đổi tốt nhất đối với ngôi nhà bởi chúng tôi luôn có thể vào tham quan và chí ít chúng tôi cũng có thể biết được tình trạng bảo quản nó” - Eddie chia sẻ. Có thể điều duy nhất khiến họ không hài lòng là nhìn thấy một sân chơi cầu lông thô sơ ngay giữa khoảng sân đẹp nhất của ngôi nhà, ít nhiều phá đi màu sắc và không gian tổng thể, đồng thời làm vơi đi vẻ cổ kính và mỹ quan của một bảo tàng. Bà Nguyễn Thị Đức, Giám đốc bảo tàng đã tiếp đón các thành viên gia đình Hui Bon Hoa một cách thân tình và cử người tháp tùng đoàn trong các chuyến tham quan. “Các thành viên đều thuộc đời cháu của chú Hỏa, họ lại sống ở nước ngoài khá lâu nên ký ức về gia đình trước đây không còn nhiều, dù chúng tôi có ý tìm hiểu” - bà Đức cho biết. Bí ẩn bao trùm Rất nhiều người cao tuổi vẫn còn nhớ, khi mất chú Hỏa đã được gia đình an táng ở khu vực gần núi Chiêu Thái (nay là núi Châu Thới). Họ nói chú Hỏa đã xem phong thủy rất kỹ mới chọn khu vực này, vì đó là nơi có long mạch hiếm thấy, thích hợp làm nơi an nghỉ, đồng thời con cháu nhiều đời sau nhờ đấy mà làm ăn thịnh vượng. Nơi đây có 2 ngọn núi thấp (Bửu Long và Long Ẩn), là nơi “rồng ngủ”. Nếu quan sát từ trên cao sẽ thấy ngôi Bửu Long cổ tự kết hợp cùng các gò đống lồi lõm uốn quanh, cấu thành hình một con rồng khổng lồ, nằm vắt ngang qua lưu vực sông Phước Long (ấp Tân Lại, xã Tân Thành). Địa danh Bửu Long và Long Ẩn ra đời từ đây và cũng không phải ngẫu nhiên mà tên gọi các địa danh quanh đây đều có chữ “Long” như Phước Long, Long Phước, Long Khánh, Long Tân, Bình Long, Long Hưng, Long Bình… Theo đó, núi Long Ẩn là đầu rồng, chuỗi gò đống nối dài kể trên là mình rồng uốn khúc và núi Châu Thới phía Nam là đuôi rồng vểnh cao. Đầu rồng quay về hướng Bắc, ngậm “trái châu” là khu vực Bình Điện. Cũng theo những người cao tuổi, tâm nguyện của chú Hỏa là được quay đầu về phương Bắc cố quốc Hài cốt chú Hỏa nằm ở đâu trong những ngôi cổ mộ này? Từ những thông tin rất sơ sài trên, chúng tôi đi tìm lại ngôi mộ của chú Hỏa. Từ chân lên đến tận đỉnh núi Châu Thới có một số ngôi mộ cổ, đơn sơ lẫn hoành tráng nhưng được biết trong đó không có mộ của chú Hỏa. “Ngược trở lại khoảng 1 cây số về hướng Bình Dương, nơi có một con dốc mang tên chú Hỏa, quẹo tay phải, vào chừng vài trăm mét, tiếp tục hỏi thăm những người dân nơi đó là ra” - một người chạy xe ôm cho biết. Dốc chú Hỏa thuộc quốc lộ 1K (đường Kha Vạn Cân cũ), xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Quẹo vào một con đường đất hẹp, bên cạnh lò thiêu xác công nghệ cao khá quy mô là một nghĩa trang cũ của người Hoa với bạt ngàn mồ mả rất đặc trưng. Mộ chú Hỏa không nằm trong khu vực ấy. Một nhân viên khu lò thiêu chỉ dẫn: “Vào nhà dân mà hỏi, vì hình như người ta đã… xây nhà lên mộ của ông ta” (!). Hỏi thăm vài người dân quanh đấy, lạ sao ai cũng cho biết “mộ chú Hỏa nằm đâu đó trong khu vực dân cư này” - họ nói - nhưng hầu như chẳng ai biết nơi chính xác. Tại khu nhà khá lụp xụp, có vẻ như là khu dân cư mới với nhiều ngôi nhà vừa cất mới toanh, đường đất, rào thưa trồng râm bụt, một người đàn ông trung niên hỏi lại chúng tôi: “Lăng và mộ chú Hỏa nhiều lắm, bốn năm cái, muốn tìm cái nào?” (?!). Những người khác góp chuyện: “Không hiểu sao nhiều người đi tìm mộ chú Hỏa thế nhưng hình như chưa ai biết đích xác nó ở đâu”. Một người khác chỉ “Ở đây”; người khác nữa nói “Ở kia”; thêm vài người chêm vào: “Đó chỉ là mộ giả, mộ rỗng thôi. Mộ thật không ai biết hết”. Hài cốt chú Hỏa vẫn còn tại VN? Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm ra ngôi nhà của một người cháu chú Hỏa, tên Lương, đang ngụ tại chính khu vực này, ở phía tận cùng của một con hẻm nhỏ, vắng. Ngôi nhà trệt to, gần như to nhất xóm và đẹp, xung quanh có vườn rộng trồng nhiều cây trái và nuôi nhiều chó dữ. “Ông Lương không có nhà” - vợ và con ông nói với qua cổng rào. Bà còn cho biết ông Lương lãng tai, rất khó tính và không thích tiếp khách, do trước đây có nhiều người nhận là con cháu xa, lân la hỏi thăm mộ chú Hỏa. Thế nhưng khi ông Lương truy nguồn gốc, lai lịch thì họ đều ấm ớ. Bà cho biết mộ chú Hỏa đang ở tận bên… Tàu. Chúng tôi hỏi, vậy con cháu chú Hỏa vừa từ Pháp về thăm mộ ai? Bà Lương lại nói họ đã bốc hài cốt chú Hỏa và mang theo về Pháp rồi (!). Và bà nói những cái mộ nằm lẫn trong nhà dân là mộ của các chú Mười Một, Mười Hai… (con thứ 11, 12 của chú Hỏa - PV). Chú Hỏa và gia đình ông cố tình tạo nhiều ngôi mộ giả nhằm đánh lạc hướng dư luận? Thực chất có thể chú Hỏa vẫn nằm lại Việt Nam, đầu hướng về cố quốc, như tâm nguyện trước lúc vĩnh viễn ra đi, mang theo mình những bí ẩn và huyền thoại chưa bao giờ ngớt xôn xao. Một nhà nghiên cứu lịch sử thành phố cho biết, sở dĩ cho đến nay hầu như không ai biết thực chất chú Hỏa hiện đang “nằm” ở đâu, rất có thể bởi 2 lý do sau: 1. Do phong tục, người Hoa thường táng theo người chết nhiều đồ quý giá. Người lừng lẫy như chú Hỏa không thể không chôn theo nhiều báu vật. Nếu suy luận này đúng sẽ không ít kẻ chực chờ để đào trộm mồ mả chú, mong vớ bở. 2. Nơi chôn cất chú Hỏa nếu được xem như “long mạch” theo địa lý, phong thủy thì con cháu rất sợ để người ngoài biết, long mạch bị chạm sẽ gây bất ổn cho gia đạo.